Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

NỘI DUNG QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA CÁC DÂN TỘC THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.95 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: NỘI DUNG QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA
CÁC DÂN TỘC THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊNIN. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ DÂN
TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.

Họ và tên : TRẦN THU PHƯƠNG Lớp : GMA63ĐH
Mã sinh viên : 98318

Khóa học : 2022-2026

Giảng viên hướng dẫn : VŨ PHÚ DƯỠNG

Hải Phòng - 2023

1


Mục lục
Trang
Lời mở đầu

3

Chương I : Quyền bình đẳng giữa các dân tộc theo quan điểm chủ nghĩa

4


Mác-Lênin
I: Dân tộc và xu hướng phát triển khách quan của dân tộc theo quan điểm

4

của chủ nghĩa Mác–Lênin.
1.
2.

Khái niệm và đặc trưng cơ bản của dân tộc:
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin

4
5

II: Nội dung quyền bình dẳng giữa các dân tộc:

9

1.

Phân tích nội dung

9

2.

Quan điểm V.I.Lênin về bình đẳng giữa các dân tộc trong một quốc

9


gia đa dân tộc.
Chương II : Tình trạng thực tiễn về vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay.
1.

13

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin với một số đặc điểm của

13

dân tộc nước ta hiện nay.
2.
3.

Tình trạng thực tiễn về vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng dân tộc trong

17
18

việc thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta
Kết luận

Tài liệu tham khảo

20

21


2


LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc là vấn đề hết sức nhạy cảm của tất cả các
dân tộc và các quốc gia trong thời đại ngày nay. Ở Việt Nam, vấn đề dân tộc và giải
quyết vấn đề dân tộc được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là vấn đề hết sức quan
trọng tong xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước, với quan điểm: Bình đẳng, đồn kết,
tơn trọng, giúp đỡ cùng phát triển giữa các dân tộc, nhằm phát huy khối đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam đã có nghiên cứu đề cập, ở
nhiều nội dung khác nhau trong thời gian qua. Các cơng trình nghiên cứu được đề cập
trên đã chỉ rõ vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam với những nội
dung sau :
Một là; các cơng trình nghiên cứu đã phân tích và trên cơ sở vận dụng đúng đắn quan
điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam một cách sáng tạo.
Hai là; học thuyết Mác- Lênin là học thuyết cách mạng, sáng tạo, học thuyết mở.
Ba là; những giá trị lý luận, thực tiễn của chủ nghĩa V.I.Lênin về vấn đề dân tôc và
giải quyết vấn đề dân tộc đối với cách mang nước ta hiện nay là hết sức quan tọng.
Trong thời kì đẩy mạnh sự cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay, việc giải quyết "Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc" của V.I.Lênin
vẫn còn nguyên giá trị. Đây là vấn đề ln có tính thời sự và cấp bách trong quá trình
phát triển của mỗi quốc gia dân tộc, góp phần đấu tranh chống lại mọi điều luận sai
trái, phản động, phủ nhận bản chất cách mạng, khoa học, nhân văn của chủ nghĩa
V.L.Lênin trông giai đoạn hiện nay.

3


Chương I : Quyền bình đẳng giữa các dân tộc theo quan điểm chủ nghĩa

Mác-Lênin
I. Dân tộc và xu hướng phát triển khách quan của dân tộc theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác–Lênin
1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của dân tộc:
Cũng như nhiều hình thức cộng đồng khác, dân tộc là sản phẩm của một quá trình
phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước khi dân tộc xuất hiện, lồi người đã trải
qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.Ở phương Tây,
dân tộc xuất hiện khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và thay thế
vai trò của phương thức sản xuất phong kiến. Chủ nghĩa tư bản ra đời trên cơ sở của
sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá đã làm cho các bộ tộc gắn bó với nhau.
Nền kinh tế tự cấp, tự túc bị xoá bỏ, thị trường có tính chất địa phương nhỏ hẹp, khép
kín được mở rộng thành thị trường dân tộc. Cùng với quá trình đó, sự phát triển đến
mức độ chín muồi của các nhân tố ý thức, văn hố, ngơn ngữ, sự ổn định của lãnh thổ
chung đã làm cho dân tộc xuất hiện. Chỉ đến lúc đó tất cả lãnh địa của các nước
phương Tây mới thực sự hợp nhất lại, tức là chấm dứt tình trạng cát cứ phong kiến và
dân tộc được hình thành.Ở một số nước phương Đơng, do tác động của hồn cảnh
mang tính đặc thù, đặc biệt do sự thúc đẩy của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ
nước, dân tộc đã hình thành trước khi chủ nghĩa tư bản được xác lập. Loại hình dân
tộc tiền tư bản đó xuất hiện trên cơ sở một nền văn hoá, một tâm lý dân tộc đã phát
triển đến độ tương đối chín muồi, nhưng lại dựa trên cơ sở một cộng đồng kinh tế tuy
đã đạt tới một mức độ nhất định nhưng nhìn chung cịn kém phát triển và còn ở trạng
thái phân tán. Khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có
hai nghĩa được dùng phổ biến nhất :
Nghĩa thứ nhất : Dân tộc hay quốc gia dân tộc là cộng đồng người ổn định hợp thành
nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và
có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị,
kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình
lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
Nghĩa thứ hai: Dân tộc – tộc người : là một cộng đồng người được hình thành lâu
dài trong lịch sử, có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có

ngơn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù.
Những đặc trưng cơ bản:
-Những đặc trưng cơ bản của dân tộc theo nghĩa thứ nhất:
Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là một trong những đăc trưng
quan trọng nhất của dân tộc. Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận,
các thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc cho cộng đồng dân tộc. Có
lãnh thổ chung ổn định không bị chia cắt, tập trung cư trú trên một vùng lãnh thổ của
một quốc gia hoặc hoặc cư trú đan xen với nhiều dân tộc anh em, là cơ sở sinh tồn và
4


phát triển của cộng đồng dân tộc. Khái niệm lãnh thổ bao gồm cả vùng đất, vùng trời,
vùng biển, hải đảo thuộc chủ quyền của quốc gia dân tộc, thường được thể chế hóa
thành luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế. Vận mệnh dân tộc phụ thuộc rất nhiều
vào việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ quốc gia dân tộc.
Có sự quản lý của một nhà nước-dân tộc độc lập.
Có ngơn ngữ riêng hoặc có thể có chữ viết riêng (trên cơ sở ngôn ngữ chung của
quốc gia) làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, tình cảm...
Có nét tâm lí riêng (nét tâm lí dân tộc) biểu hiện kết tinh trong nền văn hóa dân tộc
và tạo nên bản sắc riêng của nền văn hóa dân tộc, gắn bó với nền văn hóa của cả cộng
đồng các dân tộc.
-Những đặc trưng cơ bản của dân tộc theo nghĩa thứ hai:
Cộng đồng về ngơn ngữ: Bao gồm ngơn ngữ nói, ngơn ngữ viết, hoặc chỉ riêng ngơn
ngữ nói. Đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt các tộc người khác nhau và là vấn đề luôn
được các dân tộc coi trọng giữ gìn. Tuy nhiên trong quá trình phát triển tộc người vì
nhiều ngun nhân khác nhau, có những tộc người khơng cịn ngơn ngữ mẹ đẻ mà sử
dụng ngơn ngữ khác (ngoại lai) làm công cụ giao tiếp.
Cộng đồng về văn hóa: Bao gồm văn hóa vật thể và phi vật thể ở mỗi tộc người
phản ánh truyền thống, lối sống, phong tục, tập qn, tín ngưỡng, tơn giáo của tộc
người đó. Lịch sử phát triển của mỗi tộc người gắn liền với truyền thống văn hóa của

tộc người đó. Ngày nay, cùng với xu thế giao lưu văn hóa song song tồn tại xu thế bảo
tồn và phát huy bản sắc văn hóa của mỗi tộc người.
Ý thức tự giác tộc người: Đây là đặc trưng quan trọng nhất, là tiêu chỉ để phân định
một tộc người với tộc người khác, và có vai trị quyết định đối với sự tồn tại và phát
triển của mỗi tộc người. Sự hình thành và phát triển của ý thức tự giác tộc người liên
quan trực tiếp đến các yếu tố của ý thức, tình cảm, tâm lý tộc người.
Ba đặc trưng nói trên tạo nên sự ổn định trong mỗi tộc người trong quá trình phát
triển.

2. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp;
kết hợp phân tích hai xu hướng khách quan trong sự phát triển dân tộc; dựa vào kinh
nghiệm của phong trào cách mạng thế giới và thực tiễn cách mạng Nga về việc giải
quyết vấn đề dân tộc trong những năm đầu thế kỷ XX, V.ILênin đã khái quát vấn đề
dân tộc trong Cương lĩnh dân tộc.
Hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc.

5


Xu hướng thứ nhất: xu hướng phân lập. Ở những quốc gia, khu vực tư bản chủ nghĩa
gồm nhiều cộng đồng dân cư có nguồn gốc tộc người khác nhau làm ăn, sinh sống.
Đến một thời kì nào đó, sự trưởng thành của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh đầy đủ về
quyền sống của mình mà các cộng đồng dân cư đó muốn tách khỏi nhau để thành lập
các dân tộc độc lập.
Bởi họ hiểu rằng, chỉ trong cộng đồng độc lập họ mới có quyền tự quyết định vận
mệnh của mình, mà cao nhất là sự tự do lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát
triển của dân tộc mình.
Xu hướng thứ hai: xu hướng liên kết. Các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các
dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Chính sự phát triển của lực

lượng sản xuất, của khoa học công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa trong xã hội
tư bản đã làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, tạo nên
mối liên hệ giữa các quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân
tộc xích lại gần nhau.
Biểu hiện của hai xu hướng phát triển khách quan của dân tộc trong thời đại ngày nay.
Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc.
Ở các nước này, xu hướng thứ nhất biểu hiện trong sự nỗ lực của từng dân tộc để đi
tới sự tự chủ và phồn vinh của dân tộc mình. Xu hướng thứ hai tạo nen sự thúc dẩy
mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng đồng quốc gia xích lại gần nhau hơn nữa, hòa hợp
với nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ
sung, hỗ trợ nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia và đụng
chạm đến tất cả các quan hệ dân tộc. Sự tự chủ, phồn vinh của từng dân tộc sẽ tạo điều
kiện hco dân tộc đó có thêm những điều kiện vật chất và tinh thần để hợp tác chặt chẽ
hơn với các dân tộc anh em. Sự xích lại gần nhau hơn của các dân tộc trên cơ sở tự
nguyện và bình đẳng sẽ tạo điều kiện cho từng dân tộc đi nhanh tới sự phát triển, phồn
vinh.
Xét trên phạm vi thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan thể hiện rất nổi
bật.
Thời đại ngày nay là thời đại các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy, xố bỏ ách đơ hộ của
chủ nghĩa đế quốc và giành lấy sự tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình, bao gồm
quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc, quyền bình
đẳng với các dân tộc khác. Đây là một trong những mục tiêu chính trị chủ yếu của thời
đại – mục tiêu độc lập dân tộc.
Xu hướng này biểu hiện trong phong trào giải phóng dân tộc thành sức mạnh chống
chủ nghĩa đế quốc và chính sách thực dân dưới mọi hình thức; biểu hiện trong cuộc
đấu tranh của các dân tộc nhỏ bé hiện còn đang là nạn nhân của sự kỳ thị dân tộc phân

6



biệt chủng tộc, vẫn đang bị coi là đối tượng chính sách đồng hóa cưỡng bức ở nhiều
nước tư bản.
Ngược lại, trong thời đại ngày nay, cịn có xu hướng các dân tộc muốn xích lại gần
nhau để trở lại hợp nhất thành một quốc gia thông nhất theo nguyên trạng đã được
hình thành trong lịch sử. Xu hướng đó tạo nên sức hút các dân tộc vào các liên minh
được hình thành trên những cơ sở lợi ích nhất định.
Có những lợi ích mang tính khu vực – dựa trên yếu tố gần nhau về địa lý, giống nhau
về môi trường thiên nhiên, tương đồng nhau về một số giá trị văn hóa, trùng hợp nhau
về lịch sử và hiện tại trong cuộc đấu tranh chống một kẻ thù chung nào đó.
Lợi ích tồn cầu có tác dụng sâu xa gắn bó lồi người trong một q trình vận động
thống nhất: các dân tộc, quốc gia trê thế giới cịn đang ở những trình độ phát triển
khác nhau, cần sự giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
2.1 Các dân tộc hồn tồn bình đẳng:
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các
dân tộc hồn tồn bình đẳng có nghĩa là các dân tộc lớn hay nhỏ khơng phân biệt trình
độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội; không một dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi, đặc lợi
về kinh tế, chính trị, văn hóa và đi áp bức bóc lột dân tộc khác, trước luật pháp mỗi
nước và luật pháp quốc tế.
Để thực hiện được quyền bình đẳng dân tộc, trước hết phải thủ tiêu tình trạng áp
bức giai cấp, trên cơ sở đó mới xóa bỏ được tình trạng áp bức dân tộc; phải đấu tranh
chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Trong một quốc gia
có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và
được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó việc phấn đấu khắc
phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa do lịch sử để lại có ý nghĩa
cơ bản.thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân
tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
2.2 Các dân tộc được quyền tự quyết:
Quyền các dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh

của dân tộc mình, quyền quyết định chế độ chính trị - xã hội và con đường phát triển
của dân tộc mình.
Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do độc lập về chính trị tách ra thành lập ra một
quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc và cũng bao gồm quyền tự nguyện
liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng với lợi ích để có đủ sức mạnh
chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quốc gia- dân tộc.

7


2.3 Liên hiệp công nhân các dân tộc:
Liên hiệp công nhân các dân tộc phản ảnh sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp: phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế chấn chính. Đồn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững
chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động thuộc các dân tộc trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung
này vừa là nội dung chủ yếu vừa là giải pháp quan trọng để liên kết các nội dung của
Cương lĩnh dân tộc thành một chỉnh thế. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-lênin
là cơ sở lý luận quân trọng để các Đảng cộng sản vận dụng thực hiện chính sách dân
tộc trong q trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó
là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc quyền và có thêm những điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển của các đảng cộng sản: nó phản ánh bản chất quốc tế của phong
trào công nhân, phản ánh sự thống nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp. Nó đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng
lợi. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới;quy định
đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình
đẳng dân tộc. Địng thời nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công nhân và các
dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Đồn kết, liên hiệp cơng nhân các dân
tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động rộng rãi thuộc các
dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã

hội. Vì vậy, nội dung liên hiệp công nhân các dân tộc đóng vai trị liên kết cả ba nội
dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể.Đồn kết giai cấp cơng nhân các dân tộc là
sự thể hiện thực tế tinh thần yêu nước mà thời đại ngày nay đã trở thành một sức mạnh
vơ cùng to lớn. Nội dung đó phù hợp với tinh thần quốc tế chân chính đang lên tiếng
kêu gọi các dân tộc, quốc gia xích lại gần nhau.

8


II: Nội dung quyền bình dẳng giữa các dân tộc:
1. Phân tích nội dung
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc, không phân biệt dân tộc lớn hay nhỏ, ở
trình độ phát triển cao hay thấp. Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau
trên tất cả các lĩnh vực của đợi sống xã hội, không dân tộc nào được giữ đặc quyền,
đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa.
Khơng một dân tộc nào có quyền đi áp bức, bóc lột dân tộc khác. Trong một quốc
gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc phải được thể chế hóa bằng pháp luật,
khắc phục sự chênh lệch về mọi mặt do lịch sử để lại. Để thực hiện được quyền bình
đẳng dân tộc, trước hết phải thủ tiêu tình trạng áp bức giai cấp, trên cơ sở xóa bỏ tình
trạng áp bức dân tộc; phải đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa
dân tộc cực đoan.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và
xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc.
Bình đẳng dân tộc là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong cương lĩnh dân tộc.
V.I.Lênin đã đưa ra nhiều nội dung về bình đẳng dân tộc trong một quốc gia đa tộc
người như: bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, bình đẳng trên tất cả mọi lĩnh vực và
phải được bảo đảm bằng pháp luật; xây dựng chế độ tự trị khu vực dân tộc ở những
nơi có điều kiện và ưu tiên đối với người dân tộc thiểu số. Bài viết nêu những tư tưởng
có giá trị bền vững, đồng thời chỉ ra những nội dung cần bổ sung, phát triển trong
quan điểm của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc nhằm phù hợp với điều kiện thực tiễn

Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện được quyền bình đẳng dân tộc, trước hết phải thủ tiêu tình trạng áp bức
giai cấp, trên cơ sở đó mới xóa bỏ được tình trạng áp bức dân tộc; phải đấu tranh
chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan.Trong một quốc gia
có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và
được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó việc phấn đấu khắc
phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa do lịch sử để lại có ý nghĩa
cơ bản.thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân
tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
2. Quan điểm V.I.Lênin về bình đẳng giữa các dân tộc trong một quốc gia đa
dân tộc.
V.I.Lênin ln tuyến bố và khẳng định dứt khốt việc bảo đảm nguyên tắc bình đẳng
giữa các dân tộc trong một quốc gia trong mọi điều kiện, hồn cảnh. Bình đẳng dân
tộc là bình đẳng về mặt quyền lợi và nghĩa vụ, trong đó, V.I.Lênin nhấn mạnh việc
bảo đảm bình đẳng về quyền lợi cho các dân tộc, đặc biệt là những dân tộc ít người:
“Chúng ta địi hỏi một sự bình đẳng tuyệt đối về mặt quyền lợi cho tất cả các dân tộc
trong quốc gia và sự bảo vệ vô điều kiện các quyền lợi của mọi dân tộc ít người”. Như
vậy, bình đẳng dân tộc gắn với việc bảo vệ quyền của người dân tộc thiểu số trong
một quốc gia. Để bảo đảm sự bình đẳng về quyền lợi cho các dân tộc, đặc biệt là dân
9


tộc ít người, V.I.Lênin phản đối bất cứ một đặc quyền dành cho một dân tộc nào
khơng có một đặc quyền nào cho bất cứ dân tộc nào, mà là quyền bình đẳng hồn tồn
của các dân tộc; tất cả các dân tộc trong nước đều tuyệt đối bình đẳng và mọi đặc
quyền của bất cứ dân tộc nào hoặc ngôn ngữ nào đều bị coi là không thể dung thứ và
trái với hiến pháp. Về nội dung của bình đẳng giữa các dân tộc, theo V.I.Lênin phải
bảo đảm trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội một Nhà nước dân chủ khơng thể
dung thứ một tình trạng áp bức, kiềm chế của một dân tộc này đối với bất cứ dân tộc
nào khác trong bất cứ lĩnh vực nào, trong bất cứ ngành hoạt động xã hội nào. Bình

đẳng dân tộc gắn với việc bảo đảm quyền lợi của dân tộc thiểu số phải được thể hiện
trong mọi lĩnh vực. Bình đẳng trong kinh tế là bảo đảm quyền lợi, lợi ích kinh tế,
quyền được phân phối công bằng tư liệu sản xuất cũng như thành quả của sự phát triển
cho tất cả các dân tộc. Bình đẳng trong chính trị là bảo đảm quyền của các dân tộc
trong tham gia vào đời sống chính trị, hệ thống chính trị của đất nước. Bình đẳng
trong văn hóa, xã hội là bảo đảm quyền hưởng các thành quả phát triển văn hóa, xã
hội của đất nước, quyền được bảo vệ bản sắc văn hóa riêng của mỗi dân tộc. Trong
khi khẳng định sự toàn diện, đầy đủ trong thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc,
V.I.Lênin nhấn mạnh đến việc thực hiện bình đẳng dân tộc trong lĩnh vực văn
hóa.Văn hóa của một dân tộc tộc người thể hiện ở phong tục, tập quán, tín ngưỡng và
các sinh hoạt hằng ngày, trong đó thể hiện rõ nét ở ngơn ngữ riêng của tộc người đó.
Ngơn ngữ là một thành tố của văn hóa, đồng thời là phương tiện truyền tải các giá trị,
sinh hoạt văn hóa của tộc người đó. V.I.Lênin khẳng định quyền tự do sử dụng ngơn
ngữ riêng của các tộc người chính là quyền bình đẳng về văn hóa giữa các dân tộc.
Quyền này thể hiện ở chỗ khơng có ngơn ngữ quốc gia nào có tính chất bắt buộc, các
dân tộc được học ngơn ngữ của mình trong trường học, được sử dụng ngơn ngữ của
mình trong mọi trường hợp ví dụ như tịa án... để đảm bảo sự bình đẳng hồn tồn
giữa các dân tộc và khơng có một ngơn ngữ quốc gia có tính chất bắt buộc, đảm bảo
cho dân cư có các trường học dạy bằng tất cả các ngơn ngữ địa phương.Theo
V.I.Lênin, bình đẳng dân tộc về mặt văn hóa khơng chỉ là việc các dân tộc được tự do
sử dụng ngơn ngữ của mình, được bảo vệ bản sắc văn hóa riêng của mình mà cịn là
được hưởng công bằng các giá trị, thành tựu phát triển văn hóa chung của đất
nước.Theo V.I.Lênin, để bảo đảm sự bình đẳng giữa các dân tộc, trước hết phải bằng
việc ban hành và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, trong đó ghi nhận đầy đủ sự
bình đẳng trước hết là về quyền lợi giữa các dân tộc: “Vấn đề bảo vệ quyền của một
dân tộc thiểu số chỉ có thể được giải quyết bằng cách ban bố một đạo luật chung của
Nhà nước, trong một nước dân chủ triệt để, khơng xa rời ngun tắc bình quyền”.
Pháp luật chính là cơ sở chắc chắn và có hiệu quả nhất để bảo vệ quyền của các dân
tộc thiểu số. Do đó, việc hồn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, thừa nhận sự bình
đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các dân tộc trong mọi lĩnh vực là yêu cầu đầu tiên

để bảo đảm bình đẳng dân tộc. Theo V.I.Lênin, không chỉ pháp luật trên mọi lĩnh vực
đều phải thừa nhận sự bình đẳng giữa các dân tộc mà cần phải có một đạo luật riêng
về vấn đề dân tộc, thừa nhận sự bình đẳng giữa các dân tộc. Pháp luật đó cịn phải bảo
đảm tính hiệu lực và hiệu quả cao, có chế tài loại bỏ những bất bình đẳng quyền lợi
giữa các dân tộc. Đảng dân chủ - xã hội đòi ban bố một đạo luật chung cho cả nước để
bảo vệ các quyền của mọi dân tộc ít người ở bất kỳ nơi nào trong nước. Theo đạo luật
10


đó, mọi biện pháp mà thơng qua đó dân tộc nhiều người định tạo ra cho mình một đặc
quyền dân tộc hoặc giảm bớt quyền của dân tộc ít người (trong lĩnh vực giáo dục, sử
dụng một tiếng nói nào, trong ngân sách) đều phải được tuyên bố là không có hiệu
lực, và kẻ nào thi hành biện pháp ấy sẽ bị trừng trị. Sau Cách mạng Tháng Mười Nga,
nguyên tắc bình đẳng dân tộc được nêu lên trong tuyên ngơn dân quyền của nước Nga,
sau đó được ghi vào Hiến pháp Liên Xơ, quy định quyền bình đẳng của công dân Xô
Viết, không phụ thuộc dân tộc, trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa.Theo
V.I.Lênin, việc xây dựng vùng tự trị dân tộc ở một số nơi trong quốc gia cũng là để
bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Hiển nhiên là người ta không thể quan
niệm được một quốc gia hiện đại thật sự dân chủ mà lại khơng có một quyền tự trị cho
mọi vùng có những đặc điểm quan trọng đơi chút về kinh tế hoặc về lối sinh sống và
có một thành phần dân tộc riêng trong dân cư. Thực hiện quyền tự trị ở một số vùng là
để bảo đảm cho những chính sách là phù hợp với dân tộc đó, song khơng phải chỗ nào
cũng có thể thiết lập quyền tự trị dân tộc mà V.I.Lênin đã đưa ra điều kiện để thành
lập quyền tự trị là những vùng phải có những đặc thù riêng biệt về kinh tế, văn hóa
hoặc một vùng rộng lớn chỉ có một thành phần dân tộc,một vùng gồm nhiều địa
phương có những điều kiện địa lý, sinh hoạt hay kinh tế riêng hoặc có thành phần dân
tộc đặc biệt, có quyền thành lập một khu tự trị với một nghị viện tự trị của khu. Như
vậy, không nhất thiết phải thành lập những vùng tự trị ở những nơi khơng có những
điều kiện trên. Thí dụ như ở Việt Nam, các dân tộc cư trú phân tán và xen kẽ, số xã
chỉ có một dân tộc sinh sống là rất ít, khơng có một vùng rộng lớn nào mà chỉ có một

dân tộc sinh sống, do đó khơng có điều kiện để thành lập các vùng tự trị như V.I.Lênin
khẳng định. Việc thực hiện vùng tự trị cũng phải diễn ra một cách hịa bình và theo ý
kiến của nhân dân vùng đó.Chỉ có dân cư địa phương mới có thể có ý kiến một cách
hồn tồn chính xác về tất cả những điều kiện ấy, và chính dựa vào ý kiến đó mà nghị
viện trung ương của Nhà nước sẽ quy định biên giới của những khu tự trị và quyền
hạn của các xây mơ tự trị. Theo V.I.Lênin, quyền tự trị này khơng mâu thuẫn và phá
hoại tính thống nhất quốc gia: “Một nhà nước dân chủ phải thừa nhận quyền tự trị của
các vùng khác nhau, nhất là những vùng và những khu có thành phần dân tộc khác
nhau. Quyền tự trị đó khơng hề mâu thuẫn với chế độ tập trung dân chủ; trái lại, chỉ có
nhờ quyền tự trị của các vùng mới có thể thực hiện được chế độ tập trung dân chủ
thực sự ở một quốc gia lớn có nhiều thành phần dân tộc khác nhau”. Trên cơ sở luật
pháp chung thống nhất, các vùng tự trị có thể xây dựng những biện pháp phù hợp với
đặc thù dân tộc mình để bảo đảm tốt hơn quyền lợi của họ, thực hiện bình đẳng dân
tộc.
V.I.Lênin cịn đưa ra một vấn đề có tính nhân văn trong việc thực hiện quyền bình
đẳng giữa các dân tộc tộc người, đó là việc thực hiện chính sách ưu tiên, ưu ái hơn đối
với một dân tộc nhỏ hơn, kém phát triển. Bình đẳng dân tộc khơng có nghĩa là bình
quân chủ nghĩa, cào bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các dân tộc, nhất là khi các
dân tộc đang có sự chênh lệch lớn trên thực tế. Khi các dân tộc có trình độ phát triển
khơng đều nhau, đòi hỏi chia đều về nghĩa vụ sẽ ngày càng làm gia tăng khoảng cách
giữa các dân tộc. V.I.Lênin chỉ rõ cần có sự ưu tiên đối với các dân tộc kém phát triển
11


hơn trong thực hiện một số nghĩa vụ hoặc trong phân bổ quyền lợi. Nó khơng chỉ là
tơn trọng quyền bình đẳng về hình thức của các dân tộc, mà cịn phải chịu đựng sự
khơng bình đẳng mà các dân tộc đi áp bức, dân tộc lớn phải chịu, để bù lại cho sự
khơng bình đẳng đang hình thành thực tế trong cuộc sống. Người nào khơng hiểu điều
đó, thì người đó khơng hiểu thái độ vơ sản thực sự đối với vấn đề dân tộc, người đó về
thực chất vẫn đứng trên quan điểm tiểu tư sản và do đó khơng thể khơng từng giờ từng

phút trượt xuống quan điểm tư sản. V.I.Lênin chỉ rõ, khi sự bất bình đẳng đang tồn tại
trên thực tế, khi giữa các dân tộc, tộc người có sự phát triển khơng đồng đều thì việc
ưu tiên cho dân tộc kém phát triển hơn (là sự khơng bình đẳng đối với dân tộc phát
triển hơn) cũng chính là thực hiện bình đẳng dân tộc. Đây là một giá trị mà các Đảng
Cộng sản cần nhận thức rõ trong hoạch định chính sách dân tộc trong một quốc gia
dân tộc.

12


Chương II : Tình trạng thực tiễn về vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay.
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin với một số đặc điểm của dân tộc
nước ta hiện nay.
Nước ta có 54 dân tộc anh em.Dân tộc Kinh chiếm 87% dân số, 53 dân tộc còn lại
chiếm 13% dân số, phân bố rải rác trên phạm vi cả nước.Có 10 dân tộc có số dân từ
dưới 1 triệu đến 100 ngàn người, 20 dân tộc có số dân dưới 100 ngàn người; 16 dân
tộc có số dân từ dưới 10 ngàn người đến 1 ngàn người; 6 dân tộc có số dân dưới 1
ngàn người.
Trong thực tế, nhiều chính sách, pháp luật về dân tộc, nhất là đối với đồng bào DTTS
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn đã phát huy hiệu quả cao, thể hiện rõ ở các
thành tựu đạt được trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.
Về kinh tế, vùng đồng bào DTTS có những bước phát triển tiến bộ rõ rệt, đời sống
đồng bào được nâng lên, diện mạo vùng DTTS khởi sắc với hệ thống kết cấu hạ tầng
ngày càng hoàn thiện. Các tuyến giao thông liên huyện, liên xã, đường tuần tra biên
giới được làm mới, mở rộng và nâng cấp. Đến năm 2015, vùng DTTS có 100% xã và
97,8% thơn có điện, có 99,4% xã và 93,3% thơn có đường ơ tơ, gần 100% xã có
trường tiểu học, 92,9% xã có trường trung học cơ sở, có 58,6% xã và 78,1% thơn có
nhà văn hóa, 99,5% xã có trạm y tế, gần 92% số xã có điện lưới quốc gia, 80% xã có
cơng trình thuỷ lợi nhỏ, 65% xã có cơng trình phục vụ nước sinh hoạt. Nền kinh tế đã
chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng

vùng, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống người dân. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
vùng miền núi phía Bắc đạt hơn 10%, miền Trung và Nam bộ 12%, Tây Nguyên là
12,5%. Mặt bằng thu nhập và điều kiện sinh hoạt của đồng bào DTTS khơng ngừng
được nâng cao, nhiều hộ đã vươn lên thốt nghèo và có cuộc sống khá giả.
Về chính trị, quyền bình đẳng giữa các dân tộc theo quy định của Hiến pháp được thể
hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các dân tộc chung sống hòa hợp, đồng
thuận, tôn trọng, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau và đều tích cực tham gia vào q trình
phát triển đất nước. Hệ thống chính trị cơ sở ở các vùng DTTS thường xuyên được
kiện toàn, hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ
người DTTS được quan tâm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới. Theo kết quả khảo sát về công tác đào tạo cán bộ người
DTTS, có 71,3% số người DTTS được hỏi đánh giá tốt và khá tốt; về việc sử dụng cán
bộ người DTTS, có 70,4% đánh giá tốt và khá tốt. Trong đội ngũ cán bộ, tỷ lệ cán bộ
người DTTS được cơ cấu ở các cơ quan Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến địa
phương ngày một tăng.
Về văn hóa, sự nghiệp phát triển văn hóa vùng đồng bào DTTS thu được nhiều kết
quả. Thiết chế văn hóa ngày càng hoàn thiện. Theo báo cáo khảo sát, hiện 100% số xã
có bưu điện, 44% số xã có nhà văn hóa; 62,5% số thơn, bản có nhà sinh hoạt cộng
đồng; 15,9% hộ biết điệu múa truyền thống; 65,1% số hộ được nghe đài; 88,8% số hộ
được xem truyền hình; có 56,8% thơn, bản có hệ thống loa truyền thanh; 84,9% số hộ
13


có tivi; 75,4% hộ dân tộc thiểu số có điện thoại; 7,7% số hộ có máy vi tính; 6,5% số
hộ có kết nối internet. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào DTTS được
bảo tồn và phát huy. Ý thức của đồng bào DTTS trong giữ gìn các giá trị truyền thống
tốt đẹp, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội và thực hiện tiêu chí
xây dựng nơng thơn mới được nâng lên. Đánh giá về công tác bảo tồn, phát huy giá trị
văn hóa truyền thống của đồng bào DTTS, có 76,9% người DTTS được hỏi đánh giá
công tác này đã được làm tốt và khá tốt, 21,3% đánh giá chưa tốt và 1,9% khó đánh

giá.
Về phát triển xã hội, sự nghiệp giáo dục và chăm sóc sức khỏe đồng bào DTTS có
bước phát triển mới. Cơ sở vật chất trường lớp được đầu tư nâng cấp, hệ thống trường
phổ thông dân tộc nội trú được củng cố, phát triển về quy mô và nâng cao chất lượng
hoạt động. Các chính sách về giáo dục, đào tạo, chế độ cho giáo viên và học sinh được
thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng đã tạo điều kiện nâng cao chất lượng dạy
và học, thu hút con em đồng bào DTTS đến trường. Tính đến tháng 7-2015, tỷ lệ
người DTTS từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết đạt 79,8%, tỷ lệ đi học cấp tiểu học
đạt 98,6%, tỷ lệ đi học trung học phổ thông đạt 41,8%, tỷ lệ đi học cao đẳng, đại học
đạt 6,5%. Cơng tác chăm sóc sức khỏe, phịng chống dịch bệnh, vệ sinh an tồn thực
phẩm, vệ sinh môi trường ở vùng đồng bào DTTS ngày càng được cải thiện và có
bước phát triển vượt bậc. Hệ thống trạm y tế xã được quan tâm đầu tư, đội ngũ cán bộ
y tế phát triển cả về số lượng và chất lượng. Chất lượng khám chữa bệnh được nâng
lên. Đã có 48,8% người DTTS có sử dụng thẻ bảo hiểm y tế; tỷ lệ phụ nữ dân tộc
thiểu số từ 15 đến 49 tuổi đến các cơ sở y tế khám thai đạt 70,9%; tỷ lệ phụ nữ có
chồng sử dụng biện pháp tránh thai 76,88% và số phụ nữ dân tộc thiểu số sinh con thứ
3 trở lên giảm xuống cịn 18,8% (mức trung bình cả nước là 14,48%); 63,6% phụ nữ
đến cơ sở y tế sinh con; 3.395/4.126 xã có từ 90% số trẻ em người DTTS được tiêm
chủng. Tuổi thọ trung bình của người dân tộc thiểu số là 73.23 (trong đó Nam 70,64
và Nữ 75,98). Kết quả khảo sát về chất lượng công tác khám chữa bệnh cho đồng bào
DTTS cho thấy, có 47,2% số người DTTS được hỏi đánh giá tốt, 36,3% đánh giá bình
thường, 5,6% đánh giá chưa tốt và 0,9% khó đánh giá. Cơng tác xóa đói, giảm nghèo
vùng DTTS thu được kết quả đáng ghi nhận: tỷ lệ hộ nghèo giảm với tốc đột trung
bình 3-4%/năm, nhất là các huyện thuộc diện thực hiện Chương trình 30a; nhiều dân
tộc thiểu số có tỷ lệ hộ nghèo rất thấp, dưới mức trung bình của cả nước như Hoa 3%,
Chu Ru 4,6%, Ngái 5,5%, Sán Dìu 8,5%, ... Các đồng bào DTTS đánh giá cao chính
sách xóa đói giảm nghèo, khi có tới có 79,6% số người DTTS được hỏi cho rằng cơng
tác xóa đói giảm nghèo được thực hiện ở vùng DTTS rất hiệu quả và khá hiệu quả.
Công tác phòng chống các tệ nạn xã hội cũng thu được những hiệu quả nhất định. Có
42,6% số người DTTS được hỏi đánh giá tốt, 46,35 đánh giá trung bình, 8,3% đánh

giá chưa tốt và 2,8% khó đánh giá.
Về quốc phịng - an ninh, trật tự an toàn xã hội và quốc phòng, an ninh vùng DTTS
cơ bản được bảo đảm, quan hệ giữa các dân tộc được củng cố. Các hoạt động chống
phá của các thế lực thù địch kịp thời được ngăn chặn, việc truyền đạo trái pháp luật
được kiểm sốt, an ninh được duy trì, biên giới được bảo vệ. Có 36,1% người DTTS
được hỏi cho rằng việc đảm bảo an ninh, quốc phòng vùng đồng bào DTTS thời gian

14


qua được thực hiện rất hiệu quả, 59,3% cho rằng khá hiệu quả, chỉ có 3,7% cho rằng
khơng hiệu quả và có 0,9% cho rằng khó đánh giá.
Về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công tác dân tộc, đã tăng cường phối hợp với các
đối tác quốc tế trong việc nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm về công tác dân tộc;
khuyến khích việc giúp đỡ, hỗ trợ đầu tư phát triển vùng DTTS. Hoạt động tuyên
truyền đối ngoại, tổ chức giao lưu, kết nghĩa giữa nhân dân, chính quyền và lực lượng
bảo vệ biên giới của nước ta với các nước láng giềng được chú trọng, góp phần tăng
cường đoàn kết, hữu nghị hai bên biên giới, xây dựng biên giới hịa bình, hữu nghị,
hợp tác cùng phát triển.

Đặc trưng nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta là sự cố kết dân tộc, hòa
hợp dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở thành truyền thống, thành sức
mạnh và đã được thử thách trong cuộc đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, xây
dựng đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử cho đến ngày nay. Do những yếu tố đặc thù
của nền kinh tế trồng lúa nước, một kết cấu nông thôn bền chặt sớm xuất hiện. Trải
qua lịch sử chống giặc ngoại xâm, dân tộc ta đã hình thành rất sớm và trở thành một
quốc gia dân tộc thống nhất ngay dưới chế độ phong kiến. Đoàn kết là xu hướng
khách quan cố kết các dân tộc trên cơ sở có chung lợi ích, có chung vận mệnh lịch sử,
chung một tương lai tiền đồ. Tuy vậy, bên cạnh những mặt tích cực thì có nơi có lúc
cũng xảy ra hiện tượng tiêu cực trong quan hệ dân tộc. Chủ nghĩa đế quốc và các thế

lực thù địch lại luôn luôn dùng mọi thủ đoạn để chia rẽ dân tộc và can thiệp vào nội bộ
của nước ta. Do đó, phát huy truyền thống đồn kết, xóa bỏ thành kiến, nghi kị dân tộc
và kiên quyết đập tan âm mưu chia rẽ dân tộc của kẻ thù là nhiệm vụ trọng yếu của
nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ngày càng tăng, tuy trong từng khu vực nhất
định có những dân tộc sống tương đối tập trung, nhưng không thành địa bàn riêng
biệt. Do đó, các dân tộc nước ta khơng có lãnh thổ riêng, khơng có nền kinh tế riêng
và sự thống nhất hữu cơ giữa các dân tộc và quốc gia trên mọi mặt của đời sống xã hội
ngày càng được củng cố.
Tình hình chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế,văn hóa...giữa các dân tộc, giữa
các vùng dân cư là một đặc trưng cần được quan tâm nhằm khắc phục dần sự chênh
lệch để thực hiện bình đẳng, đồn kết dân tộc ở nước ta.nhiều dân tộc có trình độ rất
thấp, chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên. Đời sống vật chất của bà con dân tộc thiểu
số cịn thiếu thốn, tình trạng nghèo đói kéo dài, thuốc chữa bệnh khan hiếm, nạn mù
chữ và tái mù chữ còn xuất hiện ở nhiều nơi.Đường giao thơng và phương tiện đi lại
cịn khó khăn, điện và nước phục vụ cho đời sống còn rất khan hiếm, thơng tin, bưu
điện cịn chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân ở nhiều nơi nhất là ở những vùng
xa xôi, hẻo lánh...Do điều kiện tự nhiên, xã hội,hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột
trong lịch sử nên các dân tộc mới có sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn
hóa....

15


Cùng với nền văn hóa cộng đồng, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt
Nam đều có đời sống văn hóa mang bản sắc riêng rất phong phú. Bởi vì bất cứ dân tộc
nào dù nhiều người hay ít người, đều có nền văn hóa riêng, phản ánh truyền thống lịch
sử, đời sống tinh thần, niềm tự hào dân tộc bằng những bản sắc văn hóa độc đáo.Đặc
trưng của sắc thái văn hóa dân tộc bao gồm ngơn ngữ, tiếng nói, văn hóa, nghệ thuật,
tình cảm dân tộc, y phục, phong tục tập quán, quan hệ gia đình dịng họ...., dân tộc

có chữ viết riêng: Thái, Chăm, Mông, Giarai,... Một số dân tộc thiểu số gắn với
một vài tôn giáo truyền thống như: đạo Phật, đạo Tin Lành, đạo Thiên Chúa ...Vì vậy
Đảng và Nhà nước ta ln ln tơn trọng bản sắc văn hóa riêng và tơn trọng tự do tín
ngưỡng của mỗi dân tộc. Sự phát triển đa dạng mang bản sắc văn hóa của từng dân tộc
càng làm phong phú thêm nền văn hóa của cộng đồng.Các dân tộc thiểu số tuy chỉ
chiếm 13% dân số cả nước nhưng lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan
trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế, đó là các vùng
biên giới, các vùng núi cao, hải đảo...nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số trước đây
là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Một số dân tộc có quan hệ dịng tộc với các dân
tộc ở các nước láng giềng và khu vực.
Tình hình chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế,văn hóa...giữa các dân tộc, giữa
các vùng dân cư là một đặc trưng cần được quan tâm nhằm khắc phục dần sự chênh
lệch để thực hiện bình đẳng, đồn kết dân tộc ở nước ta.nhiều dân tộc có trình độ rất
thấp, chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên. Đời sống vật chất của bà con dân tộc thiểu
số còn thiếu thốn, tình trạng nghèo đói kéo dài, thuốc chữa bệnh khan hiếm, nạn mù
chữ và tái mù chữ còn xuất hiện ở nhiều nơi.Đường giao thơng và phương tiện đi lại
cịn khó khăn, điện và nước phục vụ cho đời sống cịn rất khan hiếm, thơng tin, bưu
điện cịn chua đáp ứng được nhu cầu của người dân ở nhiều nơi nhất là ở những vùng
xa xôi, hẻo lánh...Do điều kiện tự nhiên, xã hội,hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột
trong lịch sử nên các dân tộc mới có sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn
hóa....
Cùng với nền văn hóa cộng đồng, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt
Nam đều có đời sống văn hóa mang bản sắc riêng rất phong phú. Bởi vì bất cứ dân tộc
nào dù nhiều người hay ít người, đều có nền văn hóa riêng, phản ánh truyền thống lịch
sử, đời sống tinh thần, niềm tự hào dân tộc bằng những bản sắc văn hóa độc đáo.Đặc
trưng của sắc thái văn hóa dân tộc bao gồm ngơn ngữ, tiếng nói, văn hóa, nghệ thuật,
tình cảm dân tộc, y phục, phong tục tập quán, quan hệ gia đình dịng họ.... dân tộc có
chữ viết riêng :Thái , Chăm, Mông, Giarai,...Một số dân tộc thiểu số gắn với một vài
tôn giáo truyền thống như: đạo Phật, Bàlamôn, đạo Tin Lành, đạo Thiên Chúa ...Vì
vậy Đảng và Nhà nước ta ln ln tơn trọng bản sắc văn hóa riêng và tơn trọng tự do

tín ngưỡng của mỗi dân tộc. Sự phát triển đa dạng mang bản sắc văn hóa của từng dân
tộc càng làm phong phú thêm nền văn hóa của cộng đồng.Các dân tộc thiểu số tuy chỉ
chiếm 13% dân số cả nước nhưng lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan
trọng về chính trị, kinh tế, quốc phịng, an ninh và giao lưu quốc tế, đó là các vùng
biên giới, các vùng núi cao, hải đảo...nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số trước đây
16


là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Một số dân tộc có quan hệ dịng tộc với các dân
tộc ở các nước láng giềng và khu vực.
2. Tình trạng thực tiễn về vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay.
- Việt Nam là một dân tộc độc lập vì thế khơng có một quốc gia, dân tộc nào trên thế
giời có quyền can thiệp vào cơng việc nội bộ cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của
dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam. Đồng bào các dân tộc Việt Nam được bình
đẳng về quyền làm chủ đất nước; bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, được thực hiện
quyền tham chính của mình thơng qua thực hiện dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp
qua bầu cử và ứng cử.
- Quán triệt tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về bình đẳng dân tộc, Đảng ta đặc
biệt quan tâm việc thực hiện bình đẳng dân tộc ở Việt Nam. Địa bàn cư trú của đồng
bào dân tộc thiểu số chủ yếu là ở miền núi, gặp nhiều khó khăn trong sản xuất và sinh
hoạt, nên có sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc ở nước ta. Vì vậy,
trước hết, Đảng ta khẳng định vấn đề then chốt và quan trọng nhất trong thực hiện
bình đẳng dân tộc ở Việt Nam chính là thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các dân
tộc hiện nay.
- Trên cơ sở kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng ta đã chủ trương: “Để thực hiện trên thực tế quyền bình đẳng giữa các dân tộc,
một mặt, pháp luật phải bảo đảm quyền bình đẳng đó, mặt khác, phải có chính sách và
tạo điều kiện để nhân dân các dân tộc miền núi vươn lên mạnh mẽ, phát triển kinh tế,
văn hóa, từng bước nâng cao năng suất lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, coi trọng đào tạo cán bộ người dân tộc, tôn trọng và phát huy

những phong tục tập quán và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc”. Đảng ta
khẳng định xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, ghi nhận đầy đủ quyền của
đồng bào dân tộc thiểu số là giải pháp quan trọng để thúc đẩy bình đẳng dân tộc. Bên
cạnh đó, việc quan tâm, ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng dân tộc thiểu
số cũng là giải pháp để thực hiện bình đẳng dân tộc. Nó bảo đảm cho miền núi dần
dần tiến kịp miền xuôi, cho các dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc Kinh, thực hiện đầy
đủ sự bình đẳng và tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc.
- Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về bình đẳng dân tộc, trong những năm
qua, Đảng và Nhà nước có nhiều chương trình, dự án để phát triển kinh tế - xã hội
vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số như chương trình 134, 135, 30a... Kết
cấu hạ tầng miền núi đã có bước phát triển, đời sống của đồng bào ngày càng được
bảo đảm tốt hơn. Việc quan tâm quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm cán bộ người dân tộc
thiểu số được các cấp ủy chú ý; số lượng, chất lượng cán bộ người dân tộc thiểu số
tham gia vào hệ thống chính trị các cấp ngày càng tăng. Việc thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở vùng miền núi được thực hiện thực chất hơn. Qua đó, quyền bình đẳng về
chính trị giữa các dân tộc được bảo đảm. Chúng ta cũng tạo điều kiện và hỗ trợ vật
chất, nguồn lực để giúp đồng bào bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của
mình. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển giữa
các dân tộc. Đời sống vật chất của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số vẫn thấp
hơn mặt bằng chung, người nghèo đa số là người dân tộc thiểu số, cứ hai người nghèo
17


có một người dân tộc thiểu số. Trình độ dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số cũng
thấp hơn nhiều so với đồng bào Kinh.
Vì vậy, để thực hiện tốt bình đẳng dân tộc, chúng ta cần vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác- Lênin và bổ sung một số quan điểm phù hợp với thực tiễn nước ta:
1.Thứ nhất, cần bảo đảm nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc. Chúng ta
cần hết sức tránh tư tưởng “dân tộc lớn” trong xây dựng, hoạch định các chính sách
liên quan đến vấn đề dân tộc. Bởi lẽ, áp đặt tư tưởng, quan điểm của người dân tộc đa

số cho dân tộc thiểu số dù với mong muốn tốt đẹp cũng là bất bình đẳng dân tộc.
2.Thứ hai, tăng cường sự giúp đỡ của dân tộc phát triển hơn cho những dân tộc kém
phát triển hơn. Ở Việt Nam, để bảo đảm quyền lợi của người dân tộc thiểu số cần có
sự giúp đỡ, hỗ trợ của dân tộc Kinh và các dân tộc khác phát triển hơn. Điều này đã
được Hồ Chí Minh bổ sung, phát triển và thực tiễn đang khẳng định tính đúng đắn.
3.Thứ ba, phát huy vai trị của chính đồng bào dân tộc thiểu số, sự tự thân nỗ lực, cố
gắng phấn đấu; khắc phục tâm lý tự ty, ỷ lại trông chờ trong thực hiện bình đẳng dân
tộc. Thực tiễn thời gian qua đã chứng minh đây là nội dung rất quan trọng để đồng
bào thiểu số tiến kịp đồng bào đa số, thực hiện bình đẳng dân tộc, tất cả các dân tộc
đều no ấm, hạnh phúc. Đảng và Nhà nước cần có những chính sách tránh cho khơng
mà có điều kiện để động viên họ, đồng thời cần giáo dục, vận động, tuyên truyền để
nâng cao ý thức vươn lên của đồng bào.
4.Thứ tư, cần làm rõ hơn vai trò của Nhà nước, chính quyền và cán bộ địa phương
trong thực hiện bình đẳng dân tộc. Nhà nước cần ban hành những chính sách, cơ chế
phát triển mạnh mẽ vùng đồng bào dân tộc thiểu số, từ đó khắc phục khoảng cách
chênh lệch, thực hiện bình đẳng dân tộc. Chính quyền và cán bộ địa phương khi triển
khai các chính sách cần gắn bó với nhân dân để đưa ra những kế hoạch, biện pháp,
đầu tư các nguồn lực có hiệu quả, có tính khả thi nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng
dân tộc thiểu số.
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng dân tộc trong việc thực
hiện chính sách dân tộc ở nước ta
Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, ngun tắc bình đẳng
giữa các dân tộc ở Việt Nam được Đảng ta thừa nhận và vận dụng hết sức sâu sắc
trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Thực vậy, ngay từ Luận cương chính trị năm 1930, Đảng ta đã xác định mục tiêu đấu
tranh của cách mạng Việt Nam là tự do, độc lập cho tất cả các dân tộc trong nước.
Trong Hiến pháp năm 1946, năm 1959, 1980, 1992, 2013 đều khẳng định quyền bình
đẳng trong nước là của tồn thể dân tộc Việt Nam, không phân biệt già trẻ, gái, trai,
giàu nghèo, dân tộc, tơn giáo… Trong đó, quyền bình đẳng giữa các dân tộc là quyền
ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm

tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc:
18


Bình đẳng trên lĩnh vực chính trị: Quyền bình đẳng về chính trị của các dân tộc
khơng chỉ được thừa nhận trong Hiến pháp và pháp luật, mà quan trọng hơn là phải
được thừa nhận trong thực tế, đó là quyền làm chủ đất nước. Các dân tộc đều có quyền
tham gia chính quyền, quản lý xã hội.
Bình đẳng trên lĩnh vực kinh tế: Là sự đảm bảo bình đẳng trong quan hệ lợi ích kinh
tế của các dân tộc, từng bước rút ngắn khoảng cách và tạo ra sự phát triển đồng đều về
kinh tế giữa các dân tộc, các vùng, miền. Thực hiện quyền bình đẳng về kinh tế giữa
các dân tộc phụ thuộc vào sự nỗ lực vươn lên của từng dân tộc, đồng thời cần có sự
giúp đỡ của các dân tộc khác, nhất là dân tộc đã đạt được sự phát triển kinh tế ở trình
độ cao hơn.
Bình đẳng trên lĩnh vực văn hóa: Thể hiện ở sự tôn trọng những giá trị, bản sắc văn
hóa, phong tục, tập quán của các dân tộc, tạo điều kiện để văn hóa các dân tộc phát
triển hài hòa trong sự phát triển chung của quốc gia đa dân tộc. Bình đẳng trên lĩnh
vực văn hóa hiện nay còn thể hiện ở việc đảm bảo cho các dân tộc có quyền sử dụng
tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình, có quyền hưởng thụ khơng chỉ những giá trị văn
hóa của dân tộc mình mà cịn được hưởng thụ giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam
trong sự kết hợp hài hịa những bản sắc văn hóa của tất cả các dân tộc ở nước ta, đồng
thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Khơng ngừng nâng cao dân trí cho
đồng bào dân tộc thiểu số.
Bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực xã hội: Thể hiện qua thái độ ứng xử bình đẳng trong
quan hệ các vấn đề xã hội giữa các dân tộc, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu
số, nhằm phát triển lành mạnh các quan hệ xã hội, tộc người, đảm bảo an sinh xã hội
cho tất cả các dân tộc trong quốc gia đa dân tộc. Kết hợp hài hòa giữa các thiết chế xã
hội truyền thống của các dân tộc thiểu số với các thiết chế xã hội hiện đại của quốc gia
để quản lý, tổ chức đời sống xã hội ở các vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, vừa đảm
bảo lợi ích của dân tộc, vừa đảm bảo lợi ích của quốc gia. Bình đẳng xã hội giữa các

dân tộc còn thể hiện trong việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội: xóa đói giảm
nghèo, bảo hiểm xã hội, bài trừ tệ nạn xã hội…
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
bình đẳng dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện thường xuyên, nhất quán vấn đề
bình đẳng giữa các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam và đã đạt được sự tiến
bộ trên một số lĩnh vực nhất định. Tuy nhiên, trong sự phát triển của đất nước, bên
cạnh sự giúp đỡ của các dân tộc khác, mỗi dân tộc cần tiếp tục nỗ lực, phấn đấu vươn
lên. Với ý nghĩa đó, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện quyền bình
đẳng giữa các dân tộc, phát huy tinh thần đại đoàn kết giữa các dân tộc trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là bài học vô giá, trở thành truyền thống quý báu,
cần tiếp tục phát huy trong sự nghiệp phát triển của dân tộc Việt Nam.

19


PHẦN KẾT LUẬN

Gắn với chiều dài phát triển của dòng lịch sử tự nhiên của con người là sự
hình thành và phát triển trên nhiều lĩnh vực ,vấn đề khác nhau ,trong đó có cả
các vấn đề xã hội khác nhau .Và đây là một vấn đề tranh luận khá phổ biến đối
với các nhà khoa học và bộ môn xoay quanh nó,đặc biệt là Chủ nghĩa xã hội
khoa học Mac-Lenin .Trong môn học này hướng tới giải quyết nhiều vấn đề lớn
của chủ nghĩa xã hội ,và vấn đề dân tộc không phải là ngoại lệ .Trước khi thuật
ngữ dân tộc xuất hiện thì các cụm từ như thị tộc ,bộ lạc ,bộ tộc cũng dùng để chỉ
những cộng đồng người chung sống với nhau trên cùng một cùng lãnh thổ .Sự
biến đổi của thể chế chính trị và các phương thức sản xuất là nguyên nhân được
khai sinh của thuật ngữ này .Cho đến khi bước vào thời kì phong kiến ,nó mới
bắt đầu xuất hiện được sử dụng ở nhiều đất nước .Phân tích vấn đề này ,chúng ta
cần phải hiểu được khái niệm của hai thuật ngữ dân tộc và quyền bình đẳng dân
tộc rồi mới đi sâu vào giải quyết các vấn đề khác liên quán đến nó .Dân tộc căn

bản chỉ là một cộng đồng người chung sống với nhau trên cùng một lãnh thổ ,có
chung tiếng nói, màu da, kinh tế, nhà nước...Cịn quyền bình đẳng dân tộc là
quyền hạn ngang nhau của các cộng đồng dân tộc trong cùng một đất nước trên
mọi lĩnh vực từ lớn đến nhỏ như kinh tế, chính trị, văn hố ,xã hội.....Các dân tộc
phải ln được đối xử bình đẳng trên mọi khía cạnh ,vấn đề của đất nước và điều
ấy được thể hiện rõ trong quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lenin về quyền bình
đẳng dân tộc. Lênin cũng đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách về quyền bình
đẳng giữa các dân tộc: thiết lập khu tự trị dân tộc, lập nên các chính sách ưu tiên
cho các cộng đồng dân tộc thiểu số, hoàn thiện hệ thống pháp luật chung và riêng
của đất nước .Và điều này cũng đã được Đảng và nhà nước Việt Nam áp dụng
nhằm rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Trên
thực tế, nước ta cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu khác nhau trên các lĩnh vực
và có thể thành cơng trong việc loại bỏ dần dần sự bất bình đẳng đối với cộng

20



×