Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC DẠY HỌC CÁC DẠNG BÀI TẬP VỀ TỪ LOẠI CHO HỌC SINH LỚP 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (888.9 KB, 68 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC


NGUYỄN THỊ DUNG

MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC DẠY HỌC CÁC DẠNG
BÀI TẬP VỀ TỪ LOẠI CHO HỌC SINH LỚP 4











KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC








Sơn La, năm 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC






NGUYỄN THỊ DUNG

MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC DẠY HỌC CÁC DẠNG
BÀI TẬP VỀ TỪ LOẠI CHO HỌC SINH LỚP 4



Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Tiếng Việt


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Người hướng dẫn: TS. Trần Thị Thanh Hồng




Sơn La, năm 2013
LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn TS.Trần Thị
Thanh Hồng – Trưởng khoa Tiểu học – Mầm non, Trường Đại học Tây Bắc,

người đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo Khoa Tiểu học – Mầm non
những người đã trực tiếp giảng dạy, trang bị cho em những kiến thức quý báu
trong quá trình học tập, rèn luyện. Xin cảm ơn các thầy cô giáo và các em học
sinh lớp 4 Trường Tiểu học Thị Trấn Thuận Châu – Sơn La đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện và nghiên cứu khóa luận này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới tập thể lớp K50 – ĐHGD Tiểu học, cũng
như gia đình bạn bè luôn quan tâm, động viên và nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn
thành khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn!

Sơn La, tháng 5 năm 2013
Người thực hiện

Nguyễn Thị Dung
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 2
4. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu 3
5. Phương pháp nghiên cứu 3
6. Giả thuyết khoa học 4
7. Cấu trúc của khoá luận 4
PHẦN NỘI DUNG 5
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 5
1.1. Cơ sở lí luận 5
1.1.1. Vị trí - nhiệm vụ của dạy học các dạng bài tập về từ loại cho học sinh lớp
4 5

1.1.2. Nội dung chương trình và sách giáo khoa Luyện từ và câu lớp 4 7
1.1.3. Cấu trúc của phần từ loại danh từ, động từ, tính từ lớp 4 8
1.1.4. Kiến thức về từ loại danh từ, động từ, tính từ lớp 4 9
1.1.5. Qui trình tổ chức dạy học các dạng bài tập về từ loại ở lớp 4 13
1.2. Cơ sở thực tiễn 15
1.2.1. Khảo sát thực trạng dạy học các dạng bài tập về từ loại (danh từ, động từ,
tính từ) ở lớp 4 Trường Tiểu học Thị trấn Thuận Châu – Sơn La 15
1.2.2. Kết quả khảo sát 16
Tiểu kết chương 1 20
CHƯƠNG 2. BIỆN PHÁP TỔ CHỨC DẠY HỌC CÁC DẠNG BÀI TẬP
TỪ LOẠI DANH TỪ, ĐỘNG TỪ, TÍNH TỪ CHO HỌC SINH LỚP 4 21
2.1. Hướng dẫn học sinh nghiên cứu, thực hiện bài tập ở trên lớp 21
2.2. Hướng dẫn học sinh phân tích từ loại danh từ, động từ, tính từ nhằm phát
huy năng lực tư duy cho học sinh 23
2.3. Hướng dẫn thực hành luyện tập các bài có dạng về tính từ, động từ, danh từ
24
2.4. Sử dụng phương pháp đàm thoại gợi mở để hình thành kiến thức về từ loại
danh từ, động từ, tính từ cho học sinh 26
2.5. Sử dụng phương pháp nêu và giải quyết vấn đề 28
2.6. Sử dụng phương pháp trực quan trong dạy học danh từ, động từ, tính từ 29
2.7. Tổ chức giảng dạy theo trình độ học tập của học sinh nhằm phát huy tính
dân chủ trong giờ học 30
Tiểu kết chương 2 33
CHƯƠNG 3. THIẾT KẾ VÀ THỂ NGHIỆM 35
3.2. Thiết kế giáo án mẫu 35
3.3. Thể nghiệm 35
3.3.1. Mục đích thể nghiệm 35
3.3.2. Địa điểm và thời gian thể nghiệm 35
3.3.3. Đối tượng và chủ thể thể nghiệm 36
3.3.4. Tổ chức thể nghiệm 36

3.3.5. Kết quả thể nghiệm 37
3.3.6. Kết luận rút ra từ thể nghiệm 38
Tiểu kết chương 3 38
KẾT LUẬN 39

1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nhận thức được tầm quan trọng của tiếng Việt trong sự nghiệp giáo dục con
người. Từ xa xưa ông cha ta đã sử dụng nó một cách tự giác nhằm để giáo dục
trẻ nhỏ.
Khi chưa có nhà trường, trẻ được giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội. Từ
thuở nằm nôi, các em được bao bọc trong tiếng hát ru của mẹ, của bà, lớn lên
chút nữa những câu chuyện kể có tác dụng to lớn, là dòng sữa ngọt ngào nuôi
dưỡng tâm hồn trẻ, rèn luyện các em thành con người có nhân cách, có bản sắc
dân tộc góp phần hình thành con người mới, đáp ứng yêu cầu của xã hội đối với
những thành viên của mình.
Trong xu thế phát triển toàn cầu như hiện nay, việc phát triển con người
toàn diện là việc thiết yếu. Là người Việt Nam sử dụng thuần thục ngôn ngữ
tiếng mẹ đẻ là việc thiết thực. Môn Tiếng Việt ở các cấp học nói chung, ở tiểu
học nói riêng, phân môn Luyện từ và câu giúp cho học sinh hình thành và
phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt. Môn Tiếng Việt tập
trung thể hiện ở bốn kỹ năng (nghe – nói – đọc – viết). Đây là những kỹ năng
quan trọng để học sinh học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động
của lứa tuổi. Đồng thời là cơ sở để học sinh tiếp thu và học tốt các môn học
khác ở các lớp trên. Thông qua việc dạy và học, tiếng việt góp phần rèn luyện
các thao tác của tư duy.
Trong môn Tiếng Việt, phân môn Luyện từ và câu có nhiệm vụ góp
phần cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt bằng con

đường qui nạp và rèn luyện kỹ năng dùng từ đặt câu (nói – viết), bên cạnh đó
còn cung cấp những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, văn
hoá, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Ngoài ra phân môn Luyện từ và câu
còn giúp học sinh bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ
gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt. Môn Luyện từ và câu góp phần giúp
học sinh hình thành nhân cách và nếp sống văn hoá của con người Việt Nam.
Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một
điều tất yếu, đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở
trước mắt các em. Kho tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những
điều sơ đẳng nhất. Quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất
cả các môn học.

2
Những điều sơ đẳng nhất đã góp phần rất quan trọng trong việc sử dụng
ngôn ngữ vào hoạt động giao tiếp của học sinh. Ngôn ngữ là thứ công cụ có tác
dụng vô cùng to lớn. Nó có thể diễn tả tất cả những gì con người nghĩ ra, nhìn
thấy biết được những giá trị trừu tượng mà các giác quan không thể vươn tới
được. Các môn học ở tiểu học có tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn
diện học sinh phải kể đến Luyện từ và câu, một phân môn chiếm thời lượng khá
lớn trong môn Tiếng Việt ở tiểu học. Nó tách thành một phân môn độc lập, có vị trí
ngang bằng với phân môn Tập đọc, Tập làm văn song song tồn tại với các môn
học khác. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó
có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành
ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong
các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn
trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong môn Luyện từ và câu lớp 4.
Trường Tiểu học Thị trấn Thuận Châu - Sơn La là trường nằm ở trung
tâm huyện, có cơ sở vật chất cũng như điều kiện dạy và học tương đối thuận
lợi. Trường có đội ngũ cán bộ giáo viên có bề dày kinh nghiệm và nhiệt tình
trong công tác giảng dạy.

Trong thời gian qua khảo sát học sinh tôi nhận thấy khoảng một nửa số
học sinh chưa nắm bắt rõ ràng cụ thể các loại từ, từ chỉ sự vật, khả năng phân
biệt các loại động từ, tính từ, danh từ, sử dụng từ loại để đặt câu. Nhằm giúp học
sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu trong môn Tiếng Việt, phần từ loại. Tôi
chọn đề tài: “Một số biện pháp tổ chức dạy học các dạng bài tập về từ loại cho
học sinh lớp 4”.
2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này mục đích nghiên cứu chính là trên cơ sở tìm hiểu những vấn
đề lý luận và thực tiễn để đề xuất biện pháp tổ chức dạy các dạng bài tập phần từ
loại. Từ đó vận dụng linh hoạt vào hướng dẫn rèn kỹ năng làm các dạng bài tập
về từ loại danh từ, động từ, tính từ cho học sinh một cách hiệu quả nhất.
Góp thêm biện pháp bồi dưỡng cho học sinh có thói quen dùng từ đúng, nói
và viết thành câu; có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp và thích
học tiếng Việt.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là một số biện pháp dạy học các dạng bài tập về từ
loại danh từ, động từ, tính từ cho học sinh lớp 4.

3

3.2. Khách thể nghiên cứu
Giáo viên:11 giáo viên
Học sinh lớp 4: 2 lớp tổng số 48 học sinh
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng của việc dạy học phần từ loại danh
từ, động từ, tính từ của giáo viên và học sinh lớp 4 Trường Tiểu học Thị trấn
Thuận Châu - Sơn La.
4. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện thời gian có hạn, bài tiểu luận cuối khoá tôi chỉ tập trung vào

mảng từ loại cụ thể là danh từ, động từ và tính từ, thế nào là động từ? Nhận diện,
phân biệt động từ, vận dụng để sử dụng thích hợp các loại từ. Nhận biết thế nào là
danh từ? Danh từ chung, danh từ riêng, cách viết hoa của danh từ; thế nào là tính
từ? Giúp học sinh hiểu và nhận biết thế nào là tính từ, các loại tính từ?
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về phần từ loại (danh từ, động từ, tính từ)
trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4.
Tìm hiểu tình hình dạy học phần từ loại (danh từ, động từ, tính từ), đề xuất
một số biện pháp tổ chức dạy các bài tập về từ loại (danh từ, động từ, tính từ)
cho học sinh lớp 4.
Thiết kế mẫu và thể nghiệm để rút ra được nhận định về biện pháp tổ chức
dạy các bài tập về từ loại ở lớp 4.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện khóa luận này, tôi đã vận dụng các phương pháp:
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận (đọc tài liệu liên quan).
2. Phương pháp điều tra.
3. Phương pháp phân tích tổng hợp.
4. Phương pháp phỏng vấn.
5. Phương pháp thể nghiệm.
6. Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.


4
6. Giả thuyết khoa học
Tôi giả định các phương án mà khóa luận nêu ra được công nhận và thông
qua thì nó sẽ là tài liệu tham khảo cho giáo viên và sinh viên trong việc giảng
dạy các bài tập về từ loại (danh từ, động từ, tính từ), đặc biệt là những giáo viên
đang công tác trên những địa bàn khó khăn, góp thêm tiếng nói vào việc nâng
cao hiệu quả học tập của học sinh trong môn Luyện từ và câu theo nội dung
chương trình mới cải cách, nhằm phát triển không ngừng chất lượng giáo dục

đào tạo ở tiểu học hiện nay.
7. Cấu trúc của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận thì nội dung cơ bản gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn. Cơ sở lý luận, tác giả nghiên
cứu vị trí - nhiệm vụ dạy môn Luyện từ và câu, nội dung chương trình và sách
giáo khoa lớp 4. Nghiên cứu cấu trúc, yêu cầu về kiến thức và qui trình dạy bài
Luyện từ và câu. Cơ sở thực tiễn, tác giả khảo sát thực trạng dạy học các dạng
bài tập về từ loại (danh từ, động từ, tính từ) tại Trường Tiểu học Thị Trấn
Thuận Châu – Sơn La, đã đưa ra được một số kết luận.
Chương 2: Biện pháp tổ chức dạy học các dạng bài tập từ loại danh từ,
động từ, tính từ cho học sinh lớp 4. Tác giả đưa ra một số biện pháp tổ chức dạy
các dạng bài tập phần từ loại cho học sinh lớp 4: biện pháp hướng dẫn học sinh
nghiên cứu, thực hiện bài tập ở trên lớp; phương pháp đàm thoại, gợi mở; hướng
dẫn học sinh phân tích từ loại; nêu và giải quyết vấn đề; trực quan trong dạy học
danh từ, động từ, tính từ; hướng dẫn thực hành, luyện tập các bài có dạng về
danh từ, động từ, tính từ; tổ chức giảng dạy theo trình độ học tập của học sinh.
Chương 3: Thiết kế và thể nghiệm. Tác giả đã thiết kế mẫu giáo án dạy
học một số bài tập về từ loại danh từ, động từ, tính từ ở lớp 4. Khi tiến hành thể
nghiệm, tác giả đã nêu rõ mục đích thể nghiệm, nội dung thể nghiệm và tổ
chức thể nghiệm. Từ đó, tác giả đánh giá kết quả thực nghiệm và đưa ra kết
luận, hoàn tất quá trình nghiên cứu của khóa luận.







5
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN

1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Vị trí - nhiệm vụ của dạy học các dạng bài tập về từ loại cho học sinh
lớp 4
1.1.1.1.Vị trí dạy học các dạng bài tập về từ loại cho học sinh lớp 4
Phân môn Luyện từ và câu có vị trí quan trọng trong chương trình tiểu
học. Trước hết Luyện từ và câu phần từ loại cung cấp làm giàu vốn từ cho học
sinh đặt biệt là hệ thống từ ngữ, cung cấp cho học sinh được gắn với chủ điểm ở
từng bài học.
Nhằm tăng cường sự hiểu biết của học sinh về nhiều lĩnh vực trong cuộc
sống. Phân môn Luyện từ và câu cung cấp những kiến thức sơ giản về từ và câu,
rèn kỹ năng dùng từ đặt câu, sử dụng từ ngữ vào trong giao tiếp hằng ngày. Chính
vì vậy, học sinh được làm quen với từ và câu ngay từ lớp một và được học với tư
cách là một phân môn độc lập của môn Tiếng Việt từ lớp hai, ba.
Nhiệm vụ chủ yếu của việc dạy phân môn Luyện từ và câu ở tiểu học là
giúp học sinh:
Mở rộng vốn từ và cung cấp cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về cấu
tạo từ, từ loại, câu, dấu câu…
Rèn luyện kỹ năng dùng từ đặt câu, sử dụng dấu câu…
Bồi dưỡng thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu, có ý thức sử
dụng tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp.
Phân môn Luyện từ và câu có vị trí quan trọng trong chương trình tiểu
học. Trước hết Luyện từ và câu cung cấp làm giàu vốn từ cho học sinh đặt biệt
là hệ thống từ ngữ cung cấp cho học sinh được gắn với chủ điểm ở từng lớp,
nhằm tăng cường sự hiểu biết của học sinh về nhiều lĩnh vực của cuộc sống.
Phân môn Luyện từ và câu phần từ loại cung cấp những kiến thức sơ
giản về từ và câu, rèn kỹ năng dùng từ đặt câu, sử dụng từ ngữ vào trong giao
tiếp hằng ngày. Chính vì vậy, học sinh được làm quen với từ và câu từ lớp

một và được học với tư cách là mộn phân môn độc lập của Tiếng Việt từ lớp
hai đến lớp năm.


6

Trong môn Tiếng Việt, nội dung phần từ loại danh từ, động từ, tính từ
được đưa vào giảng dạy trong phân môn Luyện từ và câu. Đây là một mảng kiến
thức tương đối phức tạp không chỉ với học sinh mà với cả giáo viên trong lĩnh
vực chuyên sâu. Để học sinh nắm vững kiến thức về từ, tạo nền tảng cho việc
phát triển và sử dụng ngôn ngữ ngày một phong phú, thì việc giảng dạy nội
dung từ loại là một vấn đề quan trọng.
Vị trí của phần từ loại có vị trí quan trọng trong việc phát triển vốn từ,
sử dụng từ và câu, cung cấp cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ loại,
rèn luyện cho học sinh kĩ năng dùng từ loại để đặt câu. Bồi dưỡng cho học
sinh thói quen sử dụng từ loại: danh từ, động từ, tính từ, có ý thức sử dụng
tiếng Việt văn hóa trong giao tiếp.
1.1.1.2. Nhiệm vụ dạy học các dạng bài tập về từ loại cho học sinh lớp 4
Nhiệm vụ chủ yếu của việc dạy Luyện từ và câu ở tiểu học là giúp HS:
Mở rộng vốn từ và cung cấp cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về cấu
tạo từ, từ loại, câu, dấu câu.
Thực tế cũng cho thấy, khi xét từ loại cho những từ cụ thể, giáo viên
thường dựa vào nghĩa chứ không nắm được hết các dấu hiệu hình thức từ loại.
Mà nghĩa của từ loại không phải lúc nào cũng dễ xác định. Một từ cụ thể chỉ sự
vật hay hoạt động, trạng thái hay đặc điểm, tính chất không phải lúc nào cũng có
thể tìm ra ngay được. Sự khác nhau về nghĩa đi kèm với dấu hiệu hình thức.
Bài tiểu luận cuối khoá, tôi chỉ tập trung vào mảng (từ loại) cụ thể (danh
từ, động từ và tính từ), thế nào là động từ? Nhận diện, phân biệt động từ, vận
dụng để sử dụng thích hợp các loại từ. Nhận biết thế nào là danh từ? Danh từ
chung, danh từ riêng, cách viết hoa của danh từ; thế nào là tính từ? Giúp học

sinh hiểu và nhận biết thế nào là tính từ, các loại tính từ?
Rèn luyện kỹ năng dùng từ đặt câu, sử dụng dấu câu.
Bồi dưỡng thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu, có ý thức sử
dụng tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp.
Nhiệm vụ chủ yếu của phần từ loại là cung cấp cho học sinh một số hiểu
biết sơ giản về từ loại, rèn luyện cho học sinh kĩ năng dùng từ loại để đặt câu.
Bồi dưỡng cho học sinh thói quen sử dụng từ loại: danh từ, động từ, tính từ.



7
1.1.2. Nội dung chương trình và sách giáo khoa Luyện từ và câu lớp 4
1.1.2.1. Nội dung chương trình Luyện từ và câu lớp 4
Nội dung chương trình của Luyện từ và câu lớp 4 gồm 94 tiết.
Học kỳ 1: gồm 62 tiết, gắn với 5 chủ điểm, đó là :
Chủ điểm 1: Thương người như thể thương thân “Nhân hậu – Đoàn kết’’
Chủ điểm 2: Trung thực - Tự trọng
Chủ điểm 3: Trên đôi cánh ước mơ thực hiện ước mơ.
Chủ điểm 4: Có chí thì nên - nghị lực – ý chí.
Chủ điểm 5: Tiếng sáo điều - đồ chơi – trò chơi.
Học kỳ 2: gồm 32 tiết, gắn với 5 chủ điểm, đó là:
Chủ điểm 1: Người ta là hoa đất – tài năng - sức khoẻ.
Chủ điểm 2: Vẻ đẹp muôn màu – cái đẹp.
Chủ điểm 3: Những người quả cảm – dũng cảm.
Chủ điểm 4: Khám phá thế giới - du lịch - thám hiểm.
Chủ điểm 5: Tình yêu cuộc sống - lạc quan yêu đời.
Mở rộng và hệ thống hoá vốn từ theo các chủ điểm, môn Luyện từ và câu
cung cấp làm giàu vốn từ cho học sinh đặt biệt là hệ thống từ ngữ cung cấp cho
học sinh được gắn với chủ điểm ở từng lớp, nhằm tăng cường sự hiểu biết của
học sinh về nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Phần từ loại cung cấp cho học sinh

đầy đủ các kiến thức về từ loại phần danh từ, động từ, tính từ cụ thể là khái niệm
về danh từ, động từ, tính từ (học xen kẽ gắn với chủ điểm).
1.1.2.2. Các đơn vị học của phân môn Luyện từ và câu lớp 4
Tập 1: Gồm 5 chủ điểm học trong 18 tuần
Tuần Chủ điểm
1,2,3 Thương người như thể thương thân
4,5,6 Măng mọc thẳng (trung thực, tự trọng)
7,8,9 Trên đôi cánh ước mơ (ước mơ)
10 Ôn tập giữa học kì I
11,12,13 Có chí thì nên (nghị lực)
14,15,16,17 Tiếng sáo diều (vui chơi)
18 Ôn tập cuối kì I

8
Tập 2: Gồm 5 chủ điểm học trong 17 tuần.
Tuần Chủ điểm
19,20,21 Người ta là hoa đất (năng lực, tài trí)
22,23,24 Vẻ đẹp muôn màu (óc thẩm mỹ)
25,26,27 Những người quả cảm (dũng cảm)
28 Ôn tập giữa kì II
29,30,31 Khám phá thế giới (du lịch thám hiểm)
32,33,34 Tình yêu cuộc sống (lạc quan, yêu đời)
35 Ôn tập cuối kì II
Mở rộng từ, hệ thống hoá, tích cực vốn từ theo các chủ điểm được học ở
bài tập đọc (dựa vào vốn sống của học sinh, bài tập đọc, gợi ý của giáo viên).
Hình thức mở rộng vốn từ thông qua các bài tập. Hệ thống bài tập luyện
tập mở rộng vốn từ rất đa dạng:
Bài tập tìm từ ngữ theo chủ điểm.
Bài tập tìm hiểu, nắm nghĩa của từ.
Bài tập quản lý, phân loại vốn từ.

Bài tập luyện cách sử dụng từ.
Khóa luận chỉ tập trung vào phần từ loại: Cung cấp kiến thức sơ giản về
một số loại từ cơ bản của tiếng Việt danh từ, động từ, tính từ. Trong chương
trình sách giáo khoa, mỗi nội dung danh từ, động từ, tính từ đều có loại bài cung
cấp kiến thức mới và thực hành luyện tập.
Phần từ loại cung cấp một số kiến thức về các từ loại của tiếng Việt danh
từ, động từ, tính từ thông qua các bài tập: nhận diện từ theo từ loại, luyện viết
danh từ riêng, tìm và phân loại từ theo từ loại, luyện sử dụng từ.
1.1.3. Cấu trúc của phần từ loại danh từ, động từ, tính từ lớp 4
Cấu trúc gồm 3 phần:
Phần nhận xét:
Cung cấp ngữ liệu thường là những câu thơ, câu văn, đoạn văn, đoạn thơ
có chứa các hiện tượng ngôn ngữ cần tìm hiểu.
Cung cấp hệ thống câu hỏi gợi ý để học sinh tìm ra các đặc điểm có tính
chất quy luật của hiện tượng được tìm hiểu.

9
Phần ghi nhớ:
Là nội dung kiến thức và quy tắc sử dụng từ và câu được rút ra sau phần nhận
xét để yêu cầu học sinh ghi nhớ. Ghi nhớ được đóng khung trong sách giáo khoa.
Phần luyện tập:
Gồm hệ thống bài tập nhằm củng cố và vận dụng các kiến thức đã học
vào những tình huống mới. Có hai loại bài tập ở phần luyện tập là bài tập nhận
diện và bài bài tập vận dụng.
* Cấu trúc kiểu bài thực hành gồm:
Tên bài.
Một bài học có từ 3-4 bài tập chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Nhận xét: Cấu trúc môn Luyện từ và câu theo hình thức qui nạp, cấu trúc này
phù hợp với nhận thức của học sinh, giúp học sinh tiếp thu được kiến thức một
cách chủ động, sáng tạo. Với kiểu cấu trúc trên học sinh sẽ vận dụng được các

kiến thức đã học để làm các bài tập. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần lưu ý thực
hiện theo chuẩn kiến thức kĩ năng, không nên áp dụng một nội dung giảng dạy
cũng như một chế độ thực hành cho cả lớp, dẫn đến sự quá tải đối với học sinh.
1.1.4. Kiến thức về từ loại danh từ, động từ, tính từ lớp 4
1.1.4.1. Danh từ (DT): Danh từ là những từ chỉ sự vật (người, vật, hiện tượng,
khái niệm hoặc đơn vị)
VD: - Danh từ chỉ hiện tượng: mưa, nắng, sấm, chớp,
- Danh từ chỉ khái niệm: đạo đức, người, kinh nghiệm, cách mạng,
- Danh từ chỉ đơn vị: Ông, vị (vị giám đốc),cô (cô Tấm),cái, bức, tấm, ;
mét, lít, ki-lô-gam, ;nắm, mớ, đàn,
Khi phân loại danh từ tiếng Việt trước hết, người ta phân chia thành 2 loại:
danh từ riêng và danh từ chung.
- Danh từ riêng: là tên riêng của một sự vật (tên người, tên địa phương, tên
địa danh, )
- Danh từ chung: là tên của một loại sự vật (dùng để gọi chung cho một loại
sự vật ). Danh từ có thể chia thành 2 loại:
+ Danh từ cụ thể: là danh từ chỉ sự vật mà ta có thể cảm nhận được bằng
các giác quan (sách, vở, gió ,mưa, ).

10
+ Danh từ trừu tượng: là các danh từ chỉ sự vật mà ta không cảm nhận
được bằng các giác quan (cách mạng, tinh thần, ý nghĩa, )
Các danh từ chỉ hiện tượng, chỉ khái niệm, chỉ đơn vị được giảng dạy trong
chương trình sách giáo khoa lớp 4 chính là các loại nhỏ của danh từ chung.
+ Danh từ chỉ hiện tượng :
Hiện tượng là cái xảy ra trong không gian và thời gian mà con người có thể
nhận thấy, nhận biết được. Có hiện tượng tự nhiên như: mưa, nắng, sấm, chớp,
động đất, và hiện tượng xã hội như: chiến tranh, đói nghèo, áp bức, Danh từ
chỉ hiện tượng là danh từ biểu thị các hiện tượng tự nhiên ( cơn mưa, ánh nắng,
tia chớp, ) và hiện tượng xã hội (cuộc chiến tranh, sự đói nghèo, ) nói trên.

*Cụm danh từ:
- Danh từ có thể kết hợp với các từ chỉ số lượng ở phía trước, các từ chỉ định
ở phía sau và một số từ ngữ khác để lập thành cụm danh từ. Cụm danh từ là loại
tổ hợp từ do danh từ và một số từ ngữ phụ thuộc nó tạo thành.
Trong cụm danh từ, các phụ ngữ ở phần trước bổ sung cho danh từ các ý
nghĩa về số và lượng. Các phụ ngữ ở phần sau nêu lên đặc điểm của sự vật mà
danh từ biểu thị hoặc xác định vị trí của sự vật ấy trong gian hay thời gian.
1.1.4.2. Động từ (ĐT): Động từ là những từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật.
VD: - Đi, chạy ,nhảy, (ĐT chỉ hoạt động)
- Vui, buồn, giận, (ĐT chỉ trạng thái)
*Mấy lưu ý về ĐT chỉ trạng thái:
- Đặc điểm ngữ pháp nổi bật nhất của động từ chỉ trạng thái là: nếu như động
từ chỉ hoạt động, hành động có thể kết hợp với từ xong ở phía sau (ăn xong, đọc
xong , ) thì động từ chỉ trạng thái không kết hợp với xong ở phía sau (không
nói: còn xong, hết xong, kính trọng xong, ). Trong tiếng Việt một số loại động
từ chỉ trạng thái sau:
+ Động từ chỉ trạng thái tồn tại (hoặc trạng thái không tồn tại): còn, hết, có,
+ Động từ chỉ trạng thái biến hoá: thành, hoá,
+ Động từ chỉ trạng thái tiếp thụ: được, bị, phải, chịu,
+ Động từ chỉ trạng thái so sánh: bằng, thua, hơn, là,
- Một số “nội động từ” sau đây cũng được coi là động chỉ trạng thái: nằm,
ngồi, ngủ, thức, nghỉ ngơi, suy nghĩ, đi ,đứng, lăn, lê, vui, buồn , hồi hộp, băn
khoăn, lo lắng, Các từ này có một số đặc điểm sau:

11
+ Một số từ vừa được coi là động từ chỉ hành động, lại vừa được coi là động
từ chỉ trạng thái.
+ Một số từ chuyển nghĩa thì được coi là động từ chỉ trạng thái (trạng thái
tồn tại).
VD: Bác đã đi rồi sao Bác ơi! (Tố Hữu)

Anh ấy đứng tuổi rồi .
+ Một số từ mang đặc điểm ngữ pháp của tính từ (kết hợp được với các từ chỉ
mức độ)
- Các “ngoại động từ” sau đây cũng được coi là động từ chỉ trạng thái (trạng
thái tâm lí): yêu, ghét , kính trọng, chán, thèm, hiểu, Các từ này mang đặc điểm
ngữ pháp của tính từ, có tính chất trung gian giữa động từ và tính từ.
- Có một số động từ chỉ hành động dược sử dụng như một động từ chỉ trạng thái.
VD: Trên tường treo một bức tranh.
Dưới gốc cây có buộc một con ngựa.
- Động từ chỉ trạng thái mang một số đặc điểm về ngữ pháp và ngữ nghĩa
giống như tính từ.
*Xem thêm về động từ nội động và động từ ngoại động:
- Động từ nội động: là những động từ hướng vào người làm hoạt động
(ngồi, ngủ, đứng, ). Động từ nội động không có khả năng có bổ ngữ chỉ đối
tượng trực tiếp mà phải có quan hệ từ.
VD1: Bố mẹ rất lo lắng cho tôi
ĐTnội động, Q.H.T, Bổ ngữ
- Động từ ngoại động: là những động từ hướng đến người khác, vật khác
(xây, phá, đập, cắt, ). Động từ ngoại động có khả năng có bổ ngữ chỉ đối tượng
trực tiếp.
VD2: Bố mẹ rất thương yêu tôi.
ĐTngoại động, Bổ ngữ
* Cụm động từ:
- Động từ thường kết hợp với các phụ từ mệnh lệnh (ở phía trước) và một
số từ ngữ khác để tạo thành cụm động từ. Cụm động từ là loại tổ hợp từ do động
từ với một số từ ngữ phụ thuộc nó tạo thành. Nhiều động từ phải có các từ ngữ
phụ thuộc đi kèm, tạo thành cụm động từ mới trọn nghĩa.

12
Trong cụm động từ, các phụ ngữ ở phần trước bổ sung cho động từ các ý

nghĩa: quan hệ thời gian; sự tiếp diễn tương tự; sự khuyến khích hoặc ngăn cản
hành động; sự khẳng định hoặc phủ định hành động, Các phụ ngữ ở phần sau
bổ sung cho động từ các chi tiết về đối tượng, hướng, địa điểm, thời gian, mục
đích, nguyên nhân, phương tiện và cách thức hành động.
1.1.4.3. Tính từ (TT): Tính từ là những từ miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của
vật, hoạt động, trạng thái,
*Có 2 loại tính từ đáng chú ý là:
- Tính từ chỉ tính chất chung không có mức độ (xanh, tím, sâu, vắng, )
- Tính từ chỉ tính chất có xác định mức độ (mức độ cao nhất), (xanh lè,
tím ngắt, sâu hoắm, vắng tanh, )
* Phân biệt từ chỉ đặc điểm, từ chỉ tính chất, từ chỉ trạng thái :
- Từ chỉ đặc điểm:
Đặc điểm là nét riêng biệt, là vẻ riêng của một một sự vật nào đó (có thể
là người, con vật, đồ vật, cây cối, ). Đặc điểm của một vật chủ yếu là đăc điểm
bên ngoài, (ngoại hình) mà ta có thể nhận biết trực tiếp qua mắt nhìn, tai nghe,
tay sờ, mũi ngửi, Đó là các nét riêng, vẻ riêng về màu sắc, hình khối, hình
dáng, âm thanh, của sự vật. Đặc điểm của một vật cũng có thể là đặc điểm bên
trong mà qua quan sát, suy luận, khái quát, ta mới có thể nhận biết được. Đó là
các đặc điểm về tính tình, tâm lí, tính cách của một người, độ bền, giá trị của
một đồ vật
Từ chỉ đặc điểm là từ biểu thị các đặc điểm của sự vật, hiện tượng như đã
nêu ở trên.
VD: + Từ chỉ đặc điểm bên ngoài: cao, thấp, rộng , hẹp, xanh, đỏ,
+ Từ chỉ đặc điểm bên trong: tốt ,ngoan, chăm chỉ, bền bỉ,
- Từ chỉ tính chất:
Tính chất cũng là đặc điểm riêng của sự vật, hiện tượng (bao gồm cả
những hiện tượng xã hội, những hiện tượng trong cuộc sống, ), nhưng thiên về
đặc điểm bên trong, ta không quan sát trực tiếp được, mà phải qua quá trình
quan sát, suy luận, phân tích, tổng hợp ta mới có thể nhân biết được. Do đó,
từ chỉ tính chất cũng là từ biểu thị những đặc điểm bên trong của sự vật,

hiện tượng.

13
VD: Tốt, xấu, ngoan, hư, nặng ,nhẹ, sâu sắc, nông cạn, suôn sẻ, hiệu quả,
thiết thực,
Như vậy, đối với học sinh tiểu học khi phân biệt (một cách tương đối) từ
chỉ đặc điểm và từ chỉ tính chất, giáo viên có thể tạm thời cho rằng: từ chỉ đặc
điểm thiên về nêu các đặc điểm bên ngoài, còn từ chỉ tính chất thiên về nêu các
đặc điểm bên trong của sự vật, hiện tượng. Một quy ước mang tính sư phạm như
vậy được coi là hợp lí và giúp học sinh tránh được những thắc mắc không cần
thiết trong quá trình học tập.
- Từ chỉ trạng thái :
Trạng thái là tình trạng của một sự vật hoặc một con người, tồn tại trong
một thời gian nào đó. Từ chỉ trạng thái là từ chỉ trạng thái tồn tại của sự vật, hiện
tượng trong thực tế khách quan.
VD: Trời đang đứng gió .
Người bệnh đang hôn mê.
Cảnh vật yên tĩnh quá.
Mặt trời toả ánh nắng rực rỡ.
Xét về mặt từ loại, từ chỉ trạng thái có thể là động từ, có thể là tính từ
hoặc mang đặc điểm của cả động từ và tính từ (từ trung gian), song theo như
định hướng trong chương trình sách giáo khoa ở cấp tiểu học, chúng ta thống
nhất chỉ xếp chúng vào nhóm động từ để học sinh dễ phân biệt.
*Cụm tính từ: Tính từ có thể kết hợp với các từ chỉ mức độ như: rất, hơi, lắm,
quá, cực kì, vô cùng, để tạo tạo thành cụm tính từ (khả năng kết hợp với các
phụ từ mệnh lệnh (như động từ) ngay trước nó là rất hạn chế)
Trong cụm tính từ, các phụ ngữ ở phần trước có thể biểu thị quan hệ thời
gian; sự tiếp diễn tương tự, mức độ của đặc điểm, tính chất, sự khẳng định hay
phủ định. Các phụ ngữ ở phần sau có thể biểu thị vị trí, sự so sánh, mức độ,
phạm vi hay nguyên nhân của đặc điểm, tính chất.

Tóm lại: Kiến thức giảng dạy về từ loại phần kiến thức trọng tâm nhất là
danh từ, động từ, tính từ.
1.1.5. Qui trình tổ chức dạy học các dạng bài tập về từ loại ở lớp 4
Để tổ chức thực hiện các bài tập về từ loại giáo viên phải nắm được mục
đích, ý nghĩa, cơ sở xây dựng, nội dung bài tập và biết cách giải chính xác bài
tập, biết trình tự cần tiến hành giải bài tập để hướng dẫn cho học sinh.

14
Trong giáo án phải ghi rõ mục đích bài tập, lời giải mẫu, những sai phạm dự
tính học sinh có thể mắc phải và cách điều chỉnh đưa về cách giải đúng.
Tuần tự công việc giáo viên cần làm trên lớp lúc này là ra nhiệm vụ (nêu đề ra),
hướng dẫn thực hiện và kiểm tra đánh giá.
Bước 1: Giáo viên cần nêu đề bài một cách rõ ràng, nên yêu cầu học sinh
nhắc lại đề ra, khi cần, phải giải thích để em nào cũng nắm được yêu cầu của bài
tập. Có nhiều hình thức nêu bài tập: dùng lời, viết lên bảng, yêu cầu học
sinh xem đề ra trong sách giáo khoa hoặc vở bài tập. Nhưng dù đề bài được nêu
ra dưới hình thức nào cũng cần kiểm tra xem tất cả học sinh đã nắm được yêu
cầu của bài tập chưa.
Có những trường hợp không thể sử dụng bài tập của sách giáo khoa như một
đề bài mà phải có sự điều chỉnh cho hợp lí. Có trường hợp phải chia cắt bài tập
của SGK thành những bài tập nhỏ hơn. Tuỳ thời gian và trình độ học sinh mà
quy định số lượng bài tập cần tiến hành trong giờ học. Có thể lựa chọn, lược bỏ,
bổ sung thêm bài tập của sách giáo khoa. Khi giao bài tập cho học sinh, cần lưu
ý để có sự phân hoá cho phù hợp đối tượng: Có bài tập chỉ dành riêng cho học
sinh khá, giỏi, còn với học sinh yếu thì phải giảm mức độ yêu cầu của bài tập.
Bước 2: Khi hướng dẫn học sinh làm bài tập, giáo viên phải nắm chắc
trình tự giải bài tập. Cần phải dự tính trước những khó khăn và những lỗi học
sinh mắc phải khi giải bài tập để sửa chữa kịp thời. Có bài trả lời miệng, có bài viết,
có bài gạch, đánh dấu trong Vở bài tập. Bài tập cũng có thể thực hiện trên lớp hoặc
ở nhà. Khi hướng dẫn thực hiện,cần chia ra thành các mức độ cho phù hợp với các

đối tượng học sinh khác nhau, cần giúp những học sinh yếu kém bằng những câu
hỏi gợi mở. Trong quá trình tiến hành giải bài tập cần phải tăng dần mức độ độc lập
làm việc của học sinh. Giai đoạn đầu, bài tập được thực hiện dưới sự hướng dẫn
của thầy giáo, giai đoạn sau, học sinh tự độc lập làm việc là chính.
Bước 3: Cuối cùng là bước kiểm tra, đánh giá. Đây là một việc làm quan
trọng mà nhiều giáo viên thường bỏ qua hoặc không chú ý đúng mức. Việc kiểm
tra, đánh giá vừa kích thích hứng thú học tập của học sinh, vừa cho học sinh một
mẫu sản phẩm tốt nhất, giáo viên cần dành thời gian thích hợp cho khâu này.
Phải có mẫu lời giải đúng và dùng nó đối chiếu với bài làm của học sinh. Với
những bài làm sai, giáo viên không nhận xét chung chung là sai mà phải dựa vào
quy trình làm bài, chia ra từng bước nhỏ hơn để thực hiện, từ đó chỉ rõ ra chỗ sai
của học sinh một cách chi tiết, cụ thể để học sinh có thể sửa chữa được. Như vậy
khi chữa bài tập, giáo viên không chỉ biết đánh giá đúng, sai mà phải cắt nghĩa

15
được tại sao như thế là sai, tại sao như thế là đúng, nghĩa là một lần nữa lặp lại
quy trình giải bài tập khi có những học sinh làm chưa đúng.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Khảo sát thực trạng dạy học các dạng bài tập về từ loại (danh từ, động
từ, tính từ) ở lớp 4 Trường Tiểu học Thị trấn Thuận Châu – Sơn La
1.2.1.1. Mục đích khảo sát
Khảo sát những ưu điểm và hạn chế trong quá trình dạy các dạng bài tập
về danh từ, động từ, tính từ của giáo viên và học sinh lớp 4 Trường Tiểu học
Thị trấn Thuận Châu - Sơn La. Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp tổ chức
các dạng bài tập từ loại (danh từ, động từ, tính từ) phân môn Luyện từ và câu.
1.2.1.2. Nội dung khảo sát
Chúng tôi tiến hành khảo sát thực trạng với nội dung là:
- Nội dung chương trình sách giáo khoa.
- Quá trình tổ chức dạy học của giáo viên về từ loại (danh từ, động từ, tính từ).
- Quá trình nhận thức của học sinh khi học phần từ loại (danh từ, động từ,

tính từ).
- Khảo sát giáo án (danh từ, động từ, tính từ).
1.2.1.3. Đối tượng khảo sát
Đề tài khảo sát dựa trên đối tượng:
Các bài tập về từ loại (danh từ, động từ, tính từ) trong chương trình sách
giáo khoa Tiếng Việt lớp 4.
Các bài kiểm tra, phiếu khảo sát.
1.2.1.4. Thời gian và địa điểm khảo sát
1.2.1.4.1. Thời gian khảo sát
Tháng 2 năm 2013: Dự giờ một số tiết dạy về từ loại, yêu cầu học sinh
làm một bài kiểm tra với kiến thức về từ loại. Trao đổi với một số giáo viên và
học sinh thông qua phiếu khảo sát.
Tháng 3 năm 2013: Khảo sát đề kiểm tra của giáo viên, bài kiểm tra của
học sinh và một số phiếu khảo sát.
Tháng 3 năm 2013: Thể nghiệm.


16
1.2.1.4.2. Địa bàn khảo sát
Đề tài khảo sát trên địa bàn Trường Tiểu học Thị trấn Thuận Châu – Sơn La.
1.2.1.5. Cách thức khảo sát
Tiến hành bằng cách khảo sát dự giờ một số tiết dạy về từ loại, yêu cầu
học sinh làm một bài kiểm tra về kiến thức từ loại, hỏi trực tiếp học sinh và
giáo viên.
1.2.2. Kết quả khảo sát
Qua quá trình khảo sát thực tế tại Trường Tiểu học Thị trấn Thuận Châu – Sơn
La tôi thu được kết quả về thực trạng dạy học về từ loại của trường như sau:
- Đối với chương trình sách giáo khoa
Phần từ loại cung cấp một số kiến thức về các từ loại của tiếng Việt danh
từ, động từ, tính từ thông qua các bài tập: nhận diện từ theo từ loại, luyện viết

danh từ riêng, tìm và phân loại từ theo từ loại, luyện sử dụng từ.
Số tiết Luyện từ và câu của chính sách giáo khoa lớp 4A
1
gồm 2 tiết/tuần.
Sau mỗi tiết hình thành kiến thức là một loạt các bài tập củng cố bài. Mà việc
xác định phương pháp tổ chức cho một tiết dạy như vậy là hết sức cần thiết.
Việc xác định yêu cầu của bài và hướng giải quyết còn mang tính thụ động,
chưa phát huy triệt để vốn kiến thức khi luyện tập, thực hành.
- Quá trình tổ chức dạy học của giáo viên về từ loại (danh từ, động từ,
tính từ)
Phân môn “Luyện từ và câu” tạo cho học sinh môi trường giao tiếp để học
sinh mở rộng vốn từ có định hướng, trang bị cho học sinh các kiến thức cơ bản
về tiếng Việt gắn với các tình huống giao tiếp thường gặp. Từ đó nâng cao các
kỹ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh. Giáo viên là một trong 3 nhân tố cần
được xem xét của quá trình dạy học “Luyện từ và câu”, là nhân tố quyết định sự
thành công của quá trình dạy học này. Khi nghiên cứu quá trình dạy hướng dẫn
học sinh làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4, tôi thấy
thực trạng của giáo viên như sau:
Phân môn “Luyện từ và câu” là phần kiến thức khó trong khi hướng dẫn học
sinh nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến tâm lý
giáo viên ngại bởi việc vận dụng của giáo viên còn lúng túng gặp khó khăn.
Giáo viên một số ít không chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai
thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào đáp án,
gợi ý dẫn đến học sinh ngại học phân môn này.

17
Cách dạy của một số giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách giáo
khoa, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh.
Nhiều giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển từ cho
học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về tiếng Việt.

Thực tế trong dạy học hiện nay rất tích cực đổi mới phương pháp dạy sao cho
có hiệu quả nhất ở môn học. Đồng thời là tiền đề trong việc phát triển bồi dưỡng
những em có năng khiếu. Nhưng kết quả giảng dạy và hiệu quả còn bộc lộ
không ít những hạn chế.
Phần từ loại nhiều giáo viên còn chưa nắm rõ được cách giảng dạy
phần danh từ, động từ, tính từ. Đây là một mảng kiến thức tương đối phức tạp
không chỉ với học sinh mà với cả giáo viên trong lĩnh vực chuyên sâu, nhằm đáp
ứng nhu cầu tiếp thụ của các đối tượng học sinh khá giỏi.
Bảng 1: Các hình thức tổ chức dạy học của giáo viên về từ loại
Stt
Các hình thức tổ chức dạy học
Số lượng
Tỉ lệ
1
Học tập theo nhóm
7
63,63%
2
Cá nhân
1
9,1%
3
Cả lớp
3
27,27%
Qua điều tra cho thấy phần lớn giáo viên đã sử dụng hình thức tổ chức dạy học
theo nhóm, đó là các giáo viên đã có thâm niên và có nhiều kinh nghiệm trong công
tác giảng dạy. Tuy nhiên còn một số giáo viên chưa có nhiều kinh nghiệm, vẫn còn
một số hạn chế là sử dụng hình thức cá nhân. Để dạy học nội dung từ loại đạt hiệu
quả cao, người giáo viên cũng cần nắm rõ thực trạng dạy học nội dung này.

- Quá trình nhận thức của học sinh khi học phần từ loại (danh từ, động
từ, tính từ)
Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân
môn “Luyện từ và câu” nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn này.
Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu Từ đó dẫn đến việc
nhận diện phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm
lẫn nhiều.
Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ
sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài.

18
Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp 4A1 bằng bài tập sau, cách thức
viết bài tập bằng phiếu phát cho học sinh:
Đề bài:
Bài 1- trang 58 (TV4 – Tập 1)
Tìm các danh từ chung và danh từ riêng trong đoạn văn sau:
Chúng tôi/ đứng/ trên/ núi/ chung/. Nhìn/ sang/ trái/ là/ dòng/ sông/ Lam/ uốn
khúc/ theo/ dãy/ núi/ Thiên Nhẫn/. Mặt/ sông/ hắt/ ánh/ nắng/ chiếu/ thành/ một/
đường/ quanh co/ trắng xoá/. Nhìn/ sang/ phải/ là/ dãy/ núi/ Trác/ nối liền/ với/ dãy/
núi/ Đại Huệ/ xa xa. Trước/ mặt/ chúng tôi/, giữa/ hai/ dãy/ núi/ là/ nhà/ Bác Hồ/.
(Theo Hoài Thành và Thanh Tịnh)
Quy định chấm điểm:
+ Giỏi: từ 9 đến 10
+ Khá: từ 7 đến 8
+ Trung bình: từ 5 đến 6
+ Yếu: dưới 5
Bảng 2: Qua khảo sát ở lớp 4A1 có 25 học sinh, kết quả khảo sát như sau
Giỏi
Khá
Trung bình

Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6
24
10
40
8
32
1
4
Điều đáng nói ở đây là có nhiều em chưa biết xác định danh từ chung và
danh từ riêng, trong quá trình làm học sinh chưa biết trình bày khoa học rõ ràng,
câu trả lời chưa đầy đủ. Qua khảo sát tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do
nguyên nhân cả hai phía; người dạy và người học. Do vậy tôi rất cần phải trau
dồi kiến thức tìm ra biện pháp trong hướng dẫn giảng dạy để khắc phục thực
trạng trên để kết quả dạy học phần từ loại được nâng lên, thu hút sự chú ý của
học sinh vào học phần từ loại (danh từ, động từ, tính từ).
Bảng 3: Khảo sát đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 4 về phần từ loại
Tổng số
học sinh
Thành phần dân tộc
Học sinh phát
biểu được

Học sinh
không phát
biểu được
Kinh
Dân tộc ít
người
25
21
4
15
10

19
Qua khảo sát cho thấy có rất nhiều học sinh chưa nắm được phần từ loại, chưa
có sự tích cực với phần từ loại. Do học sinh không có hứng thú học phân môn
này, các em đều cho đây là phân môn vừa “khô” vừa “khó”.
Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi chảy,
chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không đạt
yêu cầu. Điều đó thể hiện học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động
và tỏ ra yếu kém thiếu chắc chắn.
- Khảo sát giáo án về phần từ loại của giáo viên
Bảng 4: Các tiêu chí đánh giá về giáo án của giáo viên
Stt
Các tiêu chí đánh giá về giáo án của giáo viên
Số
lượng
Tỉ lệ
1
Cách trình bày sạch đẹp, rõ ràng, đảm bảo tính chính
xác, khoa học

5
45,45%
2
Mục tiêu phù hợp với chuẩn kiến thức, kĩ năng
9
81,82%
3
Nội dung bài dạy đảm bảo tính hệ thống, đủ nội dung,
phù hợp với chương trình sách giáo khoa
8
71,73%
4
Phương pháp dạy học phù hợp với mục tiêu, phối hợp
nhiều phương pháp, phát huy được tính tích cực của
học sinh
6
54,55%
5
Có sự liên hệ thực tế
7
63,64%
6
Sử dụng nhiều hình thức tổ chức dạy học
9
81,82%

Từ kết quả trên cho thấy sự chuẩn bị về giáo án phần từ loại của giáo viên
về mục tiêu dạy học thì đa số giáo án đều phù hợp với chuẩn kiến thức, kĩ năng.
Nội dung bài dạy đảm bảo đủ nội dung, phù hợp với chương trình sách giáo
khoa. Tuy nhiên trong quá trình dạy học khả năng truyền đạt các kiến thức phần

từ loại còn hạn chế. Đòi hỏi giáo viên cần có sự chuẩn bị chu đáo về cả giáo án
và các tiến trình lên lớp khi dạy về phần từ loại.





20
Tiểu kết chương 1

Vị trí của phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 có vị trí quan trọng trong việc
phát triển vốn từ, sử dụng từ và câu, đặc biệt phần từ loại có ý nghĩa quan trọng
là cung cấp cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ loại, rèn luyện cho học
sinh kĩ năng dùng từ loại để đặt câu. Bồi dưỡng cho học sinh thói quen sử dụng
từ loại: danh từ, động từ, tính từ.
Thực tiễn dạy học phần bài tập từ loại danh từ, động từ, tính từ học sinh
chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót, làm sai hoặc
không làm hết yêu cầu của đề bài. Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến
lý thuyết thì trả lời rất trôi chảy, chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì
lúng túng và làm bài không đạt yêu cầu.
Đặt ra vấn đề học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra
yếu kém thiếu chắc chắn, cần phải khắc phục vấn đề này qua cơ sở lý luận và
thực tiễn làm cơ sở để nghiên cứu chương 2.


















×