Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC: Xây dựng bộ ảnh mô tả đặc điểm hình thái và cấu tạo giải phẫu của một số loài Lan thuộc bộ Lan (Orchidales) ở Mộc Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 89 trang )

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo – Thạc sĩ Vũ Hồng Kim
người đã hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ, động viên em trong suốt thời gian thực
hiện đề tài này.
Em xin cảm ơn cô giáo – Thạc sĩ Vì Thị Xuân Thủy cùng các thầy cô giáo
trong bộ môn Thực vật học và toàn thể các thầy cô trong khoa Sinh – Hóa
trường Đại học Tây Bắc đã giúp đỡ em trong thời gian học tập tại khoa cũng
như khi thực hiện đề tài này.
Đề tài hoàn thành không thể tránh khỏi hạn chế và thiếu sót, vì vậy em rất
mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và các bạn sinh
viên để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5, năm 2013
Sinh viên:
Hà Trà My














MỤC LỤC



PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1
1.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 2
1.3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2
1.4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 2
1.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2
1.6. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU 4
1.7. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU 4
1.8. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI 4
1.9. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU 5
PHẦN 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 7
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN 7
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN 9
CHƯƠNG 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 10
2.1. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TÀI LIỆU 10
2.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM 15
2.2.1. Kết quả nghiên cứu hình thái, sinh học và phân bố 15
2.2.2. Kết quả nghiên cứu cấu tạo giải phẫu 29
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 70
3.1. KẾT LUẬN 70
3.2. KIẾN NGHỊ 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Từ xưa đến nay giới thực vật đã có một vai trò quan trọng đối với con
người, nó là một phần thiết yếu của cuộc sống. Con người ngày càng muốn
khám phá, tìm hiểu về chúng, để phục vụ cho chính mình. Từ đó nhiều công
trình nghiên cứu về thực vật học đã được thực hiện và ngày càng phát triển,
đóng góp một phần vào sự phát triển của khoa học Sinh học. Các công trình
nghiên cứu chủ yếu là thực nghiệm hướng đến những đặc điểm hình thái ngoài,
công tác phân loại, định loại, giải phẫu
Trong giới thực vật phong phú ấy phải kể đến sự có mặt của Bộ Lan
(Orchidales) – thuộc lớp thực vật Một lá mầm, bộ này có 1 họ duy nhất là họ
Lan (Orchidaceae), đã sớm được biết đến là một họ lớn thứ 2 trong ngành Hạt
kín, với số lượng hiện nay biết khoảng hơn 800 chi với hơn 30.000 loài (1987),
phân bố khắp nơi, phong phú nhất là trong các rừng ẩm nhiệt đới Đông Nam Á
và châu Mỹ [7]. Nhiều loài có giá trị thẩm mĩ, y học cao, vì thế nó đã được
nghiên cứu tìm hiểu và khai thác từ rất sớm. Ở nước ta, sự thống trị của họ Lan
(Orchidaceae) thể hiện ở 132 chi với trên 1000 loài (1998), phân bố rộng rãi ở
nhiều nơi, nên cũng đã có nhiều nghiên cứu về các loài nổi tiếng xong chưa thể
bao quát hết được [7]. Vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện góp phần tìm hiểu
những đặc điểm về hình thái – giải phẫu của một số đại diện thường gặp của bộ
Lan ở địa phương Mộc Châu – Sơn La. Cao nguyên Mộc Châu là một trong
những khu vực phát triển nhất của Tỉnh Sơn La, nơi đây có điều kiện tự nhiên
rất thích hợp cho nhiều loài thực vật có hoa trong đó có Phong Lan, nên thuận
lợi cho quá trình thu thập mẫu vật. Thực tế tại đây lại chưa có nhiều công trình
nghiên cứu khoa học, mà chủ yếu nhằm mục đích thương mại. Vì vậy việc đề tài
được thực hiện tại đây mang tính định hướng, mở đường cho các đề tài sau.
Trong quá trình học tập các bộ môn thuộc lĩnh vực Sinh học như giải phẫu
hình thái thực vật, phân loại thực vật… rất cần có nhiều hình ảnh trực quan để
minh họa ngay từ các đối tượng phổ biến, gần gũi với con người như Phong lan,
nhưng trong thực tế nhu cầu cơ bản này chưa được đáp ứng đầy đủ vì thế việc
xây dựng được những hình ảnh trực quan về đặc điểm hình thái ngoài và cấu tạo
giải phẫu một số đại diện của bộ Lan trên địa bàn Mộc Châu sẽ đáp ứng nhu cầu

học tập, nghiên cứu, tham khảo cấp thiết nhất của học sinh, sinh viên, giáo viên
và những người quan tâm.

2
Đối với bản thân việc nghiên cứu sẽ là cơ hội học hỏi, trau dồi, rèn luyện,
trang bị thêm những kĩ năng trong công tác trong nghiên cứu khoa học.
Xuất phát từ những lí do trên em lựa chọn đề tài: “ Xây dựng bộ ảnh mô tả
đặc điểm hình thái và cấu tạo giải phẫu của một số loài Lan thuộc bộ Lan
(Orchidales) ở Mộc Châu.”
1.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đặc điểm hình thái, giải phẫu của cơ quan sinh dưỡng và cơ quan sinh sản
của một số loài thuộc bộ Lan (Orchidales), phân bố ở khu vực thị trấn Mộc
Châu, Mộc Châu – Sơn La.
1.3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Tìm hiểu đặc điểm hình thái ngoài, cấu tạo giải phẫu cơ quan sinh dưỡng,
sinh sản của một số loài thuộc bộ Lan (Orchidales).
- Xây dựng bộ ảnh về hình thái ngoài và cấu tạo giải phẫu của cơ quan sinh
dưỡng, sinh sản của các đại diện.
1.4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Thu thập và phân tích tài liệu có liên quan đến đề tài
- Sưu tầm và tiến hành thu mẫu các đại diện dự kiến
- Mô tả, phân tích đặc điểm hình thái ngoài và phân bố sinh thái
- Thực hành giải phẫu cơ quan sinh dưỡng, sinh sản của các mẫu vật
- Mô tả, phân tích trên tiêu bản về đặc điểm giải phẫu của các đại diện
- Chụp ảnh hình thái ngoài và tiêu bản của mẫu
- Sắp xếp những quan sát, mô tả, thực hành giải phẫu và phân tích cùng với
bộ ảnh để có hệ thống hoàn chỉnh về đại diện đó.
1.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sử dụng phối hợp các phương pháp sau:
* Phương pháp nghiên cứu lí thuyết:

Thu thập một số tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu để vận dụng vào
phân tích, biện luận các kết quả đạt được.
* Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm:
- Phương pháp quan sát:
Quan sát, mô tả các cơ quan sinh dưỡng, ghi chép đặc điểm phân bố và điều
kiện sinh thái của các loài nghiên cứu.

3
Chụp ảnh các đối tượng nghiên cứu trong điều kiện tự nhiên.
- Phương pháp thu mẫu:
Thu mẫu vật có đầy đủ các cơ quan rễ, thân, lá, hoa, quả (trường hợp hoa,
quả chưa có, sẽ thu vào mùa ra hoa).
- Phương pháp giải phẫu mẫu trong phòng thí nghiệm [10]
Phương pháp nhuộm kép (với đỏ carmin và xanh metylen)
Là cách nhuộm với hai loại màu trở lên, vì vậy lát cắt sẽ có màu khác nhau,
giúp dễ quan sát các thành phần của mẫu, đồng thời mang tính thẩm mĩ hơn.
Chuẩn bị:
+ Dụng cụ: Kính hiển vi, máy ảnh, lam kính, lamen, kim mũi mác, đĩa
đồng hồ, bút, giấy…
+ Hóa chất: Nước cất, nước Javel, dung dịch xanh metylen, đỏ carmin, axit
acetic 1%, glyxerin…
Tiến hành:
+ Chọn những lát cắt tốt ngâm vào nước Javel từ 10 – 15 phút để tẩy rửa
sạch nội quan của tế bào, làm sáng các lát cắt.
+ Rửa mẫu bằng nước cất
+ Rửa sạch các lát cắt trong dung dịch axit acetic 1% (để tẩy sạch
hypoclorat có trong Javel còn lại trong khoang tế bào). Nếu mẫu cắt có tinh bột
thì phải loại bỏ tinh bột bằng Cloran hydrat trong 15 – 30 phút.
+ Rửa kỹ lại những lát đó trong nước cất, lặp lại 3 lần.
+ Nhuộm xanh bằng dung dịch xanh metylen loãng (1/1000 đến 1/10000

trong nước cất) khoảng 10 giây (thời gian nhộm tùy nồng độ của thuốc nhộm,
nhuộm trong dung dịch đặc với thời gian ngắn không đẹp bằng mẫu nhuộm
trong dung dịch loãng thời gian dài).
+ Rửa sạch lại mẫu bằng nước cất 3 lần
+ Nhuộm đỏ bằng dung dịch carmin trong 20 – 30 phút.
+ Rửa mẫu bằng nước cất, lặp lại 3 lần.
+ Chọn mẫu đẹp đưa lên kính bằng glyxerin, qua quan sát dưới kính hiển vi
ta sẽ thấy những tế bào có vách bằng xenlulozơ bắt màu hồng còn vách tế bào
hóa gỗ bắt màu xanh.

4
Chú ý: Tùy mẫu và tính chất bắt màu nhanh hay chậm của thuốc nhuộm,
có thể nhuộm với đỏ carmin trước rồi nhuộm xanh metylen sau cũng được. Cần
nhớ rửa sạch mẫu trước khi cho vào loại hóa chất hay thuốc nhuộm khác.
Nguyên tắc cần đảm bảo:
+ Mẫu vật tươi nguyên, rửa sạch trước khi đem phân tích và chụp ảnh.
+ Địa điểm tiến hành phân tích, giải phẫu phải râm mát, sạch sẽ.
+ Cắt lát phải đủ mỏng để có tiêu bản đẹp.
+ Chụp ảnh phải lột tả được các đặc điểm đặc trưng và rõ ràng.
- Phương pháp chụp ảnh hiển vi
Sử dụng kính hiển vi nối với máy ảnh kĩ thuật số. Sau khi lên tiêu bản bằng
nước cất, đặt tiêu bản lên kính, điều chỉnh rồi chụp.
1.6. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
- Thu mẫu tại thị trấn Mộc Châu
- Giải phẫu hiển vi thực vật tại phòng thực hành khoa Sinh – Hóa, trường
Đại học Tây Bắc.
1.7. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
Đề tài tiến hành từ tháng 09/2012 đến 05/2013:
- Tháng 09/2012: Sưu tầm tài liệu, lập đề cương đề tài.
- Tháng 10/2012 đến tháng 03/2013: Thu mẫu, mô tả, phân tích, giải phẫu

mẫu vật.
- Tháng 03/2013 đến tháng 04/2013: Xử lý kết quả thu được và hoàn thành
đề tài.
- Tháng 05/2013: Báo cáo đề tài.
1.8. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Xây dựng bộ ảnh về hình dạng ngoài và cấu tạo giải phẫu của một số loài
thuộc bộ Lan (Orchidales), bổ sung bộ ảnh cho khoa Sinh – Hóa, trường Đại
học Tây Bắc.
- Đề tài hoàn thành là tài liệu tham khảo có giá trị cho công tác học tập,
nghiên cứu, tham khảo của sinh viên và những ai quan tâm đến vấn đề này.



5
1.9. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
Trong lịch sử phát triển của thực vật học thì giải phẫu hình thái được phát
triển tương đối sớm. Hơn 2300 năm trước đây, Theophrastus (371 – 286 TCN)
lần đầu tiên đã đề cập đến các dẫn liệu về hình thái và cấu tạo của cơ thể thực
vật trong các tác phẩm “Lịch sử thực vật”, “Nghiên cứu về cây cỏ”. Ông đã
chia các phần của cây ra rễ, thân, lá, hoa, quả. Đồng thời những kiến thức về giải
phẫu cũng lần đầu tiên được đề cập đến sự tạo thành vòng hàng năm của gỗ và
libe. Nhiều kiến thức về sự phân biệt trong cơ quan sinh dưỡng và cơ quan sinh
sản cũng được trình bày trong tác phẩm của ông. Giải phẫu thực vật với phương
pháp nghiên cứu của nó có liên quan chặt chẽ với những thành tựu của kính hiển
vi. Năm 1660, nhờ R. Hook phát minh ra kính hiển vi, nên vào năm 1672 Grew
đã sáng lập môn Giải phẫu thực vật và cùng Malpighi xuất bản quyển “Giải
phẫu thực vật” . J.P.deTournefort đã dựa vào 3 đặc điểm của tràng hoa, chia
thành 3 nhóm thực vật: cánh rời, cánh liền và không cánh. Trong khi John Jay đã
dựa vào cấu tạo của phôi, đặt cách phân chia thực vật một lá mầm và hai lá
mầm. Lineaus đã đưa ra khái niệm về biến thái hình thái khi xem xét về nguồn

gốc hoa, lá, chồi của thực vật. Dựa vào đó, nhà tự nhiên học người Đức Goeth
đã nâng lên thành học thuyết biến thái trong công trình “Thử giải thích hiện
tượng biến thái thực vật”. Theo ông, sự thích nghi của thực vật với tác động của
môi trường dẫn đến biến thái. Giữa thế kỉ XIX, các công trình nghiên cứu về
thực vật có hạt đã lấp được hố ngăn cách giữa thực vật hạt trần và thực vật hạt
kín, đã xác định được quy luật chung trong chu trình sống của thực vật dưới
hình thức xen kẽ thế hệ, góp phần quan trọng trong việc giải thích sự tiến hóa
của giới thực vật. Vào cuối thế kỉ XIX, các nhà khoa học đã tìm ra mối liên quan
giữa cấu trúc và một số chức năng cơ bản trong đời sống thực vật như quang
hợp, hô hấp và tiêu thụ nước, quá trình dinh dưỡng khoáng…Năm 1784,
Svendener đã chú ý đến việc áp dụng chức năng sinh lý khi nghiên cứu giải
phẫu thực vật. Năm 1884, Haberclan đã phát triển hướng nghiên cứu này trong
tác phẩm “Giải phẫu sinh lí thực vật”. Năm 1887, De Barry cho xuất bản tác
phẩm “ Giải phẫu so sánh các cơ sinh dưỡng” trong đó đã mô tả các loại mô của
cơ thể thực vật. Cách phân loại mô của ông còn mang bản chất định tính nhưng
cũng đánh dấu một bước tiến bộ trong việc nghiên cứu cấu trúc của cơ thể thực
vật. Đầu thế kỉ thứ XX, việc nghiên cứu về tế bào đã được phát triển mạnh mẽ,
Tchitiacov đã phát hiện ra sự phân chia gián tiếp của tế bào và sau đó
Gherasimov tìm được vai trò của nhân tế bào. Năm 1898, Navasin phát hiện ra
quá trình thụ tinh kép ở thực vật hạt kín. Nhờ sự phát minh ra kính hiển vi điện
tử, người ta đã nghiên cứu được cấu trúc siêu hiển vi của tế bào và đã tách việc

6
nghiên cứu về tế bào thành một môn khoa học mới là tế bào học. Vào nửa sau
của thế kỉ XX, việc nghiên cứu về hình thái giải phẫu thực vật càng được đẩy
mạnh và các kết quả nghiên cứu đã được tập trung trong một số sách về giải
phẫu thực vật, như cuốn “Giải phẫu cây thực vật một lá mầm và cây thực vật
hai lá mầm” (Metcalfe và Chalk 1960, 1961) và “Giải phẫu thực vật”
(Katherine Esau, 1978). [2, 10, 11]
Ở Việt Nam việc nghiên cứu hình thái, giải phẫu thực vật còn ít. Nhưng

trong những năm gần đây, các tác giả trong nước đã quan tâm nghiên cứu giải
phẫu một số loài, chi, họ thực vật Hạt kín, giải phẫu một số cây trong rừng ngập
mặn. Ngoài ra, các trường Đại học trong nước cũng đã cho xuất bản nhiều giáo
trình về Hình thái - Giải phẫu học thực vật rất có giá trị.


7
PHẦN 2
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Thực vật học là khoa học nghiên cứu về cây cỏ, thảo mộc. Khoa học này
nghiên cứu về hình dạng, cấu tạo, phân loại cây cỏ cùng với việc nghiên cứu
chức năng hoạt động của chúng, nghiên cứu các quy luật sinh trưởng, phát triển,
các quy luật tổ chức, tồn tại của giới thực vật cũng như sự phân bố của thực vật
trên trái đất, tìm hiểu ảnh hưởng tác động tương hỗ giữa cây cỏ với môi trường
chúng sống, cũng như ảnh hưởng qua lại giữa chúng với nhau Vai trò của thực
vật với sự sống vô cùng lớn lao, vì vậy các lĩnh vực nghiên cứu về nó là vô cùng
sâu rộng và cuối cùng cũng là để nhằm mục đích tìm hiểu quy luật sống và phát
triển tiến hoá của giới thực vật để sử dụng nguồn tài nguyên to lớn đó, cải tạo nó
để phục vụ cho cuộc sống con người ngày càng tốt hơn. [2]
Một trong những chuyên ngành của thực vật học là giải phẫu - hình thái thực
vật. Chuyên ngành này lại có thể chia thành 2 phần nhỏ hơn là:
Thứ nhất hình thái học thực vật nghiên cứu về hình dạng, cùng những biến
đổi của các dạng cây cỏ ở các mức độ khác nhau. Hình thái thực vật rất đa dạng,
vì thế khoa học này phải giải thích quy luật phát sinh, phát triển cá thể cũng như
của quá trình lịch sử phát sinh thực vật.
Thứ hai giải phẫu học thực vật nghiên cứu cấu tạo giải phẫu, cấu tạo bên
trong của cơ thể thực vật như: tế bào, các mô nên còn gọi là hình thái trong mà
phương pháp chủ yếu là dùng kính hiển vi quang học. [10]

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là quan sát ngoài thiên nhiên, tiến hành
giải phẫu trong phòng thí nghiệm, so sánh các mẫu vật thu thập được, phân tích,
tổng hợp và rút ra nhận xét chính xác.
Hầu hết các cơ quan đều nghiên cứu ở mức độ hiển vi, phải được chuẩn bị
thành những lát cắt mỏng trên các bản kính, thông thường để nghiên cứu các
mô, các lát cắt với độ dày 5 - 10 µm hoặc hơn nữa. Yêu cầu của các lát cắt phải
đúng hướng (ngang, dọc hay xiên). Trong những trường hợp muốn quan sát sự
sắp xếp của các mô, những biến đổi cấu tạo của chúng từ bộ phận này sang bộ
phận khác thì cần phải theo dõi trên hàng loạt các lát cắt liên tục ở nơi đó. [11]
Phương pháp nhuộm màu các lát cắt hoặc phần ngâm mủn là dựa vào tính
chất bắt màu của các yếu tố cấu tạo khác nhau trong thành phần của tế bào và

8
mô đối với các loại thuốc nhuộm riêng biệt. Các bản cắt đã được chuẩn bị xong
có thể đem quan sát nghiên cứu dưới kính hiển vi ở những mức độ phóng đại
khác nhau.
Cấu tạo cơ thể thực vật rất đa dạng. Tính chất đa dạng đó của thực vật tất
nhiên cũng theo những quy luật tiến hoá của tự nhiên, đặc biệt là thực vật bậc
cao, cơ thể đã tiến hoá theo hướng hình thành các cơ quan chuyên hoá.
Thân, rễ, lá ở đa số thực vật bậc cao với cấu tạo và chức năng riêng của nó
được gọi là cơ quan dinh dưỡng, phân biệt với các cơ quan làm nhiệm vụ sinh
sản gọi là cơ quan sinh sản.
Thân chủ yếu là phần ở trên mặt đất, có mang lá và làm chức năng cơ học.
Nghĩa là nhờ thân mà lá được sắp xếp ở vị trí tốt nhất trong việc tiếp nhận ánh
sáng để làm nhiệm vụ quang hợp và mang các cơ quan sinh sản. Thân cũng là cơ
quan giữ chức năng dẫn truyền nước, muối khoáng và các chất dinh dưỡng do rễ
hấp thụ từ đất lên lá và dẫn truyền sản phẩm được tổng hợp từ lá đi tới các cơ
quan khác. Ngoài ra, cũng có khi thân là cơ quan dự trữ các sản phẩm của cây
hoặc có khi thân biến thái thành các cơ quan tương đồng khác, như thân có hình
lá, có chứa chất diệp lục làm nhiệm vụ dinh dưỡng khí, hoặc có khi thân chìm

dưới đất như rễ, chủ yếu để làm chức năng dự trữ. Thân thường có mang cành
và cành đến lượt nó lại phân nhánh các cấp tiếp theo khác nhau. Cành có mang
lá được gọi là chồi. [1]
Lá chủ yếu là cơ quan trên mặt đất, chuyên hoá cao với chức năng dinh
dưỡng khí và thoát hơi nước.
Rễ chủ yếu là phần cơ quan dưới đất của cây. Chức năng chủ yếu của rễ là
hấp thụ nước, muối khoáng và vận chuyển các chất này lên lá, là nơi dự trữ các
chất dinh dưỡng của cây.
Rễ và thân thường nằm theo một trục thẳng đứng và cấu tạo có nhiều nét
giống nhau cho nên chúng được gọi là cơ quan trục.
Tế bào là đơn vị cấu cơ sở của mọi cơ thể thực vật đa bào. Tế bào có thể rất
khác nhau về hình dạng, cấu tạo chức năng và về nguồn gốc hình thành. Tập hợp
các tế bào có hình dạng, cấu tạo giống nhau hoặc chuyên hoá để hoàn thành những
chức năng riêng gọi là mô. Nhiều loại mô khác nhau tham gia cấu tạo nên các cơ
quan và các cơ quan tham gia cấu tạo nên một cây hoàn chỉnh.
Sự phân loại về tế bào và mô chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi vì các tế bào có
thể khác nhau về hình dạng, cấu tạo lại có thể cùng đảm nhận một chức năng và
ngược lại. Đối với mô cũng vậy, các mô khác nhau có thể dần dần chuyển hoá

9
cho nhau và trùng với nhau từng phần về cấu tạo và chức phận. Vì vậy mà
không có một dấu hiệu cụ thể nào có thể dùng để phân loại mô cho mọi trường
hợp được, nên khái niệm mô trong giải phẫu thực vật chỉ là tương đối mà thôi.
Dù sao khái niệm đó trong cơ thể thực vật ít nhiều cũng được phân biệt một số
kiểu gắn liền với chức năng sống chính của nó. Theo một trong những cách phân
loại đã có từ lâu, thì cơ thể thực vật có mạch gồm 5 hệ thống mô: mô phân sinh,
mô bì, mô dẫn, mô cơ và mô cơ bản. [1, 11]
Khi tiến hành nghiên cứu các đại diện thực vật thuộc bộ Lan (Orchidales)
tôi chủ yếu dựa vào hệ thống phân loại của Takhtajan 1980, vì nó phù hợp với
xu hướng của đại đa số các nhà nghiên cứu Lan. Hệ thống này rõ ràng, không

quá phức tạp và độ tin cậy cao. Ngoài ra còn dựa trên những tài liệu về chuyên
ngành thực vật học và vốn kiến thức tích luỹ được trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Địa phương Mộc Châu là nơi có điều kiện khí hậu phù hợp cho sự phát
triển của nhiều loài thực vật có hoa trong đó có Phong lan, vì thế rất thuận tiện
cho việc tìm và thu thập mẫu vật.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài tôi có nhiều điều kiện thuận lợi như:
phòng thực hành, thiết bị, dụng cụ, hoá chất của khoa Sinh - Hoá được trang bị
khá đầy đủ, đồng thời luôn được các thầy cô tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi
hoàn thành được hướng nghiên cứu này.
Nội dung của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo giúp cho sinh viên trong quá
trình học tập và nghiên cứu học phần “Giải phẫu - Hình thái thực vật” và học
phần “Phân loại học thực vật”.



10
CHƯƠNG 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TÀI LIỆU
Tổng quan về bộ Lan (Orchidales)
Bộ Lan (Orchidales) là một trong 5 bộ thuộc phân lớp Hành (Liliidae). Bộ
Lan liên hệ chặt chẽ với bộ Hành, nói chung bộ Hành hoa đã có khuynh hướng
phát triển dẫn đến bộ Lan (tính chất hoa đối xứng 2 bên, sự tiêu giảm và chuyên
hóa của bộ nhị, bầu dưới, có 1 ô mang nhiều noãn và hạt bé…). [3]
Bộ Lan chỉ có 1 họ duy nhất đó chính là họ Lan – Phong lan (Orchidaceae). [3]
Nhà thực vật học người Nga Glakova (1982) đã ca ngợi “Thiên nhiên đã
hào phóng tặng cho họ Lan một vẻ đẹp lạ thường, và tính đa dạng của hoa đã
làm sửng sốt con người từ những thời xa xưa cho đến ngày nay”. Quả vậy, với
800 chi và 20.000 – 25.000 loài (theo A.L.Takhtajan 1980), họ Lan đã chiếm vị

trí thứ 2 – sau họ Cúc (Asteraceae) trong ngành thực vật Hạt kín
(Magnoliophyta = Angiospermae) và là họ lớn nhất trong lớp Một lá mầm
(Liliopsida = Monocotyledonae). Chính vì thế, hình thái, cấu tạo cũng như hệ
thống phân loại họ này hết sức đa dạng và phức tạp. [7]
Nhìn chung, họ Lan bao gồm các loài cây thân thảo, sống lâu năm, chúng
sống ở đất, nơi hốc vách đá, hoặc sống phụ sinh (bì sinh), sống hoại sinh…
Khi sống ở đất, chúng thường có dạng củ nạc, rễ mập và xum xuê hoặc có
thân rễ bò dài hay ngắn. Ở xứ lạnh, Phong lan ở đất thường có cụm hoa màu ít
sặc sỡ, sống chen lẫn với các đám cỏ ven rừng, trên các bãi hoang, hay trên các
triền núi bên các bụi cây thấp. Còn các loài Phong lan sống ở đất vùng nhiệt đới
thì rất đa dạng, chúng mọc ra các cụm hoa sặc sỡ, ngào ngạt hương thơm hoặc
hôi hám. Các loài cây này tuy khác xa nhau về địa lý, hoàn cảnh sống, nhưng
thường vẫn được xếp vào các chi chung, đặc chưng cho các chi toàn cầu là:
Herminium, Liparis, Malaxis…[8, 12]
Tuy nhiên, nét độc đáo nhất của bộ Lan là lối sống phụ sinh (bì sinh) bám,
treo lơ lửng trên vỏ các thân cây gỗ khác. Chúng phát triển các dạng thân rễ nạc,
dài hay ngắn, mập hay mảnh mai, đưa cơ thể bò đi xa, hay chụm lại thành các
bụi dày. Hệ rễ khí sinh (bản chất là rễ chùm, mọc lơ lửng trong không khí gọi là
rễ khí sinh) ở đây vừa làm nhiệm vụ lấy nước, muối khoáng trên vỏ cây gỗ, vừa
bám chặt vào giá thể để giữ cây khỏi bị gió cuốn đi, và giúp cây mọc cao vươn
ra chỗ có nắng. Hệ rễ phát triển nhiều hay ít phụ thuộc vào hình dạng chung của
cả cơ thể. [12]

11
Ở các loài đặc trưng cho hệ thực vật Châu Á nhiệt đới và Australia, nhiều
loài Lan rất nhỏ bé, sống trong các kẽ nứt của vỏ cây, hệ rễ cũng nhỏ đan thành
búi, ngược lại các loài Lan có kích thước lớn hay trung bình, hệ rễ khí sinh phát
triển rất phong phú, mọc dài, mập mạp và khỏe cứng. Để làm nhiệm vụ hấp thu
chất dinh dưỡng, chúng được bao bởi một lớp mô hút ẩm dày, bao gồm những tế
bào chết chứa đầy không khí. Lớp mô xốp này được gọi là màn (vêlamen). Khi

trời khô thì lớp màn có màu trắng như bạc, nhưng khi hút hơi ẩm thì trong suốt,
nhìn rõ màu xanh của rễ. Rễ khí sinh không có miền chóp rễ che chở cho đầu rễ.
Với lớp màn đó, rễ không những có khả năng hấp thu nước mưa chảy dọc dài
trên vỏ cây gỗ, mà còn giúp lấy được nước lơ lửng trong không khí (sương sớm
hay hơi nước). Nhiều loài có hệ rễ đan bện thành một búi chằng chịt, nó là nơi
thu gom mùn của vỏ cây để làm nguồn dự trữ chất dinh dưỡng. Ngược lại, ở các
loài mọc bò dài, hệ rễ có thể buông thõng xuống theo các đoạn thân. Ở một số
loài Lan có thân, lá kém phát triển (thậm chí tiêu giảm hoàn toàn), hệ rễ phát
triển dày đặc và đảm nhiệm luôn cả vai trò quang hợp. Rễ lúc này có dạng dẹt,
bò rất dài màu xanh như lá. Đặc biệt các loài Lan sống hoại sinh, bộ rễ có hình
dạng cấu trúc khá độc đáo, nó có dạng búi nhỏ, vòi hút ngắn, dày để có thể lấy
được chất dinh dưỡng từ xác thực vật thông qua hoạt động của nấm. Mặc dù sự
cộng sinh với nấm nội sinh vốn là đặc tính sống cơ bản của cả họ Phong lan
trong giai đoạn nảy nầm, nhưng chỉ ở một số loài vẫn tồn tại mối quan hệ này
trong suốt cuộc đời. Các loài này do không sinh ra các cơ quan tự dưỡng, nên
vẫn phải duy trì sự giúp đỡ của nấm, cơ thể của chúng rất nhỏ, mảnh mai, không
màu sắc hoặc mang các sắc tố khác màu xanh. Tuy nhiên cũng có một số ít loài
Phong lan sống hoại sinh song cơ thể rất dài đến vài chục mét như Cyrtosia,
hoặc cũng có loài sống hoại sâu trong lòng đất như Rhizanthella gardneri,
Cryptanthemis slateri. Trong những trường hợp sống hoại sinh thì nấm là cầu
nối giữa hai thành viên thực vật bậc cao, nó liên kết với các gốc mục để lấy
gluxit, muối khoáng, rồi sợi nấm xâm nhập qua lông trên thân của Phong lan và
chuyển các chất vào nuôi cơ thể Phong lan. [7, 8]
Thân cây các loài Lan rất ngắn hoặc kéo dài, đôi khi phân nhánh và mang
lá hoặc không. Theo M.E.Pfitzer (1882) Lan có hai loại thân, mà đa số đều
thuộc loại đa thân. Đây là nhóm những cây tăng trưởng liên tục, mà kèm theo
những chu kỳ nghỉ sau mùa tăng trưởng. Và nhóm các loài Lan sinh trưởng đơn
thân, gồm những cây chỉ tăng trưởng theo chiều cao làm cây dài ra mãi. Đôi khi
thân một số loại Lan rất ngắn, và bị che khuất bởi hệ thống lá hay rễ mọc thành
bụi dày. [8]


12
Ở thân các loài Lan sống phụ sinh có nhiều đoạn phình lớn thành giả hành
hay còn gọi là củ giả. Đó là bộ phận dự trữ nước, các chất dinh dưỡng để nuôi
cây trong hoàn cảnh khô hạn khi sống bám trên cao. Giả hành rất đa dạng, hoặc
hình cầu thuôn dài xếp sát nhau, hay rải rác đều đặn (Lan lọng – Bulbophyllum),
hay hình trụ xếp chồng chất lên nhau thành một thân giả (Lan hoàng thảo –
Dendrobium). Kích thước giả hành cũng rất biến động, từ dạng rất nhỏ chỉ bằng
đầu chiếc đinh găm – Lan lọng, đến dạng hình cầu to như chiếc mũ người lớn
(Lan bạch phượng – Pecteilis susannae). Cấu tạo giả hành gồm nhiều mô mềm
chứa đầy dịch nhầy, phía ngoài có lớp biểu bì với vách tế bào dày, nhẵn bóng
bảo vệ để tránh sự mất nước do sức nóng mặt trời. Đa số giả hành đều có màu
xanh bóng, nên cùng với lá, nó cũng làm nhiệm vụ quang hợp. Các loài Lan xứ
lạnh, sống ở đất giả hành lại làm nhiệm vụ dự trữ dinh dưỡng (nên không có
màu xanh và bị vùi lấp dưới đất), phía trên giả hành mang một hay nhiều lá. [7]
Lá Lan mọc đơn độc hoặc xếp dày đặc ở gốc, hay xếp cách đều đặn trên
thân, trên giả hành. Hình dạng lá thay đổi rất nhiều từ loại lá mọng nước, nạc,
dai, hình kim, hình trụ dài, tiết diện tròn hay có rãnh, đến loại lá hình phiến
mỏng, dải, mềm, xanh bóng đậm hay nhạt tùy theo vị trí sống của cây, đặc biệt
rất hiểm gặp các loại lá hình tròn (Lan thanh tiên quì – Nervilia) hay chia thùy
sâu (Lan bắp ngô – Acampe). Lá tận cùng thành một cuống hay thuôn dài xuống
thành bẹ ôm thân. Phiến lá trải rộng hay gấp lại theo các gân vòng cung (như cái
quạt) hay chỉ gấp lại theo một gân giữa (hình chữ V). Những lá dưới sát gốc,
thường giảm đi chỉ còn những bẹ không có phiến, hay giảm hẳn thành các vẩy.
Về màu sắc, phiến lá thường có màu xanh bóng, nhưng đôi khi hai mặt lá có
màu khác nhau (thường mặt dưới lá có màu xanh đậm hay tía), mặt trên lại
khảm thêm nhiều màu sặc sỡ. Nhiều loài Lan có lá màu hồng, màu nâu hồng, và
nổi lên các đường vẽ trắng theo các gân rất đẹp (Lan sứa – Anoectochilus). [7]
Phong lan ở các vùng nhất là các loài ở vùng nhiệt đới, thường trút hết lá
trong mùa khô hạn. Lúc này, cây ra hoa hoặc sống ẩn, chờ mùa mưa đến sẽ cho

chồi mới. Một số Lan sống ở đất có chu kỳ sống đặc sắc, xen mùa lá với mùa
hoa. Khi cây ra hoa, toàn bộ các lá đều chết khô đi và sau khi hoa tàn, giả hành
sẽ cho chồi lá mới. Ngược lại một số loài Lan có lá dày, dai, xanh đậm, sống lâu
cả chục năm (Lan vân đa – Vanda).
Metchnikov (1903) đã coi sự thụ phấn của hoa Lan là một trong những mẫu
mực kỳ lạ trong những hiện tượng hài hòa của tự nhiên. Do đó, cấu tạo của hoa
Lan cực kỳ phong phú và hấp dẫn.

13
Ở Lan có thể gặp những loài mỗi mùa chỉ có một đóa hoa nở, hoặc có
nhiều cụm hoa mà mỗi cụm chỉ đơm một bông. Tuy nhiên, đa số các loài Lan
đều nở rộ nhiều hoa, tập hợp lại thành chùm (đôi khi phân nhánh thành chùy),
phân bố ở đỉnh thân hay nách lá. Gốc cuống chính thường có lá bắc dạng vẩy
hay mo. Cuống chính đôi khi rút ngắn lại, làm cụm hoa có dạng tán giả, hay
cuống chính vừa ngắn vừa mập, cụm hoa có dạng gần như hình đầu. Nhiều loài,
hoa có cuống rất ngắn, nên cụm hoa có dạng bông, và đạt kích thước rất lớn
(Oncidium volvox) ở Châu Mỹ có cụm hoa dài đến 5m. [15]
Hoa Lan có cấu trúc cơ bản của hoa mẫu 3, là kiểu hoa đặc trưng ở lớp Một
lá mầm nhưng đã biến đổi rất nhiều để hoa có đối xứng qua một mặt phẳng. Hoa
Lan thuộc loại hoa lưỡng tính và đơn dạng, rất hiếm các loại Lan đơn tính, tạp
tính và nhị dạng. Bao hoa có 2 vòng, mỗi vòng 3 mảnh, chia ra:
- Ba lá đài thường có dạng cánh hoa. Cả 3 lá đài giống nhau hoặc lá đài lưng
hơi khác với 2 lá đài bên (đôi khi cả 3 lá đài đều dính lại với nhau)
- Ba cánh hoa (tràng hoa) có 2 cánh bên rất giống với lá đài rời hay dính
với lá đài bên. Chỉ có cánh hoa giữa biến đổi màu sắc, có chức năng đặc biệt
trong sự hấp dẫn và thụ phấn nhờ côn trùng gọi là cánh môi. Cánh môi rất đa
dạng, xếp đối diện với lá đài lưng, luôn luôn ở phía trong cùng, và có kích thước
thường lớn hơn cả. Cánh môi có thể nguyên, chia thùy, khía răng, có tua viền,
hay chia cắt thành các sợi mảnh. Bề mặt cánh môi hoặc nhẵn, có nhiều gân hay
nổi lên các phần phụ đa dạng (u, mào, vách, gợn sóng…). Gốc cánh môi thường

mang tuyến mật, trong một cựa dài hay trong một u lồi, phần này dính vào chân
của cột nhị nhụy hay là phần kéo dài ra phía trước của cằm. Cấu tạo của cánh
môi độc đáo đến nỗi các nhà khoa học đã đặt nhiều vấn đề để tìm hiểu nguồn
gốc của nó. Họ này tiến hóa theo hướng thích nghi với sự thụ phấn nhờ côn
trùng và nhờ chim vì vậy trong số 6 nhị của hoa mẫu 3 (đặc trưng cho loại hoa
Hành tỏi) thì có sự biến đổi giảm dần khá phức tạp, từ loại có 3 nhị của hoa
thuộc chi Neuwiedia (Lan huệ), đến loại chỉ còn 2 nhị của chi Paphiopedilum
(Lan hài), cuối cùng đến loại chỉ còn 1 nhị của hầu hết các chi còn lại. Về cấu
tạo thì cũng từ các chi Phong Lan nguyên thủy Neuwiedia (Lan huệ), Apostasia
(Lan giả) có nhị và vòi nhụy chưa thể kết hợp với nhau, tiến tới dạng dính liền
với nhau thành cột nhị nhụy (ở hầu hết các chi Phong lan khác). Cột nhị nhụy
nằm chính giữa hoa, là dấu hiệu cơ bản để định loại họ Lan, mang phần đầu đực
ở phía trên và phần cái (đầu nhụy) ở mặt trước. Cột này thường dài, thẳng hay
cong về phía trước, và gốc có thể kéo dài ra phía trước thành cằm. Nhị gồm có 2
phần, bao phấn và hốc phấn. Bao phấn nằm ở cột nhị nhụy gần như ngang hay

14
thẳng đứng, nó đối diện với lá đài lưng và ngoại hướng, hoặc đối diện với cánh
môi và nội hướng. Còn hốc phấn thì lõm lại, mang khối phấn và thường song
song với bao phấn. Khối phấn được che đậy bởi mỏ bất thụ - do một đầu nhụy
biến đổi thành, gồm toàn bộ hạt phấn dính lại với nhau, rất cứng do có tinh bột,
sáp hay chất sừng. Số lượng khối phấn biến đổi từ 2, 4, 6 đến 8, có dạng thuôn
hay cong lưỡi liềm, đôi khi thuôn dài có đuôi, kết thúc bởi chuôi và gót. Hoa
Lan có bầu hạ (bầu dưới) thuôn dài kéo theo cuống (rất khó phân biệt giữa bầu
và cuống hoa). Sự vặn xoắn toàn bộ hoa trong quá trình phát triển là đặc điểm
của bầu. Hoa thường bị vặn xoắn 180
0
sao cho cánh môi khi bắt đầu nở hướng ra
bên ngoài ở vào phía dưới làm chỗ đậu thuận lợi cho côn trùng. Rất ít khi gặp
hoa vặn 360

0
như ở Lan mai đất tím – Malaxis purpurea hoặc không vặn gì do
cuống hoa buông rủ xuống như ở Stanhopea. Như thế, khi hoa nở, môi vẫn
hướng lên trên, nó thích nghi với loại côn trùng ưa lộn đầu xuống khi chui vào
hoa. Khi côn trùng vào hút mật ở cựa, đậu trên cánh môi, đầu chạm vào gót khối
phấn thì gót dính sẽ dính vào đầu côn trùng và khối phấn sẽ được mang đến hoa
khác. Bầu hoa Lan có 3 ô, đính noãn trung trụ ở các loài Lan nguyên thủy, hoặc
đính noãn bên ở các loài Lan tiến hóa hơn, bầu có nhiều noãn nhỏ bé.
Trên cột nhị nhụy có 2 đầu nhụy sinh sản thường nằm trong một chỗ lõm,
còn đầu nhụy thứ 3 không sinh sản lồi ra thành mỏ bất thụ ngăn cách không cho
khối phấn của nó rơi xuống đầu nhụy sinh sản (buộc phải giao phấn). Tóm lại
hoa của họ Lan có cấu tạo rất phức tạp. [7, 8, 12, 15]
Công thức hoa:  P
3+3
A
2-1
G
(3)

Quả Lan thuộc loại quả nang, nở ra theo 3 – 6 đường nứt dọc, có dạng từ
quả nạc dài ở Lan vani – Vanilla đến dạng hình trụ ngắn phình ở giữa (ở đa số
các loài khác). Khi chín quả mở ra và mảnh vỏ còn dính lại ở phía đỉnh và phía
gốc. Ở một số loài quả chỉ mở theo 1 – 2 khía dọc, thậm chí không nứt ra và hạt
chỉ ra khỏi vỏ quả khi vỏ này mục nát. Hạt rất nhiều, nhỏ bé, có nhiều lông mịn
nhẹ (do đó trước đây gọi họ Lan là họ Vi tử).
Hạt chỉ cấu tạo bởi một phôi chưa phân hóa, trên một máng lưới nhỏ, xốp
chứa đầy không khí, thường không có nội nhũ. Phải trải qua 2 – 18 tháng hạt
mới chín. Phần lớn hạt chết vì khó gặp nấm cộng sinh cần thiết để nảy mầm. Do
đó, hạt thì nhiều, có thể gieo giống đi rất xa nhờ gió, nhưng hạt nảy thành cây rất
hiếm. Chỉ ở trong các cánh rừng già ẩm ướt vùng nhiệt đới mới có đủ điều kiện

để cho hạt giống nảy mầm. Lúc này các sợi nấm sẽ chui vào trong phôi, do sự
hoạt động của chúng mà tinh bột sẽ chuyển hóa thành đường, cần thiết cho sự
phát triển của phôi. Ở những cây trưởng thành thường có nấm cộng sinh ở rễ.

15
Trọng lượng toàn bộ hạt trong 1 quả chỉ bằng 1/10 đến 1/1000 mg, trong đó
không khí chiếm 76% - 96% thể tích hạt. Rõ ràng hạt cây Lan hầu như không có
trọng lượng. Nhờ đặc điểm này, hạt được mang đi rất xa.
Và cũng vì vậy họ Lan phân bố khắp nơi trên trái đất, nhưng phong phú nhất
là ở trong các rừng ẩm nhiệt đới Đông Nam Á và châu Mỹ. Ở nước ta hiện biết trên
130 chi với trên 1000 loài. Ở khu vực Tây Bắc do nằm ở vĩ độ cao, cùng với nhiều
dãy núi lớn làm bình phong, ngăn chặn gió lạnh phương bắc và ở sâu trong lục địa,
ít ảnh hưởng gió mùa Đông bắc nên ở đây ít lạnh hơn, ngược lại mùa hạ lại nóng
sớm, kèm theo gió lào, nên các chi loài Phong lan ở đây có khả năng chịu nóng
hơn, như các loài trong chi Rhynchostylis, Dendrobium, Eria… [7, 12]
Hầu hết các loài đều có hoa rất đẹp, làm cảnh. Tuy nhiên sinh trưởng của
các loài Lan rất chậm, từ khi nảy mầm cho đến khi ra hoa phải mất mấy năm, có
khi tới 10 – 15 năm, đồng thời do một số loài bị khai thác nhiều do đó trở nên
quý hiếm, nên cần phải có biện pháp bảo vệ.
2.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
2.2.1. Kết quả nghiên cứu hình thái, sinh học và phân bố
2.2.1.1. Cẩm báo nhung

Hình 1: Lan Cẩm báo (Vandopsis parishii)
Lan Cẩm báo nhung thuộc chi Cẩm Báo (Da báo) Vandopsis.
- Tên khác: Cẩm báo.
- Tên khoa học: Vandopsis parishii (Rchb. f.) Schltr. 1912

16
- Tên đồng danh: Hygrochilus parishii (Rchb. f.) Pfitzer 1897, Stauropsis

parishii (Rchb. f.) Rolfe, Vanda parishii Rchb. f. 1868.
- Mô tả:
Cẩm báo nhung rất phổ biến, sống phụ sinh, thân cao 10 – 15cm, nhiều rễ
khí sinh to dài tương tự như Vanda nhưng lá bầu dục hơn gần như lá
Phalenopsis mặt dưới lá màu tím sẫm. Lá thuôn trái xoan dài 15 – 23cm, rộng 4
– 7.5cm, đỉnh chia 2 thùy không đều gốc có bẹ. Cụm hoa chùm dài hơn lá
khoảng 40cm, có 1 – 6 hoa ở đỉnh, cuống chung mập thẳng hay gãy khúc. Hoa
lớn màu vàng, có đốm vệt đỏ nâu. Cánh môi nhỏ nạc dài 1.5cm, thùy bên màu
trắng có vạch càng cam, thùy giữa màu đỏ mép trắng, hoa thơm.
- Sinh học và sinh thái:
Nở hoa vào tháng 3 – 6. Cây sống phụ sinh, trong các rừng thường xanh và
nửa rụng lá hoặc trong các rừng có độ cao từ 100 – 1300m. Thích hợp với điều
kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, lượng nắng trung bình, ưa ẩm (60 –
70%), dưới tán lá của các cây khác.
- Phân bố:
Nhiều ở Mộc Châu – Sơn La, Quản Bạ, Hà Giang, Quảng Trị, Nha Trang,
Tây Nguyên: Kontum, Lâm Đồng. Ngoài ra còn ở Thái Lan, Mianma.
- Công dụng:
Cây chủ yếu được dùng làm cảnh vì có hoa đẹp và thơm, có giá trị thương
mại cao. [4, 6, 15]












17
2.2.1.2. Chuỗi ngọc

Hình 2: Lan Chuỗi ngọc (Dendrobium findlayanum)
Lan Chuỗi ngọc thuộc chi Hoàng Thảo Dendrobium.
- Tên khác: Hoàng thảo thắt đốt, Hoàng thảo đùi gà, Hoàng thảo gióng trúc.
- Tên khoa học: Dendrobium findlayanum Par. & Rchb.f
- Tên đồng danh: Callista findlayana
- Mô tả:
Phong lan lớn, thân 6 – 8 đốt phình ra như gióng trúc, thân dài 40 – 50cm,
lá rụng vào mùa thu. Hoa có từ 1 – 3 chiếc, to 7 – 8cm, mọc ra từ đốt gần ngọn.
Hoa nở vào mùa Đông – Xuân, thơm và lâu tàn, cánh hoa trắng, phớt tím ở đầu
cánh và vào trong càng nhạt dần, hoa có đốm nâu đen ở trong họng (hoa chuỗi
ngọc biến đổi từ dạng họng vàng đến họng vàng có đốm nâu đen ở trung tâm).
Hình thái cánh hoa và cánh đài cũng không giống nhau, không đều đặn, nhiều
nơi trên rìa cánh có những đường răng cưa lớn nhỏ khác nhau
- Sinh học và sinh thái:
Chuỗi ngọc mọc phụ sinh trên thân các cây thân gỗ, thích hợp với điều kiện
nhiệt độ từ 15.6 – 32.2
0
C, nhiệt độ trung bình khoảng 10 – 26.7
0
C. Chuỗi ngọc
yêu cầu độ ẩm từ 50 – 70%.
- Phân bố: Sơn La (Mộc Châu), Điện Biên, Sa Thầy, Kontum.
- Công dụng: Cây làm cảnh vì có hoa đẹp, và giá trị thương mại cao. [13,
14, 15]

18

2.2.1.3. Đăng lan

Hình 3: Lan Đăng lan (Dendrobium chapaense)
Đăng lan thuộc chi Hoàng Thảo Dendrobium.
- Tên khác: Đăng lan Sa Pa
- Tên khoa học: Dendrobium chapaense Aver. 2006
- Mô tả:
Thân dài 30 – 35cm, hình trụ, dày 0.4 – 0.5cm, lóng dài 2.8 – 3cm, mảnh
dáp có lông đen. Lá hình mác, đỉnh 2 thùy tù lệch, dài 5 – 8cm, rộng 1 – 1.5cm.
Cụm hoa bên, 1 – 3 hoa. Lá bắc hình mác, dài khoảng 0.6cm. Hoa màu trắng sau
ngả sang vàng nhạt, đường kính 3 – 3.5cm, cuống hoa và bầu dài 3 – 3.5cm. Các
lá đài hình mác, đỉnh nhọn, dài 2 – 2.5cm, rộng 0.8 – 1cm. Cằm hình cựa dài,
đỉnh tù, dài 2.5 – 3cm. Cánh hoa hình mác, đỉnh nhọn, gốc thót, dài 1.8 – 2cm,
rộng 0.8 – 1cm. Cánh môi gần hình thoi, đầu cánh môi màu da cam, cánh chia 3
thùy, dài 2.8 – 3cm, rộng khoảng 2.5cm, ở giữa có 3 đường sống màu da cam,
đầu xa gốc tách ra hình ngón xòe, thùy bên hình bán nguyệt, thùy giữa có chiều
rộng nhỏ hơn khoảng cách giữa hai đỉnh thùy bên, mép trước xẻ răng sâu hoặc
diềm tua không đều, dọc gân phủ lông trắng. Cột màu trắng, cao khoảng 0.5cm,
răng cột nhọn. Nắp bao phấn màu trắng, nhẵn.
Đăng lan rất giống với Dendrobium longicornu (Hoàng thảo Đại giác – một
loài qúy hiếm được ghi vào sách đỏ ở Việt Nam năm 1996)
- Sinh học và sinh thái:

19
Nở hoa tháng 9 – 10, hoa không thơm. Sống phụ sinh, bám trên các cây gỗ
lớn trong rừng, ở độ cao 1200 – 2200m.
- Phân bố:
Sơn La (Mộc Châu), Lào Cai (Sa Pa), Hà Giang (Đồng Văn: Ho Quang
Phin; Mèo Vạc, Sung Cha; Yên Minh: Lao Và Chải), Cao Bằng (Bảo Lạc: Yên
Lạc), Vĩnh Phúc (Tam Đảo: núi Rùng Rình), Lâm Đồng (Đà Lạt, Lạc Dương).

Còn có ở Ấn Độ, Mianma, Trung Quốc.
- Công dụng:
Dùng trị nhiệt bệnh thương tổn đến tân dịch, miệng khô phiền khát, bị hư
nhiệt sau khi khỏi bệnh. Cũng được dùng làm cảnh vì hoa đẹp có cựa dài, hoa
màu trắng hay vàng nhạt, môi vàng có các đường sống màu cam. [5]
2.2.1.4. Đuôi cáo

Hình 4: Lan Đuôi cáo (Rhynchostylis retusa)
Lan Đuôi cáo thuộc chi Ngọc Điểm Rhynchostylis.
- Tên khác: Bạch vĩ hồ, Ngọc điểm đuôi cáo, Ngọc điểm vĩ hồ.
- Tên khoa học: Rhynchostylis retusa [L.] Blume 1825.
- Tên đồng danh: Rhynchostylis guttata Rchb. f. 1854, Rhynchostylis violacea
Rchb. f. 1854, Sarcanthus guttatus Lindl. 1831.
- Mô tả:
Lan sống phụ sinh. Rễ dọc theo thân. Lá hình dải, dài 15 – 45cm, rộng 2.5cm,

20
cong, 2 thùy lệch nhau, mặt trên màu xanh lục, mặt dưới màu lục nhạt với vài
sọc dọc màu hơi vàng.
Cụm hoa là chùm thõng xuống dài bằng hay dài hơn lá. Nhiều hoa, rộng
1.5 – 2cm, màu trắng có chấm tím. Lá đài bên hình lưỡi hái, chạm nhau bởi
mép. Cánh môi hoàn toàn tím, hình nêm, không có thùy bên, đỉnh bằng hay lõm.
Cựa sâu 5mm, gần hình trụ, ở giữa mặt trong có một dải rộng lông ngắn cứng,
nối bởi một đường lông với gốc của chân cột. Cột màu trắng, có vân tím, hai
khối phấn gần hình cầu. Bầu và cuống dài khoảng 1.5cm.
Quả nang hình chùy, dài 2.5 – 4cm.
- Sinh học và sinh thái:
Nở hoa vào tháng 5 - 7, hoa bền tới một tháng. Đuôi chồn thích hợp với nhiệt
độ ấm áp 20 – 25
0

C, cần nhiều ánh sáng khoảng 60%, độ ẩm cao từ 40 – 70%.
- Phân bố:
Cây mọc chủ yếu ở miền Bắc (Mộc Châu – Sơn La, Yên Bái, Nghĩa Lộ,
Hòa Bình), Tây Nguyên (Gia Lai, Kontum, Dak Lak), Lâm Đồng và phân bố ở
Lào, Campuchia, Thái Lan, Malayxia, Indonexia.
- Công dụng:
Cây được trồng làm cảnh ở nhiều nơi, rất có giá trị thương mại. [4, 15]
2.2.1.5. Hạc vĩ

Hình 5: Lan Hạc vĩ (Dendrobium aphyllum)

21
Hạc vĩ thuộc chi Hoàng Thảo Dendrobium.
- Tên khác: Đại ý thảo, Ngọc lan, Thạch hộc không lá, Lan hoàng thảo hạc
vĩ, Vô diệp thạch hộc.
- Tên khoa học: Dendrobium aphyllum (Roxb.) C.E.C. Fisch. 1928
- Tên đồng danh: Dendrobium cucullatum R. Brown 1822, Dendrobium
pierardii Roxb, Dendrobium aphyllum var. Katakianum I. Barua 2001,
Limodorum aphyllum Roxb. 1795.
- Mô tả:
Thân dài 60 – 80cm, hình trụ, dày 0.4 – 0.5cm, thõng xuống, lóng dài 2.5 –
3cm. Lá hình mác nhọn, dài 6 – 8cm, rộng 1.5 – 2cm. Cụm hoa bên, 2 – 3 hoa,
mọc suốt dọc chiều dài thân không còn lá. Lá bắc hình bầu dục, dài khoảng
0.3cm. Hoa màu tím rất nhạt, đường kính khoảng 4cm, cuống hoa và bầu dài 2 –
2.5cm. Các lá đài hình mác hẹp, đỉnh nhọn, dài 2.4 – 2.7cm, rộng 0.6 – 0.8cm.
Cằm dài khoảng 0.6cm. Cánh hoa hình mác, đỉnh nhọn, dài 2.4 – 2.5cm, rộng
0.6 – 0.7cm. Cánh môi màu trắng ngà, đôi khi pha tím rất nhạt, hình gần tròn,
dài 2.7 – 3cm, rộng 2.5 – 2.6cm, mép có lông ngắn, bề mặt phủ lông thưa, có 3
đường sống ngắn ở phía gốc, hai bên gốc có vạch chéo màu tím. Cột màu trắng,
cao khoảng 0.5cm, tuyến mật hình bán nguyệt, răng cột có đỉnh nhọn. Nắp bao

phấn màu trắng, đỉnh màu tím, phủ nhú mịn.
- Sinh học và sinh thái:
Nở hoa tháng 3 – 4. Phụ sinh bám trên các cây gỗ lớn trong rừng ở độ cao
400 – 1500m. Thích hợp với những nơi khí hậu mát mẻ, cần ánh sáng vừa phải,
thoáng gió có thể sống trong bóng râm một phần. Nhiệt độ thích hợp là 15.6 –
32.2
0
C, trung bình từ 10 – 26.7
0
C. Độ ẩm thích hợp là 45 – 70%. Yêu cầu độ ẩm
cao và một phần bóng râm từ cuối mùa xuân đến mùa hè. Vào mùa đông yêu
cầu về độ ẩm thấp hơn, nhưng không được quá khô.
- Phân bố:
Sơn La (Mộc Châu), Lào Cai (Sa Pa, Than Uyên: Ho Mit, Văn Bàn), Nghệ
An (Vinh, Đô Lương), Khánh Hòa (Suối Giao, Yersin, Diên Khánh: Hòn Bà),
Lâm Đồng (Lạc Dương: Lang Bian, Đà Lạt: thác Prenn). Ngoài ra còn có ở Lào,
Trung Quốc (đảo Hải Nam), Ấn Độ, Malayxia, Mianma, Nêpan, Butan, Thái Lan.
- Công dụng:
Dùng trị ho, đau hầu họng, bỏng lửa. Toàn cây trị kinh phong trẻ em, ăn
uống trúng độc. Cây làm cảnh vì hoa đẹp màu tím nhạt, cánh môi màu vàng nhạt

22
với các gân chéo màu tím ở gốc. [5]
2.2.1.6. Long tu

Hình 6: Lan Long tu (Dendrobium primulinum)
Long tu thuộc chi Hoàng Thảo Dendrobium.
- Tên khác: Hoàng thảo long tu Lào, Hoàng thảo long tu, Hoàng thảo vôi.
- Tên khoa học: Dendrobium primulinum Lindl 1858.
- Tên đồng danh: Callista primulina (Lindl.) Kuntze 1891, Dendrobium

nobile var pallidiflorum Hooker 1856.
- Mô tả:
Thân dài 25 – 45cm, hình trụ, dày 0.4 – 0.5cm, thõng xuống, lóng dài 2.5 –
2.8cm. Lá hình mác, đỉnh nhọn lệch, dài 8 – 10cm, rộng 1.8 – 2cm. Cụm hoa
bên, 1 hoa mọc trên thân không còn lá hoặc đôi khi có lá. Lá bắc dài khoảng 0.2
cm. Hoa màu trắng, đường kính 4.5cm, cuống hoa và bầu dài 2.5 – 2.6cm. Các
lá đài hình mác hơi nhọn, dài 2.8 – 3cm, rộng 1 – 1.1.cm. Cằm dài khoảng
0.6cm, tù tròn ở đỉnh. Cánh hoa hình mác, mép nhẵn, đỉnh tù, dài 3 – 3.2cm,
rộng 1 – 1.2cm. Cánh môi hình gần tròn, màu trắng, họng màu vàng, dài 3.2 –
3.5cm, rộng 3.1 – 3.4cm, có một đường sống thấp từ sống đến giữa môi, mép
môi xẻ răng mịn. Cột cao 0.7 – 0.8cm, tuyến mật hình tròn, răng cột tù ở đỉnh.
Nắp bao phấn hình mũ, phủ nhú mịn
- Sinh học và sinh thái:
Nở hoa tháng 3 – 5, có hương thơm và tàn trong 2 tuần lễ. Sống phụ sinh,

23
bám trên thân các cây gỗ lớn trong rừng, ở độ cao 600 – 1500m.
- Phân bố:
Cây mọc ở Đồng Nai (Biên Hòa, Tân Phú: Định Quán), Tây Nguyên, Đà
Lạt. Ngoài ra còn có ở Lào, Ấn Độ, Mianma, Thái Lan. Hiện nay ở Mộc Châu
do có điều kiện khí hậu thích hợp nên được gây giống và trồng rất phổ biến.
- Công dụng: Làm thuốc trị bỏng, chữa tê liệt nửa người, bệnh mẩn ngứa.
Cây có giá trị cao để làm cảnh, vì hoa thơm dịu, đẹp. [5]
2.2.1.7. Ngọc vạn vàng ánh

Hình 7: Lan Ngọc vạn vàng ánh (Dendrobium chrysanthum)
Lan Ngọc vạn vàng ánh thuộc chi Hoàng Thảo Dendrobium.
- Tên khác: Ngọc van vàng, Hoàng thảo hoa vàng, Khô mộc hoa vàng, Trúc
(Thúc) hoa thạch hộc, Hoàng thảo phi điệp vàng, Hoàng thảo vàng ánh.
- Tên khoa học: Dendrobium chrysanthum Lindl.

- Tên đồng danh: Callista chrysantha, Dendrobium chrysanthum var.
anophthalama, Dendrobium chrysanthum var. microphthalama, Dendrobium
paxtonii.
- Mô tả:
Thân mọc đứng rồi thõng xuống dài 70 – 120cm, hình trụ, dày 0.6 – 0.8cm,

×