Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Khóa luận tốt nghiệp văn học: Tìm hiểu mô típ người hóa thân thành các loại thực vật thuộc kiểu truyện người hoá vật trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (804.07 KB, 74 trang )

LỜI CẢM ƠN
Khóa luận được hoàn thành với sự hướng dẫn khoa học, sự giúp đỡ tận
tình của cô giáo - Thạc sỹ Lê Thị Xuân Liên, giảng viên Văn học Việt Nam. Em
xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến sự quan tâm, chỉ đạo của cô trong suốt
quá trình thực hiện khóa luận.
Em cũng xin cảm ơn Phòng nghiên cứu khoa học, Thư viện trường Đại
học Tây Bắc, các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ
văn, cô giáo chủ nhiệm lớp cùng các bạn sinh viên K50 Đại học Sư phạm Ngữ
văn đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em rất mong sẽ nhận được ý kiến đóng góp, phê bình của thầy cô và các
bạn sinh viên để khóa luận này hoàn thiện hơn.

Sơn La, tháng 5 năm 2013
Tác giả



Nguyễn Thị Nhung














MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
1.1. Cơ sở khoa học 1
1.2. Cơ sở thực tiễn 2
1.3. Sức hấp dẫn của đề tài 2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, mục đích nghiên cứu của khóa luận 5
3.1. Đối tượng nghiên cứu 5
3.2. Phạm vi nghiên cứu 6
3.3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Phương pháp nghiên cứu của khoá luận 6
5. Cấu trúc của khoá luận 7
CHƯƠNG 1 8
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH VÀ KIỂU TRUYỆN
NGƯỜI HOÁ VẬT TRONG KHO TÀNG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM
8
1.1. Khái quát chung về truyện cổ tích 8
1.1.1. Khái niệm “truyện cổ tích” 8
1.1.2. Hoàn cảnh nảy sinh và phát triển của truyện cổ tích 8
1.1.3. Phân loại truyện cổ tích 9
1.1.3.1. Truyện cổ tích loài vật 9
1.1.3.2. Truyện cổ tích thần kì 9
1.1.3.3. Truyện cổ tích sinh hoạt 10
1.1.4. Nội dung và ý nghĩa của truyện cổ tích 11
1.1.4.1 Truyện cổ tích phản ánh, lý giải những mối quan hệ xung đột cơ bản
trong gia đình và ngoài xã hội 11
1.1.4.2. Truyện cổ tích phản ánh lí tưởng xã hội và ước mơ của nhân dân lao
động 13
1.1.4.3. Triết lí sống và đạo lí làm người của nhân dân lao động trong truyện cổ

tích 14
1.1.5. Nghệ thuật truyện cổ tích 15
1.1.5.1. Quan niệm nghệ thuật trong sáng tạo truyện cổ tích 15
1.1.5.2. Cốt truyện và kết cấu 16
1.1.5.3. Nhân vật trong truyện cổ tích 17
1.1.5.4. Lực lượng thần kì 18
1.1.5.5. Không gian và thời gian nghệ thuật 20
1.2. Khái quát về kiểu truyện “người hoá vật” trong kho tàng truyện cổ tích
Việt Nam 22
1.2.1. Khái niệm “kiểu truyện” 22
1.2.2. Khái quát về kiểu truyện “người hoá vật” trong kho tàng truyện cổ tích
Việt Nam 22
1.2.2.1. Nguồn gốc của kiểu truyện 22
1.2.2.2. Nhân vật hoá vật 27
1.2.2.3. Nguyên nhân hoá thân 27
1.2.2.4. Hình thức hoá thân 28
1.2.2.5. Số lần biến hóa 30
1.2.2.6. Vật hoá thân 30
1.2.3. Ý nghĩa của kiểu truyện “người hoá vật” 32
1.2.3.1. Ý nghĩa xã hội 32
1.2.3.2. Ý nghĩa nhân văn 33
CHƯƠNG 2 35
TÌM HIỂU MÔ TÍP “NGƯỜI HOÁ THÂN THÀNH CÁC LOẠI THỰC
VẬT” THUỘC KIỂU TRUYỆN “NGƯỜI HOÁ VẬT” TRONG KHO
TÀNG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM 35
2.1. Khái niệm “mô típ” 35
2.2. Mô típ “người hoá thân thành các loại thực vật” trong kho tàng truyện
cổ tích Việt Nam 36
2.2.1. Nguồn gốc của mô típ “người hoá thân thành các loại thực vật” 36
2.2.2. Nhân vật hoá thân 39

2.2.2.1. Số lượng nhân vật hoá thân 39
2.2.2.2. Đối tượng hoá thân 40
2.2.3. Hình thức hoá thân 42
2.2.4. Số lần biến hoá 47
2.2.5. Nguyên nhân của cái chết và sự hoá thân của các nhân vật 48
2.2.5.1. Nhân vật hoá thân do bị kẻ xấu, kẻ ác hãm hại 48
2.2.5.2. Nhân vật hoá thân do bị hiểu lầm 50
2.2.5.3. Nhân vật hoá thân do bị trừng phạt 50
2.2.5.4. Nhân vật hóa thân xuất phát từ những lí do khác 51
2.2.6. Vật hoá thân 52
2.3. Ý nghĩa của mô típ 55
2.3.1. Ý nghĩa văn hoá 56
2.3.1.1. Giải thích nguồn gốc, đặc điểm các loài thực vật trong tự nhiên 56
2.3.1.2. Giải thích phong tục, tập quán 58
2.3.2. Ý nghĩa xã hội ……………………………………………………… 59
2.3.2.1. Phản ánh hiện thực cuộc sống của nhân dân lao động………………….59
2.3.2.2. Phản ánh và lí giải những xung đột, mâu thuẫn trong gia đình và ngoài
xã hội 60
2.3.3. Ý nghĩa nhân văn 64
KẾT LUẬN 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chúng tôi lựa chọn đề tài “Tìm hiểu mô típ người hóa thân thành các loại
thực vật thuộc kiểu truyện người hoá vật trong kho tàng truyện cổ tích Việt

Nam” làm vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu vì những lý do sau:
1.1. Cơ sở khoa học
Trong kho tàng văn học dân gian, truyện cổ tích luôn được xem là một
trong những thể loại có sức sống lâu bền nhất. Mỗi câu chuyện như là một viên
ngọc sáng, mỗi viên ngọc một dáng vẻ, một sắc đẹp riêng, tất cả hội tụ lại tạo
nên sự đa dạng, phong phú của thể loại cổ tích trong truyện kể dân gian các dân
tộc ở Việt Nam và trên thế giới. Nó tạo nên một sự hấp dẫn riêng không chỉ với
người già, trẻ con mà cả thế hệ trẻ trong đời sống hiện thưc, trong quá khứ, hiện
tại và cả tương lai.
Kiểu truyện “người hoá vật” là một trong những kiểu truyện đặc sắc, phổ
biến nhất trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam và thế giới. Đây là một kiểu
truyện có liên quan đến quan niệm nguyên thuỷ về thế giới của con người thời
cổ và thuyết nhân quả của đạo phật. Kiểu truyện “người hoá vật” là sự đan kết
của hàng loạt mô típ nghệ thuật độc đáo, trong đó có sự xuất hiện của mô típ
nghệ thuật “hoá thân thành vật” của các nhân vật trong truyện. Đây là một mô
típ nghệ thuật đắc dụng - một phương tiện nghệ thuật để nhân dân lao động thực
hiện lí tưởng xã hội trong mơ ước của mình một cách đầy thuyết phục.
Mô típ “người hoá thân thành các loại thực vật” xuất hiện rất nhiều trong
kiểu truyện “người hoá vật” tạo nên sự phong phú đa dạng cho kiểu truyện, làm
nên sức sống lâu bền của truyện cổ tích và sự hấp dẫn của thể loại này trong
công chúng văn học. Bên cạnh những mô típ “người hoá thân thành động vật”
và các sự vật khác thì mô típ “người hoá thân thành các loại thực vật” quả thực
là kết quả của sự sáng tạo phong phú, độc đáo thông minh của dân gian. Không
phải ngẫu nhiên nhân dân lại sáng tạo ra những mô típ nghệ thuật hấp dẫn này,
mỗi một câu chuyện kể đều là sự gửi gắm những ước muốn chính đáng của nhân
dân về thế giới tự nhiên cũng như xã hội. Tuy nhiên, mô típ nghệ thuật này chưa
được tìm hiểu, nghiên cứu độc lập và có hệ thống trong các công trình nghiên
cứu văn học dân gian nói chung, truyện cổ tích nói riêng.
Nhận thức được nét đẹp đặc trưng của thể loại cổ tích qua mô típ nghệ
thuật này, chúng tôi đã mạnh dạn lựa chọn mô típ “người hoá thân thành các loại

2

thực vật” thuộc kiểu truyện “người hoá vật” làm đề tài nghiên cứu với mong
muốn tìm hiểu, khám phá những giá trị đặc sắc của kiểu truyện một cách toàn
diện.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Xuất phát từ thực tiễn học tập học phần văn học dân gian trong nhà trường,
chúng tôi nhận thấy phần truyện cổ tích chiếm một khối luợng không nhỏ so với
các thể loại khác trong toàn bộ chuơng trình giảng dạy ở bậc đại học.
Truyện cổ tích được đánh giá là một thể loại truyện dân gian quan trọng
nhất. Bản thân nó chứa đựng nhiều kiểu truyện, nhiều mô típ nghệ thuật độc
đáo. Tuy nhiên do sự giới hạn của thời lượng giảng dạy của thầy cô giáo trên lớp
không đủ để chúng tôi tiếp cận sâu, rộng thể loại này. Đây chính là một trong
những lí do cơ bản để chúng tôi đi sâu tìm hiểu truyện cổ tích từ góc độ nghệ
thuật hư cấu cổ tích đặc sắc qua mô típ “hoá thân” thần kì của các nhân vật trong
truyện thành các loại thực vật để nghiên cứu trong khoá luận.
1.3. Sức hấp dẫn của đề tài
Những truyện cổ tích xuất hiện mô típ hóa thân từ người thành các loại
thực vật cùng với quan niệm kỳ ảo của dân gian về thế giới đã tạo nên sức hấp
dẫn riêng biệt của kiểu truyện đối với bạn đọc ở mọi lứa tuổi. Phải thừa nhận
rằng ngoài những lý do xuất phát từ nhu cầu khoa học, thực tiễn học tập, chúng
tôi đến với đề tài này còn bởi sự hấp dẫn bởi chính bản thân kiểu truyện “người
hóa vật”.
Sự hóa thân của những nhân vật được dân gian sáng tạo nên trong các câu
chuyện kể nhằm gửi gắm niềm mong ước lớn lao của mình về một cuộc sống
đầy lí tưởng. Đó là cuộc sống mà cái thiện, cái tốt sẽ chiến thắng, kẻ xấu phải bị
trừng trị, con người sống với nhau trong tình nghĩa yêu thương không còn chế
độ người bóc lột người…Tiêu biểu là các hình ảnh như cô Tấm trong truyện
Tấm Cám biết bao lần hóa vật để rồi tiếp tục đấu tranh không khoan nhượng với
kẻ thù; người phụ nữ thủy chung ngóng chồng đến hóa đá trong truyện Sự tích

Đá Vọng Phu, hình ảnh “trầu - cau - vôi” trong truyện Trầu Cau… tất cả đều là
những biểu tượng sáng ngời của nghĩa tình cao đẹp khó có thể phai trong tâm trí
chúng ta.
Có thể thấy, truyện cổ tích có một sức hấp dẫn đặc biệt với tuổi thơ và
thường để lại nhưng dấu vết không phai mờ trong sự hình thành tư tưởng và tình
cảm của con người. Đặc biệt là kiểu truyện xuất hiện mô típ nghệ thuật người
3

hóa thân thành cây, hoa, quả… Với chất lãng mạn bay bổng làm đắm say lòng
người ấy quả thực đã tạo ra sự hứng thú cho chúng tôi khi tiếp cận đề tài.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
“Mô típ nghệ thuật người hóa thân thành các loại thực vật trong truyện cổ
tích Việt Nam”, thuộc kiểu truyện “người hóa vật” - một kiểu truyện bắt nguồn
từ quan niệm về thế giới kỳ ảo góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng hấp dẫn
của truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam. Về sự biến hoá kì ảo của nhân vật
trong truyện cổ tích thành các vật khác nhau đã có nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm và có một số ý kiến liên quan đến vấn đề mà chúng tôi quan tâm tìm hiểu
như sau:
Tác giả Nguyễn Tất Phát, Bùi Mạnh Nhị trong bài Nhân vật lý tưởng và cốt
truyện của cổ tích thần kỳ báo văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh số 316 ở mục
“Những phần thưởng dành cho nhân vật” có viết “Trong truyện cổ tích thần kỳ,
nhân dân luôn chăm chú theo dõi nhân vật lý tưởng của mình và dành cho họ
những phần thưởng xứng đáng”. Bên cạnh những phần thưởng mà nhân dân
dành cho nhân vật lý tưởng bao giờ cũng kèm theo đòn trừng phạt đối với kẻ
thù. Bàn về vấn đề này, các tác giả viết: “đúng là phải tiêu diệt mầm mống gây
ra sự tội ác. Bởi vậy những kẻ về bản chất cực kỳ nham hiểm, cực kỳ tham lam,
tàn bạo như Lý Thông, tên vua trong “chiếc áo lông chim”, mẹ con dì ghẻ trong
truyện Tấm Cám thì không thể thoát chết. Lý Thông có thể được Thạch Sanh tha
chết nhưng trong cảm nhận của nhân dân, nếu Lý Thông còn sống thì xã hội sẽ
không có cuộc sống yên ổn, vì lẽ đó mà Lý Thông phải chết. Trong truyện, lưỡi

tầm sét của thiên lôi bổ lên đầu Lý Thống chính là lưỡi tầm sét đại diện cho
công lý nhân dân. Sau cái chết Lý Thông còn bị biến thành bọ hung đời đời sống
trong dơ bẩn” [13, 5].
Dân gian thật công bằng trong việc thưởng công và trừng tội. Sự hóa thân
của Lý Thông là đòn trừng phạt mà tác giả dân gian dành cho Lý Thông vì sự
gian ác, tham lam, xảo quyệt. Có thể thấy mô típ người hóa thân thành vật ở đây
thể hiện được quan điểm của tác giả dân gian về cái thiện và cái ác. Cái thiện sẽ
được đền bù thích đáng và cái ác sẽ phải chịu hình phạt thích đáng.
Tác giả Chu Xuân Diên trong cuốn Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa
học với mục “Vấn đề mối quan hệ của truyện cổ tích với thực tại và việc nghiên
cứu thi pháp của truyện cổ tích” khi bàn về ảnh hưởng của khoa học xã hội học
dung tục với việc tiếp cận truyện cổ tích, ông có nêu nhận xét của nhà nghiên
cứu Vũ Ngọc Phan về cách miêu tả và tính cách của nhân vật “người hóa vật”
trong các truyện như Thần Lợn, Nghè hóa cọp như sau:
4

“Óc tưởng tượng dồi dào của người nông dân đi tới lãng mạn bắt nguồn từ
sự căm thù của giai cấp đã làm cho họ có con mắt khác thường đối với giai cấp
bóc lột họ với lòng tin tưởng rất mạnh coi địa chủ như thú vật, người nông dân
đã thú vật hóa địa chủ trong sáng tác của họ đó là những truyện cổ tích Thần
Lợn, Nghè hóa cọp trong đó có tên cường hào đã được người nông dân cường
hóa bằng những nét sắc sảo, mạnh dạn bóc trần hết những bỉ ổi của giai cấp bóc
lột và ngoan cố (Vũ Ngọc Phan – người nông dân trong truyện cổ tích). [13, 5 -
6]. Qua ý kiến của Vũ Ngọc Phan, chúng ta thấy nhân vật người hóa vật trong
kiểu truyện “người hóa vật” đã được ông nhắc tới ở đây, phân tích, lý giải còn
nặng nề sự áp đặt, thiếu cơ sở khoa học.
Trong luận án Đặc điểm thi pháp truyện thơ các dân tộc thiểu số, tác giả Lê
Trường Phát khi bàn về mô típ “hóa kiếp” (người hoá kiếp thành vật) một trong
các mô típ của truyện thơ đã nhận xét đây là mô típ phổ biến nhất trong kho tàng
truyện cổ của các dân tộc và phần lớn xuất hiện ở phần kết thúc như một thành

phần không thể thiếu của cốt truyện nhằm gúp thể hiện triệt để đấu tranh xã hội.
Nhiều truyện thơ đã sử dụng môtíp này [17].
Ý kiến trên một mặt thể hiện cái nhìn biện chứng của tác giả về sự ảnh
hưởng qua lại của truyện cổ tích và truyện thơ, mặt khác nó còn góp phần khẳng
định mô típ “người hóa vật” là một trong những mô típ chủ yếu của truyện cổ
tích. Và đây chính là mô típ quan trọng trong việc hình thành nên kiểu truyện
“người hóa vật”, một kiểu truyện đặc sắc của các dân tộc Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Bích Hà trong cuốn Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sỹ
trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á, khi bàn tới vấn đề “Về cái chết và sự
hoá thân của nhân vật Lí Thông” đã nhận xét: “Cái chết và sự hoá thân của
những kẻ ác thành con vật xấu xa chính là thắng lợi tuyệt đối của cái thiện, của
công lí”[6, 139].
Tác giả Đinh Gia Khánh khi tìm hiểu về truyện cổ tích Tấm Cám đã nhận
xét về cái chết của Tấm thực chất là sự sống lại dưới những hình thức khác nhau
trong đó có sự hoá thân thành các loại thực vật: “mụ dì ghẻ và con Cám không
chỉ giết cô Tấm một lần. Cô sống lại dưới hình thức chim vàng anh, chúng bắt
cô ăn thịt cô sống lại dưới hình thức cây xoan đào, chúng bèn chặt cây làm thành
khung cửi”[11, 97].
Từ sự khẳng định về cái chết cùng sự hoá thân của nhân vật Tấm thực chất
là sự kéo dài sự sống, ông cũng luận bàn về hành động trả thù của Tấm đối với
mẹ con nhà Cám như sau: “Đó chính là một hình thức trả thù…chỉ là một điều
công bằng. Mụ dì ghẻ và Cám đã từng ăn thịt chim (kiếp thứ 2 của Tấm), chặt
5

cây xoan đào (kiếp thứ 4 của Tấm); thì bây giờ nếu cô Tấm làm thịt Cám cho mẹ
nó ăn thịt thì đó cũng chỉ là một điều công bằng. Ác giả ác báo, đó là công lí
theo quan điểm thông thường của nhân dân ngày xưa” [11, 129].
Trong truyện Sự tích trái sầu riêng, sự hoá thân của nhân vật thành trái sầu
riêng đã được tác giả Nguyễn Đổng Chi bàn luận như sau: “Nếu những giọt mưa
ngâu trong Ả chức chàng Ngưu giải thích đặc điểm của vùng khí hậu thường chỉ

diễn ra ở miền Bắc thì những quả sầu riêng trong “Sự tích trái sầu riêng” cũng
lại là một thứ đặc sản riêng được thi vị hoá của vùng khí hậu Nam Bộ” [14,
348].
Tác giả Hoàng Tiến Tựu trong cuốn Bình giảng truyện dân gian đã đưa ra
những cơ sở quan trọng để nhận diện về thể loại cổ tích. Một trong những cơ sở
đó chính là yếu tố kì diệu, phi thường trong truyện dân gian: “Truyện Trương
Chi, mặc dù không có tiên, bụt, thần thánh nhưng vai trò của yếu tố kì diệu cũng
rất lớn. Tác giả đã biến cái chết của Trương Chi, vốn là một sự bất lực, bế tắc
thành một giải pháp, một hành động thực hiện ước mơ trong trí tưởng tượng
thần kì và bằng cái thần kì, ảo tưởng. Vì thế tác giả để cho hồn Trương Chi
“nhập vào cây gỗ bạch đàn” rời gỗ bạch đàn lại được tiện thành chén bạch đàn
và cuối cùng Trương Chi đã “tái sinh” - dù chỉ là “tái sinh” trong chén cho nàng
Mị Nương nhìn…”[23, 24]. Có thể thấy sự “nhập hồn vào cây gỗ bạch đàn”, hay
hiện hình trong chén nước cho nàng Mị Nương nhìn thấy là một cách diễn đạt
khác đi của một hình thức hoá thân tạm thời của nhân vật này mà vật hoá thân là
một loài cây thân gỗ quen thuộc trong thế giới cây cối quen thuộc ở nước ta.
Như vậy, ở những mức độ khác nhau ở những công trình nghiên cứu khác
nhau về truyện cổ tích đã có những ý kiến đề cập tới mô típ người hóa thân
thành vật. Điều này thể hiện sự quan tâm của các nhà nghiên cứu với kiểu
truyện. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu, các công trình nghiên cứu mới chỉ
đề cập tới mô típ “người hoá vật” còn mô típ “người hóa thân thành các loại
thực vật” thì mới được nhắc tới sơ qua, thậm chí còn chưa có công trình riêng
nào tập trung nghiên cứu một cách đầy đủ. Theo tôi đây là một trong những yếu
tố rất hay, hấp dẫn, có ích do đó cần thiết phải quan tâm và những ý kiến nghiên
cứu của người đi trước như những tiền đề lý luận, định hướng cho chúng tôi
trong việc lựa chọn nghiên cứu vấn đề này.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, mục đích nghiên cứu của khóa luận
3.1. Đối tượng nghiên cứu
6


Đối tượng nghiên cứu chính của chúng tôi trong khoá luận là mô típ nghệ
thuật “người hoá thân thành các loại thực vật” trong truyện cổ tích Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi tập trung vào khảo cứu mô típ
nghệ thuật “người hoá thân thành các loại thực vật” (cây, hoa, quả, củ) thuộc
kiểu truyện “người hoá vật” trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Đồng thời
trong quá trình khảo cứu, phân tích chúng tôi có đối sánh với mô típ hoá thân
của các nhân vật thành các loại sự vật khác trong cùng kiểu truyện.
3.3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu mô típ “người hoá thân thành các loại thực” vật nhằm làm rõ
sự hiện diện của một mô típ độc đáo, vai trò chức năng của mô típ hoá thân
trong việc cấu tạo cốt truyện và thể hiện chủ đề của thể loại cổ tích. Để giải
quyết mục tiêu đó, chúng tôi đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Thống kê, phân loại để mô tả sự hiện diện cụ thể của mô típ hoá thân
thành các loại thực vật trong truyện cổ tích của người Việt.
- Nội dung, ý nghĩa của mô típ người hoá thân thành các loại thực vật
trong truyện cổ tích Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu của khoá luận
Trong khoá luận này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ
yếu sau:
Phương pháp khảo sát thống kê: Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử
dụng phương pháp này để thống kê những ý kiến, nhận xét, đánh giá của các nhà
nghiện cứu về các vấn đề có liên quan đến phạm vi nghiên cứu của khoá luận và
các dẫn chứng một cách hệ thống cho khoá luận. Đồng thời sử dụng phương
pháp này trong khảo cứu tư liệu về “mô típ hoá thân thành các loại thực vật”
trong truyện cổ tích Việt Nam.
Phương pháp phân tích văn học: Chúng tôi sử dụng phương pháp này để
phân tích, đánh giá nội dung, ý nghĩa, kết cấu của mô típ nghệ thuật người hoá
thành cây, hoa, quả trong truyện cổ tích Việt Nam.
Phương pháp bình giảng văn học: Đây là phương pháp rất quan trọng trong

việc đánh giá, bình phẩm những cái hay cái đẹp trong mô típ hoá thân thành các
loại thực vật trong truyện cổ tích của người Việt.
7

Phương pháp so sánh liên ngành: Đây là phương pháp vận dụng tri thức
của nhiều lĩnh vực vào nghiên cứu. Cụ thể ở đây chúng tôi đã dùng kiến thức
của văn hoá học, dân tộc học để soi sáng vấn đề cần nghiên cứu.
5. Cấu trúc của khoá luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khoá luận gồm có hai chương:
Chương 1: Khái quát chung về truyện cổ tích và kiểu truyện người hoá vật
trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam.
Chương 2: Tìm hiểu mô típ người hoá thân thành các loại thực vật thuộc
kiểu truyện người hoá vật trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam.





















8





CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH VÀ KIỂU TRUYỆN
NGƯỜI HOÁ VẬT TRONG KHO TÀNG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM

1.1. Khái quát chung về truyện cổ tích
1.1.1. Khái niệm “truyện cổ tích”
“Truyện cổ tích là loại truyện dân gian có tính phổ biến, hình thành từ thời
cổ đại, phát triển, tồn tại qua nhiều thời kì xã hội khác nhau, gắn chặt với quá
trình tan rã của công xã nguyên thủy, hình thành gia đình phụ quyền, và phân
hoá giai cấp trong xã hội. Nó hướng vào những vấn đề cơ bản, những số phận,
những quan hệ và xung đột có tính chất riêng tư và phổ biến trong xã hội có giai
cấp (ở Việt Nam chủ yếu là xã hội phong kiến). Nó dùng một kiểu tưởng tượng
và hư cấu riêng (có thể gọi là “tưởng tượng và hư cấu cổ tích”) kết hợp với các
thủ pháp nghệ thuật đặc thù để phản ánh đời sống, và khát vọng của nhân dân,
đáp ứng nhu cầu nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ và tiêu khiển của nhân dân” [24,
63].
1.1.2. Hoàn cảnh nảy sinh và phát triển của truyện cổ tích
Truyện cổ tích ra đời muộn hơn so với thần thoại, trong hoàn cảnh xã hội
đã có sự biến đổi sâu sắc. Do đó tìm hiểu truyện cổ tích chúng ta không thể bỏ
qua quá trình nảy sinh và phát triển của thể loại này.
Có thể thấy, truyện cổ tích xuất hiện vào thời kì công xã nguyên thủy tan

rã, xã hội có giai cấp được hình thành, cùng với nó là sự thay thế chế độ mẫu hệ
bằng chế độ phụ quyền. Trong qua trình vận động và phát triển của mình, truyện
cổ tích phát triển rực rỡ nhất trong thời kì xã hội phong kiến, gắn liền với tín
ngưỡng, phong tục của một dân tộc. Theo các nhà nghiên cứu thế kỉ của máy
móc, của điện tử là thế kỉ suy tàn của truyện cổ tích. “Lúc mà tiểu thuyết, truyện
ngắn, kịch bản, điện ảnh… xuất hiện và trở nên món ăn tinh thần hợp “khẩu vị”
của quần chúng thì cũng là lúc cổ tích bắt đầu lùi xuống địa vị thứ yếu, nếu
chưa phải là bước xuống khỏi văn đàn. Huyễn tưởng ngày càng được khoa học
9

“giải mã” và tín ngưỡng tuy vẫn còn đầy sức hấp dẫn, cũng thường xuyên bị
khoa học tranh chấp và “khoanh vùng” giới hạn. Việc sáng tác những câu
chuyện hoang đường vì thế bị hạn chế dần, kết quả là nghệ thuật cổ tích cũng
thu hẹp lại. Tuy có một số ít tưởng bắt chước người xưa đặt nên những truyện
tương tự cổ tích, nhưng dù cố gắng đến đâu nội dung của chúng cũng không tài
nào còn mang được cái không khí, cái phong vị của truyện cổ tích nữa”[14, 281
- 282]. Truyện cổ tích dù không được sáng tác mạnh mẽ như trước nữa nhưng
với chức năng giải thích và gắn liền với một số tín ngưỡng, phong tục của nhân
dân lao động thì thể loại cổ tích vẫn giữ được vị trí quan trọng trong đời sống
tinh thần của nhân dân.
1.1.3. Phân loại truyện cổ tích
1.1.3.1. Truyện cổ tích loài vật
Là loại truyện cổ tích chủ yếu lấy các loài vật (phần lớn là động vật) làm
đối tượng phản ánh, tường thuật và lí giải. Loại truyện này ở thời kì cổ xưa hầu
hết các dân tộc đều có. Vì thế ở truyện cổ tích loài vật vừa có nội dung sinh hoạt
vừa có nội dung mang ý nghĩa xã hội với những mức độ khác nhau, và hai mặt
nội dung đó gắn bó hoà quyện với nhau rất chặt nhiều khi rất khó tách bạch.
Truyện cổ tích loài vật ngoài việc phản ánh sự ra đời, đặc điểm của các loài vật,
những con vật nuôi hoang dã hoặc trong nhà còn gián tiếp phản ánh mối quan hệ
giữa con người với con người. Những con vật trong cổ tích loài vật hầu hết đều

được nhân cách hoá (biết nói năng, suy nghĩ và hành động như con người)
nhưng nhìn chung đều mang tính chất “trần gian” thực tại chứ không siêu nhiên,
kì ảo như các con vật trong cổ tích thần kì. Truyện cổ tích loài vật không có
những con vật được lí tưởng hoá một cách tuyệt đối và nói chung nó cũng không
có lối kết thúc “có hậu” một cách phổ biến và công thức.
Ở nước ta, bộ phận cổ tích loài vật không được sưu tầm ghi chép sớm nên
bị mất mát nhiều và nhiều truyện còn lại ít nhiều bị ngụ ngôn hoá hoặc pha trộn
với truyện thần thoại như truyện: Cóc kiện trời, vừa có tính chất thần thoại, suy
nguyên vừa có tính chất của cổ tích loài vật. Truyện Công và Quạ vừa có tính
chất thần thoại, cổ tích vừa có tính chất ngụ ngôn, hay Bồ câu và Sáo, Thỏ và
Rùa cũng như vậy.
1.1.3.2. Truyện cổ tích thần kì
Đây là bộ phận quan trọng và tiêu biểu của thể loại cổ tích. Nó ra đời sớm
hơn truyện cổ tích sinh hoạt và có những đặc trưng nổi bật của truyện cổ tích
đều có thể tìm thấy trong nhóm truyện này. Ra đời vào thời kì đầu của xã hội có
10

giai cấp, truyện cổ tích thần kì tập trung vào việc nhận thức, phản ánh xung đột
mới nảy sinh trong xã hội. Những xung đột ấy trước hết thể hiện ở mối quan hệ
giữa những con người trong gia đình với nhau, sau đó là những con người trong
xã hội. Đặc trưng nổi bật của truyện cổ tích thần kì là yếu tố kì ảo rất đậm và
tham gia như một phần không thể thiếu trong sự phát triển của cốt truyện, nó đề
cao trí tưởng tượng phong phú và lãng mạn của các tác giả dân gian.
Nhân vật của truyện cổ tích thần kì là con người đời thường bé nhỏ mà chủ
yếu là những nhân vật bất hạnh như người mồ côi, người đi ở, người con riêng
(như Thạch Sanh, công chúa, hoàng tử, Chử Đồng Tử, Sọ Dừa, vợ Sọ Dừa…).
Các nhân vật này luôn đại diện cho cái thiện. Đối lập với những nhân vật đại
diện cho cái thiện là những nhân vật đại diện cho cái ác (các nhân vật “đàn anh”,
“bề trên”, dì ghẻ, người anh tham lam, trưởng giả…).
Bên cạnh các nhân vật là con người trong đời sống thực tế, trong truyện cổ

tích thần kì còn xuất hiện một kiểu nhân vật đặc biệt là “lực lượng thần kì”.
“Lực lượng thần kì” bao gồm các nhân vật siêu nhiên kì ảo (Tiên, Bụt, Phật…),
con vật thần (chim thần, rắn thần…), vật màu nhiệm (gậy thần, ngọc thần…), sự
biến hoá kì ảo ( người biến hoá thành vật, vật biến hoá thành người…). Chính
thế giới thần kì, màu nhiệm này khiến cho truyện cổ tích thần kì mang đậm yếu
tố kì ảo và đề cao trí tưởng tượng phong phú lãng mạn của các tác giả dân gian.
Kết thúc truyện cổ tích thần thường là có hậu, mang lại sự vui vẻ lạc quan,
thoả mãn mơ ước của nhân dân. Những kết thúc có hậu như nhân vật bất hạnh
được đổi đời và sống hạnh phúc, còn nhân vật ác thì bị trừng phạt một cách
thích đáng… là sự biểu hiện của khát vọng, ước mơ về sự công bằng, cuộc sống
hạnh phúc sung túc của nhân dân lao động.
1.1.3.3. Truyện cổ tích sinh hoạt
So với truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích ra đời muộn hơn, khi mâu
thuẫn xã hội và đấu tranh giai cấp trở nên gay gắt. Nhân vật chính là con người
trong các mối quan hệ gia đình, xã hội phức tạp. Ở tiểu loại này, yếu tố kì ảo
xuất hiện ít hơn so với truyện cổ tích thần kì, thậm chí là không có yếu tố thần
kì. Hoặc nếu có thì những yếu tố thần kì này cũng không có vai trò và tác dụng
trong sự phát triển tình tiết và giải quyết xung đột, mâu thuẫn của truyện (ví dụ
truyện Trương Chi, truyện Chim hít cô, truyện Vợ chàng Trương, truyện Cái cân
thuỷ ngân…). Nếu truyện cổ tích thần kì giải quyết xung đột chủ yếu bằng “cái
thần kì” và ở trong “cõi thần kì” thì truyện cổ tích sinh hoạt lại giải quyết xung
đột chủ yếu trong cuộc đời trần thế và bằng cái lôgíc của đời sống thực tế con
người.
11

Truyện cổ tích sinh hoạt ngoài lối kết thúc có hậu, nhiều truyện còn có lối
kết thúc bi kịch, các nhân vật chính đều phải chết hoặc ra đi biệt tích nhưng tinh
thần lạc quan vẫn toả sáng, vì những cái chết ấy hay sự ra đi biệt tích của các
nhân vật chính diện chỉ làm tăng thêm niềm tin và sự khẳng định đối với phẩm
chất cao đẹp của con người chân chính.

Sự phân loại truyện cổ tích nói trên chỉ mang tính chất tương đối, ranh giới
thực tế giữa các loại truyện cổ tích không phải lúc nào cũng rành mạch, rõ ràng.
Ta thấy những yếu tố thần kì - đặc trưng của truyện cổ tích thần kì vẫn xuất hiện
rải rác trong các truyện cổ tích sinh hoạt, hay những loài vật thuộc nhiều loại
khác nhau vẫn hay được nói tới trong các truyện cổ tích về con người. Cho nên,
để hiểu sâu hơn tính chất đa dạng, phong phú của từng tiểu loại truyện cổ tích
cần phải đi vào tìm hiểu hệ thống đặc trưng của từng loại truyện.
1.1.4. Nội dung và ý nghĩa của truyện cổ tích
1.1.4.1 Truyện cổ tích phản ánh, lý giải những mối quan hệ xung đột cơ
bản trong gia đình và ngoài xã hội
Trong thế giới văn học dân gian, nếu như thần thoại phản ánh quan niệm và
sự nhận thức của người Việt cổ về thế giới, truyền thuyết là sự nhận thức, lí giải
về lịch sử thì truyện cổ tích lại gần gũi hơn với con người trong cách phản ánh
những vấn đề cơ bản trong xã hội có giai cấp. Đó là những mâu thuẫn xảy ra
trong cuộc sống mà con người không thể tránh khỏi, nó trở thành vấn đề của
mọi giai cấp.
Phần lớn những truyện cổ tích tiêu biểu và quen thuộc đối với quảng đại
nhân dân đều xoay quanh đề tài sinh hoạt gia đình, phản ánh và lí giải những
xung đột, mâu thuẫn có tính chất riêng tư nhưng phổ biến, chẳng hạn như mâu
thuẫn giữa anh em trai trong truyện Cây khế, giữa chị em gái trong Sọ Dừa, giữa
dì ghẻ con chồng và chị em cùng cha khác mẹ trong truyện Tấm Cám Hoặc
những xung đột có tính chất bi kịch về hôn nhân và gia đình như trong các
truyện Trầu cau, Ba ông bếp, Đá Vọng Phu… Hầu hết hành động của các nhân
vật chính đều xuất phát từ xung đột trong quan hệ gia đình. Hành động ấy có thể
phát triển ra ngoài phạm vi gia đình, thậm chí có thể đi rất xa vào tận cung vua,
sang thế giới thần kì nhưng tất cả đều bắt nguồn từ xung đột gia đình và do quan
hệ này chi phối thúc đẩy. Khi xung đột gia đình được giải quyết xong thì hành
động ấy mới chấm dứt và tác phẩm mới thực sự kết thúc. Trong truyện Tấm
Cám hành động của nhân vật Tấm gắn liền với xung đột trong quan hệ dì ghẻ
con chồng và quan hệ chị em cùng cha khác mẹ. Từ những chi tiết đầu tiên của

truyện là Tấm đi bắt tép với Cám thì hành động của Tấm đã phát triển liên tục
12

và mở rộng dần thậm chí vượt ra ngoài phạm vi gia đình như khi Tấm gặp Bụt,
đi dự hội, gặp vua… Chung quy lại những hành động ấy đều do quan hệ gia
đình chi phối. Chính vì vậy mà tuy gắn với đề tài, xung đột gia đình thì nội dung
và ý nghĩa xã hội của truyện cổ tích vẫn sâu sắc và phong phú.
Những mối quan hệ mâu thuẫn trong gia đình nói trên xét cho cùng là cách
phản ánh khác, dưới góc độ khác của những mối quan hệ xung đột trong truyện
cổ tích và được thể hiện trong ba nhóm truyện chính.
Trong nhóm truyện cổ tích thần kì: những mối quan hệ mâu thuẫn ngoài xã
hội được đưa vào phạm vi gia đình và được lí giải trong mối tương quan, chi
phối của các quan hệ xã hội. Mâu thuẫn đó được phản ánh trong các tiểu loại
khác nhau của nhóm truyện cổ tích thần kì như nhóm truyện người mồ côi,
nhóm truyện người em, nhóm truyện người nghèo khổ.
Trong nhóm truyện cổ tích sinh hoạt: những mối quan hệ mâu thuẫn xã hội
được phản ánh một cách trực diện hơn, cụ thể hơn và gần hiện thực hơn. Đó là
mâu thuẫn về đạo đức giữa kẻ giàu và người nghèo, mâu thuẫn về trí tuệ giữa kẻ
thuộc tầng lớp trên ngu dốt, hống hách, keo kiệt và người lao động thật thà,
thông minh. Đây cũng chính là mâu thuẫn mang tính chất giai cấp (thống trị và
người bị trị) được phản chiếu ở góc độ khác hẳn so với nhóm truyện cổ tích thần
kì.
Trong nhóm truyện cổ tích về loài vật: các con vật đóng vai trò chính trong
kết cấu cốt truyện nhưng mối quan hệ giữa chúng ít nhiều cũng thể hiện được
mối quan hệ của con người với những suy nghĩ, hành động như con người. Xã
hội loài vật trong truyện mang bóng dáng xã hội loài người như truyện Quạ và
công, Chó phải đòn oan…
Có thể nói qua việc phản ánh những mâu thuẫn trong gia đình và xã hội,
truyện cổ tích Việt Nam đã cho thấy một cái nhìn thương cảm đối với những
người lao động nghèo khổ, nhỏ bé và khát vọng sống, triết lí sống của nhân dân

lao động. Nó cho thấy tư tưởng nhân văn của tác giả dân gian và niềm tin vào
khả năng cải tạo thực tế của con người. Tác giả Nguyễn Văn Nguyên đã khẳng
định: “truyện cổ tích thường cho chúng ta thấy rằng trong cuộc đấu tranh cho
một cuộc đời tốt đẹp, có đau khổ mà không buông xuôi, có thất bại mà không
đầu hàng, có bi thảm mà không tuyệt vọng, thực tại có đen tối nhưng ánh sáng
của niềm tin vẫn muốn xua tan màu sắc ảm đạm của một cái gì tận thế và trong
ánh sáng đó con người vẫn cố gắng vươn lên” [15, 45].
13

1.1.4.2. Truyện cổ tích phản ánh lí tưởng xã hội và ước mơ của nhân dân
lao động
So với xã hội công xã nguyên thuỷ thì xã hội có giai cấp là một bước tiến
vĩ đại của lịch sử loài người nhưng không vì thế mà nó hoàn toàn tốt đẹp và
đáng yêu đối với tất cả nhân dân lao động. Bước sang thời kì xã hội có giai cấp,
những người bị đau khổ nhiều nhất trước hết là những người “đàn em”, những
kẻ “bề dưới”, những đứa con mồ côi không cha không mẹ trong các gia đình
phụ quyền. Họ bị áp bức, bóc lột nặng nề nên họ ước mơ có một xã hội công
bằng, dân chủ. Truyện cổ tích đã đáp ứng nhu cầu ấy bằng cách xây dựng thành
công một thế giới hiện thực trong mơ ước, mang khát vọng đổi đời. Những ước
mơ, lí tưởng mà truyện cổ tích phản ánh làm cho con người thêm lạc quan, tin
tưởng vào cuộc sống và tích cực hành động để xây dựng, cải tạo hiện thực ngày
càng tốt đẹp hơn.
Lí tưởng xã hội mà nhân dân lao động hướng tới là một xã hội công bằng,
dân chủ. Ở đó, những con người bé nhỏ, nghèo khổ có cuộc sống tốt đẹp hơn
thực tại đang sống; người xấu xí trở nên xinh đẹp, tài giỏi; kẻ xấu kẻ ác bị trừng
trị một cách đích đáng con người tốt được thưởng công hay đền đáp… Trong
truyện Thạch Sanh (Việt), Thạch Sanh tài năng, đức độ lập được nhiều công
được lấy công chúa còn Lí Thông độc ác, hám danh vọng, vô ơn bạc nghĩa bị
trời đánh hoá kiếp bọ hung, đời đời chui rúc nơi hôi hám. Trong truyện Tấm
Cám (Việt), Tua Tềnh Tua Nhì (Tày), cô Tấm, Tua Tềnh được sống trong hạnh

phúc còn Cám, Tua Nhì độc ác phải trả giá bằng cái chết.
Ngoài việc thể hiện ước mơ về một xã hội lí tưởng công bằng của nhân dân
lao động, truyện cổ tích còn phản ánh rất nhiều ước mơ như lao động nhẹ nhàng
hơn mà vẫn có hiệu quả, hay có được một tấm thảm biết bay, đôi dày vạn dặm,
áo tàng hình, ngậm viên ngọc quý… tiện cho việc đi lại, họ có thể đi đến mọi
nơi mình muốn một cách dễ dàng.
Trong ước muốn của nhân dân lao động còn có khao khát chiến thắng tuổi
già và cái chết. Họ ước có nước thần để uống và sẽ trẻ đẹp mãi mãi, mơ ước có
chiếc gậy “đầu sinh đầu tử” để có thể cứu người chết sống lại, mơ ước có vương
quốc “trẻ mãi không già” ở đó không lo đến tuổi tác và bệnh tật.
Có thể thấy, đến với thế giới cổ tích mọi ước mơ dù nhỏ bé hay lớn lao đều
được thực hiện một cách nhanh chóng và hoàn hảo. Tác giả dân gian đã xây
dựng những kết thúc có hậu, những thế giới thần kì, đặc biệt là sử dụng một loạt
các mô típ nghệ thuật quen thuộc như mô típ người hoá thân thành vật. Trong
mô típ người hoá thân thành vật ấy, mô típ “người hoá thân thành các loại thực
14

vật” được coi là một sáng tạo nghệ thuật đắc dụng trong việc thể hiện ước mơ, lí
tưởng sống của dân gian.
1.1.4.3. Triết lí sống và đạo lí làm người của nhân dân lao động trong
truyện cổ tích
Khi nói đến nội dung truyện cổ tích không thể bỏ qua hoặc coi nhẹ triết lí
sống và đạo lí làm người cao đẹp của nhân dân lao động. Tinh thần lạc quan yêu
đời và lòng yêu thương quý trọng con người là phần cốt lõi nhất của triết lí sống
và đạo lí truyền thống của nhân dân trong truyện cổ tích
Những bài học đạo đức đề cao nhân nghĩa, ngợi ca những phẩm chất tốt
đẹp của con người hay sự tố cáo, phê phán cái ác, cái xấu trong xã hội là nội
dung chủ yếu được thể hiện trong hầu hết các câu chuyện cổ tích. Khi đọc các
truyện như Ú và Cao, Ba chị em gái và người chồng thuồng luồng, Gơ liu Gơ
lát…, chúng ta đều có thái độ bênh vực những con người tốt bụng như cô Ú (Ú

và Cao), cô út (Ba chị em gái và người chồng thuồng luồng), Gơ Lát (Gơ Liu
Gơ Lát) và căm ghét, lên án những nhân vật xấu, độc ác là mẹ con Ú, hai cô chị
của nàng út, mẹ con Gơ Lát. Như vậy, truyện cổ tích là môi trường đắc địa để
những bài học luân lí, đạo đức đến với mọi người một cách tự nhiên mà sâu sắc.
Triết lí “ở hiền gặp lành” là một trong những vấn đề đạo đức được ngợi ca
nhiều nhất trong truyện cổ tích. Tác giả dân gian đề cao và ca ngợi người hiền,
sự thương yêu đùm bọc giữa con người với con người. Chính vì thế mà những
vấn đề đạo đức, triết lí sống mà truyện cổ tích phản ánh luôn luôn gần gũi, sâu
sắc và dễ đi vào tâm hồn con người. Nó dạy cho con người biết sống có đạo lí,
chan hoà và giàu tình yêu thương, bao dung đùm bọc đúng như lời khẳng định
của nhà nghiên cứu văn học dân gian Nga A.M. Nôvicôva: “Truyện cổ tích dạy
con người sống, gây tinh thần lạc quan, khẳng định niềm tin vào sự tất thắng của
điều thiện và lẽ công bằng. Đằng sau tấm màn kì ảo của cốt truyện và trí tưởng
tượng cổ tích, có dấu ấn một mối quan hệ có thực của con người. Những tư
tưởng nhân đạo chủ nghĩa và sự nhiệt tình tràn trề sức sống đã tạo ra cho truyện
cổ tích sức thuyết phục gây xúc động mạnh mẽ đối với thính giả” [1, 268].
Tinh thần lạc quan trong truyện cổ tích thường được tác giả dân gian thể
hiện qua kết thúc có hậu. Tuy nhiên đây không phải là biểu hiện duy nhất mà chỉ
là biểu hiện dễ nhận thấy của tinh thần lạc quan. Bởi không phải truyện cổ tích
nào cũng kết thúc có hậu, có những câu chuyện kết thúc bi thảm, không “có
hậu” nhưng vẫn thể hiện được tinh thần lạc quan yêu đời và niềm tin vào con
người vẫn tỏa sáng. Những cái chết để cho lẽ phải và đạo lí cao đẹp của con
15

người được sống. Chẳng hạn những cái chết trong các truyện sự tích: Trầu cau,
Đá Vọng phu, Ba ông Bếp…
Đạo lí truyền thống của nhân dân trong truyện cổ tích còn được thể hiện
qua sự giáo dục đạo đức. Có rất nhiều truyện hướng hẳn vào đề tài, chủ đề đạo
đức, nhằm biểu dương những hành vi đạo đức cao đẹp, lên án những việc làm
xấu xa trái đạo đức như truyện: Sự tích con muỗi lên án người vợ bạc tình, Sự

tích con Đa đa phê phán đứa con bất hiếu, Cái cân thủy ngân lên án sự buôn
gian bán lận… Có thể nói, sự thưởng phạt trong truyện cổ tích nhìn chung đều
được nhìn nhận và giải quyết theo yêu cầu đạo đức. Đây cũng là tiêu chí để phân
biệt, đánh giá các nhân vật chính diện, phản diện, người tốt kẻ xấu trong thế giới
truyện cổ tích. Do đó đạo đức trong truyện cổ tích vừa là đạo đức thực tiễn vừa
là đạo đức lí tưởng của nhân dân.
1.1.5. Nghệ thuật truyện cổ tích
1.1.5.1. Quan niệm nghệ thuật trong sáng tạo truyện cổ tích
Quan niệm nghệ thuật: “là quan niệm riêng của tác giả về thế giới và con
người được biểu hiện thông qua tác phẩm nghệ thuật” [7, 100].
Truyện cổ tích được sáng tác hoàn toàn không phải ngẫu nhiên, vô thức
như thần thoại mà là sáng tạo một cách có ý thức trên cơ sở quan niệm thẩm mĩ
riêng của tác giả dân gian. Nghệ thuật trong sáng tạo truyện cổ tích được hiểu
như sau: “Thế giới không phải là cái gì quá xa xôi, huyền ảo nữa, đó là thế giới
của con người. Con người là nhân vật trung tâm. Họ chỉ có hai loại: tốt và xấu.
Hai loại người này khác nhau như đen với trắng, như ngày và đêm. Họ không có
khả năng biến đổi và không thể biến đổi để trở nên tốt hơn và xấu đi. Thế giới
loài người vốn tốt đẹp, đầy nhân ái, nó trở nên xấu xa, tội lỗi hay độc ác là do có
những con người tham lam, độc ác, ti tiện thao túng. Muốn cải tạo thế giới làm
cho nó trong sạch và tốt đẹp hơn thì phải có những người hiền lành tài trí thống
lĩnh xã hội, đồng thời phải quét sạch cái ác, cái xấu, cái tham lam, tàn bạo tức là
phải xây dựng xã hội đạo đức. Vì vậy, cổ tích nói chung là một bức tranh đẹp,
trong đó không vẽ hình ảnh thực của đời sống mà thêu dệt những ước mơ lãng
mạn, bay bổng của con người về thế giới, nhân sinh. Tất cả các nhân vật, sự vật,
không gian, thời gian… trong truyện cổ tích đều được sáng tạo để thể hiện quan
niệm đó về thế giới của các tác giả dân gian” [7, 101]. Chính vì xuất phát từ
quan điểm nghệ thuật trên mà trong nền văn học dân tộc có cả một kho tàng
những câu chuyện cổ tích hoang đường, kì ảo nhưng vẫn rất gần gũi với cuộc
sống của con người, chứa đựng những ước mơ khát vọng của con người.
16


1.1.5.2. Cốt truyện và kết cấu
Truyện cổ tích có cốt truyện thường ngắn gọn, ít tình tiết, trung thành với
trục thời gian khi kể chuyện, lược bỏ những yếu tố rườm rà như văn học viết hay
tiểu thuyết. Đặc biệt, cốt truyện cổ tích mang những nét đặc trưng riêng phụ
thuộc vào các mô típ tạo thành, đó là sự đan dệt những mô típ nghệ thuật quen
thuộc theo một hệ thống nhất định và khi thay đổi vị trí các mô típ đó sẽ tạo ra
những cốt truyện mới.
Các kiểu kết cấu thường gặp trong truyện cổ tích là: kết cấu theo một trục
đường thẳng, kết cấu ba chặng tăng tiến, kết cấu đồng quy.
Kết cấu theo một trục đường thẳng: là kiểu kết cấu cốt truyện có một nhân
vật chính. Nhân vật đó hành động liên tiếp và sự kiện bị chi phối bởi hành động
của nhân vật đó như truyện Cây tre trăm đốt, Tấm Cám, Lọ nước thần, Ngày
xưa có anh Trương Chi thì anh Khoai, cô Tấm, nhân vật người chồng và chàng
Trương Chi là các nhân vật chính thì mọi sự kiện đều xoay quanh số phận của
những nhân vật này.
Kết cấu ba chặng tăng tiến: là kiểu kết cấu phổ biến trong truyện cổ tích
nước ngoài, ít gặp ở Việt Nam tuy kiểu kết cấu này mỗi chặng trong cốt truyện
là một thử thách đối với nhân vật, thử thách sau cao hơn, nguy hiểm hơn và khi
vượt qua thử thách thứ ba (cũng là thử thách cuối cùng) là lúc nhân vật cũng đã
đạt được ước muốn của mình và kết thúc truyện như truyện Bảy chị em, Thạch
Sanh, Tấm Cám, Sọ Dừa. Trong truyện Bảy chị em, cô út bị hại chết và hoá thân
thành chim, thành rau tầm bóp và cuối cùng thành bụi mai và trở lại thành
người. Trong truyện Thạch Sanh thì chàng Thạch Sanh phải trải qua những thử
thách sau: đầu tiên là giết Trăn tinh có phép thần thông biến hoá, thử thách thứ
hai là giết đại bàng cứu công chúa, thử thách cuối cùng là dẹp yên loạn mười
tám nước chư hầu. Cô Tấm trong truyện Tấm Cám thì bị chết và hoá thân thành
chim Vàng anh, thành cây xoan đào và cuối cùng thành quả thị được bà lão
mang về và đoàn tụ với nhà vua sống hạnh phúc…
Kiểu kết cấu đồng quy: là kiểu kết cấu mà nhân vật chia làm hai tuyến, cả

hai đều đứng trước thử thách như nhau, bản chất khác nhau của nhân vật được
bộc lộ qua cách xử lí tình huống khác nhau, dẫn đến kết thúc trái ngược nhau
như truyện Cây khế, Hà Rầm Hà Rạc, Hai cô gái và mẹ Bướm. Trong truyện Hà
Rầm Hà Rạc, hai anh em cùng được bầy khỉ tưởng chết khiêng đi chôn ở đảo
vàng nhưng người anh do quá vội vàng, tham lam nghe bầy khỉ nói chôn vào hố
bạc không phải hố vàng thì ngóc đầu dậy cãi. Bầy khỉ thấy thế hoảng sợ liền
17

quẳng hắn xuống vực, hắn ngã vào sườn núi chết. Còn người em tốt bụng bị anh
chiếm đoạt hết tài sản được sống sung sướng, hạnh phúc…
1.1.5.3. Nhân vật trong truyện cổ tích
Nhân vật trong truyện cổ tích rất phức tạp, đa dạng và mang tính hiện thực
rõ nét hơn nhân vật trong thần thoại, truyền thuyết. Nếu thần thoại là “nghệ thuật
vô ý thức” thì cổ tích là “nghệ thuật đích thực”. Nhân vật chính thường không
phải là các lực lượng siêu nhiên như trong thần thoại hay các nhân vật lịch sử
như trong truyền thuyết mà là con người bình thường trong các mối quan hệ xã
hội. Trong truyện cổ tích Việt Nam, hầu như không có nhân vật chính thuộc tầng
lớp quý tộc, đế vương, nếu có họ chỉ là những nhân vật phụ trong tác phẩm.
Nhân vật trong truyện cổ tích thường mang tính chất đại diện chứ không mang
tính cá nhân. Họ đại diện cho một kiểu người, một tầng lớp, phát ngôn cho một
quan niệm nhân sinh nhất định (nhân vật Lu trong truyện Hai chị em Vùi và Lu
là đại diện cho người con riêng, người lao động nghèo khổ, bị kẻ xấu hãm hại).
Các kiểu nhân vật chính thường gặp trong truyện cổ tích là:
Kiểu nhân vật người con riêng: có thể là con riêng của vợ hoặc con riêng
của chồng, thường bị những người dì ghẻ, cha dượng đối xử rất tệ bạc, hắt hủi:
nàng Tua Tềnh trong truyện Tua Tềnh Tua Nhì, nàng Pơ Ria trong truyện Pơ Ria
Pơ Ró, cô Tấm trong truyện Tấm Cám…
Kiểu nhân vật người mồ côi: đây là kiểu nhân vật phổ biến nhất trong
truyện cổ tích. Họ có hoàn cảnh rất khó khăn nhưng thường được thần linh giúp
đỡ như: Thạch Sanh trong truyện Thạch Sanh, Chử Đồng Tử trong truyện Sự

tích đầm Nhất Dạ và bãi Tự Nhiên…
Kiểu nhân vật người em út: là những người con út trong gia đình, hay
người em nuôi bị anh hoặc chị chèn ép, chiếm đoạt tài sản như: người em trong
truyện Hà rầm hà rạc, cô út trong truyện Sọ Dừa, cô út trong truyện Bảy chị
em…
Kiểu nhân vật người đi ở: nhân vật thuộc kiểu này thường là những con
người nghèo khổ, mồ côi, phải đi ở cho nhà giàu, bị chủ đối xử bất công, bị bóc
lột sức lao động như anh Khoai trong truyện Cây tre trăm đốt, cô bé trong Sự
tích chim Vịt, cô gái trong Sự tích con khỉ…
Kiểu nhân vật dũng sĩ: là nhân vật anh hùng có khả năng phi thường, được
thần thánh hoá, có tinh thần dũng cảm bảo vệ cộng đồng, bảo vệ phụ nữ, lập
được những chiến công lừng lẫy: Thạch Sanh trong truyện Thạch Sanh, ông Hộ
trong truyện Âm dương giao chiến…
18

Kiểu nhân vật ngốc nghếch, khờ khạo: chàng Ngốc trong truyện Chàng
Ngốc đi buôn, người chồng trong truyện Con vợ khôn lấy thằng chồng dại…
Kiểu nhân vật xấu xa: như đứa con bất hiếu (trong truyện Sự tích trái thơm,
Đứa con trời đánh…), người con dâu bất hiếu (trong truyện Sự tích dây chiềm
toong hây ), người chồng bất nghĩa (trong truyện Đồng tiền vạn lịch…), người
vợ phản bội (trong truyện Sự tích con muỗi, Thịt gà thuốc chồng…), người anh
độc ác, người chú tham lam (trong truyện Cây khế, A Xanh, Đứa trẻ mồ côi… ).
Trên đây là một số kiểu nhân vật thường gặp trong truyện cổ tích Việt
Nam. Dựa vào đặc điểm của mỗi loại truyện cổ tích mà có sự phân loại các kiểu
nhân vật khác nhau tương ứng với đặc trưng của tiểu loại đó.
1.1.5.4. Lực lượng thần kì
Lực lượng thần kì trong truyện cổ tích là kết quả sáng tạo kì ảo của tác giả
dân gian. Đó là một thế giới bao hàm những nhân vật siêu nhiên, những phép
màu nhiệm, sự biến hoá thần thánh kì ảo. Trong truyện cổ tích, lực lượng thần kì
giữ vai trò quan trọng trong việc tạo nên yếu tố hấp dẫn li kì của kiểu truyện.

Yếu tố thần kì xuất hiện trong thế giới của lực lượng thần kì có thể coi là một
phương tiện nghệ thuật giúp cho tác giả dân gian giải quyết những mâu thuẫn,
xung đột của con người trong đời sống thường ngày. Tác giả Đinh Gia Khánh đã
khẳng định vai trò của lực lượng thần kì trong truyện cổ tích như sau: “Yếu tố kì
diệu siêu nhiên chính là một thủ pháp nghệ thuật gắn với nội dung lãng mạn của
truyện. Tác giả dân gian cũng như thính giả dân gian để cho trí tưởng tượng
bay bổng theo những sự kiện kì diệu ở trong truyện không phải vì thực tâm tin -
ít ra thì cũng không hoàn toàn tin - rằng những sự kiện đó là có thật nhưng chủ
yếu là vì những sự kiện đó cần thiết cho việc giải quyết những vấn đề mà trong
thực tế xã hội cũ chưa cho phép giải quyết hoàn toàn như ý muốn, như ước vọng
của nhân dân. Yếu tố kì diệu trong truyện cổ tích xét cho kĩ không phải chủ yếu
là sản phẩm của đầu óc mê tín mà là phương tiện cần thiết để cho tác giả dân
gian có thể đưa sự phát triển tình tiết theo ý muốn của mình” [11, 347].
Lực lượng thần kì bao gồm các đối tượng sau: nhân vật siêu nhiên, con vật
thần kì, vật có phép màu nhiệm, đặc biệt là sự biến hoá kì ảo, các yếu tố kì ảo…
* Nhân vật siêu nhiên: Đây là những lực lượng không có trong thực tế mà
chỉ được biểu hiện rõ nhất, sống động nhất ở trong niềm tin và trí tưởng tượng
của nhân dân lao động. Đó là những hình ảnh của Ngọc Hoàng và các thiên thần
ở cõi trời hay “Thiên đình” chẳng hạn: Thiên Lôi, Nam Tào, Bắc Đẩu… Họ là
những hình tượng được khái quát hóa, hình tượng hoá và thần thánh hoá các lực
19

lượng xã hội theo quan niệm và lí tưởng của nhân dân trong xã hội có giai cấp
mà chủ yếu là xã hội phong kiến. Ngọc Hoàng được coi là chúa tể của muôn
loài, là người cầm cân nẩy mực, khuyến thiện trừng ác. Tất cả mọi việc trong thế
gian dù lớn hay nhỏ đều không qua được mắt của Ngọc Hoàng. Điều đó cho
thấy quan niệm về một xã hội lí tưởng, công bằng tốt đẹp của nhân dân lao
động.
Trong lực lượng siêu nhiên không thể thiếu những lực lượng thần linh
thuộc cõi âm bao gồm: Diêm Vương, các thần linh, âm binh và âm tướng, hồn

người sau khi chết. Cõi âm được quan niệm là ở trong lòng đất, là nơi trú ngụ
của hồn người và loài vật sau khi chết. Diêm Vương là người cai quản cõi âm và
xét xử những hồn người có tội khi sống trên trần thế. Theo quan niệm dân gian,
người có công đức thì được lên cõi trời, con người có tội thì phải xuống địa ngục
và bị trừng phạt tuỳ theo tội trạng. Các truyện Sự tích nhà Bè, Truyên Thủ Huồn,
phản ánh rất rõ quan niệm này.
Ngoài các lực lượng siêu nhiên như Ngọc Hoàng, Diêm Vương còn có các
thần thánh cõi thủy phủ, long cung là vua Thủy Tề trong các truyện như Thạch
Sanh, Cứu vật vật trả ơn, cứu nhân nhân trả oán, Sự tích Đầm mực… Các lực
lượng như Tiên, Phật là những lực lượng thần thánh rất gần gũi với những con
người nghèo khổ, bất hạnh trong truyện cổ tích. Những nhân vật thần kì này
xuất hiện cứu giúp người lương thiện, trừng trị kẻ gian ác. Chẳng hạn trong Tấm
Cám, Bụt hiện lên giúp Tấm có quần áo đẹp đi dự tiệc, chống lại mẹ con Cám
độc ác…
* Con vật thần kì: bao gồm chim thần, rắn thần, rùa thần, khỉ, trăn tinh, hồ
tinh, ma quỷ yêu quái… Kiểu lực lượng thần kì này rất đa dạng và đông đảo, có
thể được chia thành hai kiểu loại sau: đó là những con vật thần đứng về phe
thiện hoặc mang tính chất trung lập, vô tư, không thiên vị phía nào (thiện hay
ác) như chim thần trong truyện Cây khế, bầy khỉ trong truyện Hà rầm hà rạc.
Với người anh và người em cả chim thần và bầy khỉ đều nói là làm giống nhau:
“Ăn một quả trả cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng” và “Hà rầm hà
rạc - Bỏ hang bạc hay hang vàng”. Bên cạnh đó những con vật thần kì như trăn
tinh, hồ tinh, hùm tinh, xà tinh, mãng tinh, thần trùng… được coi là những yêu
quái, hung thần, ma quỷ thường xuyên thù ghét và hãm hại con người. Chẳng
hạn truyện Thạch Sanh, xuất hiện trăn tinh, đại bàng, hồ tinh đối đầu với Thạch
Sanh, con Hà Niêu đực bắt mất người yêu của Ma talha trong truyện Cây gậy
đầu sinh đầu tử (Chàm),
20

* Vật có phép màu nhiệm: bao gồm đàn, ngọc, cung thần… Ta có thể thấy

cây đàn thần của Thạch Sanh trong truyện Thạch Sanh. Hay trong truyện Cứu
vật vật trả ơn, cứu nhân nhân trả oán, chàng trai nghèo đi cứu con vua Thuỷ Tề
(đội lốt con rắn nước) và được vua Thuỷ Tề tặng cây đàn Thất Huyền có phép
làm tan giặc. Trong truyện Cây gậy đầu sinh đầu tử, cây gậy thần làm cho người
sống có thể chết và người chết sống lại. Nhờ cây gậy cải tử hoàn sinh này mà
Talah đã cứu sống công chúa và tìm được người yêu của mình. Ta có thể thấy
hình ảnh của những viên ngọc thần xuất hiện trong những truyện Người đào ếch,
đó là viên ngọc có phép màu cứu giúp người lương thiện. “Ngọc rắn” - nuốt vào
có thể hiểu được tiếng nói loài vật trong Viên ngọc thần, ngọc vịt - có thể rẽ
nước đi xuống thuỷ cung trong truyện Dã Tràng hay Ngọc Rết, Ngọc Trăn…
* Sự biến hoá kì ảo:
Đây là một trong những yếu tố thần kì rất quan trọng trong thế giới truyện
cổ tích. Sự biến hoá kì ảo này được biểu hiện qua rất nhiều phương diện như từ
vật biến hoá thành người, đầu thai, người biến hoá thành các loài động vật, thực
vât, đồ vật…Sự biến hoá ấy được gọi chung là mô típ hoá thân - đây là một mô
típ góp phần thể hiện tư tưởng, quan niệm sống của nhân dân lao động. Đọc
truyện cổ tích Việt Nam, ta thấy xuất hiện rất nhiều truyện có yếu tố biến hoá kì
ảo. Truyện Trầu cau, người anh đi tìm em chết hoá thành “cây cau”. Người vợ
đi tìm chồng chết hoá thành dây leo quấn vào cây cau. Sự biến hoá này nhằm
giải thích phong tục tập quán. Truyện Sự tích ông bình vôi, sư ông tham lam bị
Đức Phật hoá thành cái bình vôi cho người đời móc ruột, trong Sự tích bông sen,
người đàn bà chịu nhiều oan ức chết thiêu, tro mọc thành “cây bông sen”.
Những sự biến hoá này đều nhằm chức năng giải thích nguồn gốc, đặc điểm của
các con vật, loài vật, vật thể.
Thực chất các nhân vật trong truyện cổ tích không tự biến hoá một cách
ngẫu nhiên mà đều do dụng ý nghệ thuật của tác giả. Tác giả dân gian đã sáng
tạo vào những câu chuyện cổ tích của mình những yếu tố biến hoá kì ảo nhằm
giải thích những hiện tượng, nguồn gốc của các con vật, loài vật, địa danh,
phong tục tập quán, quan trọng hơn cả là thể hiện ý nghĩa xã hội, nhân văn sâu
sắc thông qua việc kéo dài sự sống cho con người, hoá giải bi kịch và trừng phạt

kẻ ác.
1.1.5.5. Không gian và thời gian nghệ thuật
* Không gian nghệ thuật
21

Tác giả Lê Trường Phát, trên cơ sở xét về phương diện bản thể, không gian
cổ tích thần kì có hai dạng: “Không gian cuộc sống trần thế và không gian kì ảo
phi trần thế. Không gian cuộc sống trần thế chủ yếu là không gian làng quê. Có
thể có không gian cung đình trong Tấm Cám, không gian đảo hoang trong Sọ
Dừa, không gian biển cùng với đảo vàng trong Cây khế nhưng về cơ bản vẫn là
không gian làng quê nơi nhân vật sinh ra và sống phần lớn cuộc đời của mình.
Không gian Thiên phủ (cõi tiên, thiên đình) trong truyện Từ Thức lấy vợ tiên,
không gian Âm phủ trong Sự tích sông Nhà Bè, không gian Thủy phủ (cõi nước)
trong Người thợ mộc Thanh Hoa” [19, 44]. Tuy nhiên loại không gian kì ảo ít
xuất hiện trong truyện cổ tích, phần lớn là không gian đời thường, không gian
sinh hoạt, chủ yếu diễn ra trong phạm vi gia đình.
Không gian cổ tích bao quanh hoạt động của nhân vật chính và là không
gian khép kín, không gian chỉ tồn tại xung quanh nhân vật chính mà thôi còn các
nhân vật khác làm gì, ở đâu trong khi nhân vật chính hoạt động thì cổ tích không
hề quan tâm. Không gian cổ tích khó xác định phạm vi, nơi chốn, đặc điểm.
Truyện nào cũng có một không gian hao hao giống nhau mà ta bắt gặp đâu đó
trong một truyện cổ tích khác, cổ tích chỉ cần kể đến tên, địa danh không gian đó
còn nó ra sao cổ tích không quan tâm.
Không gian trong truyện cổ tích loài vật là không gian sinh tồn và hoạt
động của loài vật, hợp nhất giữa không gian tự nhiên vốn tự nó như thể tự thuở
hồng hoang xa xưa với không gian sinh hoạt của những con vật và không gian
sinh hoạt xã hội của con người. Ở đấy con vật biết nói năng, hoạt động và ứng
xử như người. Hai thứ không gian tự nhiên và không gian xã hội kết hợp với
nhau tạo nên một “thế giới cổ tích” độc đáo riêng của cổ tích loài vật. Phần
không gian sinh hoạt xã hội khiến cho người nghe thấy gần gũi bởi hơi thở nhân

sinh, còn phần không gian tự nhiên lại mở ra cho người nghe một khoảng không
bao la cho trí tưởng tượng vỗ cánh. Kết quả là người nghe kể chuyện cổ tích về
loài vật đều bị cuốn hút vào thế giới cổ tích loài vật cho dù đó là những người
lớn khôn ngoan và tỉnh táo hay những trẻ em ngây thơ và dễ tin.
* Thời gian nghệ thuật
Thời gian trong truyện cổ tích là thời gian quá khứ vĩnh hằng, không bao
giờ thay đổi. Bất cứ thời điểm nào, cái thời gian quá khứ ấy vẫn duy trì. Thực tại
đi vào cổ tích trở thành quá khứ. Thời gian không thể xác định bằng năm tháng.
Thời gian của cổ tích kéo dài theo số phận của đời người hơn là cuộc đời con
người. Khi nhân vật chính được giải phóng số phận, thời gian cũng dừng lại.
Thời gian trong cổ tích không gián đoạn mà diễn biến theo hành động nhân vật.

×