Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.2 KB, 22 trang )

ĐỀ BÀI: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

I.Lời mở đầu
Trong q trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm, dân tộc ta đã hình thành
và phát triển nền văn hóa dân tộc rực rỡ, mà hạt nhân là chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam, ý chí đấu tranh bất khuất, tinh thần nhân ái, khoan dung và ý thức cộng đồng,
đại đoàn kết dân tộc để làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội. Chính nền văn hóa ấy
cùng những ảnh hưởng tích cực của văn hóa phương Đơng đã hun đúc nên nhân
cách Hồ Chí Minh và góp phần to lớn vào sự hình thành và phát triển tư tưởng của
Người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống tồn diện,có nội dung rất phong phú,
đa lĩnh vực và là hệ thống luận điểm có liên kết logic chặt chẽ với nhau. Các ngành,
các giới có thể lựa chọn,bổ sung những chuyên đề phù hợp với nhiệm vụ chính trị
của mình.Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại,nó trường
tồn,bất diệt, là tài sản vơ giá của dân tộc ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho
Đảng ta và nhân dân ta trên con đường thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ văn minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng vững
chắc để Đảng ta vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đi tới thắng lợi.
Đối với sự phát triển của Thế giới, tư tưởng Hồ Chí Minh là khát vọng của thời
đại. Hồ Chí Minh đã có những cống hiến xuất sắc về lí luận cách mạng giải phóng
dân tộc thuộc địa dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, giành độc lập dân tộc để
tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với Thế
giới cịn ở chỗ, ngay từ rất sớm Người đã nhận thức đúng sự biến chuyển của thời
đại để tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng lồi người. Người kiên quyết bảo vệ
và phát triển quan điểm của Lênin về khả năng to lớn và vai trò chiến lược của cách
mạng giải phong dân tộc ở thuộc địa đối với cách mạng vơ sản. Tư tưởng Hồ Chí
Minh cổ vũ các dân tộc vì mục tiêu cao cả.

Trong lịng nhân dân Thế giới chủ



1


tịch Hồ Chí Minh là bất diệt. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đang và sẽ mãi mãi là chân
lí sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo và phát triển của nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ là sự vận dụng mà còn còn là sự phát triển một
cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin.Luận điểm về mối quan hệ giữa vấn đè dân tộc
và giai cấp là một trong những sáng tạo đó.

II.Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện
chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
1.Nguồn gốc,cơ sở hình thành mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong
tư tưởng Hồ Chí Minh
Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin trên nền tảng truyền thống yêu nước và nhân ái của
dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh có quan điểm riêng, độc đáo về vấn đề giai cấp và
vấn đề dân tộc. Người cho rằng: Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết.
Luận điểm này của Người xuất phát từ cơ sở thực tiễn của phương Đông và Việt
Nam :
Năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ Người cho rằng: "Mác
đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch
sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là tồn thể nhân loại. Dù
sao thì cũng khơng thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Mác bằng cách
đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình khơng thể có được". Và người
đề nghị: "Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân
tộc học phương Đơng". Ở phương Đông, "Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra không
giống như ở phương Tây, bởi vì xã hội Đơng Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét
về mặt cấu trúc kinh tế không giống như xã hội phương Tây thời trung cổ, cũng như
thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó khơng quyết liệt như ở đây…".

Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một nước thuộc địa nửa
phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi
trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến, giữa tư sản với
vô sản. Do đó, khơng phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân

2


tộc như ở phương Tây. Ngược lại chỉ có thể giải quyết vấn đề dân tộc mới giải
phóng được giai cấp. Quyền lợi dân tộc và giai cấp là thống nhất, quyền lợi dân tộc
khơng cịn, thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận trong dân tộc cũng không thể
thực hiện được. Quan điểm này sau này thể hiện rõ ở Nghị quyết Hội nghị Trung
ương VIII, năm 1941 do Người chủ trì: "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận giai
cấp phải đặt dưới sự tồn vong sinh tử của quốc gia dân tộc. Trong lúc này nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, khơng địi được tự do độc lập cho
tồn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu mà
quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại được."

2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp
A.Quan điểm của Mác,Ăngghen,Lênin về vấn đề dân tộc:

Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác-Ăngghen đề cập đến vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp như sau:
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở giai đoạn đầu mang tính chất dân tộc, vì phong
trào vơ sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số.
Vì vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, không phải là
cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu mang hình thức dân tộc. Như vậy, MácĂngghen đã thấy được mối quan hệ gắn bó giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.
Hai ông không xem nhẹ vấn đề dân tộc. Tuy nhiên, hai ông khơng đi sâu giải quyết
vấn đề dân tộc vì:
- Tại các nước này, mâu thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối

kháng: tư sản và vô sản.
- Về cơ bản, ở châu Âu, vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản.
- Vào thời của Mác, hệ thống thuộc địa đã có, nhưng các cuộc đấu tranh giành độc
lập chưa phát triển mạnh.
Do vậy, trong sự nghiệp giải phóng hai ông nhấn mạnh đến giải phóng giai cấp
công nhân. Mác-Ăngghen viết: "Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình
trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ được xóa bỏ" và: "Khi mà sự đối kháng
giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc khơng cịn nữa thì sự thù địch giữa các dân

3


tộc cũng đồng thời mất theo". Như vậy theo Mác-Ăngghen, để giải quyết sự đối
kháng dân tộc, trước hết phải giải quyết sự đối kháng giai cấp, giải phóng giai cấp là
nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện để giải phóng dân tộc. Lênin từng nhận xét, đối với
Mác so với vấn đề giai cấp vơ sản thì vấn đề dân tộc chỉ là vấn đề thứ yếu thôi.
Đến thời Lênin, khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách mạng giải
phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vơ sản, Lênin mới có cơ sở
thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận. Lênin
cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản chính quốc sẽ khơng giành được thắng
lợi, nếu nó khơng liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Từ đó
Người cùng với Quốc tế cộng sản bổ sung khẩu hiệu nêu trong Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại."
Sau khi Lênin mất, Ban lãnh đạo Quốc tế cộng sản một thời gian dài đã nhấn mạnh
vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc, vì vậy khơng mấy quan tâm đến chủ nghĩa
yêu nước, tinh thần dân tộc của các nước thuộc địa, thậm chí cịn coi đó là biểu hiện
của chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, trái với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
B.Quan điểm về vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh _ là vấn đề dân tộc thuộc địa
“Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng của các dân tộc

dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngồi, giành độc lập dân tộc,
xóa bỏ áp bức bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết,thành lập nhà
nước dân tộc độc lập”.
Vấn đề dân tộc mà Hồ Chí Minh đề cập đến trong tư tưởng của mình được thể hiện
tập trung chủ yếu ở các nội dung về quyền dân tộc, quan hệ giữa dân tộc và giai
cấp, và quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Về quyền dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng tất cả các dân tộc trên thế giới đều bình
đẳng; tức độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân
tộc. Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự chà đạp của ngoại
bang lên tự do độc lập của đất nước, được kết tinh, hun đúc từ tinh thần nồng nàn
yêu nước của người dân nước Việt, Hồ Chí Minh cho rằng: đối với một người dân

4


mất nước, cái quí nhất trên đời là độc lập của tổ quốc, tự do của nhân dân. Trên
đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những tư tưởng bất hủ
trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
1791 của cách mạng Pháp. Từ những tinh hoa của dân tộc và thế giới, Người đã
khái quát nên chân lý bất di bất dịch, lẽ phải khơng ai có thể chối cãi được: Tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do. Đây là một tư tưởng vĩ đại, chẳng những mang
tính quốc tế, tính thời đại rộng lớn mà cịn mang tính nhân văn sâu sắc.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, phải là độc lập thật sự và độc lập hồn tồn.
Tức là, dân tộc đó phải có đầy đủ chủ quyền (về chính trị, kinh tế, an ninh, v.v.) và
tồn vẹn lãnh thổ, chứ khơng phải là chiếc bánh vẽ mà người khác (bọn thực dân, đế
quốc) bố thí. Độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, theo Người, phải được hiểu một
cách đơn giản: nước Việt Nam là của người Việt Nam , mọi vấn đề thuộc chủ quyền
quốc gia Việt Nam phải do người Việt Nam tự giải quyết. Và giá trị đích thực của
độc lập dân tộc phải được thể hiện bằng quyền tự do hạnh phúc của nhân dân, mà

theo Người, độc lập dân tộc là đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành. Tư tưởng độc lập dân tộc, khát vọng độc lập dân tộc của Người được thể
hiện ở tinh thần “thà hy sinh tất cả”, “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn” và vượt
lên tất cả là tinh thần “khơng có gì q hơn độc lập tự do.”
Hồ Chí Minh ln giương cao ngọn cờ đấu tranh vì độc lập dân tộc, song người
cũng là hiện thân của khát vọng hồ bình. Đó là tư tưởng độc lập dân tộc trong hồ
bình chân chính của Người. Tinh thần “chúng ta muốn hồ bình” đã dẫn dắt nhân
dân ta chiến đấu và chiến thắng mọi thế lực xâm lược ngoại bang.
Có thể nói, tinh thần “khơng có gì q hơn độc lập tự do” là tư tưởng và lẽ sống
của Hồ Chí Minh. Nó là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng không chỉ của dân
tộc Việt Nam mà còn của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Vì lẽ đó, Người khơng
chỉ được tơn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn là
“Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế
kỷ 20”

5


Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, và chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa quốc tế.
Trên cơ sở những quan điểm cơ bản của Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng
giữa dân tộc với giai cấp, Hồ Chí Minh đã đưa ra những luận điểm mới và sáng tạo,
góp phần bổ sung và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin. Theo Người, ở các
nước thuộc địa “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Người phân
tích, do kinh tế cịn lạc hậu, chưa phát triển nên sự phân hoá giai cấp ở nước ta và
nhiều nước thuộc địa khác chưa triệt để, mâu thuẫn chưa đến mức đối kháng quyết
liệt. Ở những nước thuộc địa như nước ta, mâu thuẫn giữa dân tộc với chủ nghĩa đế
quốc quyết liệt hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ, giữa cơng nhân
với tư sản. Do đó, trong bối cảnh này không thể giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới

giải quyết vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản phương Tây được, mà chỉ có thể
giải phóng Dân tộc mới giải phóng được giai cấp, quyền lợi dân tộc, đất nước phải
đặt lên trên quyền lợi giai cấp. Xuất phát từ luận điểm trên, Hồ Chí Minh từng kiến
nghị Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản theo hướng phát động chủ nghĩa
dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản, khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng,
nhất định nó sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế. Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức
mạnh của chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân
chính, coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát
huy, không để ngọn cờ dân tộc rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải
quyết vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân tộc
với chủ nghĩa quốc tế.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, là phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngay
từ khi tiếp cận Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh
đã hình thành đường lối cứu nước: giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng
vơ sản, gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân
tộc và CNXH. Người nói: “ Cả hai cuộc giải phóng này (dân tộc và giai cấp) chỉ có
thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới.” Tiếp đó, ngay

6


trong Chánh cương, Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng
cộng sảnViệt Nam tháng 2/1930, Hồ Chí Minh đã xác định Cách mạng Việt Nam
trải qua hai giai đoạn: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức
cách mạng dân tộc-dân chủ) để đi tới xã hội cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự
gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa phản ảnh quy luật khách quan
của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh
mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng
giai cấp và giải phóng con người. Xố bỏ ách áp bức dân tộc mà khơng xố bỏ tình
trạng bóc lột và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng.

Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì độc lập
cũng chẳng có ý nghĩa gì.” Do đó giành được độc lập rồi, thì phải tiến lên CNXH,
vì mục tiêu của CNXH là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Như vậy, ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển
thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Là một chiến sỹ quốc tế chân chính, xuất phát từ quan điểm độc lập tự do là
quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc, Hồ Chí Minh khơng
chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập dân tộc
của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở Người, chủ nghĩa u nước chân chính ln gắn
liền với chủ nghĩa quốc tế cao cả, trong sáng. Người nói: “ Chúng ta phải tranh đấu
cho tự do độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy.” Chủ
trương “ giúp bạn là tự giúp mình”, Hồ Chí Minh ln nêu cao tinh thần dân tộc tự
quyết song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Với Người, phải thơng
qua thắng lợi của Cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của Cách
mạng thế giới. Về quan hệ quốc tế, Người tuyên bố với thế giới: “ Căn cứ trên
quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hịasắn sàng đặt quan hệ ngoại
giao với chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ
quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân
chủ thế giới.”

7


Tựu trung, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa học
đúng đắn, vừa có tính chất cách mạng, mang đậm tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng, độc lập dân tộc cho mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân
tộc.
Ngày nay, trong xu thế tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế, sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước cũng đang đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn

địi hỏi chúng ta phải chủ động đón lấy và sáng suốt vượt qua. Để làm được điều đó
chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng tư tưởng của Người về mối quan hệ giữa dân tộc
với giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm tạo ra
những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới vững bước tiến lên , giành những
thắng lợi mới.
Trước hết, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều phải đặc biệt coi trọng và giữ
vững độc lập dân tộc. Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữa nước của ông cha ta từ
ngàn xưa cũng như sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng cộng sảnViệt Nam đứng
đầu là Hồ Chí Minh khới xướng từ 1930 đến nay được ghi lại bằng máu và nước
mắt. Thế mới thấy được ý nghĩa của độc lập dân tộc, mới thấu hiểu được tư tưởng
bất hủ “Khơng có gì quí hơn độc lập tự do” của Hồ Chí Minh. Trong xu thế tồn
cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, khơng một quốc gia nào có thể phát
triển mà không gắn với những mối quan hệ đa dạng và đa phương với các quốc gia
khác trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam cũng nằm trong xu thế ấy. Ngồi những lợi
ích hiển nhiên, hơn bao giờ hết, nước ta đang đứng trước rất nhiều nguy cơ có ảnh
hưởng trực tiếp đến độc lập dân tộc. Đó là những nguy cơ lệ thuộc vào nước ngoài
về kinh tế, chính trị, nguy cơ phai nhạt bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu một nền
văn hoá lai căng phi bẳn sắc. Bên cạnh những nguy cơ mang tính hệ quả của tồn
cầu hố và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta còn phải đối mặt với âm
mưu diễn biến hồ bình. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang núp dưới
những chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, dân tộc tôn giáo để chống phá sự
nghiệp cách mạng nước ta ( Sự biến Tây Nguyên 2/2001 và 4/2004). Trước những

8


nguy cơ ấy, Đảng và Nhà nước ta phải không ngừng khơi dậy sức mạnh của chủ
nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo
vệ đất nước. Phát huy tối đa các nguồn nội lực, bao gồm con người, trí tuệ, truyền
thống, đất đai, tài nguyên,v.v để xây dựng và phát triển kinh tế, đưa đất nước từng

bước bắt kịp các nước phát triển. Đất nước phát triển, nền kinh tế hùng mạnh sẽ góp
phần trực tiếp tạo sức mạnh cho nhân dân ta giữ vững độc lập dân tộc. Độc lập dân
tộc phải được xem là cái bất biến trong sự thiên biến vạn hoá của nền kinh tế thế
giới đang phát triển với xu thế tồn cầu hố; bản sắc văn hoá Việt Nam cũng phải
được xem là cái bất biến trong sự đa dạng các nền văn hoá thế giới, tiếp thu nhứng
hay, cái đẹp, cái tiên tiến mà vẫn không mất đi cái gốc, cái chất Việt Nam trong mỗi
con người. Đó cũng là cách để giữ vững độc lập dân tộc theo đúng nghĩa của nó.
Độc lập là tài sản thiêng liêng vô giá của cả dân tộc, là cái phải giữ cho dù mất
tất cả, “hy sinh tất cả”. Muốn thực hiện tốt tinh thần bất hủ ấy của Hồ Chí Minh,
ngày nay đường lối của Đảng và Nhà nước ta phải thể hiện rõ sự quan tâm, không
ngừng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tiếp thu và phát huy
tinh hoa của dân tộc với truyền thống “lấy dân làm gốc” (Dân vi bản quốc gia
trường thọ), sinh thời Hồ Chí Minh đã khơng ngừng giáo dục cán bộ, đảng viên
phải ln ln có tinh thần “vì dân phục vụ”. Người nói: “ Gốc có vững cây mới
bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” Chăm lo và không ngừng nâng cao đời
sống cho nhân dân là cách thiết thực nhất để bảo vệ độc lập dân tộc, vì theo Người,
dân như nước, chở thuyền cũng là nước mà lật thuyền cũng là nước. Dân giàu thì
nước mạnh, mà nước mạnh thì độc lập dân tộc cịn. Chủ trương diệt giặc đói và giặc
dốt của Người năm 1945 về cơ bản chính là nền tảng của việc chăm lo và nâng cao
đời sống cho người dân về vật chất cũng như tinh thần. Và suy cho cùng, mục tiêu
của độc lập dân tộc, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là tự do, ấm no, hạnh phúc
của nhân dân; và dĩ nhiên là dân được ấm no tự do hạnh phúc sẽ ra sức bảo vệ nền
độc lập vốn mang lại những điều tốt đẹp đó. Như vậy, chăm lo, không những nâng
cao đời sống nhân dân vừa là mục tiêu vừa là cách thiết thực nhất để bảo vệ độc lập
dân tộc theo đúng tinh thần mà Hồ Chí Minh đã nêu rõ.

9


Thấm nhuần tư tưởng của người về vấn đề dân tộc, ta càng phải phát huy chủ nghĩa

dân tộc chân chính, tinh thần tích cực chủ động, sáng tạo và tự lực tự cường của mọi
người dân Việt Nam để góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nền độc lập
dân tộc. Người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết cộng
đồng, ý chí tự chủ kiên cường, sáng tạo, bất khuất, khơng chịu làm nô lệ, không
cam phận nghèo hèn. Những phẩm chất tốt đẹp ấy đã được phát huy cao độ trong
hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, đưa đến thắng lợi vĩ đại Điện Biên và
Đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng MN thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ
lên CNXH. Ngày nay, truyền thống quí báu ấy, chủ nghĩa dân tộc chân chính cần
được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực đưa đất nước
vượt qua mọi khó khăn thách thức, vững bước tiến lên cùng bè bạn khắp năm châu.
C.Tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp
Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa
vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về
quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và
thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động
xã hội. Giai cấp là những tập đồn người, mà tập đồn này có thể chiếm đoạt lao
động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đồn đó có địa vị khác nhau trong một chế
độ kinh tế xã hội nhất định".
Như vậy, sự ra đời, tồn tại của giai cấp gắn với những hệ thống sản xuất xã
hội nhất định. Sự khác nhau về địa vị của giai cấp trong hệ thống sản xuất là do:
Thứ nhất, khác nhau về quan hệ của họ đối với việc sở hữu những tư liệu sản
xuất của xã hội.
Thứ hai, khác nhau về vai trò của họ trong tổ chức quản lý sản xuất, tổ chức
quản lý lao động xã hội.
Thứ ba, khác nhau về phương thức và quy mô thu nhập những sản phẩm lao
động của xã hội.
Trong những sự khác nhau trên đây, sự khác nhau của họ về sở hữu đối với tư
liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định. Tập đồn người nào nắm tư liệu sản xuất sẽ trở

1

0


thành giai cấp thống trị xã hội và tất yếu sẽ chiếm đoạt những sản phẩm lao động
của các tập đồn khác. Đó là bản chất của những xung đột giai cấp trong các xã hội
có giai cấp đối kháng.Trong các xã hội có giai cấp, ngồi giai cấp thống trị và giai
cấp bị trị, cịn có các giai cấp và tầng lớp trung gian khác. Bộ phận này không có vị
trí cơ bản trong phương thức sản xuất, nó thường xuyên bị phân hóa. Nhân tố chi
phối sự phân hóa của các tầng lớp trung gian là lợi ích. Các giai cấp và tầng lớp
trung gian ngả về phía giai cấp thống trị hay bị trị là tùy thuộc vào vị trí lợi ích của
họ.
Giai cấp thực chất là một phạm trù kinh tế - xã hội có tính lịch sử. Nó ln ln vận
động biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch sử.
Nguồn gốc hình thành giai cấp: Trong xã hội có nhiều nhóm xã hội khác nhau.
Sự khác nhau ấy được phân biệt bởi những đặc trưng khác nhau như giới tính, nghề
nghiệp, chủng tộc, dân tộc... Những khác biệt ấy tự nó khơng tạo ra sự đối lập về
mặt xã hội. Chỉ có những giai cấp xuất phát từ sự khác biệt căn bản về lợi ích mới
tạo ra những xung đột xã hội mang tính chất đối kháng. Mác chỉ ra rằng: "Sự tồn tại
của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản
xuất". Sự phân chia một xã hội thành giai cấp trước hết là do nguyên nhân kinh tế.
Trong xã hội nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất chưa phát triển, năng suất lao động
rất thấp, sản phẩm làm ra chưa đủ nuôi sống người nguyên thuỷ. Để tồn tại họ phải
sống nương tựa vào nhau theo bầy đàn lệ thuộc nhiều vào tự nhiên, giai cấp chưa
xuất hiện. Sản xuất ngày càng phát triển với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Công cụ sản xuất bằng kim loại ra đời thay thế công cụ bằng đá, năng suất lao động
nhờ đó tăng lên đáng kể, phân công lao động xã hội từng bước hình thành, của cải
dư thừa xuất hiện, những người có chức quyền trong các thị tộc, bộ lạc đã chiếm
đoạt của cải dư thừa làm của riêng; chế độ tư hữu ra đời, bất bình đẳng về kinh tế
nảy sinh trong nội bộ cơng xã, đó chính là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp.Do có của
cải dư thừa, tù binh bắt được trong các cuộc chiến tranh không bị giết như trước. Họ

được sử dụng làm nô lệ phục vụ những người giàu và có địa vị trong xã hội, chế độ
có giai cấp chính thức hình thành kể từ đó. Như vậy, sự xuất hiện chế độ tư hữu là

1
1


nguyên nhân quyết định trực tiếp sự ra đời giai cấp. Sự tồn tại các giai cấp đối
kháng gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ
nghĩa. Chủ nghĩa tư bản phát triển cao lại tạo tiền đề khiến cho sự thủ tiêu chế độ tư
hữu, cái cơ sở kinh tế của sự đối kháng giai cấp trở thành xu thế khách quan trong
sự phát triển xã hội. Đó là lơgíc khách quan của tiến trình phát triển lịch sử. Kết cấu
xã hội - giai cấp: Các xã hội có đối kháng giai cấp lần lượt thay thế nhau trong lịch
sử. Mỗi kiểu xã hội đó có kết cấu xã hội - giai cấp riêng của nó.Mỗi kết cấu xã hội giai cấp của một xã hội nhất định bao gồm hai giai cấp cơ bản đối lập nhau. Đó là
chủ nô và nô lệ trong chế độ nô lệ, địa chủ và nông nô trong chế độ phong kiến, tư
sản và vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Hai giai cấp cơ bản của mỗi chế độ
kinh tế - xã hội là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế - xã hội đó, đồng thời là
những giai cấp quyết định sự tồn tại, sự phát triển của hệ thống sản xuất trong xã
hội đó. Giai cấp thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ kinh tế - xã
hội đang tồn tại. Ngoài hai giai cấp cơ bản, mỗi kết cấu xã hội - giai cấp còn bao
gồm một số giai cấp không cơ bản và tầng lớp trung gian. Trong những tập đồn xã
hội này có tập đồn là tàn dư của phương thức sản xuất cũ (như nô lệ trong buổi đầu
của xã hội tư bản), có tập đồn là mầm mống của phương thức sản xuất tương lai
(như giai cấp tư sản và giai cấp công nhân công trường thủ công trong giai đoạn
cuối của xã hội phong kiến). Ngồi ra bất cứ xã hội có giai cấp nào cũng có một số
tầng lớp trung gian là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, là
kết quả của q trình phân hóa xã hội khơng ngừng diễn ra trong xã hội. Đó là tầng
lớp bình dân trong xã hội nô lệ, các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn trong
xã hội tư bản. Xã hội có giai cấp nào cũng tồn tại một tầng lớp xã hội có vai trị
quan trọng về kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, đó là tầng lớp trí thức.

Trong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp. V.I.Lênin định nghĩa
đấu tranh giai cấp là "cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức
và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu
tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những
người hữu sản hay giai cấp tư sản"1.Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu

1
2


tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa quần chúng bị áp bức, vô sản đi làm
thuê chống lại giai cấp thống trị, chống lại bọn đặc quyền, đặc lợi, những kẻ đi áp
bức và bóc lột.Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang
tính xã hội hóa ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan
hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương
diện xã hội: Mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ, đại diện cho
phương thức sản xuất mới, với một bên là giai cấp thống trị, bóc lột, đại biểu cho
những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.Đấu tranh giai cấp là một
trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp. Đỉnh cao của cuộc đấu tranh
giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế phương thức sản xuất cũ bằng
một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất mới ra đời mở ra
địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội. Sản xuất phát triển sẽ là động lực
thúc đẩy sự phát triển của tồn bộ đời sống xã hội. như là địn bẩy thay đổi các hình
thái kinh tế - xã hội. Đấu tranh giai cấp góp phần xố bỏ các thế lực phản động, lạc
hậu, đồng thời cải tạo cả bản thân giai cấp cách mạng

3. Mối quan hệ biện chứng vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Giai cấp và dân tộc quan hệ mật thiết với nhau, song đó là những phạm trù chỉ các quan
hệ xã hội khác nhau, mỗi nhân tố có vai trị lịch sử của nó. Giai cấp, dân tộc không thay

thế lẫn nhau. Sẽ là sai lầm nếu tách rời giai cấp và dân tộc hoặc đem quy mối quan hệ
này vào mối quan hệ kia. Giai cấp và dân tộc sinh ra và mất đi không đồng thời.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước, người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước.
''Công lao to lớn đầu tiên của Bác đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là đã tìm
ra con đường cứu nước, khai phá con đường giải phóng dân tộc và các dân tộc bị áp
bức trên thế giới''.
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước trên
các châu lục Âu, Phi, Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra nhận
xét: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ của công

1
3


nhân, nơng dân lao động ở cả “chính quốc” cũng như ở thuộc địa. Nghiên cứu các
cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776); Pháp (1789), Nguyễn Ái Quốc nhận
thấy các cuộc cách mạng này tuy nêu khẩu hiệu ''tự do'', ''bình đẳng'', nhưng khơng
đưa lại tự do, bình đẳng thực sự cho quần chúng lao động. Người viết: Tiếng là
cộng hồ, dân chủ kì thực trong thì nó bóc lột cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc
địa. Tuy khâm phục các cuộc cách mạng ấy, nhưng Nguyên Ái Quốc cho rằng đó là
cách mạng chưa đến nơi. Vì thế, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động
đấu tranh trong phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức, phong trào giải
phóng giai cấp cơng nhân ở các nước tư bản. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc đã
tìm đến với cách mạng Tháng Mười Nga, đến với V.I. Lênin; như một tất yếu lịch
sử. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi là một sự kiện chính trị đặc biệt quan
trọng trong q trình hoạt động tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt,
sau khi đọc ''Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I.
Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt
Nam sẽ trải qua. Người khẳng định: ''Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản

mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ''; rằng: ''Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường
nào khác con đường cách mạng vơ sản''. Kết luận trên đây của Nguyễn Ái Quốc là
sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp
hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước
trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách
mạng vơ sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng. Vì vậy, con
đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành
cách mạng XHCN. Người chỉ rõ: ''Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển
thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hồn tồn''.
Trong q trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh và
chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, bền
bỉ chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã phát triển lý

1
4


luận về cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt động trong phong trào công
nhân ở Pháp, Người đã nhận thấy một hố sâu ngăn cách giữa giai cấp cơng nhân và
nhân dân lao động ''chính quốc'' với giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc
địa. Bằng con đường lao động, vơ sản hóa, Người làm đủ mọi nghề, đi qua nhiều
miền đất khác nhau, tham gia các sinh hoạt của công nhân, thợ thuyền, ở ngay sào
huyệt của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa thực dân, Người có điều kiện quan sát trực
tiếp tình cảnh sống của những người lao động dưới ách áp bức bóc lột tàn bạo của
tư bản ở chính quốc đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc.
Thực tiễn này đã giúp Người nhận rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản và thực dân,
cũng như hình thành ở Người tình hữu ái giai cấp đối với những người cùng khổ.
Cũng chính thực tiễn này đã cung cấp cho Người những căn cứ để xác minh một sự

thật mà Người đã từng hoài nghi về “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” do giai cấp tư sản
đưa ra.
Người muốn hiểu rõ đằng sau những lời đẹp đẽ trong châm ngơn tư sản ấy, thực
chất của nó là cái gì? Mười năm đầu trong cuộc đi tìm chân lý tại chính quê hương
của chủ nghĩa tư bản đã đem lại cho Người những thu hoạch lớn, những kết luận
chính trị quan trọng, tác động sâu sắc đến tư tưởng, quan điểm, đường lối của
Người. Đó là, ở đâu đâu đế quốc tư bản thực dân cũng dã man, tàn bạo, cũng đầy
rẫy những quan hệ phi nhân tính; ở đâu đâu những người lao động nghèo khổ, bần
cùng cũng là bạn bè, anh em, đồng chí của nhau, họ phải được tập hợp lại, chủ động
đấu tranh, “đem sức ta mà giải phóng cho ta.”Trong q trình tìm đường cứu nước
cứu dân và định hình đường lối chính trị giải phóng, giành độc lập dân tộc, Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh khơng chỉ hoạt động ở châu Âu, ở các nước phương Tây tư
bản chủ nghĩa, mà Người cịn hoạt động ở phương Đơng, châu Á, tìm hiểu thực tiễn
các phong trào đấu tranh ở Trung Quốc và Thái Lan.
Những cứ liệu từ thực tiễn đó giúp cho Người so sánh, phân tích, tìm ra những
ðiểm týõng ðồng và khác biệt trong các kết cấu kinh tế - xã hội, các mâu thuẫn giai
cấp và dân tộc ở những khu vực địa chính trị tiêu biểu, nơi diễn ra những phân hóa
và mâu thuẫn giai cấp, dân tộc rất khác nhau giữa phương Tây và phương Đông,

1
5


giữa các nước tư bản châu Âu với các nước châu Á đang cịn tồn tại rất nhiều tàn
tích phong kiến và đang là đối tượng khai thác, nô dịch của chủ nghĩa thực dân.
Trong Đại hội Tua, thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), Nguyễn Ái Quốc đã
kêu gọi những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các thuộc địa và lên án
phái nghị viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ nhị quốc tế, theo đuổi bọn thực dân
phản động, từ chối yêu cầu giải phóng của các dân tộc thuộc địa. Trong nhiều tham
luận tại các Đại hội quốc tế và các bài viết, Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa

Mác - Lênin, phê bình một cách kiên quyết và chân thành những sai lầm, khuyết
điểm của các Đảng Cộng sản chính quốc. Các Đảng Cộng sản này, tuy thừa nhận 21
điều kiện của Quốc tế cộng sản, trong đó Điều 8 quy định các Đảng Cộng sản ở
chính quốc phải ủng hộ và hoạt động một cách thiết thực giúp đỡ phong trào giải
phóng dân tộc; nhưng trên thực tế hoạt động rất ít, do khơng nhận thức đúng tầm
quan trọng của vấn đề thuộc địa.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam , ngay từ khi mới thành lập, trong ''Chính cương
vắn tắt'' do Nguyên Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản''. Như vậy là, lần
đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng này kết hợp
trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi
ách nơ lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc
được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân - điều đó phù hợp với xu thế
thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc.
Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam khơng phải là cái gì khác mà
là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng
XHCN. Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH; tức
là, cách mạng XHCN là bước kế tiếp ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
thắng lợi và giữa hai cuộc cách mạng này khơng có một bức tường nào ngăn cách.
Đây là quan điểm hết sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành

1
6


cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách
mạng XHCN mới giữ vững được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới
mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc

lập dân tộc thực sự.
Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Việt Nam , trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi vậy, trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân
chính... đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự phát triển tự tưởng
Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự
thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc là tiền đề quyết định nhất, cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái
Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó
chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và cách mạng cho sự phát triển tinh thần
dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai q trình đấu tranh
cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là chứng minh
cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có
giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm các
nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi
của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy
thập kỷ qua. Bởi lẽ:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành công triệt
để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của cách mạng vơ
sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân, nịng cốt là liên minh
cơng nơng, do chính Đảng của giai cấp cơng nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh nhận thức
rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp cơng nhân, thậm chí cả giai cấp

1
7



nơng dân là hồn tồn khơng đủ, mà theo Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham
gia mới biến sức mạnh dân tộc thành lực lượng vô địch.
Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu
thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc đấu tranh
giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm lược. Ở giai
đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc lên trên hết. ''Nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc, khơng địi được độc lập tự do cho tồn thể
dân tộc, thì chẳng những tồn thể dân tộc cịn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi
của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại được''. ''Chính lập trường và
lợi ích giai cấp cơng nhân địi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc''. Ở đây rõ ràng
cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc được giải quyết theo lập
trường giai cấp công nhân, chứ đâu phải là “hy sinh cái nọ cho cái kia” như có
người từng cố chứng minh.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vơ sản ở chính quốc như ''hai
cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vơ sản ở chính quốc với
vơ sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi. Cách mạng giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều vào cách mạng vơ
sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ động tiến lên giành thắng lợi, thậm chí có
thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước
tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Đáng tiếc là có lúc quan điểm này của Hồ Chí Minh khơng được một số người,
trong đó có một vài người của Quốc tế cộng sản cũng không thừa nhận.
Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ thuộc
địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước quá độ ấy
phải tự mình tìm tịi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình hình và đặc
điểm đất nước, tránh giáo điều, dập khn những hình thức, bước đi, biện pháp của
nước khác.

1
8



III. Ý nghĩa và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc và giai cấp trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, việc vận
dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết sức cấp
thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ xây
dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá
nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp
khơng được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hồ, sức mạnh dân tộc khơng được phát
huy như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã
kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về phương điện nhận thức lý luận cũng như trong
hoạt động thực tiễn về vấn đề này.
Tuy thế, trong những năm gần đây, ở nước ta đã nảy sinh ý kiến cho rằng: mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số nước khác nào đó, cịn ở Việt
Nam vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ cũng chi phối,
khi nào Đảng nhấn mạnh vấn đề giai cấp thì đều dẫn đến sai lầm. Từ đó, họ đề xuất
ý kiến theo hướng nhấn mạnh một chiều vấn đề dân tộc, tách vấn đề dân tộc khỏi
vấn đề giai cấp, hạ thấp ý nghĩa quan trọng, bức thiết của vấn đề giai cấp, không lấy
quan điểm giai cấp làm quan điểm cơ sở lập trường để xem xét, giải quyết vấn đề
dân tộc. Theo họ, nước ta hiện nay chỉ nên đề ra và giải quyết những vấn đề dân tộc,
còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra. Mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh'' được họ đồng tình, thưng giải thích theo hướng phi giai
cấp, nghĩa là không nhất thiết phải theo định hướng XHCN. Thực chất là họ bác bỏ
đường lối giải quyết vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân. Quan
điểm nêu trên đi ngược với con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã
lựa chọn, và rõ ràng là không phù hợp với thực tiễn của lịch sử cách mạng Việt
Nam.


1
9


Thực tiễn đó đã chỉ ra rằng, trong bất cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta đều phải kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc; trong
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam ln luốn gắn bó hữu cơ với lý tưởng của giai cấp
công nhân Việt Nam. Nền độc lập thật sự của dân tộc; tự do, sự giàu mạnh, văn
minh và hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể đạt được một cách bền vững trong sự
nghiệp cách mạng theo mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân. Bởi vậy, ngay từ
khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ: đổi mới
không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH
và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức; bước đi và biện pháp phù hợp. Nói
cách khác, giữ vững định hướng XHCN là nguyên tắc cơ bản của quá trình đổi mới.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay,
Đảng ta đã ngày càng cụ thể hố và hồn thiện đường lối đổi mới tồn diện, mà
thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong
công cuộc xây đựng CNXH ở nước ta. Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX
đã xác định rõ: “mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp
tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp
xây đựng và bảo vệ Tổ quốc được sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp cơng nhân
thống nhất với lợi ích tồn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội”. Quán triệt tý týởng Hồ Chí Minh, nhận thức và giải quyết
vấn ðề dt trên quan ðiểm giai cấp. Trong thời Hồ Chí Minh nội dung của vấn ðề dân
tộc là giải phóng dân tộc, thực hiện quyền tự quyết của dân tộc, ðề cao sức mạnh
chủ nghĩa yêu nýớc, nhýng Bác cũng luon ðứng vũng trên quan diểm giai cấp ðể
nhận thức và giải quyết vấn ðề dân tộc. Ðó là ln ðề cao vai trị lãnh ðạo của Ðảng
Cộng Sản. Ngày nay, trong công cuộc ðổi mới, nội dung của vấn ðề dân tộc là xây

dựng bảo vệ ðất nýớc. Ðó là q trình xây dựng nhà nýớc, xây dựng nền kinh tế,vãn
hóa giáo dục, ðạo ðức, quốc phịng tồn dân, bảo ðảm an ninh chính trị, an toàn xã
hội, bảo ðảm sự ổn ðịnh của xã hội, nhằm mục tiêu “dân giàu, nýớc mạnh, xã hội

2
0



×