Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Tiểu luận: Ngân hàng trung ương các mô hình tổ chức vị trí pháp lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.13 KB, 25 trang )


1







Tiểu luận

NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
CÁC MÔ HÌNH TỔ CHỨC & VỊ TRÍ PHÁP LÝ

2



MỤC LỤC
 
BẢN CAM KẾT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài 4
2. M ục đích & nhiệm vụ 4
3. Phương pháp nghiên cứu 4
4. Ý nghĩa của đề tài 5
PHẦN NỘI DUNG
1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH & PHÁT TRIỂN NHTW CÁC NƯỚC TRÊN THẾ
GIỚ I:
1.1
Khái niệm 5


1.2 Lịch sử hình thành 5
1.3 Chức năng của NHTW 8
a.Phát hành giấy bạc và điều hòa lưu thông tiền tệ 8
b.Là ngân hàng của các ngân hàng 8
c. Là cơ quan xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia 8
d.Là ngân hàng của chính phủ 8
1.4. Các mô hình NHTW & vị trí pháp lý
1.4.1

Mô hình N gân hàng trung ương là một cơ quan trực thuộc chính phủ 9
1.4.2 M ô

hình

NH TW

độc

lập

với

chính

phủ 10

1.4.2

Tính độc lập của Ngân hàng Trung ư ơng 11


3


1.5 Vai trò của NHTW các nước trong bối cảnh hiện nay 15


2. ĐỊNH HƯỚNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠ NG VIỆT
NAM
2.1 Những nhược điểm trong mô hình tổ chức hiện nay 17
2.1.1Mô hình tổ chức hiện nay của N gân hàng Nhà nước Việt Nam 17
2.1.2 Một số nhược điểm của Mô hình tổ chức hiện nay của NHNN Việt Nam 17
2.2 Định hướng mô hình tổ chức của NHTW VN theo đề xuất của nhóm 17
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO












4




PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Như chúng ta đều biết, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 2008 mà khởi nguồn từ
Hoa Kỳ, một quốc gia có hệ thống tài chính hàng đầu trên thế giới, đã lan rộng hầu như
khắp các nước thế giới, gây ra những hậu quả nặng nề mà đến nay chính phủ các nước
vẫn còn phải làm đủ mọi cách để hạn c hế tối đa những tác động từ nó. Tuy nhiên, ở một
khía cạnh khác, chính cuộc khủng hoảng này cũng đã làm nổi bật lên vai trò của Ngân
Hàng Trung Ương (NHTW) trong việc “chẩn đoán” và “kê toa” căn bệnh “khủng hoảng
tài chính” nhằm giúp nền kinh tế của quốc gia đứng vững trước những “đợt dịch bệnh”
tấn công dồn dập như những đợt sóng thần của biển cả. Chính NHTW với những công cụ
chính sách tiền tệ của mình đã trở thành “nhân vật chính” trong việc giải cứu nền kinh tế
thế giới qua khỏi cuộc đại suy thoái mang tính chất toàn cầu. Việc NHTW có triển khai
và phát huy được tối đa sức mạnh các công cụ chính sách tiền tệ của mình hay không phụ
thuộc rất nhiều vào mô hình và vị trí pháp lý của nó. Tại Việt Nam, hiện nay quốc hội
đang thảo luận đóng góp cho “Luật Ngân Hàng Nhà Nước sửa đổi”, nên việc nghiên cứu
mô hình & vị trí pháp lý của NHTW các nước trên thế giới để từ đó định hướng được mô
hình NHTW cho Việt Nam là một việc làm rất cần thiết và hữu ích. Chính vì vậy mà
nhóm chúng tôi đã quyết định chọn nghiên cứu đề tài :
NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
CÁC MÔ HÌNH TỔ CHỨC & VỊ TRÍ PHÁP LÝ
2. Mục đích & nhiệm vụ:
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích xem xét các mô hình & vị trí pháp lý của
NHTW các nước trên thế giới, mô hình hiện nay của NHTW Việt Nam, những ưu nhược
điểm của chúng, để từ đó định hướng được mô hình tổ chức của NHTW Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu:

5


Sử dụng các tài liệu chuyên ngành về ngân hàng, kết hợp với các thông tin trên

internet, các thông tư, nghị định của Chính Phủ và ngành ngân hàng cũng như diễn biến
thực tế của nền kinh tế & thị trường để phân tích, so sánh, đối chiếu giữa lý thuyết với
thực tế, từ đó giải quyết mục tiêu cần nghiên cứu.
4. Ý nghĩa của đề tài:
Đề tài nghiên cứu này trước mắt và chủ yếu để phục vụ cho công tác học tập của
Nhóm, sau đó là cơ sở để Nhóm có thể có những nghiên cứu chuyên sâu hơn về NHTW.
PHẦN NỘI DUNG
1. LỊC H SỬ HÌNH THÀNH & PHÁT TRIỂN NHTW C ÁC NƯỚ C TRÊN THẾ GIỚI:
1.1 Khái niệm:
Ngân

hàng

trung

ương



một

định

chế

công

cộng,




thể

độc

lập

hoặc

trực

thuộc

chính phủ;

thực

hiện

chức

năng

độc

quyền

phát

hành


tiền,



ngân

hàng

của

các

ngân

hàng, ngân

hàng

của

chính

phủ



chịu

trách


nhiệm

trong

việc

quản



nhà

nước

về

các

hoạt động

tiền

tệ,

tín

dụng,

ngân


hàng.
1.2 Lịch sử hình thành:
NHTW



nguồn

gốc

từ

các

ngân

hàng

phát

hành.

Cho

đến

đầu

thế


kỷ

20,

các

ngân

hàng phát

hành

vẫn

thuộc

sở

hữu



nhân.

Từ

sau

Chiến


tranh

thế

giới

thứ

hai,

do

ảnh

hưởng của

những

bài

học

kinh

nghiệm

từ

cuộc


Đại

suy

thoái

năm

1929

-

1933

cũng

như

sự

phát triển

của

các

học

thuyết


kinh

tế

của

Keynes

(vào

cuối

những

năm

1930)



Milton Friedman

(năm

1960)

về

sự


cần

thiết

của

vai

trò

quản







của

nhà

nước

đối

với

nền kinh


tế



ảnh

hưởng

của

khối

lượng

tiền

cung

ứng

đối

với

các

biến

số


kinh

tế



mô,

các nước

đã

nhận

thức

được

tầm

quan

trọng

phải

thành

lập


một

NH TW

đóng

vai

trò

quản

lý lưu

thông

tiền

tệ,

tín

dụng



hoạt

động


của

hệ

thống

ngân

hàng

trong

một

quốc

gia.

Các

NHTW

được

thành

lập

hoặc


bằng

cách

quốc

hữu

hoá

các

ngân

hàng

phát

hành

hiện có

hoặc

thành

lập

mới


thuộc

quyền

sở

hữu

nhà

nước.

Các

nước



bản

phát

triển



hệ thống

ngân


hàng

phát

triển

lâu

đời

như

Pháp,

Anh

thì

thành

lập

NHTW

bằng

cách

quốc hữu


hoá

ngân

hàng

phát

hành

thông

qua

mua

lại

cổ

phần


6


của

các


ngân

hàng

này

rồi

bổ nhiệm

người

điều

hành.

Một

số

nước



bản

khác

thì


Nhà

nước

chỉ

nắm

cổ

phần

khống chế

hoặc

vẫn

để

thuộc

sở

hữu



nhân


nhưng

Nhà

nước

bổ

nhiệm

người

điều

hành.



dụ: Ngân

hàng

trung

ương



Nhật


bản

(tên

chính

thức



Ngân

hàng

Nhật

bản)



55%

cổ phần

thuộc

quyền

sở


hữu

của

Nhà

nước,

45%

còn

lại

thuộc

sở

hữu



nhân

nhưng

bộ máy

quản




ngân

hàng



Hội

đồng

chính

sách



7

thành

viên

lại

do

Chính


phủ

bổ nhiệm.



Mỹ,

Ngân

hàng

trung

ương

được gọi



Cục

dự

trữ

liên

bang


(Fed),

là ngân

hàng

cổ

phần



nhân

nhưng



quan

lãnh

đạo

cao

nhất

của


Ngân

hàng

này



Hội đồng

Thống

đốc



7

thành

viên

do

Tổng

thống

bổ


nhiệm. Còn

lại

hầu

hết

các

nước

khác

thì

thành

lập

NHTW

mới

thuộc

sở

hữu


nhà

nước
CÁC NHTW ĐẦU TIÊN TRÊN THẾ GIỚI.

Ngân hàng
Thụy Điển
Ngân hàng
Anh
Cục Dự trữ
Liên bang
Mỹ
Ngân hàng
Trung Quốc

Năm ra đời 1668 1694 1913 1979










7












1.3 Chức năng của NHTW:
a.Phát hành giấy bạc và điều hòa lưu thông tiền tệ
NHTW được độc quyền phát hành tiền nhằm đảm bảo thống nhất và an toàn cho hệ
thống lưu thông tiền tệ của quốc gia. Đồng tiền do NHTW phát hành là đồng tiền lưu
thông hợp pháp duy nhất. Việc phát hành tiền của NHTW tác động trực tiếp tới tình hình
lưu thông tiền tệ do đó lượng tiền và thời điểm phát hành phải đảm bảo phù hợp với nhu
cầu của nền kinh tế cả về số lượng lẫn cơ cấu. Đồng thời NHTW cần kiểm soát toàn bộ
khối lượng tiền cung ứng, tổ chức công tác điều hòa lưu thông tiền tệ nhằm vừa đảm bảo
đủ phương tiện lưu thông, vừa đảm bảo kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền.
b.Là ngân hàng của các ngân hàng
Chức năng này được biết đến thông qua vai trò người cho vay cuối cùng. Ngoài ra,
NHTW còn có chức năng tổ chức hệ thống thanh toán quốc gia, là nơi mở tài khoản và
thực hiện trung gian thanh toán cho các ngân hàng trung gian. NHTW cũng là cơ quan có
chức năng tổ chức giám sát, quản lý hoạt động của các ngân hàng trung gian

8


c. Là cơ quan xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia
NHTW sử dụng các công cụ để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia thông qua việc
tác động đến mức cung tiền trong nền kinh tế. Các công cụ được sử dụng cho việc thực

thi chức năng này bao gồm:
+ Nghiệp vụ thị trường mở
+ Dự trữ bắt buộc
+ Lãi suất chiết khấu
d.Là ngân hàng của chính phủ
Là ngân hàng của chính phù, NHTW thực hiện các dịch vụ tiền tệ, tín dụng
cho nhà nước qua các nghiệp vụ chủ yếu sau:
 NHTW nhận tiền gửi của kho bạc nhà nước,
 Tổ chức thanh toán giữa kho bạc với ngân hàng trung gian,

Quản lý dự trữ quốc gia và cho chính phủ vay để cân bằng thu – chi ngân sách
trong những trường hợp cần thiết.

1.4. Các mô hình NHTW & vị trí pháp lý:
Trong lịch sử phát triển ngành ngân hàng trên thế giới ghi nhận có 3 mô hình Ngân
hàng Trung Ương (NHTW) đã hình thành và phát triển. Đó là: (1) NHTW độc lập với
Chính phủ, (2) NHTW là một cơ quan thuộc Chính phủ và (3) NHTW thuộc Bộ Tài
chính. Hiện nay, mô hình NHTW trực thuộc bộ tài chính đã không còn được các nước
trên thế giới áp dụng. Do đó, Nhóm chỉ nêu và phân tích hai mô hình: NHTW độc lập với
Chính phủ và NHTW là một cơ quan thuộc Chính phủ.
1.4.1 .

Mô hình N gân hàng trung ương là m ột cơ quan trực thuộc chính phủ:
M ô

hình

NHTW
là một cơ quan
trực


thuộc
C
hính

phủ:





hình

trong

đó

NHTW

là một cơ quan ngang Bộ thuộc chính

phủ



chịu

sự

chi


phối

trực

tiếp

của

chính

phủ

về
mô hình tổ chức,
nhân

sự,

về

tài

chính



đặc

biệt về


các

quyết

định

liên

quan

đến

việc

xây

dựng



thực

hiện

chính

sách

tiền


tệ.


9


Các

nước áp

dụng



hình

này

phần

lớn



các

nước

Đông


Á

(H àn

quốc,

Đài

loan,

Singapore, Indonesia,

Việt

nam

)

hoặc

các

nước

thuộc

khối

XHCN


trước

đây.
Sơ đồ m ô hình Ngân hàng Trung Ương Trực thuộc Chính phủ







Ưu điểm của mô hình này là Chính

phủ



thể

dễ

dàng

phối

hợp

chính


sách

tiền

tệ

của

NHTW

đồng bộ

với

các

chính

sách

kinh

tế





khác


nhằm

đảm

bảo

mức

độ



liều

lượng

tác

động hiệu

quả

của

tổng

thể

các


chính

sách

đối

với

các

mục

tiêu





trong

thời

kỳ.

M ô

hình này

được


xem



phù

hợp

với

yêu

cầu

cần

tập

trung

quyền

lực

để

khai

thác


tiềm

năng

xây dựng

kinh

tế

trong

thời

kỳ

tiền

phát

triển.

Điểm

hạn

chế

chủ


yếu

của



hình
này


NHTW

sẽ

mất

đi

sự

chủ

động

trong

việc

thực


hiện chính

sách

tiền

tệ.
Ngoài ra, việc tạm chi cho ngân sách trung ương bù đắp
thâm hụt ngân sách sẽ làm gia tăng lạm phát.
Tuy

nhiên,

sự

lớn mạnh

nhanh

chóng

của

các

nước

thuộc

nhóm


NIEs

như

Singapore,

Hàn

quốc,

Đài

loan nơi

NHTW



một

bộ

phận

trong

guồng

máy


chính

phủ



một

bằng

chứng



sức

thuyết phục

về

sự

phù

hợp

của




hình

tổ

chức

này

đối

với

truyền

thống

văn

hoá

Á

đông.

1.4.2.


hình


N HTW

độc

lập

với

chính

phủ:





hình

trong

đó

NHTW

không

chịu

sự


chỉ

đạo của

chính

phủ





quốc

hội.

Quan

hệ

giữa

NH TW



chính

phủ




quan

hệ

hợp

tác.

Các

NH TW

theo



hình

này



Hệ thống dự

trữ

liên


bang

Mỹ,

NHTW

Thụy

sĩ,

Chính

phủ

Ngân

hàng

trung

ương

Hội

đồng

chính

sách


tiền

tệ

gồm: Thống

đốc

NHTW



các

thành

viên

khác


10


Anh, Pháp,

Đức,

Nhật


bản



NHTW

châu

Âu

(ECB).

Xu

hướng

tổ

chức

ngân hàng

trung

ương

theo




hình

này

đang

càng

ngày

càng

tăng

lên



các

nước

phát

triển.

QUỐC HỘI

NH TW CHÍNH PH Ủ



Theo



hình

này,

NH TW



toàn

quyền

quyết

định

việc

xây

dựng



thực


hiện

chính sách

tiền

tệ



không

bị

ảnh

hưởng

bởi

các

áp

lực

chi

tiêu


của

ngân

sách

hoặc

các

áp lực

chính

trị

khác.

Tuy

nhiên,

không

phải

tất

cả


các

NH TW

được

tổ

chức

theo



hình

này

đều

đảm

bảo được

sự

độc

lập


hoàn

toàn

khỏi

áp

lực

của

chính

phủ

khi

điều

hành

chính

sách

tiền

tệ. M ức


độ

độc

lập

của

mỗi

NH TW

phụ

thuộc

vào

sự

chi

phối

của

người

đứng


đầu

nhà

nước vào



chế

lập

pháp



nhân

sự

của

NH TW.

Điểm

bất

lợi


chủ

yếu

của



hình

này



khó



sự

kết

hợp

hài

hoà

giữa


chính

sách

tiền tệ

-

do

NHTW

thực

hiện



chính

sách

tài

khoá

-

do


chính

phủ

chi

phối

để

quản





mô một

cách

hiệu

quả.
1.4.3 .

Tính độc lập của Ngân hàng Trung ương:
Các chỉ tiêu đánh giá mức độ độc lập của NHTW:
Thứ nhất, là tính độc lập về mặt chính trị của NHTW. Độc lập về mặt chính trị được
giải thích là mức độ phụ thuộc về mặt thể chế, tổ chức mô hình hoạt động và cơ cấu nhân

sự chỉ định của Ngân hàng Trung ương vào Chính Phủ. Điều này có nghĩa là khả năng
mà các thành viên cao cấp của Ngân hàng Trung ương được bổ nhiệm hay miễn nhiệm
bởi người đứng đầu Chính phủ và độ lệch của nhiệm kỳ người đứng đầu chính phủ với
nhiệm kỳ của Thống đốc NHTW. Đặc biệt mức độ ảnh hưởng hay khả năng chi phối của

11


Chính phủ đến Ban điều hành của NHTW. Sự ảnh hưởng này càng lớn thì mức độ độc
lập của NHTW càng ít.
Thứ hai, là tính độc lập về mặt kinh tế, được định nghĩa là khả năng NHTW có thể sử
dụng các công cụ của chính sách tiền tệ một cách độc lập, không bị giới hạn hay ràng
buộc nào về mặt thực thi chính sách.
Thứ ba, là độc lập về mục tiêu hoạt động của NHTW. Các mục tiêu hoạt động cụ thể
của NHTW thường được thể hiện bằng việc quy định trong luật hoạt động của NHTW
mỗi nước. Độc lập về mục tiêu hoạt động thể hiện bằng việc cho quyền NHTW thiết lập
mục tiêu, xây dựng mục tiêu hay chỉ thực hiện mục tiêu sau khi được Chính phủ hay
Quốc hội thông qua.
Thứ tư, là độc lập trong cơ chế truyền tải và công bố thông tin. Mức độ minh bạch
càng cao trong việc công bố thông tin thể hiện một sự độc lập nhất định về đường lối
chính sách tiền tệ mà NHTW đang theo đuổi qua đó thể hiện mức độ độc lập nhất định
với các chính sách tài khóa của Chính phủ.
Về phân cấp độ độc lập, IMF chia ra làm bốn cấp độ:
Mức độ độc lập thứ nhất: “Độc lập trong việc thiết lập mục tiêu”. Đây là mức độ độc
lập cao nhất. Ở mức độ này, Ngân hàng trung ương có thể quyết định chính sách tiền tệ
và chế độ tỷ giá nếu như nó không được thả nổi. Chẳng hạn, Hệ thống dự trữ liên bang
Mỹ- Fed được lựa chọn mục tiêu hoạt động, quyết định các chính sách tiền tệ quốc gia.
Mức độ độc lập thứ hai là: “Độc lập trong việc xây dựng chỉ tiêu hoạt động”. Ngân
hàng trung ương được trao trách nhiệm quyết định chính sách tiền tệ và chế độ tỷ giá
nhưng khác với kiểu độc lập về mục tiêu, độc lập trong việc xây dựng chỉ tiêu hoạt động

có một mục tiêu chủ yếu đã được xác định rõ ràng trong Luật. Ví dụ, trong Điều lệ tổ
chức và hoạt động của ECB quy định mục tiêu là ổn định giá cả, và ECB được quyết định
chỉ tiêu hoạt động.
Mức độ độc lập thứ 3 là: “Độc lập trong việc lựa chọn công cụ điều hành”. Quốc hội
hoặc Chính phủ quyết định chỉ tiêu chính sách tiền tệ. Ngân hàng trung ương có trách
nhiệm tư vấn đệ trình lên chính phủ hay Quốc hội quyết định các mục tiêu chính sách tiền

12


tệ và tỷ giá. Ngân hàng Trung ương được tự do lựa chọn các công cụ chính sách tiền tệ để
thực hiện các mục tiêu được giao.
Mức độ độc lập thứ 4 là “Mức độ độc lập bị hạn chế thậm chí không có”: Chính phủ
sẽ quyết định chính sách cả về mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động và có quyền can thiệp
không hạn chế vào quá trình triển khai thực thi chính sách.
Vị trí pháp lý và mức độ độc lập của Ngân hàng Trung Ương Việt Nam:
Tại Việt Nam, khái niệm về NHTW lần đầu tiên được đề cập trong Pháp lệnh NHNN
năm 1990 với tên gọi là NHNN(NHNN). Đến năm 1997, Việt Nam có Luật NHNN. Năm
2003 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật NHNN và năm 2009 Dự thảo Luật NHNN
sửa đổi được NHNN soạn thảo chuẩn bị trình Chính phủ và Quốc hội xem xét. Qua quá
trình đó, có một số đặc điểm nổi bật như sau:
Về địa vị pháp lý: Trong Dự thảo Luật NHNN sửa đổi được NHNN soạn thảo chuẩn bị
trình Chính phủ xem xét vẫn giữ nguyên địa vị pháp lý của NHNN là cơ quan ngang Bộ
của Chính phủ. Điều này cho thấy chính bản thân NHNN vẫn chưa sẵn sàng cho một địa
vị mới có tính độc lập hơn đối với Chính phủ. Tuy nhiên cũng nhấn mạnh rằng với cấu
trúc thể chính trị hiện nay, các mối quan hệ có tính mật thiết giữa NHNN với các cơ quan
khác của Chính phủ thì mục tiêu độc lập hoàn toàn với các quyết sách Chính phủ là một
điều không khả thi.
Khi địa vị pháp lý không được độc lập thì khả năng độc lập về mục tiêu và quá trình
thực thi chính sách cũng ít nhiều bị giới hạn. Phương án đặt ra là từng bước nâng cao dần

tính độc lập cho NHNN là cần thiết và hợp lý trong điều kiện hiện tại.
Bước đi đầu tiên có tính thử nghiệm cho một NHTW độc lập là cho phép NHNN được
độc lập trong việc lựa chọn mục tiêu chính sách ưu tiên trong nhóm các mục tiêu được
chọn lựa phù hợp với điều kiện nền kinh tế vĩ mô mà không nhất thiết phải phù hợp với
các chính sách khác của Chính phủ.
Về mục tiêu: Dự thảo Luật NHNN sửa đổi đã cụ thể hơn các văn bản luật trước đó về
các mục tiêu hoạt động của ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, cần thiết phải xác định cụ
thể hơn nữa các mục tiêu chính của NHNN. Các NHTW trên thế giới thường tập trung

13


vào các mục tiêu chính như: kiểm soát lạm phát, duy trì công ăn việc làm, tăng trưởng
kinh tế, ổn định hệ thống tiền tệ và thị trường tài chính. Đồng thời NHNN cần được trao
quyền lựa chọn mục tiêu cho từng thời kỳ phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô. Trong
điều kiện lạm phát cao thì mục tiêu chính mà NHNN cần lựa chọn là kiểm soát lạm phát.
Nếu lạm phát được kiểm soát tốt thì sẽ duy trì sức sản xuất của nền kinh tế, qua đó không
những giải quyết được vấn đề việc làm mà còn góp phần làm cho kinh tế tăng trưởng.
Tuy nhiên, không phải lúc nào mục tiêu kiểm soát lạm phát và tăng trưởng kinh tế cũng
có thể đồng thời đạt được mà đôi khi phải đánh đổi giữa lạm phát cao và duy trùy ổn định
tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Về quyết định thực thi chính sách: Dự thảo đã bỏ qua Hội đồng Tư vấn Chính sách
Tiền tệ Quốc gia. Vai trò Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm và quyền hạn ở mức cao
hơn, “chủ động điều hành các công cụ chính sách tiền tệ và các giải pháp khác để thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia” (Khoản 6 Điều 6). Thống đốc có quyền thành lập “ các
Ban, Hội đồng tư vấn về các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng
Nhà nước” (Điều 9). Như vậy, về mặt thực thi chính sách Ngân hàng Nhà nước đã có
quyền chủ động hơn so với trước đây.
Nhưng để quy định mới


trong Dự thảo được thực thi tốt, thì cần phải trao thêm quyền
cho Thống đốc trong bổ nhiệm và quy định mức lương để thu hút các chuyên gia giỏi cho
các Ban tư vấn đặc biệt. Thống đốc phải có quyền lực nhất định trong việc quyết định
những vấn đề liên quan đến chính sách tiền tệ và những chính sách khác liên quan đến
hoạt động tài chính, ngân hàng dựa trên ý kiến của các chuyên gia chứ không phải thông
qua Chính phủ.
Về quan hệ với ngân sách: Dự thảo không có thay đổi so với Luật NHNN hiện hành.
Tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện tốt chính sách tiền tệ và các mục tiêu của nó cần thiết
phải thêm quyền cho NHNN có thể từ chối tạm chi cho ngân sách trung ương để xử lý
thiếu hụt tạm thời trong những trường hợp cần thiết nhằm đảm bảo mục tiêu thâm hụt
ngân sách được Quốc hội phê duyệt hàng năm và chủ động trong việc điều hành cung,
cầu tiền trên thị trường.

14


Về bộ máy tổ chức và công tác nhân sự: Dự thảo luật sữa đổi vẫn chưa có các đột
phá về bộ máy tổ chức và nhân sự của NHNH: “Thủ tướng Chính phủ quy định cơ chế
tuyển dụng, chế độ đãi ngộ, sử dụng cán bộ, công chức của Ngân hàng Nhà nước phù
hợp với hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng trung ương” (khoản 2 Điều 11). Tuy nhiên,
có một điểm mới là Thống
đốc có quyền thành lập
các Ban, Hội đồng tư vấn chuyên
môn khi cần thiết để hổ trợ điều hành chính sách. NHNN là một cơ quan có tính đặc thù
cao, điều hành toàn bộ nền tài chính tiền tệ quốc gia nên đòi hỏi phải thu hút được đội
ngũ lớn những chuyên gia đầu ngành về tài chính, ngân hàng. Do đó, cần trao thêm
quyền cho NHNN trong việc quy định cơ chế tiền lương phù hợp để có thể giữ và thu
hút nhân tài.
1.5 Vai trò của NHTW các nước trong bối cảnh hiện nay


Trong giai đoạn khủng hoảng 2007 -2008 vừa qua các NHTW đã thể hiện vai trò cứu
cánh cuối cùng trong kế hoạch giải cứu các Ngân hàng thương mại. Khi khủng hoảng xảy
ra trên phạm vi t oán cầu, NHTM rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, NHTW
không thể không thực hiện biện pháp cấp vốn cho các NHTM thông qua việc tái chiết
khấu, tái cầm cố các giấy tờ có giá. Như tháng 1/2009, Chính phủ Đức thực hiện kế
hoạch 500 tỷ USD cứu ngành ngân hàng, Commerzbank là ngân hàng đầu tiên nhận 13,7
tỷ USD từ chương trình hỗ trợ này.Cùng tháng, Nhật dành 13,3 tỷ USD hỗ trợ thị trường
tín dụng.Chính phủ Pháp cung cấp thêm 13,6 tỷ USD để hỗ trợ những ngân hàng cho vay
lớn nhất nước. Ngày 24/06, ECB bơm 442 tỷ euro cứu ngành ngân hàng. Gói kích thích
kinh tế của Mỹ đi vào lịch sử với tổng quy mô lên đến 787 tỷ USD, khi đã chiết khấu hết
các giấy tờ có giá chất lượng tốt, thì Fed còn mở rộng các giấy tờ có giá chất lượng thấp
hơn và mua các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại.Việt Nam cũng tung ra gói kích
thích kinh tế có tổng giá trị gần 10% GDP tương đương với 135,6 nghìn t ỷ đồng, trong
đó hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng chiếm khoảng 17 nghìn tỷ đồng. Để các ngân hàng có
thể vay vớI các mức chi phí thấp thì NHTW các nước còn tiếp tục giảm lãi suất cho vay :
Tại Mỹ, lãi suất ngân hàng trung ương cấp vốn cho ngân hàng thương mại đã được hạ
xuống còn 0% đến 0,25%. Tại Nhật, lãi suất ngân hàng trung ương chiết khấu và tái cấp
vốn cho ngân hàng thương mại được hạ xuống còn 0,3%. Tháng 2/2009, Việt Nam điều
chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn từ 9,5%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu giảm

15


từ 7,5/năm xuống 5%/năm. Bằng các biện pháp trên NHTW đã tác động nhanh chóng
đến khối lượng tiền và số nhân tiền tệ trong nền kinh tế, hỗ trợ thanh khoản, tạo điều kiện
cho các tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng hiệu quả.
Với kế hoạch giải cứu hệ thống ngân hàng tại hầu hết các quốc gia thì nền kinh tế một
số nước đã thoát khỏi tình trạng tăng trưởng âm kéo dài từ cuối năm 2008 đến mấy tháng
đầu năm 2009. Tiêu biểu như một vài nước sau:Nhật công bố trong khoảng thời gian 3
tháng kết thúc ngày 30/06/2009, GDP Nhật tăng trưởng với tốc độ 3,7% (tính theo trung

bình năm). Mức suy giảm của quý trước đó là 11,7%.Kinh tế Mỹ thoát suy thoái vào quý
3/2009, tốc độ tăng trưởng với quý 2/2009 đạt 2,2%. Việt Nam sau quá trình thực hiện
các chương trình hỗ trợ lãi suất, đến ngày 24/12/2009 tổng dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất
của hệ thống các ngân hàng là 412.179,83 tỷ đồng.
Năm 2009, nhằm ngăn ngừa bước tiến của cuộc khủng hoảng tài chính ngày
8/10/2009, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB),
Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) và một số ngân hàng trung ương lớn khác trên thế
giới bất ngờ đồng loạt cắt giảm lãi suất cơ bản. Cùng tham gia vào đợt phối hợp hành
động chưa từng có này với FED, ECB và BoE còn có Ngân hàng Trung ương Canada,
Ngân hàng Trung ương Thụy Điển và Ngân hàng Trung ương Thụy Sỹ. Trong đó, 5 ngân
hàng trung ương trừ Ngân hàng Trung ương Thụy Sỹ cùng hạ lãi suất cơ bản 0,5%.
Trước đó, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cắt giảm lãi suất cho vay kỳ hạn 1 năm
0,27%. Với lần cắt giảm này, lãi suất cơ bản đồng USD được đưa về mức 1,5%, lãi suất
cơ bản Euro giảm còn 3,75%, lãi suất Đô la Canada còn 2,5%, lãi suất cơ bản đồng Bảng
Anh còn 4,5%, lãi suất đồng Krona của Thụy Điển giảm còn 4,25%. Lãi suất cho vay kỳ
hạn 1 năm đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc giảm còn 6,93%. Còn ở Việt Nam, từ tháng
5 - 9/2008, NHNN điều hành chính sách tiền tệ "thắt chặt", các mức lãi suất chủ đạo được
điều chỉnh tăng, lãi suất cơ bản từ 12%/năm lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ
13%/năm lên 15%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 11%/năm lên 13%/năm, lãi suất nghiệp
vụ thị trường mở từ 11,7%/năm lên 15%/năm. Từ tháng 10/2008 đến nay, NHNN chuyển
hướng điều hành chính sách tiền tệ từ "thắt chặt" để chống lạm phát sang "nới lỏng"
nhằm mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế, điều chỉnh giảm mạnh lãi suất cơ
bản từ 14% - 13% - 11% - 8,5% - 7%/năm tăng trở lại 8% từ ngày 01/12/2009 đến nay,,

16


lãi suất tái cấp vốn từ 15% - 13% - 12% - 9,5% - 8% - 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ
13% - 11% - 12% - 10% - 7,5% - 6%/năm, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở từ 15% -
14,3% - 13,5% - 11% - 9% - 8% - 7,5% - 7%/năm.

Với việc cắt giảm lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở của
NHTW trong thời gian qua, đã ngay lập tức làm giảm lãi suất cho vay, tỷ giá, sức mua
của các đồng tiền, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các NHTM . N HTW
thực hiện các công cụ đó nhằm kiểm soát hoạt động cho vay và hoạt động kinh doanh của
các NHTM .
2. ĐỊNH HƯỚNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VIỆT
NAM
2.1 Những nhược điểm trong mô hình tổ chức hiện nay
2.1.1Mô hình tổ chức hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Hiện ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước là một thành viên Chính phủ và hoạt
động như một bộ, như một cơ quan quản lý nhà nước khác trong bộ máy Chính
phủ, cơ cấu tổ chức như sau:


17


-
2.1.2 Một số nhược điểm của Mô hình tổ chức hiện nay của NHNN Việt Nam
- Mô hình tổ chức được quy định theo Luật NHTW Việt Namhiện tại chưa quy định
cụ thể về trách nhiệm cũng như thẩm quyền của NHTW Việt Namtrong điều hành
các công cụ để thực thi chính sách tiền tệ.
- Cuộc khủng hoảng tài chính tại các nước phát triển vừa qua cũng cho thấy mô
hình tổ chức của NHTW Việt Namđã thể hiện những bất cập trong việc giám sát
hoạt động của hệ thống ngân hàng, công tác dự báo kém, biểu hiện lúng túng và
không chủ động trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Điều này dẫn đến các chính
sách của NHTW Việt Namtrong thời gian qua khi ban hành thường bị “giật cục”,
gặp nhiều phản ứng và gây sốc đối với nền kinh tế.
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chưa làm tốt về việc công khai chủ trương, chính
sách và những thông tin cần thiết về tiền tệ, ngân hàng cho công chúng thường

xuyên, kịp thời tạo lòng tin của công chúng vào chính sách của Nhà nước trong

18


bối cảnh thông tin có rất nhiều chiều và từ rất nhiều nguồn của nền kinh tế thị
trường. Phát ngôn của Ngân hàng Nhà nước đối với công chúng còn thiếu chuyên
nghiệp, chậm trễ, thiếu minh bạch và đôi khi “nói không đi đôi với làm”.
Những nhược điểm như trên chỉ là một phần nhỏ so với thực tế, tất cả xuất phát
từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ đạo vẫn là NHTW Việt Nam
chưa được trao đầy đủ quyền hạn và trách nhiệm tương ứng với vai trò và sứ mệnh
là Ngân hàng Trung ương của một quốc gia theo thông lệ.
2.2 Định hướng mô hình tổ chức của NHTW VN theo đề xuất của nhóm
+ Việc xây dựng mô hình tổ chức của Ngân hàng TW Việt Nam phải căn cứ vào
trình độ phát triển, thể chế chính trị của Việt nam. Không thể áp dụng một cách máy
móc các mô hình của một nước khác vào Việt Nam và việc cải cách cũng phải có lộ
trình để thích ứng với những thay đổi.
+ Việc xây dựng mô hình tổ chức của NHTW Việt Namkhông phải hiểu đơn giản là
tách ra khỏi Chính phủ hay không mà là phải nâng cao tính độc lập của NHTW Việt
Nam trong thực thi chính sách tiền tệ, phải trao cho NHTW Việt Nam quyền làm một
NHTW thực sự, chí ít cũng được chủ động lựa chọn các công cụ để thực thi chính sách
tiền tệ để thực thi tốt các chức năng và nhiệm vụ của mình:
+ Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy một mô hình NHTW độc lập giúp kiểm soát
lạm phát tốt hơn, giảm thâm hụt ngân sách nhưng không đồng nghĩa với việc nó sẽ tạo
ra tăng trưởng kinh tế cao. Duy trì lạm phát thấp là một mục tiêu quan trọng vì nó
không những tạo điều kiện cho việc phân bổ có hiệu quả hơn các nguồn lực của nền
kinh tế mà còn giúp duy trì tính ổn định của hệ thống tài chính và nền kinh tế, đảm bảo
an sinh xã hội:
Bảng 1: Mức độ độc lập NHTW với hiện trạng kinh tế tại các nước phát
triển


19



Nguồn: duthaoonline.quochoi.vn
- Mối quan hệ giữa chỉ số độc lập của NHTW với mức lạm phát bình quân
(Nghiên cứu của Alesina và Summers, 1993)
Trong số những nước đã phát triển có mô hình NHTW độc lập, nhiều bằng chứng
cho thấy mối quan hệ nghịch biến giữa sự độc lập của NHTW với lạm phát. Nghiên
cứu của Alesina và Summers (1993) dựa trên các quan sát giai đoạn từ 1955 đến
1988 cho thấy có mối quan hệ nghịch biến khá rõ giữa tính độc lập của NHTW với
lạm phát bình quân và với sự biến thiên của chỉ số lạm phát.
Điều đó cho thấy cách thức độc lập của NHTW cũng có ảnh hưởng theo những
mức độ khác nhau đến lạm phát. Mức độ độc lập của NHTW càng cao thì mức lạm
phát bình quân càng giảm, như vậy mức độ độc lập của NHTW phản ánh trình độ
điều hành các chính sách vĩ mô của nền kinh tế, những nước có NHTW độc lập thì
việc quản lý giá cả sẽ được thực thi tốt hơn và ngược lại.
Hình 1. Mối quan hệ giữa chỉ số độc lập của NHTW với mức lạm phát
bình quân

20



Nguồn: Alesina và Sum mers, 1993
- Mối quan hệ giữa chỉ số độc lập của NHTW với thâm hụt ngân sách
(Nghiên cứu của Pollard, 1993):
Kết quả nghiên cứu của Pallard cho thấy: Ở các NHTW các nước có
mức độc lập cao có mức độ thâm hụt ngân sách thấp và ngược lại.

Điều này chứng tỏ mức độ độc lập của NHTW phản ánh trình độ quản
lý ngân sách của một quốc gia, nhóm những nước có NHTW hoạt
động có m ức độ độc lập cao thì việc quản lý chi tiêu sẽ được kiểm soát
chặt chẽ hơn và ngược lại.
Hình 3. Mối quan hệ giữa chỉ số độc lập của NHTW với thâm hụt
ngân sách

21



Nguồn: Pollard, 1993
- Mối quan hệ giữa chỉ số độc lập của NHTW với tăng trưởng
Nghiên cứu của Alesina và Summers cho thấy mức độ độc lập của NHTW
và tăng trưởng GNP thực bình quân không có quan hệ nhiều. Vì vậy, nếu theo
đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế đơn thuần thì việc lựa chọn mô hình NHTW
sẽ không phải là yếu tố quyết định.
Chẳng hạn, Thuỵ Sĩ là nước có NHTW độc lập nhất nhưng lại có mức độ
tăng trưởng thực thấp hơn mức bình quân của các nước trong mẫu. Trong khi
đó, Tây Ban Nha là nước có NHTW độc lập không cao nhưng lại có tốc độ
tăng trưởng kinh tế tốt nhất. NHTW New Zealand cũng có mức độ độc lập
không cao nhưng lại có tốc độc tăng trưởng kinh tế thấp.
Hình 5. Mối quan hệ giữa chỉ số độc lập của NHTW với tăng trưởng GNP
thực bình quân

22



Nguồn: Alesina và Sum mers, 1993

- Mối quan hệ giữa chỉ số độc lập của NHTW với thất nghiệp
Nghiên cứu của Alesina và Summers cho thấy không tìm thấy mối quan
hệ có ý nghĩa thống kê nào giữa chỉ số độc lập của NHTW với tình trạng
thất nghiệp của nền kinh tế.
Hình . Mối quan hệ giữa chỉ số độc lập của NHTW với thất nghiệp bình quân

Nguồn: Alesina và Sum mers, 1993

23


- Mối quan hệ giữa chỉ số độc lập của NHTW với lãi suất
Nghiên cứu của Alesina và Summers cho thấy không tìm thấy mối quan hệ có ý
nghĩa thống kê nào giữa chỉ số độc lập của NHTW với tình lãi suất của nền kinh
tế.
Hình 10. Mối quan hệ giữa chỉ số độc lập của NHTW với lãi suất
thực bình quân

Nguồn: Alesina và Sum mers, 1993







24


PHẦN KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu và phân tích các mô hình và vị trí pháp lý của NHTW các nước trên
thế giới nói chung cũng như tại Việt nam nói riêng, nhóm chúng tôi nhận thấy:
 Không có mô hình NHTW nào là lý tưởng cho mọi quốc gia. Sự lựa chọn này không
hoàn toàn nằm trong ý muốn chủ quan mà còn phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, điều kiện
kinh tế - xã hội và thể chế chính trị của từng nước.
 Trong thời điểm hiện nay cũng như trong nhiều năm tới, mô hình NHNN là một cơ
quan thuộc Chính phủ như hiện nay vẫn phù hợp nhất với thể chế chính trị, đặc thù kinh
tế - xã hội và hệ thống luật pháp của nước ta.
 Việc nâng cao tính độc lập của NHNN là hết sức cần thiết nhưng không có nghĩa là
phải tách NHNN ra khỏi bộ máy Chính phủ. Vấn đề là cần phải trao thêm quyền cho
Thống đốc, người đứng đầu NHNN trong việc chủ động điều hành các công cụ chính
sách tiền tệ.
 Cần trao cho NHNN quyền chủ động quyết định về tài chính, tức là tự chủ về ngân
sách. Có như vậy thì NHNN mới có đủ nguồn lực để thực thi chức năng, nhiệm vụ một
cách có hiệu quả nhất
Việc nghiên cứu đề tài của nhóm mặc dù đã rất cố gắng nhưng không tránh khỏi
những khiếm khuyết, vì vậy, nhóm chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
của các Thầy Cô và các bạn để giúp chúng tôi hoàn thiện hơn đề tài này. Nhóm chúng tôi
cũng cảm ơn Thầy Hoàng Công Gia Khánh đã giảng dạy và gợi mở cho chúng tôi nhiều ý
kiến quý báu nhằm hoàn tất đề tài này.







25



TÀI LIỆU THAM KHẢO


 Tác giả Nguyễn Quang A - Tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước- Báo Lao
Động Cuối tuần số 31 Ngày 02/08/2009
 TS. Hoàng Công Gia Khánh – Tóm tắt bài giảng TTNH - 2008
 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
năm 2003
 Luật Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam năm 1997
 PGS.TS Lê Văn Tề, Tiền tệ và ngân hàng, NXB Lao Động – Xã Hôi - 2008
 Tác giả Nguyễn Quang Thép– Tạp Chí Ngân Hàng Số 19 - 2006
 TS Lê Thị Thu Thủy– Góp ý Dự thảo Luật NHNN Việt Nam sửa đổi - 2009
 ThS. Phan Anh Tuấn – Đề cương bài giảng môn Lý thuyết TCTT – 2008
 Trang web Bách Khoa Toàn Thư Mở
 Trang web NHNN Việt Nam
 Trang web scribd />uong
 Trang web Tuần Việt Nam
 M ột số nguồn tư liệu khác như báo chí, tài liệu thư viện , vv…

×