Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Sở hữu trí tuệ và hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.03 KB, 30 trang )

Số 115- 9/2010
THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU TRÍ
TUỆ TRONG MÔI TRƯỜNG ẢO
Bắt nguồn từ thị trường giao dịch
thương mại truyền thống, cùng với sự
nhanh chóng và tiện lợi của Internet,
thị trường thương mại điện tử đã hình
thành và tăng trưởng nhanh trong
suốt thời gian qua. Để phù hợp
với sự phát triển này, sự hiểu
biết và thực thi quyền sở hữu trí
tuệ (SHTT) cũng phải có sự mở
rộng tương ứng.
Bằng phát minh - sáng chế
Trên thế giới, việc bảo hộ phát
minh - sáng chế là bảo hộ tài sản vô
hình có giá trị của các doanh nghiệp
(DN) đã đăng ký, và trong trường
hợp có DN khác sử dụng những kỹ
thuật tương tự thì các DN đã đăng ký
sẽ được bồi thường hoặc được chia sẻ
lợi nhuận.
Năm 2006, tập đoàn Google khi
triển khai dịch vụ Google Talk đã
phải đối mặt với vụ kiện về phát
minh - sáng chế từ công ty Rates
Technology. Công ty Rates
Technology đã đăng ký bằng phát
minh - sáng chế về “phương pháp
giảm thiểu tối đa chi phí điện thoại
đường dài qua Internet”, một phát


minh cơ bản của VoIP. Giá trị được
yêu cầu bồi thường khởi điểm lên đến
5 tỷ đô-la Mỹ, tuy nhiên, kết quả
thương thảo của vụ kiện sau này đã
được hai công ty giữ kín. Vụ kiện đã
thu hút sự quan tâm trong cộng đồng
mạng tại Mỹ và làm tốn không ít giấy
mực của báo chí trong suốt năm đó.
Môi trường Internet phát triển
nhanh chóng, ngoài những tiện ích to
lớn mang lại cho người sử dụng cũng
đồng thời kéo theo những rủi ro lớn
cho việc bảo hộ phát minh - sáng chế.
Điều này xuất phát từ hai yếu tố
chính là khả năng tiếp cận thông tin
và khả năng phát tán thông tin quá dễ
dàng trong môi trường mạng.
Tại Việt Nam, việc đăng ký bằng
phát minh - sáng chế cho sản phẩm
và dịch vụ còn gặp nhiều khó khăn về
mặt thủ tục và thời gian (trung bình
khoảng 12 tháng) và cũng chưa có
được sự quan tâm đúng mức của DN.
Trên thực tế, người tiêu dùng
trong nước vẫn sẵn lòng chấp
nhận sử dụng sản phẩm, dịch vụ
mà trong đó ý tưởng, thiết kế,
kỹ thuật… được nhái lại và việc
một số DN, nhà kinh doanh sử
dụng cả nội dung lẫn hình ảnh

của sản phẩm hay dịch vụ đã
được đăng tải trên trang web
của DN khác vẫn đang là một
thực trạng chưa được giải quyết
triệt để.
Bản quyền - tác quyền
Ngoài những vấn đề về SHTT nêu
trên liên quan đến bản chất vận hành
của hệ thống thương mại điện tử thì
DN còn phải đối mặt với vấn đề
bản quyền - tác quyền vốn có
SỞ HỮU TRÍ TUỆ - 1
SỞ HỮU TRÍ TUỆ
VÀ HỘI NHẬP
Số 115- 9/2010
liên quan đến hàng hóa giao dịch
trong thị trường ảo này. Rất
nhiều hàng hóa trong thị trường
ảo ngày nay là hàng hóa số
(digital content): sách, báo, tài
liệu, nhạc, phim ảnh, phần
mềm, dịch vụ… Hàng hóa số
thường dễ dàng nhân bản và
phát tán, do đó, việc bảo vệ bản
quyền - tác quyền cho nguồn
gốc của hàng hóa số là vô cùng
khó khăn. Một quyển sách hay
có thể dễ dàng được số hóa và
kinh doanh qua Internet, như
vậy việc bảo vệ tác quyền gần

như là không khả thi.
Ứng dụng công nghệ thường
được xem là một giải pháp trong
việc bảo vệ tác quyền. Như tại
trang web Google Books, người
sử dụng có thể xem sách ngay
trên trang web nhưng lại không
tải (download) về được. Nếu
người sử dụng thích một đầu
sách thì có thể mua, sau đó
Google mới cho tải về. Cách làm
này thật ra cũng chỉ có thể bảo
hộ được tác quyền tại trang web
của Google, còn sau khi người
mua tải về rồi thì việc nhân bản
và phát tán tiếp và không kiểm
soát được.
Cuộc chiến công nghệ thường là
cuộc chiến không có hồi kết, chỉ sau
một thời gian, đã xuất hiện phần mềm
Google Books Downloader trên
Internet, có thể cho người sử dụng tải
sách trong quá trình xem tại Google
Books (đương nhiên là không được
sự cho phép của Google).
Câu chuyện nói trên cho thấy các
DN kinh doanh hàng hóa số
thường phải tính toán trước
những rủi ro, có những biện
pháp phòng ngừa hữu hiệu hoặc

có những giải pháp kinh doanh
phù hợp.
SHTT trong giá trị DN
Ngày nay, việc Việt Nam đã là một
thành viên của Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO) và là quốc gia đang
phát triển, vấn đề SHTT càng đóng
vai trò quan trọng trong việc hoạch
định các kế hoạch cạnh tranh toàn
cầu và bảo hộ toàn cầu.
Sự kiện nổi bật nhất của WTO về
thương mại điện tử cho tới nay là
việc Hội nghị Bộ trưởng WTO lần
thứ hai tổ chức vào tháng 5 năm 1998
đã thông qua Tuyên bố của các Bộ
trưởng WTO về Thương mại điện tử
toàn cầu. Tuyên bố này bao gồm ba
nội dung cơ bản. Nội dung thứ nhất
là WTO thừa nhận thương mại điện
tử toàn cầu đang phát triển nhanh
chóng và tạo ra các cơ hội mới cho
thương mại. Nội dung thứ hai là Đại
Hội đồng sẽ xây dựng Chương trình
làm việc về Thương mại điện tử để
xem xét toàn bộ các vấn đề liên quan
tới thương mại của thương mại điện
tử toàn cầu. Đại Hội đồng cùng với
các cơ quan liên quan của WTO sẽ
triển khai Chương trình làm việc này
và báo cáo tới Hội nghị Bộ trưởng

SỞ HỮU TRÍ TUỆ - 2
Số 115- 9/2010
tiếp theo các khuyến nghị cần thiết để
thúc đẩy sự phát triển của thương mại
điện tử. Nội dung cơ bản thứ ba là
các nước thành viên WTO sẽ tiếp
tục duy trì hiện trạng không áp
đặt thuế nhập khẩu đối với các
sản phẩm được cung cấp trên
mạng.
Để có thể bảo vệ tài sản trí tuệ số,
DN trước hết cần xác định rõ những
tài sản vô hình quan trọng của công
ty mình. Qua đó, không những giúp
họ có thể định giá tài sản vô hình của
công ty mà còn là tiền đề để đưa ra
những chính sách về bảo vệ và phát
triển hợp lý những tài sản vô hình đó.
Bảo vệ tài sản trí tuệ số của DN có
thể được phân thành ba vấn đề
chính: bảo mật nội bộ (tránh
thất thoát dữ liệu, thông tin từ
bên trong công ty), bảo mật vận
hành (phòng chống tấn công,
đánh cắp dữ liệu từ bên ngoài)
và phòng chống sử dụng dữ liệu
bất hợp pháp.
Đã đến lúc DN thương mại
điện tử Việt Nam nên có sự quan
tâm nghiêm túc đến vấn đề

SHTT và tất cả các góc độ liên
quan để có thể cạnh tranh tốt
với các đối thủ nước ngoài trong
thị trường trong nước.
TH
HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM:
NÂNG CAO GIÁ TRỊ BẰNG SỞ
HỮU TRÍ TUỆ
Nước ta có tiềm năng rất lớn để
sản xuất nông sản. Tuy nhiên, vấn đề
đặt ra hiện nay là phần lớn nông sản
Việt Nam đang được tiêu thụ và xuất
khẩu dưới dạng sản phẩm thô. Để
khắc phục hạn chế này, việc sử dụng
công cụ sở hữu trí tuệ (SHTT) nhằm
nâng cao giá trị cho nông sản
Việt Nam là một trong những
hướng đi cần tập trung phát
triển.
Tiềm năng lớn
Theo thống kê sơ bộ của Cục
SHTT, cả nước có 964 đặc sản
gắn với 733 địa danh thuộc các
nhóm sản phẩm khác nhau. Sản
xuất, kinh doanh đặc sản là
nghề thu hút lao động của cả
vùng và là nguồn thu nhập chính
cho người nông dân.
Tỷ trọng hàng nông sản xuất
khẩu hiện chiếm khoảng 30-

35% khối lượng hàng nông sản
thực phẩm làm ra. Một số sản
phẩm đã khẳng định được vị thế
trên thị trường thế giới với sản
lượng xuất khẩu đứng hàng
nhất, nhì. Thị trường tiêu thụ
thời gian gần đây cũng được mở
rộng, ngoài các khu vực tiêu thụ
truyền thống, nông sản Việt
Nam đã thâm nhập được tới các
thị trường khó tính như châu Âu,
Hoa Kỳ và Nhật.
Tuy nhiên, một hạn chế là quy
mô sản xuất nông sản Việt Nam
chủ yếu ở dạng nhỏ, lẻ, tự phát.
Bên cạnh đó, chúng ta chưa xây
SỞ HỮU TRÍ TUỆ - 3
Số 115- 9/2010
dựng được những thương hiệu
đủ mạnh để có thể khẳng định vị
thế cạnh tranh trên thị trường.
Do vậy, việc khai thác giá trị sản
phẩm còn hạn chế và chưa xứng
với tiềm năng.
Chưa nói đến xuất khẩu, ngay
ở thị trường trong nước, việc tìm
mua được một đặc sản thực sự
đảm bảo chất lượng và đúng
nguồn gốc xuất xứ vẫn là một sự
“đánh đố” đối với người tiêu

dùng. Đặc sản bán trên thị
trường hầu như không được gắn
tem, nhãn, bao bì chính thống
và chưa được kiểm soát chất
lượng cũng như nguồn gốc xuất
xứ.
SHTT góp phần nâng cao giá trị
nông sản.
Thực tiễn ở các nước phát triển,
SHTT đã trở thành một công cụ quan
trọng để nâng cao giá trị cho sản
phẩm nói chung và đặc sản nói
riêng.
Việc bảo hộ SHTT đối với đặc sản
được thực hiện như thế nào? Do đặc
sản luôn luôn gắn liền với địa danh
và mang những đặc tính riêng nên
hình thức bảo hộ cũng có những đặc
thù. Theo quy định, các địa danh
dùng cho đặc sản chỉ có thể được
đăng ký bảo hộ dưới hình thức chỉ
dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận và
nhãn hiệu tập thể nhằm đảm bảo
quyền sử dụng của cả cộng đồng các
nhà sản xuất, kinh doanh ở địa
phương. Các dấu hiệu này được gắn
kèm theo nhãn hiệu riêng của từng
doanh nghiệp trên bao bì sản phẩm để
phân biệt sản phẩm của các doanh
nghiệp khác nhau. Để được trao

quyền sử dụng các đối tượng SHTT
này, DN phải đáp ứng các điều kiện
nhất định, sản phẩm phải đảm bảo
đáp ứng các tiêu chí chất lượng cụ
thể và phải tuân theo một hệ thống
kiểm soát chặt chẽ. Đây là một trong
những căn cứ giúp đảm bảo uy tín và
danh tiếng của sản phẩm: sản phẩm
để được lưu thông trên thị trường
phải đạt tiêu chuẩn chất lượng và
đúng nguồn gốc xuất xứ. Đây cũng là
lý do tại sao người tiêu dùng sẵn sàng
trả giá cao hơn nhiều lần cho sản
phẩm được bảo hộ chỉ dẫn địa lý,
nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập
thể so với sản phẩm thông thường
cùng loại.
Theo thống kê của các địa phương,
sau khi được đăng ký SHTT, hầu hết
các sản phẩm đều bán được với giá
cao hơn từ 1,5-3 lần (vải thiều Lục
Ngạn, gạo tám xoan Hải Hậu), sản
lượng tiêu thụ mạnh hơn, người nông
dân tập trung chăm lo phát triển sản
xuất hơn. Tại một số địa phương,
việc bảo hộ SHTT cho sản phẩm đã
có tác động tích cực tới sự phát triển
nông nghiệp nông thôn như: giá đất
tăng cao (thanh long Bình Thuận),
giải quyết được việc làm cho nông

dân trong thời kỳ nông nhàn (nón lá
Huế), hạn chế hiện tượng lao động đổ
ra thành phố (vải thiều Lục Ngạn).
SỞ HỮU TRÍ TUỆ - 4
Số 115- 9/2010
Tuy nhiên, việc sử dụng SHTT như
một công cụ nhằm nâng cao giá trị
đặc sản Việt Nam hiện nay chưa thực
sự được chú trọng. Trong số 964 đặc
sản, tính đến tháng 6/2010, mới chỉ
đăng ký bảo hộ được 19 chỉ dẫn địa
lý, khoảng 7 nhãn hiệu chứng nhận
và 20 nhãn hiệu tập thể. Với sự hỗ trợ
của Chương trình hỗ trợ phát triển tài
sản trí tuệ, đã có 23 dự án về chỉ dẫn
địa lý và 30 dự án về nhãn hiệu tập
thể, nhãn hiệu chứng nhận được triển
khai thực hiện bao gồm các nội dung
hỗ trợ tiến hành thủ tục đăng ký
quyền SHTT, thiết kế các phương
tiện quảng bá sản phẩm, xây
dựng mô hình quản lý và khai
thác quyền... Con số này, so với
nhu cầu thực tiễn vẫn còn rất
hạn chế.
Thực tế ở Việt Nam đã cho
thấy, nếu không được bảo hộ,
các loại nông sản có giá trị của
Việt Nam sẽ thua thiệt các sản
phẩm nhập khẩu ngay tại thị

trường Việt Nam. Chính vì vậy,
việc đưa SHTT để nâng cao giá
trị nông sản Việt rất quan trọng.
Tuy nhiên vấn đề này không thể
một sớm một chiều, có ngay kết
quả, mà đòi hỏi phải kiên trì cả
một quá trình mới thành công.
Theo Baothanhhoa.vn
XÂM PHẠM SỞ HỮU TRÍ TUỆ,
XỬ TRÍ RA SAO?
Hiện nay, việc xác định đúng hành
vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
(SHTT) để có những biện pháp xử lý
hợp pháp và hiệu quả là việc làm
không dễ, đấy là chưa kể nếu việc xác
định không đúng hành vi xâm phạm
quyền còn dẫn đến tình trạng xử lý
sai hay khởi kiện không đúng, gây ra
những hậu quả đáng tiếc làm thiệt hại
không nhỏ đến những doanh nghiệp
(DN) làm ăn chân chính là làm mất
lòng tin vào hệ thống thực thi quyền
SHTT trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng nhu hiện
nay.
Để thực thi quyền SHTT có hiệu
quả, điều trước tiên là phải xác định
đúng các hành vi bị coi là xâm phạm
quyền. Trong thực tế nhiêu DN và
các cơ quan chức năng không dễ

dàng xác định được hành vi xâm
phạm quyền. Vì thế nhiều DN còn
lúng túng trong việc tự bảo vệ quyền
SHTT của mình, các cơ quan chức
năng ngại hoặc né tránh xử lý xâm
phạm. Chỉ khi nào thật cần thiết, nếu
cần phải xử lý thì DN lại tiến hành
yêu cầu giám định và các cơ quan
chức năng trưng cầu giám định quyển
SHTT để khởi kiện hoặc xử lý xâm
phạm quyền.
Song dù có thực hiện trưng cầu hay
yêu cầu giám định, thì khi xử lý xâm
phạm hay khởi kiện, cơ quan chức
năng vẫn phải hoàn toàn chịu trách
nhiệm về những quyết định xử lý của
mình, cũng như DN phải tự chịu
trách nhiệm về chứng cứ gửi kèm
theo yêu cầu khởi kiện, bất chấp kết
SỞ HỮU TRÍ TUỆ - 5
Số 115- 9/2010
quả giám định đúng hay sai. Điều đó
để nói rằng những kiến thức và kinh
nghiệm trong việc xác định hành vi
xâm phạm quyền SHTT, nhất là đối
với thương hiệu là rất cần thiết đối
với DN và cơ quan chức năng. Bài
viết sẽ chia sẻ những thông tin liên
quan, giúp cho công tác thực thi
quyền SHTT ngày càng có hiệu

quả góp phần cải thiện hình ảnh
của Việt trong con mắt bạn bè
quốc tế về vấn đế thực thi quyền
SHTT.
Trước hết, cần tìm hiểu thế
nào là hành vi xâm phạm quyền
SHTT. Việc người thứ ba sử dụng
các sáng chế, nhãn hiệu, kiểu
dáng công nghiệp ... đang trong
thời hạn bảo hộ và trong lãnh
thổ bảo hộ mà không được phép
của người nắm giữ quyền nhằm
mục đích kinh doanh và không
thuộc các trường hợp loại trừ, thì
bì coi là xâm phạm quyền SHTT
(sở hữu công nghiệp).
Người thứ ba, được hiểu là bất
cứ ai ngoài người nắm giữ quyền
SHTT ra, kể cả tồ chức cá nhân
trong nước và nước ngoài. Việc
sử dụng các đối tượng trên đây
bất chấp là cố ý hay vô ý nhằm
mục đích kinh doanh (kiếm lời)
mà không có sự cho phép của
người chủ sở hữu hay người
được chủ sở hữu ủy quyền sử
dụng đối tượng thông qua hợp
đồng li xăng. Hơn nữa các sáng
chế nhãn hiệu kiểu dáng công
nghiệp đó phải đang được

bảo hộ và trong lãnh thố bảo hộ.
Tức là, các sáng chế nhãn hiệu kiểu
dáng công nghiệp được Nhà nước
(cục SHTT) cấp văn bằng bảo hộ và
không bị chấm dứt hiệu lực văn bằng
trước thời hạn hay bị hủy bỏ hiệu lực
văn bằng bảo hộ. Điều đó cũng có
nghĩa là, bất cứ người nào sử dụng
sáng chế, nhãn hiệu kiểu dáng công
nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam sẽ
không bị coi là xâm phạm quyền
SHTT nếu các đối tượng đó không
được Cục SHTT cấp văn bằng bảo
hộ, kể cả trước đó nó được cấp văn
bằng ở các nước khác, hoặc được cấp
nhưng văn bằng bảo hộ đã bị chấm
dứt hiệu lực trước thời hạn hoặc bị
hủy bỏ hiệu lực. Việc chấm dứt hiệu
lực có thể do không nộp lệ phí duy trì
hiệu lực Bằng độc quyền sáng chế
hay không sử dụng nhãn hiệu liên tục
trong 5 năm mà không có lý do chính
đáng ..Văn bằng bảo hộ cũng có thể
bị hủy bỏ hiệu lực do người nộp đơn
không có quyền nộp đơn mà thiếu
trung thực trong quá trình làm thủ tục
đăng ký, hoặc đối tượng không thỏa
mãn tiêu chuẩn bảo hộ tại thời điểm
cấp văn bằng. Ngoài ra việc sử dụng
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp

cũng sẽ không bị coi là xâm phạm
quyền ngay cả khi nó đang được bảo
hộ, nếu việc sử dụng chỉ vì mục đích
cá nhân không kiếm lời), như giảng
dạy, nghiên cứu ... hay nhằm khắc
SỞ HỮU TRÍ TUỆ - 6
Số 115- 9/2010
phục sự cố các phương tiện giao
thông đang tạm thời quá cảnh trên
lãnh thố Việt Nam.
Trên thực tế, việc xác định cá
hành
vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ,
phải căn cứ vào từng đối tượng cụ
thể. Nếu là sáng chế, phải xác định
xem sản phẩm, bộ phận sản phẩm
hay quy trình có trùng hoặc tương
đương với sản phẩm bộ phận sản
phẩm quy trình được cấp bằng độc
quyền sáng chế không. Hoặc là, sản
phẩm, bộ phận sản phẩm có được sản
xuất theo quy trình được cấp bằng
độc quyền sáng chế không. Đối với
kiểu dáng công nghiệp cũng tương tự
như vậy, đó là xem cả bộ sản phẩm
hoặc từng phần sản phẩm có khác
biệt đáng kể với kiểu dáng được cấp
bằng không.
Riêng đối với nhãn hiệu (thương
hiệu) chúng ta phải đánh giá yếu tố

xâm phạm ở cả hai khía cạnh, đó là
dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu và cả
hàng hóa/dịch vụ mang nhãn hiệu đó.
Trước hết, chúng ta phải xác định dấu
hiệu vi phạm ờ mức độ giống hoặc
tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
được bảo hộ ở các khía cạnh như về
cấu tạo của nhãn hiệu, cách trình bày
(cả tế màu sắc), cách phát âm phiên
âm, chữ và ý nghĩa của chữ đó (nếu
nhãn hiệu là chữ khác tiếng Vệt). Có
nghĩa là, chúng ta phải đánh giá trên
tất cả các yếu tố đó nếu chỉ cần có
một yếu tố giống hoặc tương tự với
nhãn hiệu được bảo hộ thì hoàn toàn
có kết luận dấu hiệu đó đã vi phạm.
Thứ hai, dấu hiệu giống hoặc tương
tự đó phải gắn lên hàng hóa/dịch vụ
giống nhau hoặc tương tự về bản
chất, hoặc có liên hệ về chức năng
công dụng và cùng kênh tiêu thụ.
Như vậy một nhãn hiệu bị kết luận là
xâm phạm nhãn hiệu của người khác
có thể thuộc một trong hai hình thức
sau đây: Hình thức thứ nhất là xâm
phạm dưới hình thức giống hệt tức là
dấu hiệu hoàn toàn trùng nhau gắn
lên hàng hóa/dịch vụ giống nhau.
Ví dụ như nhãn hiệu TRƯỜNG
SINH cùng gắn lên sản phẩm

sữa đặc có đường và sữa đậu
nành mặc dù sữa đặc có đường
làm từ sữa động vật, còn sữa
đậu nành làm từ các loại đậu
(thực vật). Hình thức thứ hai là
tương tự gây nhầm lẫn với nhãn
hiệu được bảo hộ, nếu dấu hiệu
tương tự nhau gắn lên hàng
hóa/dịch vụ giống nhau hoặc
dấu hiệu giống hệt nhau nhưng
gắn lên hàng hóa/dịch vụ có liên
quan đến nhau.
Thậm chí còn tinh vi hơn khi
mà dấu hiệu tương tự nhau cùng
gắn lên hàng hóa/dịch vụ có liên
quan đến nhau. Trong thực tế,
hầu hết các hành vi xâm phạm
quyền đối với nhãn hiệu chủ yếu
dưới hình thức tương tự gây
nhầm lẫn, vì vậy không dễ gì
xác định được là hành vi xâm
SỞ HỮU TRÍ TUỆ - 7
Số 115- 9/2010
phạm để tiến hành xử lý hoặc
khởi kiện.
Theo Doanhnhan & phapluat
XÉT XỬ VỤ XÂM PHẠM
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ ĐẦU TIÊN
TẠI VIỆT NAM

Toà án nhân dân tỉnh ĐăkLăk vừa
đưa ra xét xử vụ khiếu kiện xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) đầu
tiên ở ĐăkLăk đã kéo dài trong
suốt 8 năm qua. Chiếc máy đùn
gạch được cải tiến có thêm trục
cào và dao cán do ông Hoàng
Thịnh trú tại Buôn Trấp, huyện
Krông Bana là tác giả và chủ sở
hữu giải pháp hữu ích đã được
Cục SHTT cấp bằng độc quyền
số 319 năm 2002. Đầu năm
2003 ông Thịnh phát hiện cơ sở
sản xuất gạch Việt Mỹ do ông
Nguyễn Đình Mỹ và bà Thái Thị
Thu Sương làm chủ đã và đang
sử dụng máy đùn gạch có trục
cào chế tạo dựa trên giải pháp
hữu ích của Ông để sản xuất
gạch kinh doanh thu lợi nhuận.
Những chiếc máy đùn gạch kiểu cũ
yêu cầu người lao động phải liên tục
dùng tay hoặc chân ép nguyên liệu
vào lô nghiền nhào. Điều này dễ dẫn
đến tai nạn do mệt mỏi, thiếu tập
trung. Đồng thời, máy có năng suất
không cao, chất lượng gạch không
đồng đều, do thường xuyên phải
ngừng chạy để xử lý tình trạng tắc
nghẽn ở khuôn tạo hình do nguyên

liệu xấu có lẫn sỏi sạn.
Sản phẩm cải tiến của ông Thịnh
được bổ sung trục cào và dao cán đã
khắc phục được những nhược điểm
đó. Máy đùn gạch đã được ông Thịnh
cải tiến bao gồm vỏ máy, đầu trên
của nó có bố trí phễu, hai quả lô lắp
quay được trong vỏ máy, trục cào lắp
quay được vào vỏ bên trên hai quả lô
và một con dao cán được lắp nằm
ngang vào giữa hai quả lô, trong đó
trục cào có các dãy răng có tác dụng
cào liên tục đất nguyên liệu từ phễu
cấp cho hai quả lô làm tăng năng suất
nghiền-nhào. Dao cán được đặt xen
giữa hai quả lô và có cạnh trên nằm
cao hơn tâm của hai quả lô và dao để
tăng khả năng nghiền sỏi sạn và khắc
phục hiện tượng gây tắc nghẽn ở cửa
khuôn gạch, do đó nâng cao năng
suất của máy đùn gạch, chất lượng
gạch đồng đều, ít thứ phẩm, đảm bảo
độ bền của máy. Theo tính toán hiệu
quả của máy đùn gạch theo giải pháp
hữu ích này đem lại và đối chứng
thực tế sử dụng cho thấy nếu sản xuất
bằng máy thường không có trục cào
công suất chỉ đạt 1200viên/giờ, trong
khi đó sử dụng máy đùn gạch có trục
cào của ông Thịnh công suất đạt

2.500viên/giờ gấp đôi máy thường,
hơn thế nữa sản phẩm gạch ra lò ít bị
SỞ HỮU TRÍ TUỆ - 8
CÁC LĨNH VỰC CỦA SỞ
HỮU TRÍ TUỆ
Số 115- 9/2010
lỗi và tăng mức độ an toàn lao
động.
Sau khi phát hiện Cơ sở Việt
Mỹ
sử dụng chiếc máy đùn gạch có trục
cào của mình, ông Thịnh đã yêu cầu
Cơ sở này ngừng sản xuất vì chưa
được Ông cho phép, đồng thời nhờ
cơ quan chức năng can thiệp, theo đó
Sở khoa học và công nghệ và các cơ
quan chức năng khác đã vào cuộc,
lập biên bản hiện trường, kiểm tra đối
chất với chủ sở hữu và người sử
dụng, đánh giá dựa trên máy đùn
gạch theo giải pháp hữu ích của ông
Thịnh đối với máy móc thiết bị được
sử dụng và đưa ra kết luận rằng hành
vi của ông Nguyễn Đình Mỹ sử dụng
máy đùn gạch dựa trên giải pháp hữu
ích của ông Thịnh là trái phép vì
chưa được phép của ông Thịnh.
Vụ việc được Sở khoa học&Công
nghệ ĐăkLăk xem xét giải quyết
nhưng chưa đưa ra kết luận cuối

cùng. Đến cuối tháng 3/2008, UBND
tỉnh ĐăkLăk có văn bản chỉ đạo
chuyển toàn bộ hồ sơ xâm phạm
quyền sở hữu giải pháp hữu ích giữa
nhà sáng chế là ông Hoàng Thịnh với
người sử dụng là ông Nguyễn Đình
Mỹ, bà Thái Thị Thu Sương đến Toà
án nhân dân tỉnh ĐăkLăk giải quyết.
Ngày 18/7/2010 Hội đồng xét xử
toà án nhân dân tỉnh ĐăkLăk đã mở
phiên toà sơ thẩm. Trong quá trình
giải quyết vụ án, bị đơn thể hiện
mình là những người nông dân không
nhận thức được việc họ sử dụng máy
móc trên cơ sở giải pháp hữu ích đã
được nhà nước cấp Bằng độc quyền
giải pháp hữu ích trong quá trình sản
xuất, nếu muốn sử dụng phải được
phép của chủ sở hữu. Theo quy định
của Luật SHTT các trường hợp sử
dụng sáng chế/giải pháp hữu ích của
người khác để kinh doanh thì phải trả
thù lao cho tác giả, và phí chuyển
giao quyền sử dụng cho chủ sở hữu
sáng chế/giải pháp hữu ích. Do Cơ sở
Việt Mỹ không thực hiện nghĩa vụ
xin phép, trả các khoản thù lao và phí
chuyển giao quyền sử dụng giải pháp
hữu ích nên ông Hoàng Thịnh thực
hiện việc đòi bồi thường thiệt hại.

Khi đó, nhiều người đã không hiểu vì
sao phải bồi thường thiệt hại. Suy
nghĩ lâu nay của người sản xuất đơn
giản là mua một cái máy về để sản
xuất là xong, không cần biết cái máy
đó có được sản xuất hợp pháp hay
không và không hề tính đến quyền
SHTT của người khác. Trên cơ sở
phân tích yêu cầu của ông Hoàng
Thịnh về bồi thường thiệt hại do cơ
sở sản xuất Việt Mỹ gây ra, Hội đồng
xét xử đã xác định cơ sở Việt Mỹ đã
xâm phạm quyền đối với giải pháp
hữu ích của ông Hoàng Thịnh và
buộc ông Nguyễn Đình Mỹ bồi
thường cho ông Hoàng Thịnh số tiền
là 351 triệu đồng. Vụ án xâm phạm
quyền đối với giải pháp hữu ích sau 8
năm đã được khép lại và đem lại
công bằng cho tác giả, chủ sở hữu.
SỞ HỮU TRÍ TUỆ - 9
Số 115- 9/2010
Qua sự việc nêu trên, các
doanh nghiệp, chủ sở hữu tài
sản trí tuệ, bên cạnh việc đăng
ký bảo hộ nên có cán bộ chuyên
trách về SHTT giúp bảo vệ có
hiệu quả tài sản trí tuệ của
mình. Những doanh nghiệp có
uy tín trên thế giới đều rất coi

trọng vấn đề bảo vệ quyền lợi
của mình liên quan đến quyền
SHTT, cũng như lợi ích của cộng
đồng liên quan. Ngay tại Việt
Nam, việc Công ty Unilever đã
thành lập đội ACF với chức năng
chuyên bảo vệ quyền đối với các
nhãn hiệu của Công ty trên cơ sở
chủ động hợp tác với các cơ
quan chức năng, là một kinh
nghiệm tốt. Bài học đắt giá của
Cơ sở Việt Mỹ là bài học cho tất
cả những ai xâm phạm quyền
SHTT một loại tài sản có giá trị
trong nền kinh tế thị trường hiện
nay.
Theo TT Thông tin, Cục SHTT
THƯƠNG HIỆU NÔNG SẢN -
MỚI XÂY ĐÃ MUỐN... SẬP!
Mấy năm gần đây, ĐBSCL rộ lên
phong trào ào ạt xây dựng thương
hiệu nông sản theo tiêu chuẩn quốc tế
Global Gap. Tiêu chuẩn này là “giấy
thông hành” cho nông sản thâm nhập
thị trường thế giới, thế nhưng, hiện
mô hình kiểu mẫu này thế nào?
Sống dở chết dở
Đi tiên phong là Vĩnh Long với
bưởi Năm Roi Mỹ Hòa, Tiền Giang
có vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim, lúa Mỹ

Thành Nam, Bến Tre với chôm chôm
Chợ Lách đạt tiêu chuẩn Global Gap.
Hàng loạt loại đặc sản danh tiếng
khác ở ĐBSCL như xoài cát Hòa
Lộc, bưởi da xanh, quýt hồng, cam
mật, nhãn tiêu da bò, tiêu Phú Quốc
đang “chạy đua” gắn mác Global
Gap. Nông sản nâng cao được giá trị
và xuất khẩu là niềm vui lớn của
nông dân ĐBSCL, khẳng định sự
nhạy bén ứng dụng kỹ thuật, thích
ứng nhu cầu thị trường.
Tuy nhiên, thực tế sau khi đạt
chuẩn, nhiều mô hình lại “chết đứng”
vì nguyên nhân khách quan lẫn chủ
quan, như: sản lượng hạn chế, khó
mở rộng diện tích, sản xuất mạnh ai
nấy làm, thiếu vốn đầu tư. Hiện nay,
diện tích cây ăn trái áp dụng quy
trình này chưa nhiều, khó đáp ứng
yêu cầu xuất khẩu. HTX vú sữa Lò
Rèn Vĩnh Kim (Tiền Giang) và bưởi
Năm Roi Mỹ Hòa (Vĩnh Long) đều
đạt quy trình sản xuất theo Global
Gap 2 - 3 năm qua nhưng diện tích
rất khiêm tốn, sản lượng thấp, nên
không thể nhận đơn đặt hàng lớn từ
các nhà nhập khẩu nước ngoài. Sau 4
năm có “giấy thông hành” đến vụ
mùa vừa qua mới xuất khẩu được hơn

10 tấn.
Việc phát triển diện tích áp
dụng Global Gap cũng khó khăn.
Tại HTX vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim,
phải chờ đến cuối năm 2011 mới
có thêm 100ha áp dụng tiêu
SỞ HỮU TRÍ TUỆ - 10
Số 115- 9/2010
chuẩn Global Gap trong khi diện
tích canh tác loại đặc sản này tới
2.500ha. Còn vùng bưởi Năm
Roi Mỹ Hòa (Vĩnh Long) có
1.300ha nhưng diện tích áp
dụng Global Gap chưa đầy 24ha.
Hơn 2 năm qua, HTX bưởi Năm
Roi Mỹ Hòa không mở rộng được
diện tích, thậm chí một số
trường hợp xin rút khỏi danh
sách vì cảm thấy “đuối”.
Tại Bến Tre, lão nông Sáu Hớn

xã Phú Phụng, huyện Chợ Lách bỏ
tiền túi, áp dụng thành công quy trình
Global Gap trên vườn chôm chôm
6,4ha của mình. Sau thành công ban
đầu, lão nông Sáu Hơn đề nghị chính
quyền địa phương kêu gọi nông dân
trồng chôm chôm áp dụng Global
Gap để tạo thế mạnh cạnh tranh về
sản lượng, chất lượng và giá cả.

Nhưng gần 1 năm qua, tỉnh Bến Tre
cũng có chừng ấy diện tích chôm
chôm theo Global Gap. Một thực tế
khác khiến nông dân chán nản là giá
thu mua. Dù nông sản đạt chuẩn
Global Gap nhưng không được các
HTX mua với giá như cam kết, nhiều
lúc giá ngang sản phẩm không đạt
chuẩn. Đã vậy, nông sản còn bị loại
do cảm tính của một vài cá
nhân.
Thiếu quan tâm, ít đầu tư
Thực tế, năng lực của phần lớn các
HTX còn nhiều hạn chế. Hoạt động 4
năm qua, nhưng HTX vú sữa Lò Rèn
Vĩnh Kim (Tiền Giang) dù được đầu
tư kho lạnh, nhà đóng gói đạt tiêu
chuẩn xuất khẩu vào Mỹ nhưng chưa
thể ký hợp đồng trực tiếp xuất khẩu
với đối tác nước ngoài mà phải thông
qua trung gian ở TPHCM.
Ông Nguyễn Văn Ngàn, Chủ
nhiệm HTX cho biết: “Năng lực nhân
sự HTX còn hạn chế, nhất là không
biết ngoại ngữ nên khó tiếp cận
khách nước ngoài”. Tại HTX bưởi
Năm Roi Mỹ Hòa, tình trạng còn bi
đát hơn. Ông Trần Văn Sang, Chủ
nhiệm, lo ngại: “Sau khi đạt tiêu
chuẩn Global Gap, HTX như bị bỏ

rơi, không được đầu tư mở rộng diện
tích. Thực tế, HTX không có vốn,
không có tài sản thế chấp, trụ sở cũng
ở tạm trên đất của xã không có giấy
chủ quyền nên khó vay ngân hàng,
không thể ký hợp đồng xuất khẩu
trực tiếp với nước ngoài mà phải qua
trung gian. Nhiều lô hàng xuất 3-4
tháng vẫn chưa lấy được tiền trả cho
nông dân. Vì không tiền làm kho lạnh
trữ bưởi nên thường xuyên bị ép giá,
hoặc xuất khẩu phải ghép chung với
các loại trái cây khác”.
Bưởi Năm Roi Mỹ Hòa tuy đạt
chuẩn Global Gap nhưng đến nay vẫn
chưa đăng ký chỉ dẫn địa lý. Khi lãnh
đạo HTX “la làng” vì không có 7.700
USD để trả chi phí cho cơ quan đến
kiểm tra, đánh giá, xác nhận, tái công
nhận tiêu chuẩn Global Gap (trước
đây do Công ty TNHH Metro Cash &
Carry VN tài trợ), nguy cơ phá sản
mô hình treo lơ lửng thì lãnh đạo địa
SỞ HỮU TRÍ TUỆ - 11
Số 115- 9/2010
phương mới chỉ đạo cùng gỡ khó
(HTX vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim may
mắn hơn vì còn nguồn tài trợ từ dự
án). Rất may là Ngân hàng Thế giới
bắt đầu xúc tiến dự án mở rộng diện

tích bưởi Năm Roi theo Global Gap.
Coi như thương hiệu bưởi Năm Roi
Mỹ Hòa vừa mới được cứu sống.
Theo các nhà khoa học nông
nghiệp, thương hiệu nông sản quyết
định sự phát triển của sản xuất nông
nghiệp và đời sống nông dân. Vì thế,
phải xác định việc xây dựng thương
hiệu là chiến lược mang tầm quốc
gia. Nhà nông không thể đơn độc làm
được mà Chính phủ cùng các bộ,
ngành, địa phương và nông dân cần
hiệp lực, coi đây là khâu quan trọng
để phát triển kinh tế nông thôn. Trên
cơ sở đó ban hành các chính sách ưu
đãi doanh nghiệp sản xuất - kinh
doanh - xuất khẩu nông sản, hỗ trợ
tích cực doanh nghiệp thực hiện
chiến lược xây dựng thương hiệu cho
nông sản.
Từ năm 2010, ĐBSCL bắt đầu xây
dựng vùng chuyên canh các loại cây
ăn trái đặc sản khoảng 300.000ha,
sản lượng khoảng 3 triệu tấn trái
cây/năm, đảm bảo tiêu chuẩn phục vụ
xuất khẩu, chế biến và tiêu thụ nội
địa. Hình thành được các vùng
chuyên canh sẽ rất thuận lợi áp dụng
các tiêu chuẩn quốc tế, khoa học kỹ
thuật, cơ giới hóa. Đặc biệt là chất

lượng đồng nhất về kích cỡ, màu sắc,
hương vị.
Tuy nhiên, để hình thành vùng
chuyên canh cây ăn trái đặc sản quy
mô lớn, vai trò của chính quyền địa
phương rất quan trọng trong việc tổ
chức, giúp nhà vườn liên kết với nhà
khoa học, với doanh nghiệp. Đặc
biệt, chính nông dân, những người
trực tiếp sản xuất cần phải nhận thức
rõ tầm quan trọng của việc hình thành
các vùng chuyên canh tập trung, áp
dụng các tiêu chuẩn quốc tế để sản
phẩm làm ra ngày càng khẳng định vị
thế trên trong nước và thế giới.
Theo sggp.org
BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ “BẮC
KẠN” CHO SẢN PHẨM HỒNG
KHÔNG HẠT
Ngày 08 tháng 09 năm 2010, Cục
Sở hữu trí tuệ đã ra Quyết định số
1721/QĐ-SHTT về việc cấp Giấy
chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý số
00021 cho sản phẩm hồng không hạt
Bắc Kạn. Sở Khoa học và Công nghệ
tỉnh Bắc Kạn là tổ chức quản lý chỉ
dẫn địa lý "Bắc Kạn" cho sản phẩm
hồng không hạt.
Cây hồng không hạt gắn với vùng
đất Bắc Kạn đã có lịch sử phát triển

trên 100 năm. Tại bản Lác thuộc xã
Quảng Bạch, xã Xuân Lạc, xã Tân
Lập huyện Chợ Đồn hay tại các xã
Quảng Khê, Đồng Phúc thuộc huyện
Ba Bể và xã Nà Phặc thuộc huyện
Ngân Sơn vẫn còn những cây hồng
gần 100 năm tuổi cho năng suất và
chất lượng quả tốt.
SỞ HỮU TRÍ TUỆ - 12

×