Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Sử dụng công nghệ thông tin để tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954 lớp 12 trung học phổ thông (Chương trình chuẩn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 67 trang )

Lời cảm ơn
Để hoàn thành được khoá luận này thì trong suốt quá trình thực hiện, dưới
sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của Cô Chu Mai Hương và sự nỗ lực của bản
thân. Ngoài ra tôi còn nhận được nhiều sự giúp đỡ của các thầy cô trong khoa Sử
- Địa, các cán bộ thư viện của Trường Đại học Tây Bắc cũng như gia đình và
bạn bè.
Tôi cám ơn chân thành và sâu sắc tới Cô giáo Chu Mai Hương, giảng viên
khoa Sử- Địa - người đã động viên và khích lệ rất nhiều cùng toàn thể các thầy
cô trong khoa Sử - Địa, Trường Đại học Tây Bắc.
Qua đây, tôi cũng xin chân thành cảm ơn nhà trường, phòng thư viện
Trường Đại học Tây Bắc, gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Sơn La, tháng 05 năm 2013
Người thực hiện
Đinh Thị Hương

















DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG KHOÁ LUẬN


BĐTT : Bản đồ treo tường
CH : Câu hỏi
CNTT : Công nhệ thông tin
ĐDTQ : Đồ dùng trực quan
ĐHSP : Đại học sư phạm
ĐHQG : Đại học quốc gia
DH : Dạy học
DHLS : Dạy học lịch sử
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
SGK : Sách giáo khoa
NXB : Nhà xuất bản
THPT : Trung học phổ thông
THCS : Trung học cơ sở
TLTK : Tài liệu tham khảo











MỤC LỤC


MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Đối tượng, phạm vi, mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu 3
3.2. Phạm vi nghiên cứu 3
3.3. Mục đích nghiên cứu 4
3.4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4
4.1. Cơ sở phương pháp luận 4
4.2. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Cấu trúc của khóa luận: 5
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TẠO
BIỂU TƯỢNG CẤC ĐỊA ĐIỂM TRONG DHLS Ở TRƯỜNG THPT 6
1. Cơ sở lý luận 6
1.1. Quan niệm về biểu tượng lịch sử 6
1.1.2. Quan niệm biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện 7
1.1.3. Quan niệm về công nghệ thông tin 9
1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng công nghệ thông tin để tạo biểu tượng
về địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông 10
1.2.1. Vai trò 10
1.2.2. Ý nghĩa 13
1.3. Yêu cầu sư phạm của việc sử dụng CNTT để tạo biểu tượng về địa điểm
xảy ra sự kiện trong DHLS ở trường phổ thông 15
1.3.1. Đảm bảo tính cơ bản 15
1.3.2. Đảm bảo mục đích giáo dục cho học sinh 16
1.3.3. Đảm bảo mục đích phát huy tích tích cực, độc lập của học sinh 16
1.4. Cơ sở thực tiễn việc sử dụng CNTT để tạo biểu tượng về địa điểm xảy
ra sự kiện trong DHLS 18

1.4.1. Về phía giáo viên 18
1.4.2. Đối với học sinh 19
1.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế 19
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG CNTT ĐỂ TẠO BIỂU
TƯỢNG VỀ ĐỊA ĐIỂM XẢY RA SỰ KIỆN TRONG DHLS VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1945 - 1954 LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 21
2.1. Vị trí, mục đích, nội dung nghiên cứu cơ bản của giai đoạn lịch sử Việt
Nam 1945 - 1954 lớp 12 trung học phổ thông 21
2.1.1. Vị trí 21
2.1.2. Mục tiêu 21
2.1.3. Nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954 22
2.2. Hệ thống các địa điểm cần tạo biểu tượng cho học sinh trong giai đoạn
(1945-1954) 24
2.3. Một số biện pháp sử dụng CNTT để tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra
sự kiện trong DHLS giai đoạn (1945-1954 ). 27
2.3.1 Sử dụng lược đồ có sự hỗ trợ của CNTT kết hợp với lời nói sinh động
của giáo viên để tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện. 27
2.3.2. Sử dụng tranh, ảnh, phim video có sự hỗ trợ của CNTT để tạo biểu
tượng về địa điểm xảy ra sự kiện trong DHLS giai đoạn (1945-1954). 35
2.3.2.1. Sử dụng tranh, ảnh có sự hỗ trợ của CNTT kết hợp với tài liệu tham
khảo để tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện trong DHLS giai đoạn
(1945-1954) 35
2.3.2.2. Sử dụng phim video có sự hỗ trợ của CNTT để tạo biểu tượng về
địa điểm xảy ra sự kiện 41
KẾT LUẬN 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC




1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta biết rằng, quá trình DHLS trước hết là quá trình tổ chức hoạt
động nhận thức lịch sử của học sinh, tuân theo quy luật “Từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn” nghĩa là, DHLS phải
dựa trên cơ sở cung cấp, sự kiện, tạo biểu tượng, hình thành khái niệm, rút ra
quy luật, bài học lịch sử phục vụ cho thực tiễn cuộc sống.
Hơn thế nữa do tri thức lịch sử mang những đặc điểm như: tính quá khứ,
tính cụ thể, tính không lặp lại Do vậy, việc học tập lịch sử không thể “trực
quan sinh động” giống như những môn học tự nhiên khác mà phải từ việc nắm
sự kiện để rồi tạo biểu tượng lịch sử là một khâu không thể thiếu được trong quá
trình nhận thức lịch sử nói chung và nhận thức lịch sử trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông nói riêng.
Như đã nói thì do đặc điểm của tri thức lịch sử thì việc tạo biểu tượng lịch
sử là rất quan trọng. Trong đó loại biểu tượng về địa điểm nơi xảy ra sự kiện có
ý nghĩa, vị trí quan trọng bởi sự kiện là cơ sở của tri thức lịch sử mà địa điểm là
nơi diễn ra sự kiện đó, sẽ giúp cho học sinh hiểu đúng lịch sử, đi sâu vào bản
chất của sự việc. Từ đó thấy được mối quan hệ giữa sự kiện với hoàn cảnh địa lí
diễn ra sự kiện đó và với điều kiện tự nhiên, xã hội, con người…Tất cả những
nhân tố đó đã tác động lẫn nhau, đồng thời góp phần vào nguyên nhân xảy ra
các sự kiện lịch sử. Tuy nhiên, phần nhiều các giáo viên chưa thực sự quan tâm
nhiều tới việc tạo biểu tượng lịch sử nói chung và biểu tượng về địa điểm xảy ra
sự kiện lịch sử nói riêng, hoặc nếu có sử dụng thì lại chưa biết cách ứng dụng
công nghệ thông tin mà chủ yếu vẫn là những cách dạy truyền thống. Vì vậy, mà
hiện tượng học sinh bỏ những chi tiết lịch sử cơ bản và tình trạng nhàm chán
trong học môn lịch sử vẫn là một bài toán khó cần có một lời giải đúng đắn.
Việc tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh không chỉ dừng ở lại việc miêu tả
bề ngoài mà còn đi sâu vào bản chất sự kiện. Việc tạo biểu tượng về địa điểm
xảy ra sự kiện lịch sử sẽ giúp cho các em rèn luyện được kỹ năng khai thác tranh

ảnh, bản đồ, lược đồ… Nắm được những hoàn cảnh về địa lý và để đạt được
hiệu quả cao thì giáo viên phải biết lựa chọn, sử dụng, phương tiện trực quan, là
phương tiện tư liệu dạy học có ưu thế hơn cả để tạo biểu tượng về địa điểm xảy
ra sự kiện lịch sử. Song nó sẽ đạt kết quả cao khi giáo viên ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy học lịch sử làm cho bức tranh lịch sử được dựng lại một cách
chân thực và giàu hình ảnh sinh động.

2
Trong chương trình lịch sử lớp 12 (chương trình chuẩn) phần lịch sử Việt
Nam giai đoạn từ 1945-1954 có vị trí quan trọng trong toàn bộ tiến trình lịch sử
Việt Nam với nội dung phong phú và những địa điểm diễn ra sự kiện lịch sử để
tạo biểu tượng cho học sinh hình dung được bức tranh lịch sử sinh động của dân
tộc, thời kỳ 1945-1954 có sự ứng dụng của công nghệ thông tin sẽ đạt hiệu quả
cao hơn so với những phương tiện dạy học truyền thống, thu hút được sự chú ý
và tạo hứng thú cho học sinh làm cho bài học đạt kết quả cao.
Từ những lý do trên tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài : “Sử dụng công nghệ
thông tin để tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử
Việt Nam giai đoạn 1945-1954 lớp 12 trung học phổ thông (Chương trình
chuẩn)” làm khóa luận tốt nghiệp với mong muốn sẽ là hành trang của mình sau
này khi bước lên bục giảng cũng là bước đầu đi sâu nghiên cứu của các biện
pháp tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử. Hơn nữa, giải quyết vấn
đề này sẽ là cơ sở vận dụng một cách có hiệu quả trong dạy học lịch sử ở trường
THPT hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề tạo biểu tượng trong dạy học lịch sử nói chung và tạo biểu tượng về
địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử nói riêng đã được các nhà lý luận dạy học, các
nhà giáo dục lịch sử quan tâm nghiên cứu ở nhiều mức độ, khía cạnh khác nhau.
Trong cuốn “Phương pháp lịch sử, tập 1” giáo sư Phạm Ngọc Liên chủ
biên, Nxb Đại học Sư Phạm 2000. Phần viết của phó giáo sư tiến sĩ Trịnh
Đình Tùng về biểu tượng lịch sử giúp chúng ta hiểu thế nào là biểu tượng

lịch sử, vai trò và việc phân loại biểu tượng, các biện pháp sư phạm để tạo
biểu tượng lịch sử.
Trong cuốn “Những vấn đề chung về bộ môn phương pháp dạy học lịch sử
ở trường cao đẳng sư phạm” của Nguyễn Anh Dũng, Trần Viết Vượng, cũng đã
đề cập tới: Con đường hình thành kiến thức lịch sử cho học sinh, trong đó nêu
một cách khái quát về việc tạo biểu tượng và những phần liên quan một cách
ngắn gọn, xúc tích nhất.
Trong các tác phẩm lý luận dạy học của M.N SACDACOP “Tư duy của
học sinh”, Nxb giáo dục hà nội 1970 và Hồ Ngọc Đại “Tâm lý dạy học”, Nxb
giáo dục 1983, đã đề cập đến vấn đề tạo biểu tượng lịch sử như là một khâu
không thể thiếu của quá trình nhận thức lịch sử. Tác giả Hồ Ngọc Đại đã nêu lên
vai trò của việc tạo biểu tượng thông qua việc khẳng định quá trình tri giác để
tạo biểu tượng, sẽ trở thành chỗ dựa khi lĩnh hội tri thức.

3
Trong cuốn “Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong SGK lịch sử THCS phần
lịch sử Việt Nam” và cuốn “Kênh hình dạy học lịch sử ở Trường THPT” tập
một phần lịch sử Việt Nam do giáo sư Nguyễn Thị Côi chủ biên cho chúng ta
nắm được những nội dung lịch sử và phương pháp sử dụng hệ thống kênh hình
trong dạy học phần lịch sử Việt Nam. Giúp giáo viên lựa chọn các phương pháp
phù hợp tạo biểu tượng cho học sinh.
Việc ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử cũng được nói tới rất nhiều
trong các sách như: Trong cuốn “Hệ thống các phương pháp dạy học lịch sử ở
trường THCS” của Trịnh Đình Tùng, Trần Việt Thục, Đặng Văn Hồ, Trần Văn
Cường, Nxb Đại học Sư Phạm có một chương nói về phần sử dụng tài liệu trên
mạng internet trong dạy học lịch sử, có nói về việc ứng dụng công nghệ thông
tin trong dạy học lịch sử. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tài liệu khai thác trên
mạng internet trong dạy học lịch sử và những yêu cầu, biện pháp sư phạm khi
khai thác internet trong dạy học lịch sử.
Trong cuốn “Rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử”, Nxb Đại

học Sư Phạm (Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng) cũng đã nói hẳn một chương
về các phương tiện kỹ thuật và việc bồi dưỡng kỹ năng khai thác thông tin trên
mạng internet trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
Như vậy, vấn đề tạo biểu tượng trong dạy học lịch sử và việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông đã thu hút sự chú
ý, quan tâm của nhiều nhà giáo dục lịch sử và các tác giả, nhưng chưa đi sâu, cụ
thể vào việc tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử hay chỉ đề cập
chung chung phân loại nêu đặc điểm khái quát ngắn gọn nhất là trong giai đoạn
1945-1954. Tuy vậy, đó là những tài liệu quý báu để giúp tôi hoàn thành khóa
luận này.
3. Đối tượng, phạm vi, mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Sử dụng công nghệ thông tin để nghiên cứu việc tạo biểu tượng về địa điểm
xảy ra sự kiện lịch sử giai đoạn 1945-1954 trong lịch sử lớp 12 (chương trình
chuẩn)
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện về mặt thời gian và trình độ của bản thân có hạn nên khóa
luận chỉ đề cập tới việc nghiên cứu sử dụng công nghệ thông tin để tạo biểu
tượng về địa điểm xảy ra sự kiện trong DHLS Việt Nam giai đoạn 1945-1954,

4
lớp 12 THPT (chương trình chuẩn), nghiên cứu các biện pháp sư phạm để tạo
biểu tượng.
3.3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khóa luận là nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở thực
tiễn của việc ứng dụng công nghệ thông tin để tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra
sự kiện, trong dạy học lịch sử việt nam giai đoạn 1945-1954 lớp 12 THPT
(chương trình chuẩn).
3.4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên khóa luận cần giải quyết các nhiệm vụ sau:

Nghiên cứu một số vấn đề lý luận của việc sử dụng công nghệ thông tin để
tạo biểu tượng trong dạy học lịch sử.
Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa lịch sử lớp 12 phần lịch sử Việt
Nam 1945 đến 1954.
Đề xuất một số biện pháp sư phạm để tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự
kiện với sự ứng dụng của công nghệ thông tin trong dạy học phần lịch sử Việt
Nam trong giai đoạn (1945-1954).
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở lý luận đúng đắn của chủ nghĩa Mac -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và Nhà nước về nhận thức,
về giáo dục nói chung và về lịch sử nói riêng.
Việc thực hiện khóa luận nhằm mục đích nâng cao hiệu quả trong việc dạy
học lịch sử ở trường phổ thông, đáp ứng được nhu cầu hiện nay của việc xã hội
giáo dục.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở khóa luận thuộc về chuyên ngành “Phương pháp dạy học lịch
sử” sẽ nghiên cứu với các phương pháp.
Nghiên cứu một số tác phẩm của chủ nghĩa Mac - Lênin, chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ chương của nhà nước ta về nhận thức giáo dục nói chung và giáo dục
lịch sử nói riêng.
Nghiên cứu một số công trình của các nhà giáo dục và tâm lý có liên quan.
Phương pháp nghiên cứu, phương pháp lịch sử và phương pháp logic

5
Phương pháp nghiên cứu kết hợp với lý luận và thực tiễn, phương pháp
quan sát thực tế trên phạm vi xác định.
5. Cấu trúc của khóa luận:
Ngoài phần mở đầu kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục, phụ lục, phần nội
dung của khoá luận gồm 2 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tạo biểu tượng các địa điểm
xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông
Chương 2: Một số biện pháp tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện lịch
sử có sự ứng dụng của công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử Việt Nam giai
đoạn 1945-1954 SGK lớp 12 (chương trình chuẩn).





















6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TẠO BIỂU
TƯỢNG CẤC ĐỊA ĐIỂM TRONG DHLS Ở TRƯỜNG THPT

1. Cơ sở lý luận
1.1. Quan niệm về biểu tượng lịch sử
Do đặc điểm của sự nhận thức lịch sử, việc học tập lịch sử không bắt đầu từ
trực quan sinh động mà từ việc nắm bắt sự kiện và tạo biểu tượng lịch sử. Tuy
vậy, việc học tập lịch sử cũng tuân theo quy luật chung của quá trình nhận thức:
Qua 2 giai đoạn, nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, tạo biểu tượng được
xem như là giai đoạn nhận thức cảm tính của quá trình học tập lịch sử.
Biểu tượng là khái niệm được giải thích và nói tới ở các mức độ và lĩnh vực
nhận thức khác nhau.
Theo tâm lý học, biểu tượng là biểu tượng của ký ức - nhưng hình ảnh của
các sự vật, hiện tượng không phải đang được tri giác mà là đã được tri giác trước
đây. Trong quá trình tri giác thế giới khách quan con người phản ánh sự vật và
hiện tượng xung quanh mình dưới dạng các hình ảnh và sự phản ánh đó mang
tính trực quan. Các hình ảnh trực quan đó luôn tác động lên các cơ quan thụ
quản khác nhau của hệ thần kinh con người và được duy trì một khoảng thời
gian nhất định trong ý thức của họ.
Quá trình tri giác luôn mang tính trực quan cụ thể. Các hình ảnh của biểu
tượng phản ánh những đặc điểm bên ngoài và đôi khi cả những đặc điểm bên
trong của sự vật hiện tượng, đây chính là sự nhận thức của hoạt động tư duy.
Như vậy, theo tâm lý học thì biểu tượng là những hình ảnh trực quan nảy
sinh trong não người về những sự vật và hiện tượng đã được truy giác trước đây.
Trong dạy học lịch sử giáo viên cần tạo được những biểu tượng để các em
ghi nhớ kiếm thức một cách hiệu quả, xong để làm được điều đó giáo viên phải
có sự chuẩn bị từ trước, bởi không có biểu tượng nảy sinh từ những trực giác đối
với những sự kiện, hiện tượng lịch sử mà việc hình thành nên những biểu tượng
lịch sử phải dựa trên những sự kiện hiện tượng đã được con người nhận thức từ
trước để nhằm tái tạo lịch sử một cách chính xác và sinh động.
Ví dụ: khi tạo biểu tượng lịch sử về địa điểm xảy ra sự kiện trong cuộc tiến
công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954. Rõ ràng chúng ta không thể trực tiếp
quan sát trận địa Đông - Xuân tại thời điểm đó được ta và địch bố trí như thế

nào. Do vậy, phải sử dụng những hình ảnh lược đồ với sự hỗ trợ của công nghệ

7
thông tin kết hợp với diễn giải để làm rõ được sự sáng xuất của Đảng mà đứng
đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh - nguyên nhân làm cho kế hoạch NaVa bước đầu bị
phá sản.
Trong cuốn “phương pháp dạy học lịch sử tập 1”. Phan Ngọc Liên đã định
nghĩa biểu tượng lịch sử là “hình ảnh về những sự kiện, nhân vật lịch sử, điều
kiện địa lý…được phản ánh trong óc học sinh với những nét chung nhất điển
hình nhất”.
Như vậy, nội dung của một sự kiện lịch sử được học sinh nhận thức thông
qua việc tạo nên hình ảnh về quá khứ, bằng hoạt động của các giác quan: thị
giác, thính giác…không như biểu tượng nói chung, biểu tượng lịch sử tái hiện
những đặc trưng cơ bản nhất của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Như đã nói thì việc
tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh không chỉ dừng lại ở việc miêu tả bề ngoài
mà còn đi sâu vào bản chất sự kiện, nêu đặc trưng tính chất của sự kiện là cơ sở
để hình thành khái niệm. Vì vậy, tạo biểu tượng lịch sử về địa điểm xảy ra sự
kiện lịch sử là rất cần thiết để học sinh đi tới những khái niệm sơ đẳng còn gọi là
khái niệm đơn giản trong lịch sử.
1.1.2. Quan niệm biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện
Để biết được thế nào là biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện trước hết
chúng ta phải hiểu được địa điểm hay nói cách khác là địa danh - nơi xảy ra sự
kiện lịch sử.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về địa danh xảy ra sự kiện lịch sử, tùy
theo mục đích, nội dung của mỗi ngành khoa học, môn học khác nhau.
Trong cuốn từ điển thuật ngữ phổ thông thì địa danh là “Tên một địa
phương một quốc gia châu lục. Địa danh thường phản ánh quá trình hình thành,
các yếu tố địa lý, xã hội lịch sử của một vùng lãnh thổ”. Một nguồn tài liệu
nghiên cứu lịch sử [18,171].
Theo cuốn “Sổ tay thuật ngữ địa lý thì địa danh là danh từ riêng về địa lý,

chỉ tên các lãnh thổ núi, non, sông, ngòi, biển, đại dương, các đặc điểm thuần
cư như thành phố, thị xã, thị trấn, làng mạc”.
Bất cứ một vùng đất nào dù lớn hay nhỏ đều có các địa danh, tên gọi khác
nhau. Địa danh bao gồm: địa danh địa lý, địa danh lịch sử và địa danh văn hóa.
Địa danh có rất nhiều nhưng không phải địa danh nào cũng trở thành địa
danh lịch sử. Chỉ có những vùng đất trực tiếp gắn với các sự kiện, biến cố lịch
sử của nhân loại, dân tộc và địa phương thì mới được coi là địa điểm xảy ra sự
kiện lịch sử.

8
Có thể hiểu địa danh lịch sử là tên gọi của những vùng đất, những địa
phương đã diễn ra những sự kiện, hiện tượng và biến cố trong lịch sử nhân loại,
dân tộc và lịch sử địa phương.
Ví dụ: Các địa danh Lai Châu, Thà Khẹt, Bắc Tây Nguyên là những nơi
đã diễn ra các sự kiện lịch sử chiến đấu trong cuộc tiến công chiến lược đông
xuân 1953-1954. Hay các địa điểm như: Đồi Độc Lập, Bản Kéo, Him Lam,
Hồng Cúm là những địa danh có trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ 1954.
Việc tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện cho học sinh trong dạy học
lịch sử chính là việc phân tích những đặc điểm về điều kiện tự nhiên, vị trí địa
lý, những thuận lợi và khó khăn của địa điểm xảy ra sự kiện. Bất cứ một sự
kiện lịch sử nào cũng gắn với một địa danh cụ thể. Nó diễn ra trong một không
gian nhất định. Không gian của sự kiện có thể là một khu vực rộng lớn như
chiến trường Châu Âu trong chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) hoặc diễn
ra ở phạm vi hẹp như địa điểm của một trận đánh, một cuộc khởi nghĩa của
một quốc gia, một dân tộc, một địa phương như: Chiến dịch Hòa Bình Đông -
Xuân (1953 -1954); Chiến dịch Tây Bắc Thu - Đông (1952)… Trong chiến
dịch tiến công giữ vững quyền chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ từ
cuối năm 1950 kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta. Vì vậy, tạo biểu tượng
về hoàn cảnh địa lí nơi xảy ra sự kiện là yêu cầu trong dạy học lịch sử để xác
định không gian lịch sử.

Hơn thế nữa, trong dạy học lịch sử, giáo viên không thể cung cấp mọi kiến
thức của khoa học lịch sử cho học sinh mà chỉ có thể giúp các em nắm vững các
kiến thức cơ bản của bài học, mà địa điểm xảy ra sự kiện là một bộ phận quan
trọng và không thể thiếu trong lượng kiến thức cần cung cấp và làm rõ cho học
sinh hiểu.
Đặc trưng của tri thức lịch sử là mang tính cụ thể bất cứ một sự kiện, hiện
tượng nào đều xảy ra trong một không gian, thời gian cụ thể gắn với những nhân
vật lịch sử nhất định. Nếu thiếu một trong ba yếu tố đó thì không phải là sự kiện
lịch sử và chúng ta không có khả năng nhận thức nó.
Trong ba yếu tố cấu thành sự kiện lịch sử, thì địa điểm - địa danh chính là
yếu tố không gian không thể thiếu trong lịch sử và dạy học lịch sử. Đây được coi
là nguồn kiến thức quan trọng trong việc đảm bảo tính cụ thể, hệ thống, toàn
diện của sự kiện lịch sử, trên cơ sở đó hình thành khái niệm cho học sinh.
Như vậy, muốn tạo được biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện cho học
sinh trong DHLS thì giáo viên cần có những kiến thức cơ bản về địa điểm - địa
danh đó. Với việc sử dụng CNTT để tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện

9
sinh động góp phần tạo nên tính hình ảnh và gây xúc cảm lịch sử cho HS, qua đó
nâng cao hiệu quả bài học lịch sử.
1.1.3. Quan niệm về công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin (IT-Information Technology), nghĩa là: Ngành ứng
dụng công nghệ quản lý và sử lý thông tin, sử dụng máy tính với phần mềm để
chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, sử lý, truyền và thu nhận thông tin.
Theo nghị quyết 49/CP của chính phủ, ngày 4 tháng 8 năm 1993 thì “Công
nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công
cụ kỹ thuật hiện đại - chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức
khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên phong phú và tiềm năng
trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội”.
Thời đại hiện nay là thời đại bùng nổ thông tin, thời đại của cuộc cách

mạng khoa học kĩ thuật. Vì vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy
học nói chung, DHLS nói riêng ở trường phổ thông là một yêu cầu cấp thiết.
Chúng ta biết rõ, môn học lịch sử là một môn đặc biệt khác với các môn tự
nhiên như: toán, lý, hóa, sinh…Bởi lịch sử là những gì đã diễn ra theo thời gian
trong quá khứ của xã hội loài người. Nó đã tồn tại cách chúng ta hàng chục năm,
triệu năm… Do vậy, sẽ rất khó để khơi lại bức tranh lịch sử nếu không có sự hỗ
trợ của CNTT, đặc biệt là khi tạo biểu tượng lịch sử.
Ngoài ra thuật ngữ “Công nghệ thông tin” được hiểu là các ứng dụng
liên quan đến máy vi tính được phân loại dựa trên phương thức chúng được
sử dụng trong lớp học chứ không dựa trên nguyên tắc hoạt động của chúng
(Meansetal, 1993).
Công nghệ thông tin là phương tiện dạy học hiện đại có khả năng tích hợp
cao các chức năng của những phương tiện dạy học truyền thống như tranh ảnh,
bản đồ, lược đồ, sơ đồ, niên biểu,… Các phương tiện kỹ thuật như radio, video,
tivi, đèn chiếu overhead, projector, các loại băng đĩa…
Vấn đề ứng dụng CNTT trong giáo dục đã được Đảng và Nhà nước ta rất
coi trọng. Với nghị quyết Trung ương II, khóa VIII của Đảng đã xác định: Phải
“Đổi mới phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối học truyền thụ một
chiều,…Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại
vào quá trình dạy học, đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh và
chỉ thị số 40 của ban thư ký trung ương Đảng khóa IX tiếp tục yêu cầu trong
giáo dục: “ Đổi mới mạnh mẽ và cơ bản phương pháp giáo dục nhằm khắc phục

10
kiểu truyền thụ một chiều, năng về lý thuyết… ứng dụng CNTT vào hoạt động
dạy học”.
Như vậy, CNTT chính là các thiết bị kĩ thuật hiện đại máy chiếu phim, đèn
chiếu, máy ghi âm, tivi, video….là những phương tiện dạy học rất cần thiết, góp
phần nâng cao hiệu quả BHLS, giúp cho HS dễ ghi nhớ kiến thức có hình ảnh
sinh động về bức tranh lịch sử quá khứ.

1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng công nghệ thông tin để tạo biểu
tượng về địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
1.2.1. Vai trò
* Vai trò của việc sử dụng công nghệ thông tin để tạo biểu tượng trong
DHLS ở trường phổ thông
Như đã nói ở những phần trên. Kiến thức lịch sử mang tính quá khứ, tính
không lặp lại Lịch sử là những gì đã diễn ra theo thời gian, trong toàn bộ quá
trình phát sinh, phát triển của con người và xã hội loài người…nó tồn tại từ rất
lâu trong quá khứ. Do đó, việc tiếp cận và tái hiện lại lịch sử gần giống như nó
đã tồn tại là một việc rất khó khăn.
Vì vậy, nếu GV sử dụng những tư liệu như: Hình ảnh, biểu đồ, bản đồ và
đặc biệt là phim tư liệu vào giảng dạy thì sẽ góp phần rất lớn giúp học sinh có
thể tái hiện được sự kiện lịch sử gần giống như nó đã tồn tại, đó là điều cực kỳ
trong dạy học lịch sử
Bởi vậy, việc ứng dụng thông tin vào giảng dạy lịch sử là vừa mang tính
lịch sử vừa mang tính thời đại. Trước hết là tính lịch sử vì CNTT đáp ứng được
yêu cầu của dạy học: Truyền đạt những kiến thức cơ bản nhất, cần thiết nhất và
đáp ứng được yêu cầu của môn học đồng thời mang tính thời đại vì nó phù hợp
với yêu cầu thực tại. Ngày nay thời đại tin học đã thực sự đến và việc ứng dụng
trong tin học vào dạy học đang là xu hướng của tất cả các nền giáo dục tiên tiến
trên thế giới. Hơn thế nữa là con đường hình thành tri thức lịch sử cho học sinh
tuân thủ theo quy luật nhận thức: “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng,
từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn”. Do đó, việc sử dụng công nghệ thông tin
vào dạy học để có thể cung cấp cho các em những tư liệu trực quan sinh động
(trong ảnh, bản đồ, phim tư liệu) vào những biểu tượng lịch sử, giúp các em biết
và hiểu được bản chất của vấn đề lịch sử là hoàn toàn phù hợp với các em. Cùng
với đó là Việt Nam đang trên đường đổi mới và hội nhập nên không thể không
tiếp cận những tiến bộ của KHKT. Vì vậy, ứng dụng của CNTT vào dạy học là
vấn đề cấp thiết “công nghệ thông tin và truyền thông, như là năng lực cốt lõi


11
dành cho học sinh, sinh viên trong tương lai…tiếp cận và khai thác tiềm năng
của công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng học tập và giảng dạy, khuyến
khích học tập suốt đời”, (Hội nghị các nước thành viên hội nghị APEC lần 2 về
vấn đề “giáo dục trong xã hội học tập ở thế kỷ XXI” 07/04/2000).
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào việc tạo biểu tượng về địa điểm
xảy ra sự kiện sẽ làm cho BHLS đạt kết quả cao. Đặc biệt, với khả năng đa
phương tiện, đa truyền thông (mulilmedia) và khả năng tương tác (interactiree).
Việc ứng dụng CNTT vào DHLLS sẽ giúp giáo viên nâng cao hiệu quả của việc
sử dụng các loại đồ dùng trực quan khi dựng lại bức tranh lịch sử một cách chân
thực giàu hình ảnh và sinh động. Đồng thời nó có khả năng thu hút sự chú ý của
học sinh, kích thích và huy động nhiều giác quan của các em khả năng nhận
thức. Điều đó góp phần nâng cao hiệu quả của việc ghi nhớ kiến thức. Nhờ đó
học sinh hiểu đúng bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Việc khai thác và sử dụng một số chức năng của phần mềm ACD see, hero,
photoshop, flash, adobe, audition…sẽ giúp giáo viên sử lý tư liệu hình ảnh, xử
lý, cắt ghép các đoạn phim, âm thanh phù hợp với nội dung yêu cầu của bài
học.với các chức năng cơ bản, các hiệu ứng phong phú đa dạng của phần mềm
Microsoft powerpoint, violet sẽ giúp giáo viên thiết kế và sử dụng có hiệu quả
các loại đồ dùng trực quan theo yêu cầu, nội dung bài học cách triển khai giảng
dạy của mình và với khả năng siêu liên kết thông tin (hypenlink) của phần mềm
này, giáo viên có thể đưa vào bài giảng các hình ảnh, âm thanh, đoạn phim tư
liệu đã được xử lý, trọn lọc và biên tập theo ý tưởng của giáo viên. Nhờ đó, có
thể phát huy tính sáng tạo của GV và HS trong những tình huống sư phạm cụ thể
khi sử dụng ĐDTQ trong DH, tiết kiệm được nhiều thời gian trong việc xây
dựng, sử dụng ĐDTQ ,GV có điều kiện tổ chức cho học sinh nhận thức lịch sử
thông qua ĐDTQ, từ đó giúp học sinh khắc sâu kiến thức trọng tâm và có thể hệ
thống, khái quát tốt nội dung bài học.
Ví dụ: Ứng dụng CNTT để tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện khi
dạy về chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ 1954, giáo viên phải sử dụng lược đồ,

mô hình, hệ thống công sự, hàng rào thép gai ở cụm cứ điểm của Pháp ở Điện
Biên Phủ các ĐDTQ kết hợp với tường thuật, miêu tả, nêu đặc điểm để tạo biểu
tượng về Điện Biên Phủ, GV sử dụng lược đồ của ba đợt tấn công của ta vào
Điện Biên Phủ, cùng với các đoạn phim giúp học sinh nhận thức được cụ thể và
rõ ràng hơn về diễn biến của chiến dịch… Hay ví dụ khi dạy bài “Những biến
đổi của nhà nước phong kiến trong các thế kỷ XVI-XVIII”, để giúp học sinh
nắm vững kiến thức chiến tranh Nam Bắc triều, chiến tranh Trịnh Nguyễn và

12
biểu tượng chính xác về giới tuyến sông Gianh thì GV kết hợp sử dụng kiến
thức địa danh lịch sử, sẽ tạo được biểu tượng về vùng đất Thuận Hóa, sông
Gianh một cách sinh động, lôi cuốn…
Việc ứng dụng CNTT để tạo biểu tượng địa điểm xảy ra sự kiện nói riêng
và tạo biểu tượng, cung cấp tri thức lịch sử nói chung trong DHLS sẽ có vai trò
quan trọng trong việc hình thành tri thức lịch sử cho HS, giúp GV có thể chọn
lọc những tài liệu thích hợp, cô đọng và phù hợp nhất với nội dung và mục đích
của bài giảng mà không bị lặp lại hay nhàm chán, giúp cho việc DHLS không
chỉ dừng ở việc minh họa sự kiện lịch sử mà còn giúp học sinh có một nguồn tri
thức lịch sử sâu sắc.
Như vậy, cần phải nhận thức rõ, mặc dù khả năng ứng dụng phương tiện kỹ
thuật trong dạy học lịch sử là rất đa rạng và ưu thế hơn so với các phương tiện
truyền thông song không phải là duy nhất và vạn năng nhất mà chỉ có vai trò hỗ
trợ, giúp các hoạt động của con người hoạt động dạy học được thuận tiện và
hiệu quả hơn. Việc kết hợp một cách hợp lý các phương tiện kỹ thuật - CNTT
dạy học với các phương tiện dạy học truyền thống là sự lựa chọn thích hợp
nhằm đảm bảo tốt mục tiêu giáo dục theo hướng phát triển của học sinh một
cách tích cực, toàn diện cả về mặt tri thức, phẩm chất đạo đức cũng như các
năng lực tư duy.
* Vai trò của việc tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện trong DHLS ở
trường phổ thông.

Việc tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện trong DHLS ở trường phổ
thông có vị trí vai trò rất quan trọng, giúp cho học sinh có được hình ảnh sinh
động lĩnh hội kiến thức một cách dễ dàng.
Do đặc trưng của bộ môn (mang tính cụ thể không lặp lại, tính quá khứ ) là
những gì diễn ra trong quá khứ không thể “trực quan” được. Bởi vậy, việc tạo
biểu tượng có vai trò rất quan trọng trong quá trình tri giác của học sinh. Nếu
không tạo được biểu tượng thì hình ảnh lịch sử sẽ nghèo nàn và khô cứng. Khi
đó, quá trình tri giác trở thành biểu tượng lịch sử là cơ sở để hình thành khái
niệm, phát triển óc phán đoán, suy luận của học sinh.
Việc học tập lịch sử sẽ dựa trên cơ sở nắm bắt sự kiện và tạo biểu tượng,
lịch sử từ đó tiến tới hình thành khái niệm, rút ra quy luật và bài học lịch sử
cho HS.
Nếu như, các môn học khoa học tự nhiên như, toán, hóa, lý, sinh. GV có
thể hướng dẫn học sinh thực hành bộ môn theo các bước đã chuẩn bị trong

13
phòng thí nghiệm - công việc diễn ra rất thuận lợi nhưng với môn lịch sử thì rõ
ràng GV không thể tổ chức học sinh thành những chiến sĩ, bộ đội ra trận và lấy
lớp học làm không gian, thực hành một trận chiến được. Vì vậy, việc tái hiện sự
kiện đã xảy ra trong quá khứ một cách chính xác là rất khó khăn mà chỉ có thể
tạo biểu tượng lịch sử với sự ứng dụng của CNTT các phương tiện dạy học
ĐDTQ (tranh ảnh, sơ đồ, bản đồ, ) để rồi từ đó đưa đến hình thành khái niệm
và rút ra quy luật.
Có thể nói, sự thống nhất giữa tạo biểu tượng và hình thành khái niệm
trong dạy và học môn lịch sử là một trong những đặc điểm chung của phát triển
tư duy. Hai quá trình này tuy tiến hành độc lập nhưng lại hòa vào nhau trong
một thể thống nhất.
“Tạo biểu tượng trong dạy học lịch sử trước tiên ở chỗ nó là cơ sở để hình
thành khái niệm lịch sử, của bức tranh quá khứ ngày càng phong phú bao nhiêu
thì hệ thống kiến thức mà học sinh thu nhận được càng vững chắc bấy nhiêu,

việc tạo biểu tượng lịch sử cho HS không chỉ dừng ở việc miêu tả bề ngoài mà
còn đi sâu vào bản chất sự kiện, nêu đặc trưng tính chất của sự kiện” [14,149]
Như vậy, biểu tượng lịch sử có vai trò cần thiết mà thiếu nó thì BHLS sẽ
trở nên vô vị và nhàm chán, buồn tẻ - là sự minh họa cụ thể cho khái niệm bằng
những hình ảnh lịch sử của bức tranh quá khứ càng phong phú bao nhiêu thì hệ
thống, khái niệm mà học sinh thu được càng vững chắc bấy nhiêu - biểu tượng
rất gần với khái niệm sơ đẳng. Tất cả sẽ giúp cho học sinh tiếp thu một cách hào
hứng và bài học.
1.2.2. Ý nghĩa
Việc tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử trong DHLS có vai
trò quan trọng, giúp cho sự kiện được tái hiện một cách cụ thể riêng biệt và sinh
động trong óc học sinh với những nét chung nhất, điển hình nhất, đặc biệt khi có
sự ứng dụng của CNTT thì việc tạo biểu tượng có ý nghĩa rất lớn trên cả 3 mặt:
giáo dưỡng, giáo dục và phát triển
- Về giáo dưỡng:
Tạo biểu tượng lịch sử nói chung, biểu tượng về nơi xảy ra sự kiện nói
riêng một cách chân thực sống động, giúp cho học sinh khôi phục lại các bức
tranh, quá khứ sinh động đúng như nó tồn tại. Mỗi địa điểm xảy ra sự kiện - biến
cố lịch sử đều là một địa danh có trong tiến trình lịch sử, có thể là một châu lục,
một khu vực, quốc gia nào đó hay một huyện, một tỉnh, một xã, và một nơi cụ
thể ví như: Nhà hát lớn ở Hà Nội - nơi quốc hội khóa 1 họp phiên đầu tiên (2-3-

14
1946), đồi A1, cứ điểm Him Lam, Hồng Cúm trong chiến dịch lịch lịch sử Điện
Biên Phủ (1954) từ đó sẽ giúp cho học sinh biết phân tích những đặc điểm về vị
trí địa lí, điều kiện thuận lợi tốt để tiến hành kháng chiến…Do vậy, tạo biểu
tượng về địa điểm xảy ra sự kiện sẽ có tác dụng cụ thể hóa một số sự kiện lịch
sử, làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản của lịch sử.
Đồng thời đối với giáo viên, việc ứng dụng CNTT để tạo biểu tượng về địa
điểm xảy ra sự kiện sẽ giúp cho GV nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng

sử dụng phương tiện kĩ thuật hiện đại trong dạy học, tiết kiệm được thời gian
trong bài giảng có sử dụng nhiều miêu tả kỹ thuật. Khi có sự hỗ trợ của phần
mềm, những hình ảnh và âm thanh được truyền tải đến học sinh một cách nhanh
chóng, chính xác, khoa học, và sinh động.
Về phía học sinh, với những hình ảnh, biểu tượng lịch sử sinh động mà GV
cung cấp, sẽ cuốn hút học sinh vào bài giảng, lĩnh hội kiến thức rõ ràng, chủ
động hiểu được bản chất của sự kiện, hiện tượng, tránh được tình trạng “hiện đại
hóa lịch sử” những nhận thức thiếu chủ quan phiến diện và đánh giá nhận định
tình hình thiếu cơ sở khoa học.
Bên cạnh đó việc tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện với sự hỗ trợ
của CNTT còn giúp cho học sinh đánh giá đúng vị trí, địa điểm diễn ra sự kiện
với các địa điểm - địa danh lân cận khác trong mối quan hệ tổng thể của cuộc
kháng chiến toàn quốc.
Như vậy, việc ứng dụng CNTT để tạo biểu tượng địa điểm xảy ra sự kiện
trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông không chỉ giúp cho các em có biểu
tượng chân thực về những sự kiện lịch sử mà còn hiểu sâu sắc bản chất của sự
kiện. Từ đó, vốn tri thức lí luận của học sinh từng bước được tăng lên.
- Về giáo dục:
Trong dạy học phổ thông bộ môn lịch sử có vai trò giáo dục tư tưởng, đạo
đức, tình cảm cho học sinh rất lớn, đặc biệt là việc tạo biểu tượng sinh động hấp
dẫn về các sự kiện hiện tượng và ứng dụng CNTT vào giảng dạy sẽ đạt hiệu quả
cao trong BHLS để tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử có thật ở
quá khứ mà có thể những địa danh đó vẫn còn cho đến hiện tại.
Điều đó, sẽ giúp cho các em học sinh có những tư tưởng, tình cảm, đạo
đức, thẩm mỹ, óc suy luận xem xét đánh giá những khó khăn hay thuận lợi về
điều kiện, vị trí địa lí…
Đặc biệt, khi sử dụng phần mềm Microsoft powerpoint - ứng dụng của
CNTT với những hiệu ứng đa dạng, phong phú, hình ảnh và tư liệu lịch sử sinh

15

động sẽ có tác dụng rất lớn đối với việc giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo đức của
học sinh về sự vật hiện tượng lịch sử.
Ví dụ: Quan sát bức ảnh chụp tội ác của Mĩ - Diệm giết hại đồng bào Nam
Bộ, kết hợp với lời nói của giáo viên sẽ làm nảy sinh trong các em những tình
cảm yêu mến nhân dân và căm thù quân xâm lược bè lũ cướp nước. Hoặc để
thấy được vị trí địa lí của Điện Biên Phủ trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ
năm 1954 quan trọng như thế nào mà cả ta và địch cố giành được thì GV có thể
tạo biểu tượng về vị trí địa lí của Điện Biên Phủ có sự ứng dụng CNTT (sơ đồ,
lược đồ, video…) sẽ tái hiện cho HS biểu tượng về Điện Biên Phủ sinh động và
hấp dẫn với sự hiểu biết của GV để miêu tả nơi đây.
Về mặt phát triển.
Cùng với việc hình thành tri thức, giáo giục tư tưởng tình cảm, tạo biểu
tượng về địa điểm xảy ra sự kiện với sự ứng dụng của CNTT còn góp phần phát
triển óc quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của HS, năng lực nhận
thức (quan sát, hình dung, tưởng tượng, tư duy…), kỹ năng học tập bộ môn (so
sánh, tưởng tượng, tư duy…) và các năng lực hành động khác.
Ngoài ra với sự ứng dụng của CNTT sẽ giúp cho GV cung cấp tới HS
những thông tin lịch sử đa dạng nhiều hình thức phong phú: minh họa kiến thức
bằng sơ đồ, biểu đồ, lược đồ…làm cho bài học thêm sinh động, hấp dẫn và gây
hứng thú học tập cho HS. Đồng thời việc tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự
kiện là cơ sở, điều kiện để HS nhận thức lịch sử đúng đắn tiến tới hình thành
khái niệm.
1.3. Yêu cầu sư phạm của việc sử dụng CNTT để tạo biểu tượng về địa
điểm xảy ra sự kiện trong DHLS ở trường phổ thông
1.3.1. Đảm bảo tính cơ bản
Trong khoảng thời gian có hạn, giáo viên cung cấp cho học sinh một lượng
kiến thức cơ bản hợp lý, không đưa học sinh vào tình trạng quá tải, căng thẳng.
Thông qua nội dung bài học lịch sử GV xác định địa điểm quan trọng nhất, có ý
nghĩa lớn trong nội dung của bài để tạo biểu tượng về địa điểm đó. đồng thời
vẫn đảm bảo về mục tiêu giáo dưỡng, giáo dục phát triển.

Trước hết, khi dạy BHLS thì địa điểm - không gian có vai trò quan trọng, là
nơi diễn ra sự kiện lịch sử. Chính vì vậy việc tạo biểu tượng về địa điểm cùng
với sự hỗ trợ của CNTT sẽ làm cho học sinh hiểu rõ nội dung của bài.
Hơn thế nữa, những bài học có nhiều địa điểm lịch sử ví dụ như trong bài
20 “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thúc1953-1954)” thì

16
giáo viên phải lựa chọn những địa điểm tiêu biểu, quan trọng nhất, điển hình
nhất, có đóng góp lớn cho nội dung bài học để đảm bảo xây dựng hiệu quả.
1.3.2. Đảm bảo mục đích giáo dục cho học sinh
Dạy học lịch sử giúp cho học sinh củng cố được kiến thức, kỹ năng cũng
như nắm được cơ sở lý luận và hành vi đạo đức. Đảm bảo được tính giáo dục
khi ứng dụng CNTT để tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện trong DHLS
nghĩa là cần khai thác triệt để những phương tiện giảng dạy có hiệu quả giáo dục
khi lựa chọn minh họa, miêu tả cho học sinh lựa chọn những địa điểm quan
trọng diễn ra trận đánh hay sự kiện lịch sử. Đồng thời giúp cho các em thấy
được không gian, cách bố trí, phòng thủ tận dụng điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý
để chuẩn bị hay hâm nóng bầu không khí của sự kiện diễn biến lịch sử.
Ví dụ: Khi tạo biểu tượng lịch sử những địa điểm trong đợt 3 chiến dịch
lịch sử Điện Biên Phủ (1954) GV kết hợp với tranh ảnh, sơ đồ, hay lược đồ, hay
những thước phim video, tường thuật về đợt 3 trong chiến dịch lịch sử Điện
Biên Phủ
Tối ngày 1-5 quân ta xung phong bất ngờ tiêu diệt địch chiếm hoàn toàn
đồi C1. Chiều ngày 6-5 tiếng nổ của khối bộc phá 100kg ở đồi A1.
Mở đầu hiệu lệnh tổng công kích của quân ta 17h30’ ta thọc thẳng vào
trung tâm Mường Thanh, bao vây hầm đờ-xa-xtơ-ri. Tạ Quốc Luật chỉ huy một
nhóm chiến sỹ trung kích địch. Hai chiến sỹ Vinh và Ngọ chuẩn bị nhảy xuống
hầm đờ-xa-xtơ-ri. Bốn chiếc xe tăng đỗ quanh hầm nhả đạn, để bảo vệ chỉ huy
Vĩnh và Ngọ bò sát tới gần ném lựu đạn vào xe, một chiếc bốc cháy, một chiếc
đứt xích, còn lại hai chiếc khác bỏ chạy để lại hầm chỉ huy không người bảo vệ.

Hai chiến sỹ mỗi người xông vào một cửa hầm và ném lựu đạn….
Qua đoạn tường thuật sẽ giúp cho các em thấy được không gian quyết liệt
của trận chiến với những địa điểm trọng yếu của chiến dịch khi có sự hỗ trợ của
CNTT càng làm cho biểu tượng có sự thu hút, lôi cuốn.
1.3.3. Đảm bảo mục đích phát huy tích tích cực, độc lập của học sinh
Như chúng ta đã biết hiện nay, trước mục tiêu giáo dục của sự phát triển
con người toàn diện thì việc phát huy tính tích cực, độc lập sáng tạo của HS là
phương pháp giảng dạy trong nhà trường phổ thông.
Phát huy tính tích cực độc lập của học sinh tức là dưới sự hướng dẫn chỉ
đạo của GV, HS tích cực tự chủ động tiếp thu kiến thức, từ đó các em nhận thức
sâu sắc vấn đề.

17
Việc sử dụng CNTT để tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện kết hợp
với các phương pháp dạy học nên vấn đề đặt câu hỏi gợi mở dạy học theo hướng
phát huy tích cực độc lập của các em. GV có sự hiểu biết sâu và rộng về địa
điểm cần tạo biểu tượng (kiến thức địa lý) để từ đó đưa ra các câu hỏi trao đổi,
đàm thoại với HS tư duy, độc lập, đưa ra những nhận xét đánh giá và hình thành
nên biểu tượng đúng đắn trong nhận thức.
Ví dụ: Khi dạy bài 18 “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp (1946-1950), mục II, phần 1. Trước khi treo bản đồ hoặc
trình chiếu bản đồ giáo viên có thể nêu vấn đề bằng cách đặt câu hỏi để học sinh
suy nghĩ:
Việt Bắc có vị trí địa lí như thế nào? Tại sao Pháp tấn công lên Việt Bắc?
(mục đích)
Học sinh suy nghĩ, trả lời.
Giáo viên nhận xét chốt ý và treo bản đồ, giới thiệu tên, tỉ lệ bản đồ, ký
hiệu diễn tả cuộc tấn công mũi tên màu đen chỉ hướng hành quân của địch và
tiếp tục đưa ra yêu cầu:
Một em hãy lên bảng chỉ trên bản đồ những hướng tấn công của địch lên

căn cứ Việt Bắc? Mối quan hệ giữa các hướng tấn công đó?
Học sinh quan sát trả lời.
Giáo viên nhận xét và lược thuật quá trình Pháp tấn công lên Việt Bắc bằng
bản đồ.
Như vậy, việc sử dụng CNTT kết hợp các phương pháp dạy học nêu vấn
đề, trao đổi đàm thoại với các câu hỏi gợi mở của giáo viên sẽ phát huy tính tích
cực độc lập ở học sinh. Tuy nhiên, trong DHLS hiện nay nói chung thì vấn đề
tạo biểu tượng các địa điểm lịch sử, một số bộ phận GV chưa khởi dậy được ở
học sinh tính tích cực, độc lập sáng tạo, với việc không coi trọng không gian
hoàn cảnh sự kiện chỉ nêu một cách khái quát mà tập chung chủ yếu vào phần
nội dung - diễn biến của sự kiện, chỉ giúp cho học sinh chỉ biết mà chưa hiểu
được đầy đủ, sâu sắc, không hứng thú với môn học.
Trên cơ sở các yêu cầu, nguyên tắc với việc sử dụng CNTT để tạo biểu
tượng về địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử với một hệ thống các phương pháp sử
dụng tạo biểu tượng về địa điểm lịch sử đã được đưa ra trong DHLS ở trường
phổ thông, từ đó phát huy vai trò của biểu tượng lịch sử nói chung, biểu tượng
về địa điểm lịch sử nói riêng đối với quá trình nhận thức của học sinh, nâng cao
hiệu quả DHLS.

18
1.4. Cơ sở thực tiễn việc sử dụng CNTT để tạo biểu tượng về địa điểm
xảy ra sự kiện trong DHLS
1.4.1. Về phía giáo viên
* Tích cực.
Hiện nay phần đông giáo viên đã có nhận thức đúng về vị trí, vai trò của
môn cũng như ứng dụng CNTT vào giảng dạy, tạo biểu tượng về địa điểm xảy
ra sự kiện. Nhiều GV đã có những tìm tòi tư liệu phong phú, chuẩn bị đồ dùng
trực quan, CNTT (video , thước phim tư liệu…) kết hợp với những phương pháp
sư phạm tạo nên những biểu tượng về địa điểm, địa danh lịch sử sinh động, hấp
dẫn. Từ đó, thúc đẩy học sinh học tập tích cực, hoàn thành các mục tiêu giáo dục

đề ra.
Qua các lần kiến tập, đi phổ thông và thực tập, em đã có sự tìm hiểu và trực
tiếp tiếp xúc ở mức độ nhất định trong việc giảng dạy ở trường phổ thông. Các
thầy cô đã nhận thức được vai trò của việc sử dụng CNTT ( thiết kế giáo án điện
tử, trình chiếu tranh ảnh, video, phim tư liệu, sơ đồ…) để tạo biểu tượng địa
điểm xảy ra sự kiện lịch sử và tác dụng của nó trong dạy học. Đồng thời GV
cũng tìm cách truyền đạt để làm cho học sinh có những biểu tượng một cách sâu
sắc nhất, tạo ra được không khí dạy học hứng thú cho học sinh, kích thích trí
nhớ, trí thông minh của các em.
* Hạn chế.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số GV chưa nhận thức đúng vai trò, vị
trí bộ môn lịch sử nên chưa thực sự tích cực trong giảng dạy, chưa hiểu được vai
trò, ý nghĩa của việc sử dụng CNTT để tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự
kiện lịch sử. Các bài giảng chỉ mang tính chất cung cấp sự kiện, tóm tắt kiến
thức lịch sử ở SGK.
SGK hiện nay đã được đổi mới rất nhiều như; tăng kênh hình, giảm kênh
chữ trong SGK buộc người GV phải có chuyên môn sâu, tư liệu kiến thức phong
phú để khai thác, tạo biểu tượng cho các em. Tuy nhiên, một bộ phận GV vẫn
giữ cách dạy truyền thống thầy (cô) đọc, trò chép, không hướng dẫn khai thác
cho học sinh phần kiến thức chìm trong SGK. Chỉ khoảng 30% GV thỉnh thoảng
sử dụng kênh hình để tạo biểu tượng không gian địa điểm lịch sử.
Hơn nữa, trong việc tạo biểu tượng về địa điểm cho HS, nhiều GV còn ngại
khắc sâu, ngại tìm tòi tạo cho HS những hình ảnh sinh động, chân thực hay lấy
lí do không đủ thời gian để tạo biểu tượng cho HS… Đặc biệt ở những vùng sâu,
vùng xa, còn hẻo lánh do điều kiện vật chất kém nên việc ứng dụng CNTT là rất

19
hạn chế nên chưa khai thác triệt để các phương tiện hỗ trợ để tạo biểu tượng về
địa điểm xảy ra sự kiện để phục vụ cho BHLS.
1.4.2. Đối với học sinh

*Tích cực.
Một bộ phận các em đã thực sự hứng thú với giờ học lịch sử - niềm đam
mê nghiêm túc. Những năm gần đây chất lượng và số lượng học sinh giỏi môn
lịch sử trong các kỳ thi các cấp được nâng lên. Qua điều tra khi được hỏi “các
em có hứng thú với môn học lịch sử không” ? kết quả thu được có 10% HS là rất
hứng thú, 20% HS trả lời là hứng thú, 65% HS là bình thường và 5% là không
hứng thú.
Kết quả phản ánh đa số học sinh đã nhận thức được vai trò, ý nghĩa của bộ
môn lịch sử. Học sinh nhận thức được kiến thức về sự kiện lịch sử, đặc biệt là
yếu tố về địa điểm - nơi xảy ra sự kiện lịch sử trong giáo dục truyền thống đạo
đức niềm tự hào dân tộc, phát triển nhân cách cho học sinh.
* Hạn chế.
Phần lớn các em không nhận thức được vị trí môn học do tâm lý coi thường
bộ môn, là môn phụ, môn học thuộc lòng nên dẫn đến các em không thích thú với
việc học tập các nhân vật lịch sử các em cũng không có hứng thú học.
Hơn thế nữa, việc tiếp thu kiến thức lịch sử có nhiều hạn chế, khi được hỏi
về các địa danh diễn ra sự kiện học sinh trả lời nhầm lẫn, nhớ kiến thức một
cách mơ màng. Việc ứng dụng CNTT trong DHLS nhất là để tạo biểu tượng địa
điểm xảy ra còn quá ít, xuất phát bởi nhiều nguyên nhân.
Kết quả trên phản ánh một tình trạng đáng quan tâm về dạy và học lịch sử ở
trường phổ thông hiện nay. Muốn giải quyết tình trạng này phải bắt đầu từ thái
độ tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo cả người dạy và học, với việc sử dụng
CNTT có hiệu quả nhằm tạo biểu tượng địa điểm xảy ra sự kiện trong DHLS là
điều hết sức cần thiết.
1.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Thực trạng của việc ứng dụng CNTT để tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra
sự kiện trong DHLS ở trường phổ thông hiện nay do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan.
Quan niệm cho rằng bộ môn lịch sử chỉ là một môn phụ vẫn còn tồn tại
nhiều. Nên đã tác động đến tâm lý của GV và HS yếu tố coi thường đối phó dạy


20
và học, tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, thương mại hóa giáo dục -
một số giáo viên chưa trau rồi nghề nghiệp của mình thật tốt.
Một số giáo viên chưa nhận thức đúng đắn về vai trò, ý nghĩa, hiệu quả của
việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy môn lịch sử, có thể do giáo viên ít nhận
được sự đồng tình ủng hộ lãnh đạo các trường phổ thông chưa hiểu rõ vai trò ý
nghĩa của việc ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử…kỹ năng vận dụng CNTT
trong dạy học của GV ở trường phổ thông còn yếu kém.
Đồng thời có một bộ phận GV chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa thực
sự tiến hành đầu tư thời gian, cũng như tâm huyết với nghề, việc chuẩn bị bài
giảng kể cả đã có một số giáo viên biết khai thác sơ đồ, bản đồ, kênh hình…
Tuy nhiên, chưa nhận thức tối ưu trong việc tạo biểu tượng về địa điểm xảy rá
sự kiện lịch sử.
Một nguyên nhân cơ bản nữa là không thay đổi được kiểu dạy truyền thống
không ít giáo viên lâu năm với cách dạy học “thầy đọc - trò chép” làm cho môn
lịch sử vốn ít thu hút được sự quan tâm của học sinh so với môn học khác nay
càng trở nên buồn tẻ, không phát huy được tinh thần học tập tích cực của học
sinh. Trong giờ học lịch sử các em thường học với tâm lý gượng ép, buồn chán
thậm trí một số em mang bài học của môn khác ra học thay cho việc học và chép
bài của môn lịch sử.
Xuất phát từ yêu cầu bức thiết của việc dạy và học lịch sử ở trường phổ
thông, việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học lịch sử là một điều tất
yếu, trong đó việc sử dụng CNTT để tạo biểu tượng về địa điểm xảy ra sự kiện
lịch sử là một trong những biện pháp vô cùng đúng đắn và hiệu quả vào giảng
dạy, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn của nhà giáo dục em
xin đưa ra một số biện pháp của ứng dụng để tạo biểu tượng về địa điểm cho học
sinh qua giai đoan lịch sử việt nam 1945-1954 lớp 12 trung học phổ thông
(chương trình chuẩn)








21
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG CNTT ĐỂ TẠO BIỂU TƯỢNG VỀ ĐỊA
ĐIỂM XẢY RA SỰ KIỆN TRONG DHLS VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
1945 - 1954 LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
2.1. Vị trí, mục đích, nội dung nghiên cứu cơ bản của giai đoạn lịch sử Việt
Nam 1945 - 1954 lớp 12 trung học phổ thông
2.1.1. Vị trí
Trong SGK lịch sử lớp 12 THPT (chương trình chuẩn) phần lịch sử Việt
Nam từ 1945 đến 1954 nằm trong chương III “Việt Nam từ 1945 đến 1954” đây
là chương trình có vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử Việt Nam, từ 1919
đến nay.
Nội dung chủ yếu của chương này phản ánh cuộc kháng chiến chống thực
dân pháp trường kì 9 năm của quân và dân ta nhằm bảo vệ thành quả cách mạng
tháng Tám, giữ nền độc lập dân tộc.
Kiến thức của chương thể hiện rõ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, truyền
thống đấu tranh bất khuất của dân tộc, tình đoàn kết quốc tế cao.
Chính vì vậy, chương này cung cấp cho học sinh nhiều kiến thức lịch sử
quan trọng với các sự kiện hấp dẫn, có ý nghĩa giáo dục và phát triển, học sinh,
đặc biệt là khả năng tư duy, độc lập sáng tạo của các em.
2.1.2. Mục tiêu
Học tập giai đoạn 1945-1954 cho học sinh nắm được nội dung phong phú
và quan trọng sau:

- Về giáo dưỡng :
Sau cách mạng tháng Tám, nước ta có nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp
không ít khó khăn, thử thách sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ Tịch Hồ
Chí Minh, đã phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, thực hiện những chủ
trương, biện pháp xây dựng chính quyền, sách lược đấu tranh chống ngoại xâm
nội phản, bảo vệ chính quyền.
Bước phát triển của cuộc kháng chiến chống pháp từ 1946-1954 với những
thắng lợi có tính chất bước ngoặt. Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía bắc, vĩ tuyến
16, chiến dịch Việt Bắc 1947, chiến dịch Thu - Đông 1950, các chiến dịch tiến
công giữ vững chủ quyền chủ động trên chiến trường (1951-1953), đặc biệt
thắng lợi trong cuộc chiến Đông - Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến dịch

×