Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Ứng dụng thương mại điện tử của Công ty cô rphaanf xuất nhaaoj khẩu thủy sản miền trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (840.39 KB, 27 trang )

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TPHCM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
ĐỀ TÀI:
GVHD: ThS Đoàn Ngọc Duy Linh
Lớp HP: 210702701
Nhóm thực hiện: Storm10
DS nhóm:
1. Nguyễn Thụy Phương Vy (07700991)
2. Ngô Thanh Tú Trinh (07705481)
3. Trần Thị Phương Linh (07706661)
4. Hồ Thị Kim Ngân (07709991)
5. Giang Mỹ Oanh (07708441)
6. Hoàng Thị Bích Trâm (07743941)
7. Lâm Anh Quốc (07709711)
8. Mai Ngọc Tuyển (07703811)
9. Nguyễn Trung Trực (07703581)
10.Võ Văn Phú (07717261)
Chương I: Tổng quan về thương mại điện tử
4
1.1 Thương mại điện tử e-commerce
1.2 Đặc trưng của thương mại điện tử
1.3 Hình thức kinh doanh điện tử
1.4 Lợi ích của thương mại điện tử
1.5 Những tác động của thương mại điện tử
Chương II: Thực trạng ứng dụng TMĐT của CT CP XNK Thủy Sản Miền Trung
2.1 Giới thiệu về công ty
2.1 Các sản phẩm kinh doanh
2.3 Thực tiễn áp dụng thương mại điện tử vào các hoạt động
Chương III: Giải pháp kiến nghị


LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta đã và đang phát
triển một cách sâu sắc và toàn diện. Việt Nam đã dần dần hội nhập vào bước phát triển
của kinh tế Châu Á nói riêng và thế giới nói chung. Việt Nam đang từng bước cải thiện
3
nền kinh tế và đẩy mạnh phát triển trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội…
Trong đó, phát triển kinh tế là lĩnh vực đặc biệt cần quan tâm và chú trọng, bởi nó là
nguồn lực nuôi sống và phát triển đất nước. Bên cạnh công tác đẩy mạnh đầu tư phát
triển các ngành như dịch vụ du lịch, thương mại,công nghiệp…thì việc đầu tư phát triển
ngành nông nghiệp là một vấn đề không thể thiếu. Do đó, trong những năm qua nền
nông nghiệp từng bước được cải thiện và phát triển. Không những máy móc công nghệ
phải được cải tiến … mà phương thức hoạt động thương mại cũng phải phù hợp với nền
kinh tế số hoá hiện nay. Chính vì thế, các doanh nghiệp VN đang từng bước chuyển
sang hình thái hoạt động thương mại bằng các phương pháp điện tử nhằm đáp ứng được
nhu cầu của khách hàng trong và ngoài nước. Đặc biệt là các doanh nghiệp XNK của
VN vì nó giúp doanh nghiệp nắm bắt được nhiều thông tin, tiết kiệm thời gian và giảm
chi phí cho doanh nghiệp.
Để hiểu rõ hơn về những thuận lợi, khó khăn trong việc ứng dụng thương mại điện
tử vào hoạt động kinh doanh XNK mà các doanh nghiệp VN đã và đang gặp phải, từ đó
tìm ra những giải pháp phù hợp nhằm khắc phục khó khăn, nhóm chúng em đã quyết định
chọn nghiên cứu đề tài “”.
Trong quá trình tìm tòi, nghiên cứu, sẽ không tránh khỏi những thiếu sót do kiến
thức và thời gian còn hạn chế, nhóm rất mong sẽ nhận được sự thông cảm cũng như
những ý kiến đóng góp khách quan, chân thành từ thầy và các bạn để bài tiểu luận được
hoàn chỉnh hơn.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ
1.1 Thương mại điện tử e – commerce:
4
 Theo định nghĩa của Liên minh châu Âu (EU) :

Thương mại điện tử (TMĐT) là toàn bộ các giao địch thương mại thông qua
mạng viễn thông và các phương tiện điện tử, bao gồm TMĐT trực tiếp (trao đổi hàng
hoá hữu hình) và TMĐT gián tiếp ( trao đổi hàng hoá vô hình). Ngoài ra TMĐT còn bao
gồm chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá thương
mại, hợp tác thiết kế và sản xuất, tìm kiếm các nguồn lực trực tuyến, mua sắm trực
tuyến,…
 Theo định nghĩa của WTO:
Thương mại điện tử bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng, phân phối sản
phẩm và thanh toán trên mạng Internet, được giao nhận trực tiếp hay giao nhận qua
Internet dưới dạng số hóa.
 Theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc:
Thương mại điện tử phán ánh thao chiều ngang là việc thực hiện các hoạt động
kinh doanh bao gồm marketing, bán hàng, phân phối và thanh toán thông qua các
phương tiện điện tử; phản ánh thao chiều dọc bao gồm cơ sở hạ tầng cho sự phát triển
TMĐT, các thông điệp, các quy tắc cơ bản và đặc thù, các ứng dụng.
 Theo định nghĩa truy cập từ VNNetsoft:
( />E-commerce (Electronic commerce - thương mại điện tử) là hình thái hoạt động
thương mại bằng phương pháp điện tử; là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua
các phương tiện công nghệ điện tử mà nói chung là không cần phải in ra giấy trong bất
cứ công đoạn nào của quá trình giao dịch (nên còn được gọi là “thương mại không giấy
tờ”).
 Theo định nghĩa của Bách khoa toàn thư mở Wikipedia:
( />Thương mại điện tử (còn gọi là E-Commerce hay E-Business) là quy trình mua
bán thông qua việc truyền dữ liệu giữa các thiết bị truyền tin trong chính sách phân phối
3
của tiếp thị. Tại đây một mối quan hệ thương mại hay dịch vụ trực tiếp giữa người cung
cấp và khách hàng được tiến hành thông qua việc truyền tin. Hiểu theo nghĩa rộng,
thương mại điện tử bao gồm tất cả các loại giao dịch thương mại mà trong đó các đối
tác giao dịch sử dụng các kỹ thuật thông tin trong khuôn khổ chào mời, thảo thuận hay
cung cấp dịch vụ. Thông qua một chiến dịch quảng cáo của IBM trong thập niên 1990,

khái niệm Electronic Business, thường được dùng trong các tài liệu, bắt đầu thông dụng.
"Thông tin" trong khái niệm trên được hiểu là bất cứ gì có thể truyền tải bằng
kỹ thuật điện tử, bao gồm cả thư từ, các tệp văn bản, các cơ sở dữ liệu, các bản tính, các
bản vẽ thiết kế bằng máy tính điện tử, các hình đồ họa, quảng cáo, hỏi hàng, đơn hàng,
hóa đơn, biểu giá, hợp đồng, các mẫu đơn, các biểu mẫu, hình ảnh động, âm thanh, v.v...
"Thương mại" (commerce) trong khái niệm thương mại điện tử được hiểu (như
quy định trong "Đạo luật mẫu về thương mại điện tử" của Liên hiệp quốc) là mọi vấn đề
nảy sinh ra từ mọi mối quan hệ mang tính chất thương mại (commercial), dù có hay
không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính thương mại bao gồm bất cứ giao dịch
thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa, dịch vụ; thoả thuận phân phối, đại
diện hoặc đại lý thương mại; ủy thác hoa hồng, cho thuê dài hạn; xây dựng các công
trình; tư vấn; kỹ thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai
thác hoặc tô nhượng; liên doanh và các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc
kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường không,
đường sắt, đường bộ; và v.v... Như vậy, phạm vi của thương mại điện tử (E-commerce)
rất rộng, bao quát hầu như mọi hình thái hoạt động kinh tế, mà không chỉ bao gồm buôn
bán hàng hóa và dịch vụ; buôn bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một trong hàng nghìn lĩnh
vực áp dụng của thương mại điện tử.
1.2 Đặc trưng của thương mại điện tử:
Thương mại điện tử có các đặc trưng riêng như sau:
• Các bên tiến hành giao dịch không tiếp xúc trực tiếp với nhau, không đòi hỏi phải
biết nhau từ trước. Điều này cho thấy các bên giao dịch không hiểu rõ về nhau vì cho
4
nên độ tin cậy được dựa trên các cơ sở như: tính chuyên nghiệp của website (thiết kế,
hoạt động, thông tin...), tính chuyên nghiệp trong liên lạc với đối tác (văn phong, tốc độ
đáp ứng...).
• TMĐT thực hiện trong thị trường không có biên giới (thị trường thống nhất toàn
cầu).
• Mạng lưới thông tin trong thương mại điện tử là thị trường. Do đó, vấn đề an
toàn trong thương mại điện tử như chống hacker phá sập website, bảo mật dữ liệu, thanh

toán... là những vấn đề bạn phải quan tâm khi việc kinh doanh của bạn đã hoạt động ổn
định.
• Trong TMĐT, tồn tại 3 chủ thể, người mua (buyer), người bán (seller) và nhà
cung cấp dịch vụ mạng.
• Thương mại điện tử có tính chất đặc trưng là chi phí đầu tư không nhiều, ai cũng
có thể làm được, do vậy, tính cạnh tranh rất cao. Để thành công trong thương mại điện
tử, đòi hỏi bạn phải tạo được nét riêng cho việc kinh doanh của mình. Nét riêng này là
một điều gì đó độc đáo mà bạn có trong khi những đối thủ cạnh tranh của bạn không có.
1. 3 Hình thức kinh doanh điện tử:
Thương mại điện tử có thể được phân loại theo tính cách của người tham gia:
• Người tiêu dùng
C2C (Consumer-To-Comsumer) Người tiêu dùng với người tiêu dùng
C2B (Consumer-To-Business) Người tiêu dùng với doanh nghiệp
C2G (Consumer-To-Government) Người tiêu dùng với chính phủ
• Doanh nghiệp
B2C (Business-To-Consumer) Doanh nghiệp với người tiêu dùng
B2B (Business-To-Business) Doanh nghiệp với doanh nghiệp
B2G (Business-To-Government) Doanh nghiệp với chính phủ
B2E (Business-To-Employee) Doanh nghiệp với nhân viên
3
• Chính phủ
G2C (Government-To-Consumer) Chính phủ với người tiêu dùng
G2B (Government-To-Business) Chính phủ với doanh nghiệp
G2G (Government-To-Government) Chính phủ với chính phủ
Tùy thuộc vào đối tác kinh doanh người ta gọi đó là thị trường B2B, B2C, C2B
hay C2C. Thị trường mở là những thị trường mà tất cả mọi người có thể đăng ký và
tham gia. Tại một thị trường đóng chỉ có một số thành viên nhất định được mời hay cho
phép tham gia. Một thị trường ngang tập trung vào một quy trình kinh doanh riêng lẻ
nhất định, thí dụ như cung cấp: nhiều doanh nghiệp có thể từ các ngành khác nhau tham
gia như là người mua và liên hệ với một nhóm nhà cung cấp. Ngược lại, thị trường dọc

mô phỏng nhiều quy trình kinh doanh khác nhau của một ngành duy nhất hay một nhóm
người dùng duy nhất.
Sau khi làn sóng lạc quan về thương mại điện tử của những năm 1990 qua đi,
thời gian mà đã xuất hiện nhiều thị trường điện tử, người ta cho rằng sau một quá trình
tập trung chỉ có một số ít thị trường lớn là sẽ tiếp tục tồn tại. Thế nhưng bên cạnh đó là
ngày càng nhiều những thị trường chuyên môn nhỏ.
Ngày nay công nghệ thực hiện một thị trường điện tử đã rẻ đi rất nhiều. Thêm
vào đó là xu hướng kết nối nhiều thông tin chào hàng khác nhau thông qua các giao diện
lập trình ứng dụng để thành lập một thị trường chung có mật độ chào hàng cao. Ngoài ra
các thị trường độc lập trước đây còn được tích hợp ngày càng nhiều bằng các giải pháp
phần mềm cho một cổng Web toàn diện.
Căn cứ vào tính chất của thị trường và khách hàng, người ta thường đề cập đến 2
loại hình Thương mại điện tử chính là:
• B2B (Business - To - Business): thương mại điện tử B2B chỉ bao gồm các giao
dịch thương mại trên Internet mà trong đó, đối tượng khách hàng của loại hình này là
các doanh nghiệp mua hàng.
4
• B2C (Business - To - Customer): Thương mại điện tử B2C là chỉ bao gồm các
giao dịch thương mại trên Internet giữa doanh nghiệp với khách hàng, mà trong đó, đối
tượng khách hàng của loại hình này là các cá nhân mua hàng. Loại hình này áp dụng cho
bất kỳ doanh nghiệp hay tổ chức nào bán các sản phẩm hoặc dịch vụ của họ cho khách
hàng qua Internet, phục vụ cho nhu cầu sử dụng của cá nhân.
Vậy điểm khác biệt giữa Thương mại điện tử B2B và B2C là gì?
• Điều thứ nhất là sự khác nhau về khách hàng
Khách hàng của các giao dịch B2B (giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh
nghiệp) là các công ty còn khách hàng của B2C là các cá nhân. Tuy nhiên cần phải xem
xét chữ C trong B2C là người tiêu dùng cuối cùng (End-user). Nghĩa là C còn bao gồm
cả những doanh nghiệp mua sắm hàng hóa về để tiêu dùng. Chẳng hạn như doanh
nghiệp mua bàn ghế phục vụ cho công việc văn phòng.
Xét về tổng thể, các giao dịch B2B phức tạp hơn và đòi hỏi tính an toàn cao hơn.

• Khác biệt về đàm phán, giao dịch:
Việc bán hàng cho các doanh nghiệp (B2B) phải bao gồm cả các yếu tố như đàm
phán về giá cả, việc giao nhận hàng và xác định quy cách, các đặc tính kỹ thuật của sản
phẩm. Bán hàng cho người tiêu dùng (B2C) không nhất thiết phải bao gồm tất cả các
yếu tố như vậy. Điều này khiến cho các nhà bán lẻ dễ dàng hơn trong việc đưa lên mạng
catalog sản phẩm dịch vụ của họ để mở một siêu thị trực tuyến. Đó cũng chính là lý do
tại sao những ứng dụng Thương mại điện tử B2B đầu tiên được phát triển chỉ cho
những hàng hóa và sản phẩm hoàn chỉnh, đơn giản trong khâu mô tả đặc tính và định
giá.
• Khác biệt về vấn đề tích hợp:
Các công ty trong Thương mại điện tử B2C không phải tích hợp hệ thống của họ
với hệ thống của khách hàng. Trái lại các công ty khi bán hàng cho các doanh nghiệp
(B2B) cần phải đảm bảo rằng các hệ thống của họ có thể giao tiếp được với nhau mà
3
không cần sự can thiệp trực tiếp của con người dẫn đến nhu cầu phải tích hợp hệ thống
của doanh nghiệp bán hàng và doanh nghiệp mua hàng.
1.4 Lợi ích của thưong mại điện tử:
 TMĐT giúp cho các Doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú về thị
trường và đối tác.
 TMĐT giúp giảm chi phí sản xuất .
 TMĐT giúp giảm chi phí bán hàng và tiếp thị.
 TMĐT qua INTERNET giúp người tiêu dùng và các doanh nghiệp giảm đáng
kể thời gian và chí phí giao dịch.
 TMĐT tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các thành
phần tham gia vào quá trình thương mại.
 Tạo điều kiện sớm tiếp cận nền kinh tế số hoá.
1.5 Những tác động của thương mại điện tử:
Giao dịch thương mại qua các phương tiện điện tử, trong đó mọi dữ liệu (kể cả
chữ ký) đều ở dạng số hoá, đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về tính bảo mật, an toàn, tránh
mất tiền, lừa gạt, thay đổi thông tin, xâm nhập dữ liệu, v.v... là các rủi ro ngày một lớn,

không chỉ với người buôn bán, mà cả với người quản lý, với từng quốc gia, vì các hệ
thống điện tử có thể bị kẻ xấu (thường gọi là "hacker") xâm nhập, đòi hỏi phải có các hệ
thống bảo mật, an toàn được thiết kế trên cơ sở kỹ thuật mã hóa hiện đại, và một cơ chế
an ninh hữu hiệu (nhất là đối với các hệ thống có liên quan tới an ninh quốc gia). Ngoài
ra, còn có nhu cầu ngày càng tăng vì giữ gìn bí mật riêng tư.
Thương mại điện tử chỉ có thể thực hiện thực tế và có hiệu quả khi đã tồn tại một
hệ thống thanh toán tài chính ở mức độ phát triển đủ cao, cho phép tiến hành thanh toán
tự động (trong đó "thẻ thông minh") có vai trò đặc biệt quan trọng trong kinh doanh bán
lẻ; khi chưa có hệ thống này, thì thương mại điện tử chỉ giới hạn trong khâu trao đổi tin
tức, còn việc buôn bán hàng hóa và dịch vụ vẫn phải kết thúc bằng trả tiền trực tiếp hoặc
qua các phương tiện thanh toán truyền thông; hiệu quả sẽ thấp, rất có thể không đủ bù
đắp chi phí trang bị phương tiện thương mại điện tử.
4
Mỗi một quốc gia, thương mại điện tử chỉ có thể tiến hành khi tính pháp lý của
nó được thừa nhận (biểu hiện cụ thể bằng sự thừa nhận pháp lý giá trị của các giao dịch
điện tử, chữ ký điện tử, chữ ký số hóa, các thanh toán điện tử, các dữ liệu có xuất xứ từ
các cơ quan nhà nước, sở hữu trí tuệ hàm chứa trong thông tin trên Website, bí mật đời
tư, và bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin chống tội phạm xâm nhập), và có các cơ
quan xác thực hoặc chứng nhận chữ ký điện tử, v.v...; Ngoài ra, còn đòi hỏi mọi doanh
nghiệp, hàng hóa và dịch vụ đều đã được mã hóa thống nhất; một hệ thống thuế thích
hợp để xử lý các dữ liệu và các dịch vụ mua bán qua mạng; nói cách khác, đòi hỏi phải
có một môi trường kinh tế đã tiêu chuẩn hóa ở mức cao, với các khía cạnh của thương
mại điện tử được phản ánh đầy đủ trong quan hệ nội luật. Trên bình diện quốc tế, vấn đề
môi trường pháp lý còn phức tạp hơn nữa, vì các trao đổi là xuyên quốc gia, đòi hỏi phải
có sự hài hòa giữa các hệ thống pháp luật và hệ thống chính trị khác nhau.
Tác động văn hóa xã hội của thương mại điện tử xuất hiện khi sử dụng Internet
làm công cụ giao tiếp, như khi tiến hành thương mại điện tử qua biên giới (với nước
khác), hoặc nếu trong một quốc gia nhưng sử dụng Iternet, Web làm công cụ mạng.
Internet có thể trở thành "hộp thư" giao dịch mua bán dâm, ma tuý, và buôn lậu; các lực
lượng phản xã hội đưa lên Internet phim con heo, các tuyên truyền kích dục có mục đích

đối với trẻ em, các hướng dẫn làm bom thư, làm chất nổ phá hoại, các loại tuyên truyền
kích động bạo lực, phân biệt chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, v.v...; Internet cũng có thể trở
thành một phương tiện thuận lợi cho các lực lượng chống đối sử dụng để tuyên truyền,
kích động lật đổ Chính phủ và hoặc gây rối làm loạn trật tự xã hội; ngoài ra phải tính tới
tác động về cuốn hút thanh niên theo các lối sống không phù hợp với bản sắc văn hoá
dân tộc (nếu chỉ làm thương mại điện tử trong nước, thông qua nối mạng các doanh
nghiệp, sử dụng mạng quốc gia, mà không dùng Internet, thì không cần tính tới tác động
tiêu cực này; nhưng nếu không lợi dụng Internet làm công cụ giao tiếp chung, mà thiết
lập các mạng riêng thì không có tính kinh tế, và việc làm thương mại điện tử với nước
ngoài sẽ bị hạn chế).
Thương mại điện tử bao trùm một phạm vị rộng lớn các hoạt động kinh tế xã hội,
và hạ tầng cơ sở của nó là một tổng hòa phức hợp của hàng chục mặt vấn đề; cho nên,

×