Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

CHẾ ĐỊNH CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.66 KB, 40 trang )

BÀI TẬP NHÓM

MÔN : LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
VIỆT NAM
Đề tài : CHẾ ĐỊNH CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

NỘI DUNG
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I/ Khái quát chung về Chế định chứng minh:
1. Khái niệm
1


2. Ý nghĩa của Chế định chứng minh
3. Cơ sở của chế định chứng minh
II/ Nội dung chế định chứng minh :
1. Chủ thể chứng minh :
1.1. Đương sự
1.2. Người đại diện của đương sự
1.3. Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự
1.4. Người làm chứng, người giám định
1.5. Người giám định
1.6. Tòa án Nhân dân
1.7. Viện kiểm sát Nhân dân
2. Đối tượng chứng minh
2.1. Đối tượng chứng minh
2.2. Những tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh
2.3. Phương tiện chứng minh
III/ Trình tự, thủ tục chứng minh
IV/ Thực tiễn áp dụng, phương hướng hoàn thiện và kiến nghị của nhóm


1. Thực tiễn xét xử và những bất cập
2. Phương hướng hoàn thiện và Kiến nghị nhóm
C. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

BÀI LÀM
A. ĐẶT VẤN ĐỀ

2


Luật tố tụng dân sự Việt Nam bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự để đảm bảo việc giải quyết
vụ việc dân sự và thi hành án dân sự nhanh chóng , đúng đắn bảo vệ quyền , lợi
ích hợp pháp của cá nhân , cơ quan , tổ chức và lợi ích của nhà nước 1. Luật Tố
tụng dân sự là luật hình thức của nhiều ngành luật nội dung như: Bộ luật Dân sự,
Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật Lao động …Có thể thấy luật Tố tụng dân sự
giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Với tư cách là luật
hình thức, để giải quyết các vụ việc dân sự một cách đúng đắn thì đòi hỏi Luật tố
tụng dân sự phải làm rõ mọi vấn đề trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự .
Trong đó chứng minh là hoạt động cơ bản, trước tiên và quan trọng nhất mà các
chủ thể tố tụng hướng tới, đây cũng là căn cứ để toà án đưa ra các phán quyết của
mình. Khi giải quyết bất kỳ vụ việc dân sự nào cũng đều phải tiến hành hoạt động
chứng minh.
Báo cáo công tác của ngành Tòa án năm 2001 đã nhận định “ Chất lượng
hồ sơ vụ án dân sự , hôn nhân và gia đình phụ thuộc vào chất lượng điều tra , xác
minh, thu thập tài liệu chứng cứ có đầy đủ, chính xác và khách quan hay không và
có chấp hành nghiêm chỉnh thủ tục tố tụng hay không là cơ sở của một bản án ,
quyết định đúng đắn” 2. Trong bài viết đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật số
12/2008 cũng khẳng định “ Chứng minh và chứng cứ là yếu tố xương sống của

pháp luật tố tụng nói chung trong đó có pháp luật tố tụng dân sự. Mọi hoạt động
tố tụng đều tập trung làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh bằng việc thu
thập và đánh giá chứng cứ” 3
Nhận thấy được vai trò quan trọng của Chứng minh trong tố tụng dân sự,
nhóm đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài “ Chế định chứng minh trong tố tụng dân
sự”. Đây không phải là một đề tài mới, đã có rất nhiều bài viết của nhiều tác giả về
1

Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam – ĐH Luật Hà Nội , NXB Tư pháp năm 2006, tr.1

2

Trích “ Báo cáo công tác của ngành Tòa án”, năm 2001.

3

Xem “ Bàn về chế định chứng minh và chứng cứ trong Tố tụng dân sự “, Phạm Quý Thái, Tạp chí Dân
chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số 12/2008.

3


vấn đề này như “ Các quy định về chứng minh trong Tố tụng dân sự” - Ths
Nguyễn Công Bình, “ Bàn về Chế định chứng cứ và chứng minh trong Tố tụng
dân sự” - Phạm Quý Thái, hay “ Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự” –
Ths Dương Quốc Thành …Tuy nhiên dưới góc độ là những sinh viên luật bài viết
của nhóm đi vào làm rõ các vấn đề cơ bản về : Nội dung, vai trò của chế định
chứng minh cũng như thực tiến áp dụng và phương hướng hoàn thiện chế định
chứng minh trong Tố tụng dân sự.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I/ Khái quát chung về Chế định chứng minh :
Trong thế giới khách quan luôn tồn tại nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau
đòi hỏi con người phải nhận thức và đánh giá. Trong mỗi sự vật, hiện tượng lại có
nhiều đặc tính khác nhau, có những đặc tính có thể nhận biết một cách nhanh
chóng, rõ ràng bằng các giác quan nhưng cũng tồn tại những đặc tính không thể
nhận biết ngay mà phải trải qua một quá trình tư duy, giải thích, móc nối các sự
kiện để có thể đi đến được kết luận và việc đầu tiên là phải đưa ra những giả
thuyết để định hướng tư duy. Quá trình giải quyết giả thuyết bằng cách tư duy,
móc nối các sự kiện đó chính là chứng minh. Quá trình chứng minh diễn ra liên
tục, trong mọi mặt của đời sống xã hội và nó là động lực cho sự phát triển, khám
phá tìm tòi. Chế định về chứng minh được coi là một trong những xương sống của
luật tố tụng dân sự.
1. Khái niệm :
Chế định theo Lý luận chung nhà nước và pháp luật đó là tập hợp của hai
hay nhiều quy phạm pháp luật, điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội nhất định có
tính chất chung và liên hệ mật thiết với nhau. Như vậy chế định chứng minh trong
Tố tụng dân sự có thể hiểu là tập hợp của các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt
động chứng minh của các chủ thể tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự
và được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự. Chứng minh hay hoạt động chứng
minh là gì? Thì luật tố tụng dân sự Việt Nam chưa đưa ra được khái niệm cụ thể.

4


Tuy nhiên từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa “ Chứng minh là làm cho thấy
rõ là có thật , là đúng bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ ” 4. Hoạt động “ làm cho thấy
rõ là có thật” được gọi là hoạt động chứng minh. Trong giáo trình Luật Tố tụng
dân sự, Đại học Luật Hà Nội cũng đã viết “ Chứng minh trong tố tụng dân sự là
hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng theo quy định của pháp luật trong việc
làm rõ các sự kiện , tình tiết của vụ việc dân sự” 5. Hoạt động chứng minh trong

TTDS là một dạng của hoạt động chứng minh nói chung nhưng khác biệt ở chỗ
hoạt động này là hoạt động mang tính chất pháp lý được điều chỉnh bởi luật tố
tụng dân sự và pháp luật liên quan, được thực hiện bởi các chủ thể có quyền, nghĩa
vụ cụ thể và kết quả của hoạt động này sẽ là một bản án, quyết định của tòa án
mang tính chất bắt buộc áp dụng.
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình gồm hoạt động
của tòa án, viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng trong việc cung cấp, thu
thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ làm cơ sở cho yêu cầu, phản đối yêu cầu
của mình và phán quyết của tòa án trên cơ sở quy định của pháp luật.
Qua những lập luận trên có thể đưa ra một số nhận xét sau :
-

Bản chất của hoạt động chứng minh của các chủ thể tố tụng không

chỉ thể hiện ở chỗ xác định , làm rõ các tình tiết sự kiện của vụ việc dân sự mà còn
phải làm cho mọi người “ thấy rõ là có thật, là đúng”
-

Chứng minh có tính chất chi phối kết quả giải quyết vụ việc dân sự

của Tòa án, trên cơ sở này Tòa án đưa ra phán quyết, quyết định của mình.
-

Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình nhận

thức diễn ra suyên suốt vụ án dân sự, được bắt đầu khi có quyết định thụ lý đơn
khởi kiện cho đến khi tòa án ra phán quyết. Khởi đầu là việc chứng minh của
nguyên đơn cho yêu cầu của mình thông qua đơn khởi kiện, tiếp đến là hoạt động
chứng minh của bị đơn bác yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố (nếu có),
4


Xem : Từ điển tiếng Việt , NXB Đà Nẵng , năm 2003, tr 192.

5

Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam – ĐH Luật Hà Nội , NXB Tư pháp năm 2006, tr.134

5


hoạt động chứng minh của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, của Viện kiểm
sát (nếu có)… và kết thúc khi tòa án chứng minh cho phán quyết của mình thông
qua một bản án có giá trị bắt buộc thi hành. Hoạt động chứng minh bao gồm nhiều
hoạt động khác nhau của các chủ thể tố tụng : Hoạt động cung cấp, thu thập ,
nghiên cứu , đánh giá chứng cứ và chỉ ra các căn cứ pháp lý để làm cho mọi người
nhận thức đúng sự việc. Trong đó hoạt động cung cấp , thu thập, nghiên cứu và
đánh giá chứng cứ tại phiên tòa là mang tính quyết định .
-

Chứng minh chính là việc sử dụng chứng cứ.

Hai yếu tố cấu thành vụ án dân sự là yếu tố chủ quan (đương sự) và yếu tố
khách quan (bao gồm đối tượng – mục đích khởi kiện và nguyên nhân – cách thức
bảo vệ quyền của các chủ thể trước tòa án). Hoạt động chứng minh được xếp vào
các yếu tố thuộc mặt khách quan của vụ án. Điều này có nghĩa là yếu tố cấu thành
vụ án đã vốn có, vốn đã tồn tại, nay chỉ đi tìm lại, diễn đạt lại một cách đầy đủ
nhất, đúng đắn nhất. Hay nói cách khác, hoạt động chứng minh là hoạt động thông
qua việc sử dụng chứng cứ để tái hiện lại sự thật khách quan của vụ án.
Là một yếu tố quan trọng nên khái niệm chứng cứ được luật tố tụng dân sự
của nhiều nước đề cập đến. Một số nước xây dựng luật về chứng cứ thể hiện sự

quan trọng của vấn đề này. Luật tố tụng dân sự Nhật Bản định nghĩa: “Chứng cứ
là một tư liệu thông qua đó một tình tiết được tòa án công nhận và là một tư liệu,
cơ sở thông qua đó tòa án được thuyết phục là một tình tiết có tồn tại hay
không?” hoặc theo điều 401 Luật chứng cứ của Mỹ định nghĩa “Chứng cứ là
những gì mà hàm chứa trong nó sự tồn tại của bất cứ một sự thực nào mà bản thân
sự hàm chứa đó ảnh hưởng tới việc xác định được một hành động hơn hoặc kém
hơn”. Trong Luật TTDS 2004, khái niệm chứng cứ lần đầu tiên được ghi nhận một
cách tương đối đầy đủ tại Điều 81, theo đó:
“Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được
theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định mà tòa án dùng làm căn cứ để xác
6


định yêu cầu hay phản đối của đương sự là có căn cứ hợp pháp hay không cũng
như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự”.
Quá trình chứng minh là việc sử dụng chứng cứ đúng đắn bao gồm bốn giai
đoạn khác nhau là cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Các giai
đoạn này có mối liên hệ mật thiết với nhau, chỉ có giai đoạn trước mới có giai
đoạn sau, và giai đoạn sau sẽ là cơ sở để đánh giá tính đúng đắn và triệt để của giai
đoạn trước. Phải có hoạt động thu thập, cung cấp chứng cứ thì mới phát sinh hoạt
động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và kết quả của họat động nghiên cứu, đánh
giá chứng cứ sẽ phát sinh những nhận thức từ vụ án dân sự, nhận thức này có đúng
đắn, khách quan và toàn diện hay không hoàn toàn phụ thuộc vào việc cung cấp,
thu thập chứng cứ có đầy đủ và đúng hay không. Bốn giai đoạn này kéo dài, nối
tiếp và đan xen nhau, không thể tách bạch cơ học từ thời điểm nào đến thời điểm
nào là giai đoạn cung cấp, thu thập, nghiên cứu hay đánh giá chứng cứ. Nhưng có
thể nhận thấy rằng những giai đoạn này kéo dài suyên suốt quá trình giải quyết vụ
án dân sự, nó chỉ kết thúc khi tòa án ra phán quyết. Mặc dù có thể tòa án cấp dưới
đã ra quyết định giải quyết vụ án nhưng bản án này lại được giải quyết tiếp theo

trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì lại phát sinh hoạt động chứng
minh mới độc lập với hoạt động chứng minh trước đây.
-

Chủ thể chứng minh rất đa dạng : Chủ thể tham gia hoạt động chứng

minh không chỉ có các đương sự mà còn có các chủ thể khác như người đại diện ,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sư…. Như đã phân tích ở trên,
chứng minh là làm cho rõ là đúng, là có thật. Trong một vụ án cụ thể có rất nhiều
ý kiến cần phải được chứng minh là đúng, là có thật đồng nghĩa với việc chủ thể
thực hiện hoạt động chứng minh là đa dạng. Nguyên đơn chứng minh cho yêu cầu
của mình, bị đơn chứng minh cho bác yêu cầu, yêu cầu phản tố (nếu có) tòa án
chứng minh cho phán quyết của mình, Viện kiểm sát chứng minh cho kháng nghị
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của mình… Ngoài ra, khi đương sự không đủ
khả năng tham gia tố tụng hoặc không hiểu biết về pháp luật, không có kinh
nghiệm tố tụng họ có thể nhờ người khác thay mình tham gia tố tụng từ đó phát
7


sinh ra các chủ thể khác tham gia tố tụng như người đại diện, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự… họ có quyền và nghĩa vụ không giống nhau
xuất phát từ vị trí tố tụng cũng như thỏa thuận giữa họ và đương sự nhưng đây
cũng là những chủ thể của họat động chứng minh.
Do chủ thể tố tụng tham gia vào hoạt động chứng minh rất phức tạp => Để
đảm bảo hiệu quả giải quyết vụ việc dân sự , bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự thì pháp luật tố tụng dân sự đã đưa ra các quy định về : Chủ thể chứng
minh; quyền và nghĩa vụ của chủ thể chứng minh; những tình tiết , sự kiện trong
vụ việc dân sự phải chứng minh và những tình tiết , sự kiện nào không phải chứng
minh; trình tự , thủ tục chứng minh. Những vấn đề này trong các phần tiếp theo
nhóm sẽ đi vào phân tích và làm rõ.

2. Ý nghĩa của Chứng minh:
Chứng minh là một chế định lớn trong Bộ Luật Tố tụng dân sự , là hoạt
động cơ bản của các chủ thể tố tụng. Chứng minh đã và đang giữ vai trò và ý
nghĩa quan trọng trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ việc dân sư .
-

Nó là công cụ để tòa án có thể nhận thức được chính xác sự việc đã

sảy ra trên thực tế làm cơ sở để đưa ra phán quyết giải quyết các tranh chấp phát
sinh một cách nhanh chóng, chính xác và khách quan. Việc ra phán quyết hay
quyết định chính là kết quả của Hoạt động chứng minh. Chứng minh là biện pháp
để làm rõ các sự kiện và tình tiết của vụ việc dân sự , dựa trên những nghiên cứu
đánh giá chứng cứ Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ việc dân sự.
-

Chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm hoạt động của nhiều chủ

thể , trong đó hoạt động chứng minh của đương sự là chủ yếu. Chế định chứng
minh trong luật tố tụng dân sự có ý nghĩa quan trọng đối với các đương sự, đảm
bảo cho các đương sự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa
án. Đối với các đương sự, chứng minh là phương tiện duy nhất để họ có thể bảo vệ
được các quyền và lợi ích của mình. Khi vụ việc dân sự được tòa án thụ lý và giải
quyết cũng đồng nghĩa với việc bên nguyên đơn cho rằng quyền và lợi ích của

8


mình bị xâm phạm, bên bị đơn không thừa nhận các quyền và lợi ích đó của
nguyên đơn nên yêu cầu tòa án phân xử. Trong quá trình tố tụng có thể phát sinh
nhiều chủ thể khác, khi họ đưa ra yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu thì họ cũng có

nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của mình là đúng, là có
thật. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ việc dân sự là chứng minh giả thuyết do các
bên đưa ra. Cho dù giả thuyết đó có được công nhận là đúng, là có thật hay không
thì toàn bộ quá trình đó vẫn được coi là hoạt động chứng minh.
3. Cơ sở của chế định Chứng minh:
Hoạt động chứng minh là hoạt động của nhiều chủ thể tố tụng, tuy nhiên
trong đó hoạt động chứng minh của đương sự là cơ bản và quan trọng nhất. Việc
các đương sự phải cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình xuất
phát từ quyền tự định đoạt của đương sự đối với việc khởi kiện của mình. Trong tố
tụng dân sự, việc cung cấp chứng cứ, chứng minh cho các yêu cầu của mình vừa là
quyền vừa là nghĩa vụ của đương sự ( Điều 79 BLTTDS). Nghĩa vụ chứng minh
không chỉ đặt ra đối với bên khởi kiện mà còn đối với cả bên bị kiện, người liên
quan không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn.Pháp luật tố tụng dân sự đặt ra
nghĩa vụ chứng minh cho đương sự và được cụ thể bằng các quy định pháp luật
trong BLTTDS bởi lẽ quan hệ dân sự là quan hệ tư giữa các bên, do các bên tự
quyết định, tự giải quyết là chủ yếu. Chỉ khi các bên không tự giải quyết được thì
họ cũng tự quyết định có yêu cầu Nhà nước hỗ trợ hay không. Mặt khác, các bên
đương sự là những người hiểu rõ vụ việc của mình nhất, thường biết rõ tài liệu,
chứng cứ liên quan đến vụ việc của mình có những gì và đang ở đâu. Do đó, khi
các bên đã đưa việc tranh chấp thì họ phải chứng minh được những gì mình đưa
ra.
Về mặt cơ sở pháp lý chế định chứng minh trong BLTTDS là sự kế thừa từ
các quy định trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 (điều
3), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 (điều 3) và Pháp lệnh
thủ tục giải quyết tranh chấp lao động năm 1996 (điều 2). Cụ thể từng điều luật
như sau:
9


Điều 3 (PLTTGQCVADS) – Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh:

Đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình. Tòa án có
nghĩa vụ xét xử mọi tình tiết liên quan đến vụ án và khi cần thiết có thể thu nhập
thêm chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết các vụ án được chính xác.
Điều 3 (PLTTGQCVAKT) – nghĩa vụ chứng minh: Đương sự có nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền lợi của mình.
Điều 2 (PLTTGQCVALĐ) – Xác minh, thu thập chứng cứ: Khi cần thiết,
tòa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ hoặc yêu cầu các bên tranh chấp lao
động, cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo đảm
cho việc giải quyết các vụ án lao động được chính xác, công bằng. Các bên tranh
chấp lao động, cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu phải cung cấp đầy đủ và
đúng thời hạn theo yêu cầu của tòa án.
Chế định chứng minh được hình thành trên cở sở quyền tự định đoạt của
các đương sự và là sự kế thừa của các văn bản pháp luật trước và đã được hình
thành rõ nét trong Bộ luật Tố tụng dân sự hiện nay.
II/ Nội dung chế định chứng minh :
1. Chủ thể chứng minh :
Chủ thể chứng minh – tức là chủ thể có quyền và nghĩa vụ chứng minh,
những đối tượng thực hiện hoạt động chứng minh – trong tố tụng dân sự là các chủ
thể của tổ tụng dân sự. Cụ thể, đó là những người tham gia tố tụng gồm đương sự
đưa ra yêu cầu, đương sự phản đối yêu cầu, đại diện đương sự, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định và
thành phần tiến hành tố tụng, tức cơ quan Tòa án Nhân dân và Viện Kiểm sát.
Các chủ thể trong hoạt động chứng minh:
1.1 Đương sự:
Đương sự - cả bên đưa ra yêu cầu lẫn bên phản đối yêu cầu – là những chủ
thể chứng minh chủ yếu. Chứng minh và cung cấp chứng cứ là cơ sở để đương sự
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, từ đó cung cấp căn cứ để Tòa án đưa
ra các phán quyết; bởi vậy đó là quyền và cũng là nghĩa vụ của đương sự. Sở dĩ có
10



nguyên tắc này là vì một đặc tính quan trọng của tố tung dân sự chính là sự tự
nguyện: các đương sự tự nguyện tham gia vào quan hệ tố tụng, Tòa án chỉ tham
gia khi có yêu cầu của đương sự và chỉ có thẩm quyền đối với những gì mà đương
sự cần. Trên cơ sở đó, đương sự sẽ cung cấp cho Tòa án những chứng cứ và chứng
minh phù hợp với yêu cầu của mình.
Xét về yếu tố thực tiễn, đương sự là là người trong cuộc, và hơn ai hết là
người hiểu rõ nhất tình tiết vụ việc, hiểu rõ mình cần phải làm gì để chứng minh
cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Hơn nữa trên thực tế, tòa án cũng
có thể có sai lầm trong việc xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự,
không làm sáng tỏ được các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự; điều này một mặt
dẫn đến việc giải quyết vụ việc không đúng với sự thật, mặt khác làm cho đương
sự không bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Cho nên, trọng trách chứng
minh nằm ở trong tay đương sự. Trước tòa án, nếu đương sự không chứng minh
được sự tồn tại quyền, lợi ích hợp pháp của họ thì quyền và lợi ích hợp pháp của
họ có thể sẽ không được tòa án bảo vệ.
Trong giai đoạn đầu của tố tụng dân sự, đương sự là người thực hiện hầu
hết công việc thu thập và cung cấp chứng cứ. Chứng cứ nhiều hay ít sẽ giới hạn
việc tranh luận giữa các bên; chứng cứ càng cụ thể, xác đáng bao nhiêu thì việc
tranh luận và trách nhiệm của tòa án càng đơn giản bấy nhiêu. Theo nguyên tắc tại
điều 79 BLTTDS “Đương sự có yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình phải đưa ra chứng cứ để chứnh minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp
pháp”, trách nhiệm đầu tiên của đương sự đối với hoạt động chứng minh trong tố
tụng là nộp kèm nội dung đơn kiện những “tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho
yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp” (Điều 165 BLTTDS), nếu không đáp
ứng điều kiện này thì đơn khởi kiện sẽ không được tòa án chấp nhận và tòa án sẽ
trả lại đơn khởi kiện. Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự có quyền cung
cấp chứng cứ ở bất kỳ giai đoạn nào, nếu không cung cấp hoặc cung cấp không
đầy đủ sẽ phải chịu những hậu quả về việc đó (khoản 1 Điều 84). Các biện pháp


11


thu thập chứng cứ được quy định tại chương VII BLTTDS về chứng cứ và chứng
minh đều thuộc về đương sự, như:
Quyền khai báo (Điều 86). Thực chất quyền này phát sinh từ khi đương sự
khởi kiện, lúc ấy đương sự đã phải có bản khai báo; trong giai đoạn tố tụng nếu
nhận thấy trong lời khai của đương sự có những tình tiết chưa đầy đủ, chưa rõ ràng
thì phải lấy lại lời khai. Biên bản ghi lời khai của đương sự phải được người khai
tự đọc lại hay nghe đọc lại và ký tên hoặc điểm chỉ. Đương sự có quyền yêu cầu
ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản ghi lời khai và ký tên hoặc điểm chỉ xác
nhận.
Quyền yêu cầu yêu cầu lấy lời khai của người làm chứng (Điều 87)
Quyền yêu cầu đối chất (Điều 88)
Quyền thỏa thuận, lựa chọn giám định, giám định bổ sung (Điều 90)
Quyền yêu cầu định giá tài sản (Điều 92)
Quyền yêu cầu cơ quan tổ chức, cá nhân đang nắm giữ giao chứng cứ (Điều
94)
Tuy việc thu thập chứng cứ là trách nhiệm của đương sự đối với yêu cầu
của mình và họ có sự chủ động trong các thao tác thu thập, nếu đương sự có yêu
cầu, Tòa án hoặc Viện kiểm sát vẫn có thể can thiệp bởi nếu không can thiệp sẽ
gây ra tình trạng lộn xộn và đôi khi chứng cứ thu thập được không có giá trị pháp
lý.
Trong giai đoạn xét xử, đương sự là người tham gia tích cực trong hoạt
động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Hai hoạt động này đan xen và diễn ra trong
suốt quá trình giải quyết vụ án, đòi hỏi không những phải có hệ thống chứng cứ
đầy đủ mà còn đòi hỏi chủ thể nghiên cứu, đánh giá phải nhìn nhận một cách toàn
diện, đặt hệ thống chứng cứ trong mối liên hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Yêu
cầu đặt ra là phải loại bỏ được những yếu tố mang tính “ngẫu nhiên”, tìm ra các
yếu tố “tất nhiên” – mang tính quy luật nội tại mới có thể nhận thức chính xác vụ

án. Mặc dù trên thực tế thì việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ là của thẩm phán
phụ trách giải quyết vụ án hoặc các thành viên của hội đồng xét xử, để tòa án nhận
12


biết được vụ việc một cách nhanh và khách quan nhất thì các đương sự và một số
chủ thể khác cũng có thể tham gia vào hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ
và thực tế đã cho thấy, rất nhiều vụ án hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ
của tòa án đạt hiệu quả cao lại dựa trên kết quả nghiên cứu, đánh giá của đương
sự. Cụ thể là:
Tại phiên tòa sơ thẩm, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự có quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là
có căn cứ và hợp pháp” (khoản 3 Điều 221). Đương sự còn có thể giao nộp chứng
cứ tại cấp phúc thẩm “kèm theo đơn kháng cáo là tài liệu, chứng cứ bổ xung nếu
có để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp”; tại phiên
tòa phúc thẩm “đương sự, Kiểm sát viên có quyền xuất trình bổ sung chứng
cứ” (khoản 3 Điều 271). Trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định
của pháp luật, đương sự cũng có thể giao nộp chứng cứ bổ sung tại tòa án hoặc
viện kiểm sát để bảo vệ cho quyền lợi của mình. Việc quy định đương sự có nghĩa
vụ cung cấp chứng cứ và thời điểm cung cấp mở rộng tại tất cả quá trình giải
quyết là tạo điều kiện để đương sự có thể phát huy hết khả năng của mình trong
việc cung cấp chứng cứ.
Đối với hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, đương sự không có
nhiều quyền hạn như thẩm phán hoặc các thành viên của hội đồng xét xử, những
người phụ trách giải quyết vụ án, nhưng BLTTDS 2004 cũng quy định 1 số quyền
cho đương sự về vấn đề này. Chẳng hạn, đương sự có quyền “được biết, ghi chép,
sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do tòa án thu
thập” (điểm đ khoản 2 Điều 58). Khi có quyền được biết này, đương sự sẽ có sự
chủ động cao trong việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cũng như tìm kiếm những
bằng chứng để phủ nhận quan điểm của đối phương. Tại phiên tòa sơ thẩm hoặc

phúc thẩm đương sự có quyền và nghĩa vụ tham gia phiên tòa (Điều 199, 200,
201), được nghe lời trình bày của các bên (Điều 221), được trình bày quan điểm ý
kiến của mình (Điều 197), được tham gia hỏi tại phiên tòa (Điều 222) và đặc biệt
BLTTDS đã dành một phần là mục 4 chương XIV để quy định về việc tranh luận
13


giữa các đương sự, đây giai đoạn mà vai trò của đương sự trong việc nghiên cứu,
đánh giá chứng cứ cũng như trong quá trình chứng minh được thể hiện rõ ràng
nhất. Thậm chí, sự tranh luận này có hệ quả trực tiếp đến phán quyết của tòa án
giải quyết vụ việc.
Ngoài các đương sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự còn quy định các cá nhân, cơ
quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác cũng có nghĩa vụ phải chứng minh những quyền và lợi ích này (Điều
79), bởi tuy không có quyền, lợi ích gắn liên với vụ việc dân sự nhưng các cá
nhân, cơ quan, tổ chức này cũng đưa ra yêu cầu và biết rõ sự việc. Các cá nhân, cơ
quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà
nước hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng có nghĩa vụ tương tự.
1.2 Người đại diện của đương sự:
Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự là người thay mặt cho
đương sự trong việc xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhằm mục
đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho đương sự. Người này có thể là người
đại diện theo pháp luật (cha mẹ đối với con chưa thành niên, người giám hộ đối
với người được giám hộ, người được tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự, người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ hoặc theo
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ hộ gia đình đối với gia đình,
tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác, cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích
của người khác với người đó, người được Tòa án chỉ định làm đại diện,..) hoặc
người đại diện theo ủy quyền của đương sự. Nghĩa vụ chứng minh của họ được
hình thành trên cơ sở quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự; họ đại diện

cho đương sự nào thì có quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự đó (trong
trường hợp người đại diện theo pháp luật thì có toàn bộ nghĩa vụ chứng minh của
đương sự, trường hợp đại diện theo ủy quyền thì chỉ có nghĩa vụ chứng minh trong
phạm vi được ủy quyền). Đương sự không thể hoặc có hạn chế nhất định không
thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình thì theo quy định của pháp luật họ có
thể nhờ đến sự giúp đỡ của người đại diện hoặc tòa án sẽ chỉ định người đại diện
14


cho họ, nên hoạt động chứng minh của người đại diện là “thay mặt” đương sự,
hành vi chứng minh của họ cũng chính là hành vi của đương sự và hướng đến việc
bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Khi tư cách đương sự chấm dứt thì tư cách
đại diện của họ cũng chấm dứt.
Quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho đương sự trong tố tụng dân sự và
trong hoạt động chứng minh được thực hiện theo nguyên tắc quy định tại điều 74
BLTTDS:
“1. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền
và nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự mà mình đại diện.
2. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền
và nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản ủy quyền.”
Khi tham gia vào hoạt động chứng minh, người đại diện có toàn quyền
trong việc đề ra các yêu cầu và chứng minh cho những ý kiến đó.
1.3 Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương
sự nhờ và tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự (khoản 1 Điều 64 BLTTDS). Những người này có thể là luật sư
hoặc bất cứ chủ thể nào đủ điều kiện mà đương sự tin tưởng. Đây cũng là một chủ
thể của hoạt động chứng minh, họ có thể tham gia vào vụ án ở bất cứ giai đoạn
nào, được tham gia phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Trong
trường hợp của đối tượng này, vai trò chứng minh của họ chỉ dừng lại ở việc giúp

đỡ đương sự khi được “nhờ”, đương sự vẫn là người đề ra việc chứng minh, yêu
cầu nhưng do có hạn chế về mặt pháp lý cũng như kinh nghiệm tố tụng nên họ
phải cầu cứu đến sự hỗ trợ. Những người này chỉ có quyền chứ không có nghĩa vụ
chứng minh, việc chứng minh được hay không không ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích của họ.
Liên quan đến hoạt động chứng minh, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự có quyền (Điều 64 BLTTDS):

15


“2. Xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho tòa án, nghiên
cứu hồ sơ vụ án và được sao chụp những tài liệu cần thiết trong hồ sơ để thực hiện
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
5. Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ”
1.4 Người làm chứng, người giám định
Người làm chứng là người tham gia tố tụng để làm rõ các tình tiết, sự kiện
của vụ việc dân sự do biết được các tình tiết, sự kiện đó. Trong chứng minh, họ là
người cung cấp chứng cứ cho đương sự trong giai đoạn chuẩn bị và cho Tòa án tại
phiên tòa. Những chứng cứ của người chứng minh không chỉ có vai trò bổ sung
cho chứng cứ của đương sự mà còn giúp thẩm định lại những chứng cứ mà đương
sự đưa ra. Những người này thường khách quan hơn đương sự do họ không có
quyền và lợi ích liên quan đến vụ việc dân sự, cho nên việc tham gia hoạt động
chứng minh của người làm chứng có ý nghĩa rất lớn. Pháp luật không quy định
hạn chế những người được tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng, trừ
những trường hợp người đó không thể làm chứng được do không có khả năng
nhận thức hành vi của mình, là người chưa thành niên còn quá nhỏ tuổi, là người
bị mất năng lực hành vi dân sự, người có nhược điểm về thể chất không thể nhận
thức được sự việc,… Trong chứng minh, quyền và nghĩa vụ của người làm chứng

là cung cấp thông tin và vật chất về vụ việc dân sự.
Điều 66 BLTTDS quy định người làm chứng có 9 quyền, trong đó những
quyền và nghĩa vụ chủ yếu nhất và liên quan tới hoạt động chứng minh là:
“1. Cung cấp toàn bộ những thông tin, tài liệu, đồ vật mà mình có được có
liên quan đến việc giải quyết vụ án.
2. Khai báo trung thực những tình tiết mà mình biết được có liên quan đến
việc giải quyết vụ án.
3. Được từ chối khai báo nếu lời khai của mình liên quan đến bí mật nhà
nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư hoặc việc khai báo đó
có ảnh hưởng xấu, bất lợi cho đương sự là người có quan hệ thân thích với mình.
16


7. Bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm trước pháp luật do những lời
khai báo sai sự thật gây thiệt hại cho đương sự hoặc cho người khác.
9. Phải cam đoan trước Toà án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình,
trừ người làm chứng là người chưa thành niên. Người làm chứng khai báo gian
dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, từ chối khai báo hoặc khi được Toà án triệu tập
mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm theo quy định
của pháp luật.”
Trong giai đoạn chứng minh, người làm chứng sẽ phải tham gia lấy lời khai
hoặc đối chất nếu đương sự có yêu cầu hoặc Tòa án xét thấy cần thiết hoặc xét
thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự (Điều 87, 88). Người làm
chứng cũng được bảo vệ trong trường hợp bị đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc
để không cung cấp chứng cứ hoặc cung cấp chứng cứ sai sự thật: khi ấy, Toà án có
quyền quyết định buộc người có hành vi đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc phải
chấm dứt hành vi đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc người làm chứng.
BLTTDS quy định người làm chứng cũng được bảo đảm tính khách quan
trong khi việc chứng minh diễn ra, bằng cách cho chủ tọa phiên tòa quyền được
quyết định những biện pháp cần thiết để những người làm chứng không nghe được

lời khai của nhau hoặc tiếp xúc với những người có liên quan (Điều 216). Khi việc
xét hỏi diễn ra, người làm chứng có nhiệm vụ trình bày rõ những tình tiết của vụ
án mà họ biết.
1.5 Người giám định:
Đóng vai trò làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự không chỉ có
người làm chứng và các đương sự mà còn có người giám định. Đặc điểm của
người giám định là có kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn về lĩnh vực cần giám
định theo quy định của pháp luật; và cũng như người làm chứng, người giám định
phải vô tư khi thực hiện trách nhiệm Sự tham gia của người giám định có ý nghĩa
rất lớn với hoạt động chứng minh, bởi trưng cầu giám định là một hoạt động tố
tụng cần thiết để kết luận về phương diện khoa học những vấn đề phát sinh trong
quá trình chứng minh. Những kết luận về phương diện khoa học sẽ là cơ sở để các
17


cơ quan tiến hành tố tụng xem xét, kết luận về phương diện pháp lý các vấn đề của
vụ việc.
Để hỗ trợ cho vai trò của họ trong hoạt động chứng minh, BLTTDS Điều
68 quy định người giám định có các quyền, nghĩa vụ như:
A) Được đọc các tài liệu có trong hồ sơ vụ án liên quan đến đối tượng giám
định; yêu cầu Toà án cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc giám định;
B) Đặt câu hỏi đối với người tham gia tố tụng về những vấn đề có liên quan
đến đối tượng giám định;
E) Không được tự mình thu thập tài liệu để tiến hành giám định, tiếp xúc
với những người tham gia tố tụng khác nếu việc tiếp xúc đó làm ảnh hưởng đến
kết quả giám định; không được tiết lộ bí mật thông tin mà mình biết khi tiến hành
giám định hoặc thông báo kết quả giám định cho người khác, trừ trường hợp Thẩm
phán quyết định trưng cầu giám định”
Nếu người giám định từ chối kết luận giám định mà không có lý do chính
đáng hoặc kết luận giám định sai sự thật sẽ phải chịu trách nhiệm theo quy định

của pháp luật.
Công việc chính của người giám định là tiến hành giám định khi có quyết
định trưng cầu giám định (Điều 90, 91), có yêu cầu giám định bổ sung, giám định
lại (Điều 230). Người giám định có nghĩa vụ trình bày kết luận của mình về vấn đề
được giao giám định khi được Chủ tọa phiên tòa hỏi, có quyền giải thích bổ sung
về kết luận giám định, các căn cứ để đưa ra kết luận giám định (Điều 230).
1.6 Tòa án Nhân dân:
Nếu nói đương sự là những chủ thể chính trong hoạt động chứng minh với
trách nhiệm thu thập, cung cấp chứng cứ, đưa ra những ý kiến, phản biện trong
giai đoạn hỏi, tranh luận tại phiên tòa thì Tòa án chính là cơ quan nắm vai trò cầm
trịch trong giai đoạn chứng minh của tố tụng dân sự. Nhiệm vụ của Tòa án là bảo
đảm cho việc chứng minh được tiến hành theo đúng thủ tục tố tụng với tư cách là
cơ quan tư pháp đại diện cho quyền lực Nhà nước, vận dụng quyền lực Nhà nước
để hỗ trợ các đương sự trong quá trình chứng minh, nghiên cứu đánh giá chứng cứ
18


và đưa ra những kết luận mang tính quyết định đối với vụ việc dựa trên những kết
quả có được.
Mở đầu quá trình chứng minh, trong giai đoạn cung cấp chứng cứ, Tòa án
có nghĩa vụ tiếp nhận chứng cứ mà đương sự giao nộp theo các thủ tục sơ thẩm,
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và có quyền yêu cầu đương sự giao nộp bổ
sung chứng cứ nếu xét thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự chưa đủ cơ sở
để giải quyết (Điều 85). Tòa án cũng có nghĩa vụ phải giải thích cho đương sự biết
về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình (Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao).
Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và
có yêu cầu, Thẩm phán có thể tiến hành nhiều biện pháp để thu thập chứng cứ. Khi
đương sự có yêu cầu, Toà án sẽ tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập
chứng cứ sau đây: ghi lời khai của đương sự trong trường hợp đương sự không thể

tự viết được (khoản 1 Điều 86 của BLTTDS); lấy lời khai của người làm chứng
(khoản 1 Điều 87 của BLTTDS); đối chất (khoản 1 Điều 88 của BLTTDS); xem
xét, thẩm định tại chỗ (khoản 1 Điều 89 của BLTTDS); trưng cầu giám định, giám
định bổ sung, giám định lại (Điều 90 của BLTTDS); trưng cầu giám định chứng
cứ bị tố cáo là giả mạo (khoản 1 Điều 91 của BLTTDS); định giá tài sản (điểm a
khoản 1 Điều 92 của BLTTDS); ủy thác thu thập chứng cứ (Điều 93 của
BLTTDS); thu thập chứng cứ do cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ
trong trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng
cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được (khoản 1 Điều 94 của BLTTDS).
Ngoài ra, Toà án cũng có thể tự mình tiến hành một hoặc một số biện pháp
thu thập chứng cứ sau đây: lấy lời khai của người làm chứng khi xét thấy cần thiết
(khoản 1 Điều 87 của BLTTDS); đối chất khi xét thấy có sự mâu thuẫn trong lời
khai của các đương sự, người làm chứng (khoản 1 Điều 88 của BLTTDS); định
giá tài sản trong trường hợp các bên thoả thuận mức giá thấp nhằm mục đích trốn
thuế hoặc giảm mức đóng án phí (điểm b khoản 1 Điều 92 của BLTTDS).

19


Tòa án cũng còn 1 nghĩa vụ quan trọng khác là bảo quản, bảo vệ chứng cứ.
Bảo quản chứng cứ là trách nhiệm của Tòa án (Điều 95), còn việc bảo vệ chứng cứ
được Tòa án tiến hành khi có yêu cầu của đương sự, nếu xảy ra trường hợp chứng
cứ đang bị tiêu huỷ, có nguy cơ bị tiêu huỷ hoặc sau này khó có thể thu thập được
nữa (Điều 98). Đối với việc bảo vệ nhân chứng, Tòa án có quyền chủ động hơn:
trong trường hợp người làm chứng bị đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc để không
cung cấp chứng cứ hoặc cung cấp chứng cứ sai sự thật thì Toà án có quyền quyết
định buộc người có hành vi đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc phải chấm dứt
hành vi đó.
Sau khi đã thu nhận chứng cứ, khi việc chứng minh được tiến hành trong
phiên xét xử, trách nhiệm tiếp theo của Tòa án là đánh giá chứng cứ (Điều 96).

Toà án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng
định giá trị pháp lý của từng chứng cứ một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và
chính xác. Trong hoạt động chứng minh chính thức này, Tòa có nhiệm vụ hỏi và
tranh luận trong quá trình xét xử. Trong giai đoạn đầu, Tòa hỏi và nghe lời trình
bày của nguyên đơn, bị đơn, người làm chứng, người có quyền lợi hay nghĩa vụ
liên quan, người giám định để biết được quan điểm của họ về vụ việc và đánh giá
những chứng cứ mà họ đưa ra trong lời khai; nếu nhận thấy cần thiết, Tòa có thể
yêu cầu xem xét vật chứng, nghe băng ghi âm, xem băng ghi hình,.. Trong giai
đoạn sau, Tòa chủ yếu lắng nghe các bên tranh luận để tiếp thu ý kiến của họ,
nhằm đánh giá tốt hơn những chứng cứ và những lý lẽ mà các bên đưa ra để chứng
minh cho yêu cầu của mình.
Nói chung, trách nhiệm của Tòa trong chứng minh là chỉ dẫn các đương sự
trình bày chứng cứ và chứng minh yêu cầu của mình, sau đó đánh giá chứng cứ
cùng những luận điểm đó để đi đến kết quả sau cùng cho việc chứng minh. Trong
một vụ án dân sự, thẩm phán tiến hành giải quyết vụ án đó giữ thái độ trung lập
(bởi đây là những tranh chấp mang tính chất “tư”), đề ra đối tượng chứng minh và
đốc thúc, hỗ trợ hoạt động chứng minh của các bên đương sự. Hoạt động chứng
minh của tòa án chủ yếu dựa trên sự chứng minh của đương sự.
20


1.7 Viện kiểm sát Nhân dân:
Trong hoạt động chứng minh, Viện Kiểm sát giữ vai trò của mình như đã
được quy định trong Luật Tố tụng Dân sự, đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của những người tham gia tố tụng và Tòa án. Cơ quan này giữ thẩm quyền kiểm
sát những giai đoạn của chứng minh từ khi đương sự nộp đơn khởi kiện/đơn yêu
cầu: khi Tòa ra lệnh thu thập bổ sung chứng cứ, khi người làm chứng cung cấp
chứng cứ, khi người giám định kiểm tra chứng cứ và hỏi đương sự, khi các đương
sự trình bày và phản biện chứng cứ, khi Tòa án ra quyết định dựa trên chứng cứ,
v.v. Ngoài ra, VKSND còn giữ 1 số vai trò chủ động trong hoạt động chứng minh,

như:
Trong giai đoạn thu thập chứng cứ, VKSND có quyền yêu cầu cá nhân, cơ
quan, tổ chức cung cấp chứng cứ (Điều 94) và có nghĩa vụ xem xét trách nhiệm
hình sự của người có hành vi đe dọa, không chống hoặc mua chuộc người làm
chứng khi Tòa án có yêu cầu (Điều 98).
Trong giai đoạn chứng minh tại phiên tòa, ở thủ tục hỏi, đại diện của
VKSND là Kiểm sát viên có thể yêu cầu công bố tài liệu của vụ án (Điều 227),
cho nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình (Điều 228) nếu thấy
cần thiết. Ở thủ tục tranh luận, Kiểm sát viên có quyền phát biểu sau cùng về việc
tuân theo pháp luật trong toàn bộ quy trình chứng minh.
2. Đối tượng chứng minh
2.1 Đối tượng chứng minh:
Theo Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự của ĐH Luật 6 đối tượng chứng minh
là “tổng hợp những tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự cần được xác
định trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự”. Xác định đối tượng chứng minh là
xác đinh phạm vi những sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự cần được làm rõ, để
thông qua đó các đương sự chứng minh và làm rõ yêu cầu của mình, để Tòa án
giải quyết vụ việc dân sự được đúng đắn. Xác định được đối tượng chứng minh
6

Nxb Tư pháp, 2006, t.146.

21


không phải là việc đơn giản: các tình tiết, sự kiện trong vụ việc dân sự rất đa dạng
và phong phú, mà không phải đương sự nào cũng có kinh nghiệm và hiểu biết
trong tham gia tố tụng để xác định được đúng và đủ những tình tiết, sự kiện mà
mình cần chứng minh. Nhưng nếu xác định được đúng đối tượng chứng minh,
đương sự có thể xác định được chứng cứ, dữ liệu cần có để cung cấp cho Tòa án,

và Tòa án có thể yêu cầu đương sự cung cấp những gì mà Tòa cần nhằm giải quyết
vụ việc. Nếu không xác định đúng đối tượng chứng minh, các đương sự và Tòa án
sẽ tiến hành chứng minh thừa hoặc thiếu tình tiết, sự kiện liên quan và sẽ gây ảnh
hưởng đến quyết định sau cùng của Tòa.
Luật TTDS 2004 không quy định cụ thể về đối tượng chứng minh trong các
vụ việc dân sự bởi tính đa dạng, phong phú và phụ thuộc vào tính chất của từng vụ
việc của đối tượng : giao kết hợp đồng, gây thiệt hại, không thực hiện nghĩa vụ,…
Đối tượng chứng minh không chỉ gồm có những tình tiết, sư kiện có tính chất
khẳng định mà còn gồm cả tình tiết, sự kiện có tính chất phủ định, chẳng hạn như
sự không hành động. Sau đây là 1 số ví dụ đơn giản về đối tượng chứng minh:
Gia đình anh A yêu cầu Tòa án tuyên bố anh A mất tích: đối tượng chứng
minh ở đây là việc tình trạng hiện thời của anh A đã đủ điều kiện để được Tòa án
tuyên bố là mất tích. Những tình tiết, sự kiện cụ thể trong đối tượng chứng minh
này là: A đã biệt tích từ 2 năm liên trở lên, gia đình anh A đã áp dụng đầy đủ các
biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật TTDS nhưng vẫn
không có tin tức xác thực về việc anh A còn sống hay đã chết. Gia đình anh A phải
chứng minh được những tình tiết, sự kiện này thì Tòa án mới có thể thực hiện yêu
cầu.
Chị A kiện chị B ra trước Tòa án dân sự vì chị B đã vay của chị A một
khoản tiền lớn đề xây nhà nhưng lại lần lữa không chịu trả: đối tượng chứng minh
ở đây là hành vi vay tiền và cam kết trả nhưng lại tự ý kéo dài thời hạn vay, không
trả nợ của chị B. Ở đây, chị A cần chứng minh những tình tiết: đã cho chị B vay
tiền, số tiền đã cho chị B vay, chị B tự ý kéo dài thời hạn cho vay và không chịu
trả nợ.
22


2.2 Những tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh
Có 1 số loại tình tiết, sự kiện mà căn cứ vào đặc điểm, tính chất của chúng,
chúng có thể được sử dụng làm chứng cứ giải quyết vụ việc dân sự mà không cần

phải chứng minh chứng minh là đúng, là có liên quan tới vụ việc dân sự, v.v. Điều
80 BLTTDS quy định cụ thể những tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh
đó là:
a) Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Toà án
thừa nhận;
b) Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong các bản án, quyết định
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật;
c) Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng,
chứng thực hợp pháp.
Trong số đó, những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong các bản án,
quyết định của Toà án đã có hiệu lực hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đã có hiệu lực được xem là “đã được chứng minh trước đó”, nên để
bảo đảm tính thống nhất trong xét xử, tránh phức tạp trong giải quyết vụ việc dân
sự và làm trì trệ thủ tục giải quyết, mới được xem là “tình tiết không cần chứng
minh”. Còn những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công
chứng, chứng thực hợp pháp được xem là được ghi lại dưới hình thức nhất định,
do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận (trừ trường hợp công chứng, chứng
thực không hợp pháp); vì tính chất cố định, rõ ràng này, loại chứng cứ này mới
được xem là không cần chứng minh. Ngoài ra, bên cạnh tất cả các loại chứng cứ
trên còn có loại tình tiết, sự kiện do 1 bên đưa ra mà được đương sự/người đại diện
của đương sự bên kia thừa nhận hoặc không phản đối: Luật TTDS cho rằng đây là
sự thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự bên kia, và chừng nào còn chưa phát
hiện thấy dấu hiệu vi phạm pháp luật của hành vi này thì Luật phải tôn trọng
quyền đó của đương sự.

23


Ta có thể thấy rằng đối với những tình tiết, sự kiện thuộc không bắt buộc

phải chứng minh, điều quan trọng là làm sao cho người tham gia tố tụng và Tòa án
đều thừa nhận đó là những chứng cứ quá rõ ràng, hiển nhiên và được chấp nhận
mà không cần giải thích. Điều này được thể hiện ở khoản 1 và khoản 2 Điều 80
“Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện mà
bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Nếu xét ra,
ta thấy những tình tiết, sự kiện được khẳng định bởi quyết định của Tòa án, của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực pháp luật tuyệt đối. Những tình tiết, sự
kiện mà mọi người đều biết có hiệu lực tương đối vì sự khó khăn trong việc xác
định “mức độ phổ biến tới độ bị xem là bắt buộc phải biết” của chứng cứ, còn
những tình tiết, sự kiện trong các văn bản được công chứng thì vẫn có khả năng bị
bác bỏ.
BLTTDS không có quy định cụ thể về xác định “mức độ phổ biến tới độ bị
xem là bắt buộc phải biết” của chứng cứ, nên điều này đã gây ra nhiều tranh cãi
trong giới học giả pháp lý. Thông thường, khi đánh giá chứng cứ thì Tòa án sẽ cố
gắng đặt ra 1 số giới hạn cho tính hiển nhiên phải biết: chẳng hạn, cho rằng Tòa án
có thể thu hẹp phạm vi xác định chứng cứ hiển nhiên, sự việc xảy ra trong nội bộ
địa phương khác không được xem là hiển nhiên ở địa phương này,…
2.3 Phương tiện chứng minh:
Phương tiện chứng minh là những công cụ do pháp luật quy định các chủ
thể chứng minh được sử dụng để làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự.
Trong BLTTDS không có quy định cụ thể về phương tiện chứng minh. Tuy
nhiên, nếu ta tham khảo những phương tiện chứng minh trong bộ Luật Tố tụng
Hình sự 2003, Điều 64 thì có thể thấy “phương tiện chứng minh” được quy định là
những hình thức xác định của chứng cứ, bao gồm vật chứng, lời khai (của người
làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), kết
luận giám định. Nếu so với Luật TTDS 2004, quy định về phương tiện chứng
minh trên tương đương với quy định về nguồn của chứng cứ tại Điều 82. Những
24



nguồn này cũng là hình thức vật chất của chứng cứ, phù hợp với định nghĩa “công
cụ được sử dụng để làm rõ các tình tiết, sự kiện” ở trên.
“Điều 82. Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
1. Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được;
2. Các vật chứng;
3. Lời khai của đương sự;
4. Lời khai của người làm chứng;
5. Kết luận giám định;
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ;
7. Tập quán;
8. Kết quả định giá tài sản;
9. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.”
Sử dụng phương tiện chứng minh nào trong mỗi vụ việc dân sự là tùy thuộc
vào tình tiết, sự kiện thuộc đối tượng chứng minh của vụ việc dân sự cần giải
quyết. Vì thường thì mỗi phương tiện chỉ có thể chứng minh 1 số tình tiết, sự kiện
nhất định, đương sự có thể phải sử dụng một hoặc nhiều phương tiện trong 1 vụ
việc dân sự cụ thể. Đồng thời, những phương tiện chứng minh này cũng phải đáp
ứng được những điều kiện do pháp luật quy định. Như trên đã trình bày, Luật
TTDS không quy định cụ thể về phương tiện chứng minh, nhưng nếu ta xét
phương tiện chứng minh từ góc độ là nguồn, hình thức thể hiện của chứng cứ thì
Luật TTDS có quy định khá đầy đủ về những yêu cầu để một nguồn chứng cứ
được chấp nhận tại phiên tòa. Thứ nhất, những nguồn này phải được xác định
đúng là chứng cứ theo Điều 83 Luật TTDS 2004.
Điều 83. Xác định chứng cứ
1. Các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính
hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền cung cấp, xác nhận.

25



×