Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Hoạt động chứng minh trong tố tụng hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (984.1 KB, 74 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------

NGUYỄN THỊ THU HÂN
MSSV: 1055040355

HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2010 - 2014

GVHD: PGS.TS NGUYỄN CẢNH HỢP

TP.HCM – Năm 2014


LỜI CẢM ƠN

Trên thực tế khơng có sự thành cơng nào mà không gắn liền với những sự hỗ
trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của ngƣời khác. Trong suốt
thời gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đƣờng đại học đến nay, em đã nhận đƣợc rất
nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của q Thầy Cơ, gia đình và bạn bè. Với lòng biết ơn
sâu sắc nhất, em xin gửi đến quý Thầy cơ Trƣờng Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh, đã cùng với tri thức và tâm huyết của mình để truyền đạt vốn kiến thức quý
báu cho em trong suốt thời gian học tập tại trƣờng. Và đặc biệt là Thầy Nguyễn
Cảnh Hợp, ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn để em có thể hồn thành khóa luận tốt
nghiệp. Bên cạnh đó, mình cũng xin cám ơn sự quan tâm, đóng góp ý kiến nhiệt
tình của các bạn.
Sau cùng, em xin kính chúc q Thầy Cơ Trƣờng Đại học Luật Thành Phố


Hồ Chí Minh thật dồi dào sức khỏe, niềm tin để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp
của mình là truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau.
Trân trọng!
TP.HCM, ngày 10 tháng 7 năm 2014
Nguyễn Thị Thu Hân


LỜI MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Trong hoạt động tố tụng nói chung, việc chứng minh đóng vai trị quyết định
làm sáng tỏ các quan hệ cần giải quyết, là cơ sở để đƣơng sự bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình cũng nhƣ là căn cứ để Tồ án đƣa ra các phán quyết của
mình. Có thể nói mục đích của hoạt động tố tụng là chứng minh và bản án, quyết
định của Tồ án chính là kết quả cuối cùng của quá trình chứng minh đó. Đƣơng sự
chỉ có thể chứng minh đƣợc quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi có chứng cứ, Tịa
án chỉ có thể giải quyết đúng đắn vụ việc khi có đầy đủ các chứng cứ làm rõ vấn đề.
Tùy theo từng hình thức tố tụng mà chủ thể có nghĩa vụ chứng minh là khác nhau.
VAHC thƣờng chứa đựng nhiều mâu thuẫn, phức tạp, liên quan đến hoạt động quản
lý hành chính nhà nƣớc trong nhiều lĩnh vực đời sống xã hội. Trong khi đó, Tịa án
với vai trị trung gian, không thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nƣớc
nhƣng lại là chủ thể có quyền phán xét, đƣa ra kết quả giải quyết tranh chấp hành
chính trên cơ sở áp dụng các quy định của pháp luật nội dung có liên quan. Vì vậy,
giải quyết VAHC khách quan, công bằng, phù hợp với quy định của pháp luật, tất
cả các vấn đề đƣơng sự đƣa ra cần phải đƣợc xác minh, làm rõ thông qua hoạt động
chứng minh, đầy đủ, chính xác, hợp pháp, có căn cứ.
Kế thừa có chọn lọc và khắc phục đƣợc những bất cập của PLTTGQVAHC
Ngày 24-11-2010, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khố XII đã thơng qua Luật TTHC, có hiệu lực từ ngày 01-7-2011. Chế định
chứng minh và chứng cứ đƣợc quy định đầy đủ, chi tiết thành một chƣơng riêng

trong Luật TTHC, gồm 20 điều (từ Điều 72 – Điều 91) tạo sự bình đẳng và cơ hội
trong việc thu thập và xuất trình chứng cứ, xác định sự thật của vụ án, Tồ án chủ
động trong q trình chứng minh VAHC, giải quyết VAHC nhanh chóng, hiệu quả,
đúng pháp luật, mang lại ý nghĩa thực tiễn quan trọng trong việc bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi bị các quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có thẩm quyền trong cơ quan hành
chính nhà nƣớc xâm phạm.
Tuy nhiên, qua thực tiễn giải quyết các VAHC trong những năm qua cho
thấy các quy định của Luật TTHC đã bộc lộ nhiều điểm chƣa hợp lý nói chung và
cách nhìn nhận về hoạt động chứng minh nói riêng. Một mặt khơng phản ánh đƣợc
đúng đắn bản chất của TTHC, khơng phát huy đƣợc vai trị chủ động và tích cực
của đƣơng sự trong việc tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình, mặt khác đã tạo gánh
nặng cho cơ quan tiến hành tố tụng khi phải làm thay nhiều nhiệm vụ của đƣơng sự


đã làm giảm hiệu quả giải quyết các VAHC của Toà án nhân dân thể hiện ở việc các
Toà án cấp trên huỷ, sửa bản án của các Toà cấp dƣới với số lƣợng lớn.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả chọn đề tài “Hoạt động chứng
minh trong tố tụng hành chính” làm khóa luận tốt nghiệp với mong muốn làm sáng
tỏ thêm về những vấn đề lý luận và thực tiễn của chế định quan trọng này.
2.
Tình hình nghiên cứu
Tại trƣờng đại học Luật TPHCM có luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Sơn
Lâm: “Chứng cứ trong vụ án hành chính” – năm 2013. Luận văn thạc sĩ của tác giả
Lê Thanh Hà: “Chứng minh trong tố tụng hành chính” – năm 2014. Những cơng
trình nói trên đã giải quyết nhiều vấn đề căn bản về chứng cứ và chứng minh, tuy
nhiên vẫn còn nhiều vấn đề cần phải làm sáng tỏ thêm, nhất là về khía cạnh lý luận
và thực tiễn, các tác giả mới chỉ nghiên cứu về chứng cứ, khơng nghiên cứu tồn bộ
chứng minh trong TTHC.
Những bài viết trên các tạp chí khoa học pháp lý chủ yếu về TTHC có thể kể

đến nhƣ: Những vấn đề cơ bản của Luật Tố tụng hành chính, Trần Đình Khánh, Tạp
chí Kiểm sát số 4/2011; Một số nội dung cơ bản của Luật Tố tụng hành chính, Trần
Huy Lộc, Tạp chí Tồ án nhân dân số 24/2010; Một số quy định của Luật Tố tụng
hành chính, Vũ Thanh Tuấn, Tạp chí Tồ án nhân dân số 14/2011; Luật Tố tụng
hành chính những sửa đổi, bổ sung, Đỗ Văn Chỉnh, Tạp chí Tồ án nhân dân số
11/2011; Bƣớc tiến quan trọng về quy định chứng cứ, chứng minh trong Luật Tố
tụng hành chính năm 2010, Nguyễn Thị Thu Hƣơng, Tạp chí Nghề luật số 04/2011;
Những vấn đề cần chứng minh trong Tố tụng hành chính, Trần Thị Hạnh Dung, Tạp
chí Dân chủ và pháp luật số 09/2012; Hoạt động áp dụng pháp uật nội dung trong
gi i quy t các hi u i n hành chính
i t Nam. Th c trạng và gi i pháp, Trần
Mạnh Hùng - TAND tối cao. Các bài viết này đề cập những quy định mới của Luật
TTHC so với PLTTGQVAHC, trong đó chỉ có một phần nhỏ đề cập đến phần
chứng minh, chứng cứ, chƣa nghiên cứu sâu các khía cạnh của hoạt động chứng
minh. Nhƣ vậy, có thể nói đến nay vấn đề chứng minh trong TTHC hầu nhƣ chƣa
có cơng trình nghiên cứu một cách chun sâu.
3.
Phạm vi nghiên cứu
Do khn khổ hạn chế của khóa văn tốt nghiệp, tác giả chỉ có điều kiện tập
trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về hoạt động chứng minh của các chủ thể
tiến hành và tham gia tố tụng trong VAHC, các quy định liên quan của pháp luật
TTHC và một số kết quả khảo sát thực tiễn về hoạt động chứng minh. Trên cơ sở
đó, tác giả đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động chứng minh và
đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định này để tìm ra đƣợc những điểm hạn chế,


bất cập. Từ đó, đƣa ra một số phƣơng hƣớng, giải pháp hồn thiện mang tính khoa
học, và mang tính thực tế về vấn đề này.
4.
Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài đƣợc xác định cụ thể là những quy định của
Luật TTHC hiện hành về hoạt động chứng minh của các chủ thể tiến hành và tham
gia tố tụng.
5.
Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài có mục đích là trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và pháp lý cũng nhƣ thực trạng thực hiện pháp luật về hoạt động chứng minh
trong TTHC để đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động chứng
minh trong TTHC.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
 Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động chứng minh, trên cơ sở đó
xây dựng những khái niệm cơ bản về hoạt động chứng minh trong TTHC.
 Đánh giá những quy định pháp luật hiện hành và đánh giá thực tiễn việc
thực hiện pháp luật về hoạt động chứng minh trong VAHC thơng qua các báo cáo
của ngành Tịa án, và thơng qua các vụ án có thật trên địa bàn các tỉnh, thành phố.
 Chỉ ra những bất cập và những tồn tại cần khắc phục của pháp luật về hoạt
động chứng minh.
 Từ kết quả nghiên cứu nói trên, đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật TTHC liên quan đến chế định chứng minh, góp phần nâng cao
hiệu quả giải quyết VAHC.
6.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về cải cách tƣ pháp, kết hợp giữa
lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến hoạt động chứng minh
trong TTHC.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phƣơng pháp: phân tích tổng
hợp, so sánh, lịch sử.
Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp vừa đảm bảo tính khái quát của vấn đề
đƣợc nghiên cứu vừa đảm bảo tính chuyên sâu ở mỗi nội dung liên quan đến xét xử

sơ thẩm VAHC.
Phƣơng pháp so sánh, lịch sử đƣợc sử dụng kết hợp với nhau. Bởi vì khi đặt
vấn đề chứng minh trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ trƣớc tới nay, thì luận văn
mới có thể nghiên cứu triệt để.


7.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Hiện nay, những khía cạnh lý luận và các quy định của pháp luật TTHC về
hoạt động chứng minh vẫn còn chƣa đƣợc nghiên cứu đầy đủ, còn thiếu hệ thống và
tồn diện, vì vậy những kết quả cụ thể trong đề tài này có thể tham khảo trong q
trình hồn thiện pháp luật TTHC ở nƣớc ta. Cũng từ đó mà góp phần đảm bảo cho
hoạt động TTHC đƣợc tiến hành theo đúng các nguyên tắc đã đƣợc nêu ngay trong
Luật TTHC, đảm bảo khách quan, vô tƣ, đúng pháp luật.
Khóa luận làm sáng tỏ hơn những khái niệm của khoa học Luật TTHC nên
có giá trị khoa học nhất định. Nhƣ vậy, kết quả nghiên cứu của khóa luận có đóng
góp nhất định về mặt khoa học pháp lý.
Các luận cứ và kiến nghị của đề tài có độ tin cậy và giá trị tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập, đồng thời giúp ích phần nào cho cán bộ làm
cơng tác thực tiễn trong việc tìm hiểu và áp dụng các quy định pháp luật về hoạt
động chứng minh.
8.
Kết cấu của luận văn :
Ngồi lời nói đầu, mục lục, danh mục từ viết tắt và danh mục tài liệu tham
khảo, khóa luận gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về chứng minh trong Tố tụng hành
chính.
Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng và phƣơng hƣớng hoàn thiện chế định chứng
minh trong Luật Tố tụng hành chính.



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

TỪ VIẾT TẮT

NỘI DUNG TỪ VIẾT TẮT

1

TTHC

Tố tụng hành chính

2

VAHC

Vụ án hành chính

3

PLTTGQVAHC

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án hành chính


MỤC LỤC
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ CHỨNG MINH TRONG TỐ
TỤNG HÀNH CHÍNH ...............................................................................................1

1.1
Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa chứng minh trong tố tụng hành chính ..............1
1.1.1 Khái niệm chứng minh trong tố tụng hành chính .....................................1
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động chứng minh .......................................................1
1.1.3 Ý nghĩa của hoạt động chứng minh ..........................................................3
1.1.4 Quy định của PLTTGQVAHC năm 1996, sửa đổi, bổ sung năm 1998,
2006 về hoạt động chứng minh............................................................................3
1.2

Chủ thể chứng minh .........................................................................................6
1.2.1 Đƣơng sự ..................................................................................................6
1.2.2
1.2.3
1.2.4
1.2.5

1.3

Ngƣời đại diện của đƣơng sự ..................................................................12
Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích của đƣơng sự .........................................14
Tịa án nhân dân ......................................................................................15
Viện kiểm sát nhân dân ..........................................................................18

Phạm vi chứng minh ......................................................................................20

1.3.1 Phạm vi chứng minh theo địa vị chủ thể ................................................20
1.3.2 Phạm vi chứng minh theo cấp xét xử .....................................................21
1.4
Đối tƣợng chứng minh ...................................................................................22
1.5

Quá trình chứng minh ....................................................................................24
1.5.1 Giao nộp chứng cứ ..................................................................................24
1.5.2 Xác minh, thu thập chứng cứ ..................................................................25
1.5.3 Bảo quản chứng cứ .................................................................................32
1.5.4 Đánh giá chứng cứ ..................................................................................33
1.5.5 Công bố và sử dụng chứng cứ ................................................................34
1.5.6 Bảo vệ chứng cứ .....................................................................................34
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN
CHẾ ĐỊNH CHỨNG MINH TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH .............36
2.1
Một số hạn chế, vƣớng mắc khi áp dụng những quy định của Luật Tố tụng
hành chính về hoạt động chứng minh trong vụ án hành chính .................................36
2.1.1 Về quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đƣơng sự .......................37
2.1.2 Về việc Tòa án thu thập chứng cứ thay đƣơng sự ..................................42
2.1.3 Về phía Viện kiểm sát ............................................................................45
2.2
Nguyên nhân của những thực trạng trên ........................................................46


2.2.1 Về phía đƣơng sự, ngƣời đại điện, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đƣơng sự. ............................................................................................46
2.2.2 Về phía Tịa án ........................................................................................49
2.3
Những giải pháp hồn thiện chế định chứng minh trong pháp luật tố tụng
hành chính .................................................................................................................50
2.3.1 Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật .......................................................50
2.3.2 Những giải pháp cụ thể để hiện thực các quy định của pháp luật ..........52


1

1.1

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa chứng minh trong tố tụng hành chính

1.1.1 Khái niệm chứng minh trong tố tụng hành chính
"Chứng minh” dùng để chỉ dạng hoạt động phổ biến của con ngƣời trong đời
thƣờng (ví dụ nhƣ chứng minh khi tranh luận trong các cuộc hội thảo, chứng minh
khi phát biểu bảo vệ quan điểm trên các diễn đàn...) nhằm " àm cho thấy rõ à có
thật, à đúng bằng s vi c hoặc bằng lý ẽ hoặc dùng suy luận logic vạch rõ một
điều gì đó à đúng”1. Q trình giải quyết giả thuyết bằng cách tƣ duy, logic các sự
kiện đó chính là chứng minh. Q trình chứng minh diễn ra liên tục, trong mọi mặt
của đời sống xã hội và nó là động lực cho sự phát triển, khám phá tìm tịi.
Trong TTHC, chứng minh cũng là một dạng hoạt động, nhƣng không phải là
hoạt động trong đời thƣờng mà là hoạt động tố tụng mang tính chất pháp lý đƣợc
điều chỉnh bởi Luật TTHC và pháp luật liên quan, đƣợc thực hiện bởi các chủ thể có
quyền, nghĩa vụ cụ thể thông qua hoạt động sử dụng chứng cứ với mục đích tái hiện
lại trƣớc Tịa án VAHC đã xảy ra trong quá khứ một cách chính xác và tỉ mỉ nhất có
thể có, qua đó, Tịa án có thể khẳng định có hay khơng có các sự kiện, tình tiết
khách quan làm cơ sở cho yêu cầu hay phản đối của các bên đƣơng sự trong VAHC
và kết quả của hoạt động này sẽ là một bản án, quyết định của Tịa án mang tính
chất bắt buộc áp dụng. Nó là cơng cụ để Tịa án nhận thức đƣợc chính xác sự việc
đã xảy ra trên thực tế làm cơ sở để đƣa ra phán quyết giải quyết các tranh chấp phát
sinh một cách nhanh chóng, chính xác và khách quan. Tuy nhiên, hoạt động sử
dụng chứng cứ trong TTHC không thể đƣợc tiến hành một cách tùy tiện theo ý chí
chủ quan của Tịa án hay của các chủ thể tham gia tố tụng mà phải tuân thủ nghiêm
ngặt các quy định của Luật TTHC về sử dụng chứng cứ thông qua các hoạt động tố
tụng cụ thể, bao gồm hoạt động cung cấp chứng cứ, thu thập chứng cứ, nghiên cứu
chứng cứ và đánh giá chứng cứ.

Hoạt động chứng minh trong TTHC là một quá trình gồm hoạt động của các
đƣơng sự, Tòa án, Viện kiểm sát trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh
giá chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật TTHC làm cơ sở cho việc Tòa án
chấp nhận hay bác yêu cầu của các đƣơng sự.
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động chứng minh
Hoạt động chứng minh trong TTHC có ba đặc điểm cơ bản2:
1

Hồng Phê (Chủ biên) (1988), Từ điển ti ng i t, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 212.
(truy cập ngày 26/04/2014).
2

1


Thứ nhất, hoạt động chứng minh trong TTHC là một quá trình nhận thức
diễn ra xuyên suốt VAHC, đƣợc bắt đầu khi có quyết định thụ lý đơn khởi kiện cho
đến khi Tòa án ra phán quyết. Khởi đầu là việc chứng minh của ngƣời khởi kiện cho
yêu cầu của mình thơng qua đơn khởi kiện, tiếp đến là hoạt động chứng minh của
ngƣời bị kiện bác yêu cầu của ngƣời khởi kiện, hoạt động chứng minh của ngƣời có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, của Viện kiểm sát (nếu có)… và kết thúc khi Tịa án
chứng minh cho phán quyết của mình thơng qua một bản án có giá trị bắt buộc thi
hành.
Thứ hai, bản chất của chứng minh chính là việc sử dụng chứng cứ.
Hai yếu tố cấu thành VAHC là yếu tố chủ quan (đƣơng sự) và yếu tố khách
quan (bao gồm đối tƣợng – mục đích khởi kiện và nguyên nhân – cách thức bảo vệ
quyền của các chủ thể trƣớc Tòa án). Hoạt động chứng minh đƣợc xếp vào các yếu
tố thuộc mặt khách quan của vụ án. Điều này có nghĩa là yếu tố cấu thành vụ án đã
vốn có, vốn đã tồn tại, nay chỉ đi tìm lại, diễn đạt lại một cách đầy đủ nhất, đúng
đắn nhất. Hay nói cách khác, hoạt động chứng minh là hoạt động thông qua việc sử

dụng chứng cứ để tái hiện lại sự thật khách quan của vụ án.
Q trình chứng minh khơng có gì khác ngoài việc sử dụng chứng cứ đúng
đắn (thỏa mãn ba yêu cầu về tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp) bao
gồm bốn giai đoạn khác nhau là cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ.
Các giai đoạn này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Phải có hoạt động thu thập,
cung cấp chứng cứ thì mới phát sinh hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và
kết quả của họat động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ sẽ phát sinh những nhận thức
từ VAHC, nhận thức này có đúng đắn, khách quan và tồn diện hay khơng hồn
tồn phụ thuộc vào việc cung cấp, thu thập chứng cứ có đầy đủ và đúng hay khơng.
Có thể nhận thấy rằng những giai đoạn này kéo dài xun suốt q trình giải quyết
VAHC, nó chỉ kết thúc khi Tịa án ra phán quyết. Mặc dù có thể Tòa án cấp dƣới đã
ra quyết định giải quyết vụ án nhƣng bản án này lại đƣợc giải quyết tiếp theo trình
tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì lại phát sinh hoạt động chứng minh mới
độc lập với hoạt động chứng minh trƣớc đây.
Thứ ba, chủ thể của hoạt động chứng minh rất đa dạng.
Trong một vụ án cụ thể có rất nhiều ý kiến cần phải đƣợc chứng minh là
đúng, là có thật đồng nghĩa với việc chủ thể thực hiện hoạt động chứng minh là đa
dạng. Ngƣời khởi kiện chứng minh cho yêu cầu của mình, ngƣời bị kiện chứng
minh để phản bác lại yêu cầu của ngƣời khởi kiện, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan chứng minh cho yêu cầu độc lập, Tòa án chứng minh cho phán quyết của
mình, Viện kiểm sát chứng minh cho kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
2


thẩm của mình… Ngồi ra, khi đƣơng sự khơng đủ khả năng tham gia tố tụng hoặc
không hiểu biết về pháp luật, khơng có kinh nghiệm tố tụng họ có thể nhờ ngƣời
khác thay mình tham gia tố tụng từ đó phát sinh ra các chủ thể khác tham gia tố
tụng nhƣ ngƣời đại diện, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự…
Họ có quyền và nghĩa vụ khơng giống nhau xuất phát từ vị trí tố tụng cũng nhƣ thỏa
thuận giữa họ và đƣơng sự nhƣng đây cũng là những chủ thể của họat động chứng

minh.
1.1.3 Ý nghĩa của hoạt động chứng minh
Ý nghĩa trực tiếp của chứng minh là tìm ra căn cứ để kết luận về các tình tiết
của vụ án, từ đó quyết định về yêu cầu của ngƣời khởi kiện. Không có hoạt động
chứng minh thì khơng thể có căn cứ để kết luận về các tình tiết, sự kiện và quan
điểm của đƣơng sự. Từ nguyên tắc quy định tại Điều 8 Luật TTHC về nghĩa vụ
chứng minh thì rõ ràng hoạt động chứng minh liên quan trƣớc hết đến các đƣơng sự.
Tuy nhiên, chứng minh cịn có ý nghĩa đối với việc bảo đảm cho việc giải
quyết vụ án khách quan, có căn cứ và hợp pháp, nhờ đó mà bảo đảm đƣợc pháp chế
trong hoạt động quản lí nhà nƣớc của cơ quan hành chính. Ý nghĩa này cịn thể hiện
rất rõ vì Luật TTHC cịn quy định nhiệm vụ của Tòa án, Viện kiểm sát trong việc
xác minh, thu thập và đánh giá chứng cứ3.
1.1.4
Quy định của PLTTGQVAHC năm 1996, sửa đổi, bổ sung năm
1998, 2006 về hoạt động chứng minh
Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khố IX đã thơng qua Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân, theo đó, kể từ ngày 01-7-1996 Tồ án
nhân dân các cấp chính thức đƣợc giao thẩm quyền giải quyết các VAHC. Ngày 215-1996, PLTTGQVAHC đƣợc Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội thơng qua, có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 01-7-1996 và đƣợc sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất ngày 25-121998 và sửa đổi, bổ sung lần thứ hai ngày 05-4-2006.
Việc ban hành PLTTGQVAHC và các pháp lệnh sửa đổi, bổ sung đã tạo
điều kiện cho việc giải quyết các khiếu kiện hành chính, góp phần bảo vệ lợi ích của
Nhà nƣớc, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Thứ nhất, quy định về chứng cứ, chứng minh trong PLTTGQVAHC là
những quy định chung có tính ngun tắc, là cơ sở pháp lý giúp cho các bên
đƣơng sự và Toà án tiến hành hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ, đảm bảo
nguyên tắc tranh tụng VAHC nhƣ:
3

Trƣờng Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính i t Nam, NXB

Hồng Đức, Thành Phố Hồ Chí Minh, tr. 194.

3


 Điều 5 quy định về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh của đƣơng sự;
cá nhân, cơ quan, tổ chức khác và trách nhiệm của Toà án;
 Điều 20 quy định về quyền và nghĩa vụ của các đƣơng sự trong đó có
quyền cung cấp chứng cứ;
 Điều 24 quy định quyền triệu tập ngƣời làm chứng của Viện kiểm sát;
 Điều 25 quy định Viện kiểm sát có quyền trƣng cầu giám định;
 Điều 30 quy định về đơn kiện và thời điểm xuất trình tài liệu chứng cứ
lần đầu của ngƣời khởi kiện;
 Điều 37 quy định về thông báo thụ lý và thời hạn xuất trình chứng cứ lần
đầu của ngƣời bị kiện;
 Điều 38 quy định các biện pháp thu thập chứng cứ;
 Điều 45 về hỗn phiên tồ khi cần xác minh thu thập chứng cứ bổ sung;
 Điều 59 quy định về xuất trình chứng cứ tại giai đoạn xét xử phúc thẩm.
Qua hai lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh, trong các điều trên chỉ có Điều 5
đƣợc sửa đổi về kỹ thuật câu, từ và quy định bổ sung thêm các tài liệu, trách
nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, tổ chức, cơ quan cũng nhƣ vai trò của Toà
án trong việc thu thập chứng cứ.
Thứ hai, vấn đề thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết VAHC.
PLTTGQVAHC chỉ có duy nhất Điều 38 quy định về vấn đề thu thập chứng cứ
trong quá trình giải quyết VAHC:
1- Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, n u xét thấy cần thi t, Tồ án có thể t
mình hoặc uỷ thác cho Toà án hác ti n hành xác minh, thu thập chứng cứ để àm
rõ các tình ti t của vụ án. Tồ án được uỷ thác có nhi m vụ th c hi n ngay vi c uỷ
thác và thơng báo t qu cho Tồ án đã uỷ thác.
2- i c xác minh, thu thập chứng cứ bao gồm:

a) Yêu cầu các đương s cung cấp, bổ sung chứng cứ hoặc trình bày về
những vấn đề cần thi t;
b) Yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp bằng
chứng có ý nghĩa cho vi c gi i quy t vụ án;
c) Yêu cầu người àm chứng trình bày về những vấn đề cần thi t;
d) Xác minh tại chỗ;
đ) Trưng cầu giám định và ti n hành một số bi n pháp cần thi t hác.
Nhìn chung, các quy định về chứng cứ, chứng minh của Pháp lệnh còn chƣa
cụ thể, thiếu tính minh bạch, rõ ràng và chính xác. Mặt khác trong nội dung của hai
Nghị quyết số 03/2003/NQ-HĐTP ngày 18/02/2003 và Nghị quyết số 04/2006/NQ-

4


HĐTP ngày 04/8/2006 thi hành Pháp lệnh cũng khơng có hƣớng dẫn giải thích quy
định về chứng cứ, chứng minh. Nhiều vƣớng mắc về chứng cứ, chứng minh, về
trách nhiệm và điều kiện áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ trong xét xử
VAHC phải dựa vào hƣớng dẫn giải thích tại Nghị quyết 04/2005/NQ-HĐTP
ngày 17/9/2005, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hƣớng dẫn thi hành
một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về “Chứng cứ và chứng minh”. Chính
vì vậy đã làm cho nhận thức và áp dụng các quy định của Pháp lệnh để giải quyết
các VAHC trong thời gian qua cịn tuỳ tiện, thiếu thống nhất. Khơng ít vụ án ngƣời
khởi kiện phát hiện chứng cứ nhƣng không đủ điều kiện để thu thập đƣợc, ngoại trừ
việc “cầu vi n” Tồ án4. Ngƣời bị kiện có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ nhƣng cố
tình khơng cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ. Việc thu thập chứng cứ của
đƣơng sự, Tồ án từ phía các cơ quan, tổ chức gặp khơng ít khó khăn do việc
chậm trả lời, trả lời khơng chính xác, khơng đầy đủ hoặc khơng đúng. Do pháp luật
không quy định thời hạn giao nộp chứng cứ nên đƣơng sự thƣờng chọn giai đoạn
xét xử phúc thẩm VAHC để xuất trình chứng cứ. Số vụ việc phải phúc thẩm ngày
càng gia tăng, gánh nặng thu thập chứng cứ của VAHC ln “đè nặng” lên vai

Tồ án, mà chƣa có biện pháp gì để khắc phục. Về phía Tồ án chƣa nhận thức đầy
đủ trách nhiệm chứng minh của mình, tuyệt đối hố vai trị chứng minh của đƣơng
sự hoặc dễ dàng thoả mãn với các tài liệu của đƣơng sự xuất trình. Hệ quả là
nhiều vụ án kéo dài, vi phạm thời hạn xét xử, thậm chí bị sửa, huỷ vì thiếu chứng
cứ hoặc đánh giá chứng cứ khơng chính xác, nên chất lƣợng và hiệu quả xét xử các
VAHC của Tòa án còn thấp: “Xây d ng hồ sơ vụ án hông đầy đủ; đánh giá chứng
cứ thi u hách quan, toàn di n dẫn đ n quy t định g i quy t vụ án hông đúng. Một
số trường hợp Thẩm phán chưa th c hi n đầy đủ trách nhi m của mình trong vi c
xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của pháp uật nên vi c gi i quy t vụ án
bị éo dài hoặc hông đúng pháp uật. Một số Thẩm phán cấp sơ thẩm hi gi i
quy t vụ án còn e ngại, né tránh, ngại va chạm với cơ quan, người có quy t định
hành chính, hành vi hành chính bị hi u i n”5. Thực trạng trên là một trong nhiều
nguyên nhân đặt ra yêu cầu cần phải hồn thiện các quy định của
PLTTGQVAHC nói chung, trong đó có các quy định về chứng cứ, chứng minh.
Nhƣ vậy, PLTTGQVAHC khơng có quy định cụ thể chứng cứ là gì; nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ, chứng minh trong quá trình giải quyết VAHC; những sự kiện,
tình tiết không phải chứng minh, xác định chứng cứ gồm những gì, việc giao nộp
4

Nguyễn Thị Thu Hƣơng (2011), “Bƣớc tiến quan trọng về quy định chứng cứ, chứng minh trong Luật
TTHC 2010”, Tạp chí Nghề uật, (04), tr. 18, 19.
5
Báo cáo tổng kết công tác năm 2006, 2007 của ngành Tòa án nhân dân.

5


nhƣ thế nào... Tất cả những nội dung đó đều mới đƣợc quy định lần đầu tại Luật
TTHC, từ Điều 72 đến Điều 91 tại chƣơng VI (Chứng minh và chứng cứ) của Luật
TTHC. Với những quy định đó Luật TTHC đã tạo điều kiện cho việc xác định, đánh

giá và thu thập chứng cứ đƣợc nhanh chóng, chính xác, tạo điều kiện để giải quyết
VAHC đúng pháp luật.
Chủ thể chứng minh
Tham gia vào q trình giải quyết VAHC, có rất nhiều chủ thể. Từ chủ thể
các cơ quan Nhà nƣớc nhƣ Tòa án, Viện kiểm sát… đến các chủ thể nhƣ đƣơng sự,
1.2

ngƣời làm chứng, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch. Mỗi chủ thể đều có tƣ cách tố
tụng riêng và có những quyền và nghĩa vụ tƣơng ứng. Nhƣng riêng trong hoạt động
chứng minh không phải tất cả các chủ thể trên đều là chủ thể của hoạt động chứng
minh mà tham gia vào hoạt động này chỉ có một số chủ thể theo quy định của pháp
luật xuất phát từ tƣ cách tố tụng của họ, đó là đƣơng sự, Tòa án và Viện kiểm sát.
Nghĩa vụ chứng minh trƣớc hết là nghĩa vụ pháp lý của những chủ thể nhất
định trong quá trình chứng minh, là nghĩa vụ phải làm rõ các tình tiết, sự kiện có ý
nghĩa đối với việc giải quyết vụ án. Đây là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc mà nếu không
thực hiện sẽ phải gánh chịu hậu quả pháp lý bắt buộc.
Trong khi đó, quyền chứng minh cũng là quyền pháp lý của những chủ thể
nhất định trong quá trình giải quyết vụ án đó, là khả năng của các chủ thể trong việc
cung cấp chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án cho Tòa án, đƣa ra lý lẽ, lập luận
cho yêu cầu của mình và tham gia vào việc xác minh và kiểm tra chứng cứ của Tòa
án.
Vậy chủ thể chứng minh là những ngƣời tham gia vào hoạt động chứng minh
và mỗi chủ thể này có quyền và nghĩa vụ chứng minh nhất định.
1.2.1 Đƣơng sự
Đƣơng sự bao gồm ngƣời khởi kiện, ngƣời bị kiện, ngƣời có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan (khoản 5, Điều 3 Luật TTHC) và theo quy định tại khoản 1, Điều 8
Luật TTHC thì đƣơng sự là một chủ thể của hoạt động chứng minh và là chủ thể
đầu tiên, quan trọng nhất của hoạt động chứng minh, có tất cả các quyền và nghĩa
vụ chứng minh. Điều này đƣợc thể hiện qua các khía cạnh sau:
Một là, quyền và nghĩa vụ chứng minh của đƣơng sự - một nguyên tắc

cơ bản của Luật TTHC.
Nguyên tắc về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đƣơng sự trong Luật
TTHC đƣợc kế thừa quy định tại Điều 5 PLTTGQVAHC năm 1996 (sửa đổi, bổ
sung 1998, 2006). Điều 8 Luật TTHC quy định: “đương s có quyền và nghĩa vụ

6


cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh u cầu của mình à có căn cứ và
hợp pháp”.
Nội dung nguyên tắc về nghĩa vụ chứng minh của đƣơng sự đƣợc thể hiện ở
hai mặt6:
Thứ nhất, theo nguyên tắc đƣơng sự có nghĩa vụ chứng minh. Trong TTHC
cũng giống nhƣ trong Tố tụng dân sự, các đƣơng sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
nên phải chứng minh yêu cầu của mình cịn Tịa án chỉ là trọng tài ra phán quyết.
Theo đó, khi ngƣời khởi kiện đƣa ra yêu cầu (bao gồm yêu cầu về sự công nhận là
đúng, là có lý và cả u cầu cơng nhận là khơng đúng, khơng có lý cuả quyết định
hành chính, hành vi hành chính) thì họ có nghĩa vụ chứng minh cho u cầu của
mình là có căn cứ và hợp pháp, ngƣợc lại khi ngƣời bị kiện bác bỏ lại u cầu của
ngƣời khởi kiện thì họ có nghĩa vụ chứng minh cho việc bác bỏ đó là có căn cứ và
nghĩa vụ chứng minh cũng đƣợc đặt ra đối với ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan khi đƣa ra yêu cầu của mình. Nguyên tắc này thống nhất với nguyên tắc về
quyền tự định đoạt của đƣơng sự, quyền và lợi ích của họ phải do chính họ quyết
định. Tuy nhiên không phải trong mọi trƣờng hợp các đƣơng sự đều phải thực hiện
hoạt động chứng minh.
Theo quy định tại khoản 3, Điều 23 Luật TTHC thì nếu quyết định hành
chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời chƣa
thành niên, ngƣời mất năng lực hành vi dân sự, nếu họ khơng có ngƣời khởi kiện thì
Viện kiểm sát có quyền kiến nghị Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi ngƣời đó cƣ trú cử
ngƣời giám hộ đứng ra khởi kiện VAHC để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của

ngƣời đó.
Thứ hai, khi ngƣời khởi kiện đƣa ra yêu cầu nhƣng lại khơng chứng minh
cho u cầu của mình thì khơng đƣợc Tịa án cơng nhận các quyền và lợi ích hợp
pháp. Ngƣợc lại, nếu ngƣời khởi kiện cung cấp đƣợc đầy đủ các chứng cứ để chứng
minh cho u cầu của mình là có căn cứ và phù hợp với các quy định của pháp luật
thì dựa trên cơ sở đó Tịa án ra bản án, quyết định chấp nhận yêu cầu của ngƣời
khởi kiện.
Nghĩa vụ chứng minh của đƣơng sự đã trở thành một nguyên tắc trong
TTHC. Sỡ dĩ, quy định đƣơng sự có nghĩa vụ chứng minh là vì:

6

Quyền và nghĩa vụ chứng minh của đƣơng sự – một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự:
/>s=1&item_id=17281783 (truy cập ngày 26/4/2014).

7


Thứ nhất, đƣơng sự là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung nên họ biết
đƣợc tất cả các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ án, vì vậy họ biết đƣợc chứng cứ
nào là cần thiết cho yêu cầu của họ.
Thứ hai, đƣơng sự là ngƣời có quyền và lợi ích liên quan trực tiếp đến vụ án
và để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì họ phải cung cấp chứng cứ
để chứng minh.
Nhƣ vậy, nghĩa vụ chứng minh đƣợc quy định cho cả ngƣời khởi kiện; ngƣời
bị kiện; ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đây là quy định của Luật TTHC
nhằm đảm bảo ngun tắc bình đẳng của cơng dân đƣợc quy định trong Hiến pháp
2013 nói chung7 và đảm bảo ngun tắc bình đẳng trong TTHC nói riêng 8. Đồng
thời đảm bảo quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị ngƣời khác
xâm hại.

Ngun tắc này khác hẳn so với quy định của một số nƣớc:
Ở Pháp, ngƣời ta đƣa ra một nguyên tắc sau: nếu Tịa án đã thơng báo cho cơ
quan Nhà nƣớc về việc mình bị kiện và yêu cầu trả lời trong một thời hạn nhất định,
mà quá thời hạn đó cơ quan Nhà nƣớc vẫn im lặng thì Tồ án sẽ coi những ời trình
bày của cơng dân à đúng s thật.
Luật TTHC của Trung Quốc quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan
hành chính. Khác với vụ kiện dân sự, việc thu thập chứng cứ thuộc về ngun đơn;
trong TTHC, cơ quan hành chính có nghĩa vụ chứng minh tính đúng đắn của hành
vi bị kiện của mình. Quy định này dựa trên căn cứ sau đây:

Cơ quan hành chính có đầy đủ căn cứ về pháp luật và sự việc khi thực
hiện hành vi của mình.


Ngƣời khiếu nại khơng thể nắm đƣợc tồn bộ căn cứ của quyết định

hoặc hành vi hành chính bị kiện nếu buộc họ phải có nghĩa vụ chứng minh thì khiếu
nại có nguy cơ bị bác do có khó khăn về chứng cứ.
Quy định này đã lƣu ý cơ quan hành chính khi thực hiện chức trách của mình
tránh việc ra các văn bản tuỳ tiện không thuộc thẩm quyền của mình9.
Một điểm cần lƣu ý là trong cách quy định về quyền và nghĩa vụ cung cấp
chứng chứng minh của đƣơng sự ở Điều 8 và Điều 72 Luật TTHC, gây ra hiểu lầm
rằng giữa hai điều luật này có sự mâu thuẫn. Theo đó, Điều 72 của Luật quy định
“nghĩa vụ” nhƣng Điều 8 khơng nói đƣơng sự có nghĩa vụ mà ghi là có “quyền và

7

Khoản 1 Điều 16 Hiến pháp 2013: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp uật”.
Điều 10 Luật TTHC 2010.
9

(truy cập ngày 22/05/2014).
8

8


nghĩa vụ”. Về mặt câu chữ dƣờng nhƣ giữa hai điều luật có sự mâu thuẫn nhƣng xét
về bản chất và tinh thần luật TTHC thì Điều 72 chỉ nhằm bổ sung và cụ thể hóa hơn
cho Điều 8. Theo đó, Điều 8 là điều luật mang tính ngun tắc chung và dựa trên
nguyên tắc chung ấy Điều 72 giải thích và làm rõ hơn quyền, nghĩa vụ của các
đƣơng sự.
Bên cạnh đó, khi các đƣơng sự đƣa ra yêu cầu của mình thì các đƣơng sự có
quyền cung cấp chứng cứ chứng minh nhằm đạt đƣợc những lợi ích mà các bên
hƣớng đến, bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình; ngƣợc lại
khi đƣơng sự khơng chứng minh đƣợc u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp
sẽ phải gánh chịu hậu quả là Tòa án bác bỏ yêu cầu và xử thua kiện. Sở dĩ luật
TTHC quy định nhƣ trên nhằm tạo ra sự chủ động, khuyến khích các đƣơng sự
trong việc cung cấp chứng cứ (quyền), mặt khác tạo ra cơ chế ràng buộc trách
nhiệm của họ khi không chứng minh đƣợc yêu cầu của mình (nghĩa vụ).
Hai là, ngƣời khởi kiện vừa là ngƣời phát động, đồng thời là ngƣời giới
hạn hoạt động chứng minh.
Đơn khởi kiện chính là biểu hiện rõ nét nhất của quyền đi kiện (tố quyền)
của cá nhân, cơ quan tổ chức. Khi đƣợc thụ lý, đơn khởi kiện sẽ làm phát sinh các
quyền và nghĩa vụ đƣợc quy định cụ thể trong Luật TTHC, buộc ngƣời khởi kiện
không thể tự xử để bảo vệ quyền lợi của mình và ngƣời bị kiện dù không muốn
cũng bị xét xử; mặt khác, đây cũng là cơ sở ràng buộc Tịa án có thẩm quyền phải
giải quyết yêu cầu của ngƣời khởi kiện. Trong quá trình chứng minh nói chung lại
diễn ra nhiều q trình chứng minh nhỏ nhƣ chứng minh cho yêu cầu của ngƣời
khởi kiện, bác yêu cầu của ngƣời bị kiện, yêu cầu phản tố của ngƣời bị kiện, yêu
cầu của ngƣời thứ ba… nhƣng có một điểm chung là tất cả các yêu cầu đó đều bắt

đầu phát sinh từ ngƣời khởi kiện hay ngƣời khởi kiện là ngƣời bắt đầu hoạt động
chứng minh.
Bản chất của quá trình tố tụng là giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng giữa
hai bên khởi kiện – bên bị kiện, lợi ích của một bên sẽ đồng thời là nghĩa vụ của bên
kia. Vì thế cần thiết phải có một bên thứ ba trung lập, khách quan đứng ra giải quyết
và điều hịa lợi ích giữa các bên – trọng trách này đƣợc giao cho nhà nƣớc và thể
hiện cụ thể là Tịa án có thẩm quyền với quyền lực cƣỡng chế cũng nhƣ tính trung
lập sẽ đảm bảo đƣợc quyền lợi hợp pháp của các bên, duy trì trật tự và ổn định của
xã hội. Tuy vậy, trách nhiệm của Tòa án cũng chỉ đƣợc thực hiện khi đƣơng sự có
yêu cầu, điều này thể hiện rõ nét nhất quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong
TTHC. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, những kết luận, quyết định của Tòa
án cũng dựa trên hoạt động chứng minh của đƣơng sự. Là ngƣời đƣa ra yêu cầu,
9


phát động tranh chấp nên thông thƣờng ngƣời khởi kiện là ngƣời bắt đầu hoạt động
chứng minh và cũng chính từ yêu cầu của ngƣời khởi kiện sẽ giới hạn hoạt động
chứng minh khơng chỉ của đƣơng sự mà cịn của Tòa án và những chủ thể khác của
hoạt động chứng minh.
Ví dụ khi ngƣời khởi kiện khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định thu hồi Giấy
chứng nhận quyền sử dung đất. Ngƣời khởi kiện phải chứng minh mình có căn cứ
chứng minh quyết định hành chính đó là sai. Nếu ngƣời bị kiện không đồng ý, họ sẽ
phải chứng minh điều ngƣợc lại. Tòa án cũng chỉ cần kiểm tra Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất có hợp pháp hay không? Hoạt động chứng minh trong vụ án này
sẽ bắt đầu khi ngƣời khởi kiện nộp đơn khởi kiện và đƣợc Tòa án thụ lý. Trong đơn
khởi kiện, ngƣời khởi kiện sẽ thực hiện họat động chứng minh thông qua việc cung
cấp những chứng cứ nhƣ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyết định thu hồi
đất,… Toàn bộ quá trình chứng minh sẽ xoay quanh các quyết định này.
Ba là, đƣơng sự – chủ thể chứng minh chủ yếu.
Khi ngƣời khởi kiện sử dụng quyền đi kiện (hành xử tố quyền) của mình thì

cũng là lúc vụ án đƣợc phát động kéo theo đó là rất nhiều các chủ thể khác nhau bao
gồm hai loại chính là ngƣời tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng và những
ngƣời tham gia tố tụng. Mỗi ngƣời một chức năng, nhiệm vụ khác nhau và trong đó,
hầu hết đều liên quan đến hoạt động chứng minh nhƣng hoạt động chứng minh của
đƣơng sự là chủ yếu bởi một số điểm nhƣ sau:
Thứ nhất, đƣơng sự là ngƣời thực hiện hầu hết công việc thu thập và cung
cấp chứng cứ.
Luật TTHC quy định nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ chủ yếu thuộc
về phía đƣơng sự, Tịa án chỉ tham gia thu thập trong một số ít trƣờng hợp nhƣ lấy
lời khai của ngƣời làm chứng khi xét thấy cần thiết (khoản 1 Điều 80), đối chất khi
thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của các đƣơng sự, ngƣời làm chứng (khoản 1
Điều 81), xem xét thẩm định tại chỗ (Điều 82),... Còn lại, các biện pháp thu thập
chứng cứ khác đƣợc quy định tại chƣơng VI (Chứng minh và chứng cứ) đều thuộc
về đƣơng sự nhƣ: đƣơng sự có quyền đƣợc khai báo (Điều 79), yêu cầu lấy lời khai
của ngƣời làm chứng (Điều 80), yêu cầu đối chất (Điều 81), giám định, giám định
bổ sung (Điều 83), yêu cầu định giá tài sản, thẩm định giá tài sản (Điều 85), yêu cầu
cơ quan tổ chức, cá nhân đang nắm giữ giao chứng cứ (điểm b, khoản 2 Điều 87)…
Đƣơng sự có thể thực hiện quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình thơng qua
hai cách là tự mình thu thập hoặc nhờ Tịa án thu thập hộ khi đủ điều kiện quy định
tại khoản 2 Điều 78.

10


Trong giai đoạn cung cấp chứng cứ thì đƣơng sự chính là ngƣời cung cấp
chứng cứ cho Tịa án. Đây chính là hoạt động giao nộp chứng cứ vào hồ sơ vụ án,
chứng cứ nhiều hay ít sẽ giới hạn việc tranh luận giữa các bên, chứng cứ càng cụ
thể, xác đáng bao nhiêu thì việc tranh luận và trách nhiệm của Tòa án càng đơn giản
bấy nhiêu. Quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đƣơng sự đƣợc quy định
thành một nguyên tắc tố tụng áp dụng cho cả trƣờng hợp ngƣời giám hộ đƣợc Ủy

ban nhân dân cấp xã cử để khởi kiện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời
chƣa thành niên, ngƣời mất năng lực hành vi dân sự, nếu họ khơng có ngƣời khởi
kiện. Ngƣời khởi kiện phải thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ ngay khi nộp đơn
khởi kiện tại Tòa án theo quy định tại Điều 105 Luật TTHC “Người h i i n ph i
nộp èm theo đơn h i i n tài i u, chứng cứ để chứng minh cho những u cầu
của mình à có căn cứ và hợp pháp”. Ngƣời bị kiện, ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan có quyền cung cấp chứng cứ khi Tịa án thơng báo về việc khởi kiện của
ngƣời khởi kiện “Trong thời hạn mười năm ngày ể từ ngày nhận được thông báo,
người được thông báo ph i nộp cho Tòa án văn b n ghi ý i n của mình đối với yêu
cầu của người h i i n và tài i u chứng cứ èm theo, n u có” 10. Trong q trình
giải quyết vụ án đƣơng sự có quyền cung cấp chứng cứ ở bất kỳ giai đoạn nào, nếu
không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ sẽ phải chịu những hậu quả về việc đó
“Trong q trình Tịa án gi i quy t vụ vi c dân s , đương s có quyền và nghĩa vụ
giao nộp chứng cứ cho Tòa án; N u đương s hơng nộp hoặc nộp hơng đầy đủ thì
ph i chịu hậu qu của vi c hông nộp hoặc hơng nộp đầy đủ đó…”11. Tại phiên
tịa sơ thẩm đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự có
quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho u cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp”. Đƣơng sự cịn có thể giao nộp chứng cứ tại cấp phúc thẩm “ èm theo đơn
háng cáo à tài i u, chứng cứ bổ sung n u có để chứng minh cho háng cáo của
mình à có căn cứ và hợp pháp”, tại phiên tòa phúc thẩm đƣơng sự, Kiểm sát viên
có quyền xuất trình bổ sung chứng cứ (Điều 189 Luật TTHC). Trong giai đoạn giám
đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật, đƣơng sự cũng có thể giao nộp
chứng cứ bổ sung tại Tòa án hoặc Viện kiểm sát để bảo vệ cho quyền lợi của mình.
Việc quy định đƣơng sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và thời điểm cung
cấp mở rộng tại tất cả quá trình giải quyết là tạo điều kiện để đƣơng sự có thể phát
huy hết khả năng của mình trong việc cung cấp chứng cứ. Quy định này tƣơng tự
nhƣ pháp luật Đức, Toà án bảo đảm cho các bên có quyền đƣa ra lập luận của mình
tại phiên xét xử. Trong khi đó, một số nƣớc nhƣ Pháp, Thuỵ Điển đề ra nguyên tắc
10
11


Khoản 1 Điều 115 Luật TTHC 2010.
Khoản 1 Điều 84 Luật TTHC 2010.

11


tố tụng viết, nghĩa là mọi sự tranh luận giải trình giữa các bên đều thể hiện bằng văn
bản. Tồn bộ hồ sơ vụ, việc cũng nhƣ các căn cứ pháp luật cho việc giải quyết tranh
chấp đƣợc hoàn chỉnh trƣớc khi mở phiên tồ và vì thế phiên tồ cơng khai ít nhiều
mang tính hình thức vì sự phát biểu của các bên rất hạn chế. Trƣớc toà, họ khơng có
quyền đƣa ra chứng cứ mới trừ những trƣờng hợp rất hạn hữu12.
Thứ hai, đƣơng sự là ngƣời tham gia tích cực trong hoạt động nghiên cứu,
đánh giá chứng cứ.
Hoạt động chứng minh của đƣơng sự bao gồm các hoạt động cung cấp, thu
thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ, do đó ngồi nghĩa vụ thu thập chứng cứ để
cung cấp cho Tịa án, đƣơng sự cịn có nghĩa vụ nghiên cứu chứng cứ mà mình thu
thập đƣợc trong vụ án, tiến hành xác minh những chứng cứ mình đƣa ra có hợp
pháp hay khơng. Liên quan đến hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ trong
TTHC, đƣơng sự có một số quyền nhƣ: Đƣơng sự có quyền “được bi t, ghi chép,
sao chụp tài i u, chứng cứ do các đương s hác xuất trình hoặc do Tòa án thu
thập” (điểm d, khoản 2, Điều 49 Luật TTHC). Thơng qua quyền “đƣợc biết” này,
đƣơng sự sẽ có sự chủ động cao trong việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cũng nhƣ
tìm kiếm những bằng chứng để phủ nhận quan điểm của đối phƣơng. Tại phiên tòa
sơ thẩm hoặc phúc thẩm đƣơng sự có quyền và nghĩa vụ tham gia phiên tòa (Điều
131,132 Luật TTHC), đƣợc nghe lời trình bày của các bên (Điều 149, 150, 151 Luật
TTHC), tranh luận giữa các đƣơng sự. Đây là sự thể hiện rõ ràng nhất về vai trò của
đƣơng sự trong việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cũng nhƣ trong q trình chứng
minh.
Thứ ba, vai trị chứng minh nổi bật của đƣơng sự trong sự so sánh với các

chủ thể khác của hoạt động chứng minh.
Chủ thể của hoạt động chứng minh khơng chỉ có các đƣơng sự mà cịn nhiều
ngƣời khác nhƣ ngƣời đại diện cho đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đƣơng sự, Viện kiểm sát và Tòa án. Xuất phát từ vị trí, vai trị của những
chủ thể này là khác nhau khi tham gia quan hệ tố tụng nên vai trò chứng minh và
phạm vi chứng minh của họ cũng khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng cụ
thể. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng dù trực tiếp hay gián tiếp thì vai trị chứng
minh của các chủ thể này cũng phái sinh từ vai trò chứng minh của đƣơng sự.
1.2.2 Ngƣời đại diện của đƣơng sự
Đại diện của đƣơng sự đƣợc xác định là ngƣời tham gia tố tụng thay mặt
đƣơng sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
12

(truy cập ngày 22/05/2014).

12


pháp của đƣơng sự trƣớc Tòa án. Nhƣ vậy, đại diện của đƣơng sự có quyền thay
mặt đƣơng sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ chứng minh. Đại diện đƣơng sự có
quyền này là do: đối với đƣơng sự là cá nhân vì có những đặc điểm đặc biệt về tinh
thần và thể chất, họ thua kém ngƣời bình thƣờng, nếu để họ tự thực hiện quyền và
nghĩa vụ chứng minh thì họ khơng thể thực hiện đƣợc. Do đó, để đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của đƣơng sự này pháp luật đã cho phép đại diện của họ đƣợc thực
hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh thay họ. Còn đối với đƣơng sự là cơ quan, tổ
chức xuất phát từ tính chất của cơ quan, tổ chức là một tập thể ngƣời mà quyền và
nghĩa vụ chứng minh phải do một chủ thể cụ thể thực hiện nên phải có ngƣời đứng
đầu đại diện cho cả tập thể tham gia vào hoạt động chứng minh để bảo vệ quyền lợi
cho cơ quan, tổ chức đó.
Đại diện trong Luật TTHC có hai loại đƣợc quy định tại Điều 54 Luật

TTHC, bao gồm ngƣời đại diện theo pháp luật13 và ngƣời đại diện theo ủy quyền14.
Nghĩa vụ chứng minh của ngƣời đại diện đƣợc hình thành trên cơ sở nghĩa
vụ chứng minh của đƣơng sự. Do đó, quyền và nghĩa vụ chứng minh của ngƣời đại
diện cũng tƣơng tự đối với đƣơng sự. Tùy thuộc vào họ là loại đại diện nào mà
phạm vi quyền và nghĩa vụ của họ tƣơng ứng với loại đại diện đó. Đối với đại diện
theo pháp luật, họ đƣợc thực hiện tất cả các quyền và nghĩa vụ chứng minh của
đƣơng sự nhƣng đối với đại diện theo ủy quyền thì họ chỉ đƣợc thực hiện quyền và
nghĩa vụ chứng minh trong phạm vi ủy quyền. Ngồi ra cịn tùy thuộc ngƣời đại
diện thực hiện việc đại diện cho bên đƣơng sự nào mà họ có quyền và nghĩa vụ
chứng minh tƣơng ứng.
Vì đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh thay cho đƣơng sự nên
nếu là đại diện cho ngƣời khởi kiện thì ngƣời đại diện phải có nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ, tình tiết liên quan đến vụ việc trƣớc, ngƣời đại diện cho ngƣời bị kiện nếu
phản đối lại yêu cầu của ngƣời khởi kiện thì phải đƣa ra bằng chứng cho việc phản
đối đó, ngƣời đại diện cho ngƣời có quyền và nghĩa vụ liên quan cũng thực hiện
quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích khi có
u cầu độc lập hoặc đứng về phía ngƣời khởi kiện hay ngƣời bị kiện. Bên cạnh đó,
ngƣời đại diện có quyền và nghĩa vụ chứng minh khác nhau.
13

Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 thì ngƣời đại diện theo pháp luật bao gồm có cha mẹ đối với con
chƣa thành niên, ngƣời giám hộ đối với ngƣời đƣợc giám hộ, ngƣời đƣợc Tòa án chỉ định đối với ngƣời bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự, ngƣời đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ hoặc theo quyết định
của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, chủ hộ gia đình đối với gia đình, tổ trƣởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác
(Điều 142 Bộ luật Dân sự 2005).
14
Ngƣời đại diện theo ủy quyền cũng là ngƣời thay mặt cho đƣơng sự thực hiện những quyền và nghĩa vụ tố
tụng nhƣng thông qua một giấy ủy quyền thể hiện ý chí của ngƣời đại diện và ngƣời đƣợc đại diện, phạm vi
đại diện đƣợc ghi nhận một cách cụ thể trong giấy ủy quyền đó, có thể đại diện một phần hay tồn bộ.


13


Khi tham gia vào hoạt động chứng minh, ngƣời đại diện có tồn quyền trong
việc đề ra các u cầu, phản yêu cầu và chứng minh cho những ý kiến đó. Nhƣng dù
là đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền của đƣơng sự thì vai trị chứng
minh của họ cũng phát sinh sau khi phát sinh vai trị chứng minh của đƣơng sự.
Đƣơng sự khơng thể hoặc có hạn chế nhất định khơng thực hiện đƣợc quyền và
nghĩa vụ của mình thì theo quy định của pháp luật họ có thể nhờ đến sự giúp đỡ của
ngƣời đại diện hoặc Tòa án sẽ chỉ định ngƣời đại diện cho họ. Hoạt động chứng
minh của ngƣời đại diện là “thay mặt” đƣơng sự, hành vi chứng minh của họ cũng
chính là hành vi của đƣơng sự và hƣớng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của đƣơng
sự. Khi tƣ cách đƣơng sự chấm dứt thì tƣ cách đại diện của họ cũng chấm dứt.
Nhƣ vậy, so với đƣơng sự, hoạt động chứng minh của ngƣời bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp gặp nhiều khó khăn hơn nên hiệu quả chứng minh hạn chế hơn.
Còn đƣơng sự là chủ thể của quan hệ tranh chấp, lợi ích của họ gắn với đó, họ là
ngƣời hiểu nhất về quyền và nghĩa vụ của mình, về nguyên nhân phát sinh tranh
chấp, về thực trạng quan hệ pháp luật của mình… nên hoạt động chứng minh sẽ dễ
dàng và hiệu quả hơn. Mặc dù chứng minh là một vấn đề rất quan trọng trong quá
trình giải quyết VAHC, việc quy định cụ thể chủ thể nào có nghĩa vụ chứng minh là
một vấn đề rất có ý nghĩa nhằm ràng buộc trách nhiệm của chủ thể chứng minh,
nhƣng trong Luật TTHC 2010 khơng có một quy định cụ thể nào về quyền và nghĩa
vụ chứng minh của ngƣời đại diện.
1.2.3 Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích của đƣơng sự
Tất cả các đƣơng sự khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHC, khơng phải
khi nào họ cũng có thể hiểu biết pháp luật một cách đầy đủ và đúng đắn, có những
đƣơng sự tầm hiểu biết pháp luật cịn hạn chế. Do đó, khi tham gia tố tụng, để đảm
bảm cho việc thực hiện quyền và lợi ích của mình đƣợc hiệu quả, họ có thể nhờ một
chủ thể khác có khả năng, có hiểu biết pháp luật để giúp đỡ họ - đó là ngƣời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Những ngƣời này có thể là luật sƣ hoặc bất

cứ chủ thể nào đủ điều kiện mà đƣơng sự tin tƣởng. Đây cũng là một chủ thể của
hoạt động chứng minh, họ có thể tham gia vào vụ án ở bất cứ giai đoạn nào, đƣợc
tham gia phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Tham gia vào hoạt
động chứng minh, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự có quyền
và nghĩa vụ: xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Toà án, nghiên
cứu hồ sơ vụ án và đƣợc ghi chép, sao chụp những tài liệu có trong hồ sơ vụ án để

14


thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự; tham gia phiên tồ
hoặc có văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự…15
Trong trƣờng hợp này, vai trò chứng minh của ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đƣơng sự chỉ dừng lại ở việc giúp đỡ đƣơng sự khi đƣợc “nhờ”,
đƣơng sự vẫn là ngƣời đề ra việc chứng minh, yêu cầu hoặc phản yêu cầu nhƣng do
có hạn chế về mặt pháp lý cũng nhƣ kinh nghiệm tố tụng nên họ phải cầu cứu đến
sự hỗ trợ, những ngƣời này chỉ có quyền chứ khơng có nghĩa vụ chứng minh, việc
chứng minh đƣợc hay không không ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích của họ. Ngƣời
bảo vệ quyền và lợi ích của đƣơng sự có thể khơng có mặt tại phiên tịa (Điều 131
Luật TTHC).
Theo quy định của pháp luật TTHC Việt Nam, vị trí pháp lý của ngƣời bảo
vệ quyền lợi của đƣơng sự khơng có gì khác so với đƣơng sự vì họ cùng thuộc
nhóm ngƣời tham gia tố tụng. Họ khơng có quyền thay mặt đƣơng sự mà chỉ có thể
giúp đỡ đƣơng sự. Suy cho cùng, trong hoạt động chứng minh đƣơng sự vẫn tự
mình quyết định, tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ. Điều này cũng là một
minh chứng cụ thể cho vai trò nổi bật của đƣơng sự.
Nhƣ đã trình bày ở trên, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng
sự tham gia khi đƣơng sự nhờ và giúp đƣơng sự về mặt pháp lý. Do đó, ngƣời bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự khơng tham gia chứng minh một mình
mà tham gia song song với đƣơng sự. Nếu là ngƣời bảo vệ quyền lợi cho ngƣời khởi

kiện hay ngƣời bị kiện thì cùng ngƣời khởi kiện hay ngƣời bị kiện chứng minh yêu
cầu của họ, nếu là ngƣời bảo vệ cho ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thì
cũng phải giúp ngƣời có quyền lợi và nghĩa vị liên quan chứng minh để bảo vệ
quyền lợi liên quan đó. Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự cũng
là một chủ thể chứng minh, tuy nhiên, cũng giống nhƣ ngƣời đại diện, nghĩa vụ
chứng minh của ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự chƣa đƣợc
Luật TTHC quy định một cách rõ ràng, cụ thể.
1.2.4 Tòa án nhân dân
Tuy Luật TTHC quy định nghĩa vụ chứng minh chủ yếu thuộc về đƣơng sự,
nếu đƣơng sự khơng chứng minh đƣợc thì thua kiện nhƣng điều đó khơng có nghĩa
là Tịa án đứng ngồi cuộc của quá trình chứng minh16. Khoản 2 Điều 8 Luật TTHC
quy định: “Toà án ti n hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp
do Luật này quy định”. Điều 78 quy định vai trò của Tòa án tham gia chứng minh
bằng việc: 1) yêu cầu đƣơng sự giao nộp bổ sung chứng cứ nếu xét thấy chứng cứ
15
16

Khoản 4 Điều 55 Luật TTHC 2010.
Trƣờng Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh, tlđd số 03, tr. 3.

15


trong hồ sơ VAHC chƣa đủ cơ sở giải quyết và 2) trƣờng hợp đƣơng sự khơng thể
tự mình thu thập đƣợc chứng cứ và có yêu cầu hoặc xét thấy cần thiết, Tồ án có thể
tự mình hoặc ủy thác tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để làm rõ các tình tiết
của vụ án.
Trong hoạt động chứng minh thì đối tƣợng chứng minh khơng chỉ là các sự
kiện, tình tiết khách quan mà cịn các căn cứ pháp lý của các yêu cầu của đƣơng sự.
Tòa án tham gia vào hoạt động chứng minh nhằm thu thập chứng cứ và đánh giá

chứng cứ để làm sáng tỏ vụ án. Khi thụ lý vụ án, trƣớc tiên là Tịa phải xác định
những tình tiết, sự kiện nào cần chứng minh cho yêu cầu của đƣơng sự, yêu cầu
đƣơng sự cung cấp chứng cứ cần thiết. Sau đó, Tịa án tiến hành xem xét, đánh giá
chứng cứ nhằm xác minh giá trị chứng minh của chứng cứ, làm sáng tỏ tất cả các
tình tiết, sự kiện cần chứng minh trong vụ án.
Để chứng minh, các chủ thể đều có quyền đánh giá chứng cứ nhƣng vai trò
của Tòa án trong việc đánh giá chứng cứ là quan trong nhất.
Trƣớc đây PLTTGQVAHC quy định chứng cứ và chứng minh rất sơ sài,
đồng thời chƣa quy định nguyên tắc tranh tụng nên trong thực tế việc thừa nhận và
áp dụng những quy định này còn vƣớng mắc và thiếu thống nhất, dẫn đến việc đùn
đẩy trách nhiệm, đƣơng sự chƣa thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ chứng minh của
mình, việc thu thập chứng cứ và chứng minh các tình tiết của vụ án phó mặc cho
Tịa án thực hiện, dẫn đến phán quyết của Tòa án thiếu khách quan. Trong nhiều vụ
án Tòa án phải tiến hành tất cả các công việc từ thu thập chứng cứ đến kiểm tra, xác
minh, đánh giá chứng cứ và ra phán quyết, thậm chí có vụ án khơng giải quyết đƣợc
do đƣơng sự giữ chứng cứ mà khơng cung cấp cho Tịa án, hoặc biết các tình tiết, sự
kiện liên quan đến vụ án mà khơng cung cấp, Tịa án khơng có cơ sở để ra phán
quyết trong khi đó đƣơng sự là ngƣời đƣa ra yêu cầu để Tòa án giải quyết.
Sở dĩ pháp luật Việt Nam quy định Tòa án có nghĩa vụ chứng minh là do
những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, khả năng tự bảo vệ của các đƣơng sự là rất yếu, sự hiểu biết pháp
luật của họ còn hạn hẹp. Hơn nữa, Việt Nam chƣa có chế định tham gia bắt buộc
của luật sƣ và cũng chƣa có điều kiện để thực hiện tốt chế định này. Nếu quy định
đƣơng sự có nghĩa vụ chứng minh tồn bộ thì có thể dẫn tới các đƣơng sự khơng có
khả năng chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và hậu quả là
quyền và lợi ích hợp pháp của họ không đƣợc bảo vệ.
Thứ hai, do ở nƣớc ta việc phổ cập các loại giấy tờ, tài liệu cịn hạn chế, có
những văn bản hiện đang do một số cơ quan quản lý, thêm vào đó là việc quản lý
hành chính cịn cồng kềnh, quan liêu, điều kiện máy móc, trang thiết bị chƣa cho
16



×