Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Văn hóa chăm trên mảnh đất quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.21 KB, 24 trang )

§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
MỤC LỤC
A. Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài 3
II.Mục đích nghiên cứu 3
III.Đối tượng nghiên cứu 3
IV.Phương pháp nghiên cứu 3
V.Kết quả nghiên cứu 3
B. Nội dung
Chương I
Sự hình thành và phát triển của văn hoá Chăm 4
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Vương quốc Chăm 4
2. Khái quát vùng đất Quảng Nam và giá trị văn hoá Chăm trên vùng đất Quảng
Nam 5
3. Sự phân bố của cơ sở di tích Chăm trên Quảng Nam 6
Chương II
Khái quát về những đặc điểm cơ bản của văn hoá Chăm 7
1. Là nền văn hoá mang đậm nét văn hoá Ấn Độ 7
2. Tính chất Siva giáo là đặc trưng chủ đạo trong đời sống tôn giáo của dân tộc
Chăm 7
3. Âm nhạc và múa có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người Chăm
…8
4. Nghệ thuật kiến trúc đặc sắc là kiến trúc đền tháp 9
5. Cũng như tín ngưỡng dân tộc Việt, người Chăm cúng tổ tiên, thờ Mẹ xứ sở 9
6. Sắc thái biển thể hiện rõ nét trong văn hoá Chăm 10

Chương III
Thực trạng khai thác các di tích Chăm ở Quảng Nam 11
1.Thánh địa Mỹ Sơn 11
2. Nhóm tháp Chiên Đàn 11
3. Tháp Bằng An 15


4. Nhóm tháp Khương Mỹ 16
Chương IV
Những giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả di sản văn hoá Chăm phục vụ du
lịch Quảng Nam ……………………………………………………………… 17
C. Kết luận
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 1
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
A . PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Như chúng ta đã biết, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, hoạt động kinh
doanh du lịch ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Điều này
đã được khẳng định thông qua lợi ích tổng hợp mà ngành du lịch mang lại Một
số nước đã coi du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, đem lại nguồn thu nhập lớn bằng
ngoại tệ cho đất nước. Bên cạnh đó du lịch còn đem lại lợi ích tổng thể về kinh tế
lẫn xã hội, tạo công ăn việc làm cho người lao động và tăng cường giao lưu văn
hoá, hoà bình hữu nghị và hợp tác giữa các vùng, các quốc gia với nhau.
Nhận thức được tầm quan trọng của du lịch, Chính phủ đã tạo điều kiện tối
đa để du lịch phát triển như: thay đổi các chính sách, giảm các thủ tục rườm rà để
“Việt Nam trở thành điểm đến của thiên niên kỷ”. Và cùng hoà vào dòng chảy của
trào lưu du lịch thế giới, Việt Nam là điểm du lịch nằm trong tầm ngắm của khách
du lịch quốc tế, là điểm hấp dẫn cho du khách thích tìm hiểu, khám phá những vùng
đất hoang sơ, những công trình kiến trúc cổ xưa, kỳ bí
Với điều kiện sẵn có của mình, Quảng Nam sẽ tận dụng được các tài nguyên
du lịch đó để phát triển du lịch. Minh chứng là chỉ riêng với vùng đất gần
11.000km
2
của mình, Quảng Nam đã sở hữu được 2 di sản văn hoá thế giới, trong
đó Mỹ Sơn - một kiệt tác không chỉ của người Chăm mà còn của cả Việt Nam và
của cả thế giới Và không chỉ riêng Mỹ Sơn, trong vùng đất Quảng Nam là nơi có
độ đậm đặc về di sản văn hoá Chăm nhiều nhất nước ta - là một nền văn hoá mang

nhiều bí ẩn trong cả sinh hoạt đời thường và trong cả nghệ thuật kiến trúc. Điều này
đã hấp dẫn không ít du khách quốc tế đến với Việt Nam.
Cũng không ngoài sự đam mê, sự cuốn hút của văn hoá Chăm và sự khao
khát phát huy được tiềm năng đó, tôi đã chọn đề tài:“ Khai thác giá trị văn hoá các
tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam” để góp phần công sức nhỏ bé của mình
vào sự phát triển của du lịch tỉnh nhà.
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 2
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
II. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa rất quan trọng. Thông qua quá trình
thực tập cùng với sự hiểu biết của mình trên thực tế, đề tài này được nghiên cứu
góp phần làm rõ thực trạng du lịch tỉnh nhà. Đồng thời đề tài góp phần phân tích
hiện trạng và giải pháp để phát triển thêm ngành du lịch ở Quảng Nam.
Quá trình nghiên cứu thực tế giúp hệ thống lại những vấn đề mình đã học.
Nâng cao kiến thức giữa lý luận và thực tiễn, rồi từ thực tiễn bổ sung cho lý luận
những vấn đề cụ thể phong phú, làm cho lý luận ngày càng sát với thực tế và phù
hợp với quy luật của sự phát triển.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu tổng thể các tháp Chăm trên địa bàn Quảng Nam.
- Tình hình phát triển du lịch cũng như tốc độ tăng trưởng, mức doanh thu cụ
thể của từng tháp.
- Nghiên cứu các tháp Chăm trên cả giá trị văn hoá lẫn kiến trúc nghệ thuật
để có thể khai thác phục vụ du lịch Quảng Nam.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp duy vật biện chứng.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp thu thập, phân tích số liệu.
- Phương pháp phỏng vấn chuyên gia.
- Phương pháp so sánh và một số phương pháp khác
- Việc nghiên cứu thông qua khảo sát thực tế, cũng như các tài liệu, sách báo

và thông tin trên mạng
V. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
- Đã đi thực tế tại các địa điểm cần nghiên cứu như: Thánh địa Mỹ Sơn,
Tháp Chiên Đàn, Tháp Bằng An, nhóm tháp Khương Mỹ…
- Thấy được hiên trạng phát triển du lịch tại các điểm này thông qua thực tế,
số liệu cụ thể về sự phát triển du lịch qua từng năm.
- Tìm hiểu và đề ra những giải pháp cụ thể nhằm khai thác có hiệu quả giá trị
văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam.
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 3
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
B . NỘI DUNG
CHƯƠNG I
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HOÁ CHĂM
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Vương quốc Chăm
Theo sử liệu Trung Hoa, vào cuối thế kỷ thứ II (sau Công nguyên - năm
192), vì không chịu được sự cai trị hà khắc của nhà Hán, nhân dân huyện Tượng
Lâm đã nổi dậy giết huyện lệnh, giành lấy chủ quyền và thành lập một quốc gia độc
lập. Người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa là Khu Liên mà địa bàn hoạt động là vùng
Quảng nam ngày nay và được gọi là nước Lâm Ấp rồi Hoàn Vương và cuối cùng là
Chiêm Thành. Lãnh thổ của Vương Quốc Chămpa trải dài từ đèo Ngang thuộc tỉnh
Hà Tĩnh đến tỉnh Bình Thuận ngày nay, bao gồm đồng bằng ven biển, cao nguyên
và miền núi.
Do ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ từ rất sớm bằng con đường hải
thương nên Vương Quốc Chămpa đã sử dụng một thể chế hành chính giống miền
Nam Ấn Độ nghĩa là trong một Vương Quốc có có nhiều tiểu Vương Quốc gọi là
Manđala. Theo đó, Vương Quốc Chămpa có 5 tiểu Vương Quốc Manđala dựa theo
địa thế thiên nhiên, đó là: Indrapura (Quảng Bình đến Thừa Thiên Huế) nằm giữa
đèo Ngang và đèo Hải Vân ngày nay, Amaravati nằm giữa đèo hải Vân và đèo Bình
Đê, Vijaya nằm giữa đèo Bình Đê và đèo Cù Mông, đèo Cả, Kauthara phía Nam
đèo Cả đến núi Đồng Bò gần Cam Ranh, Panduranga từ núi Đồng Bò đến lưu vực

sông Đồng Nai.
Mỗi tiểu Vương quốc đều có kinh đô riêng với các tổ chức kinh tế, quân sự
độc lập được cai trị bởi các Tiểu vương.
Người Chăm được hình thành bởi nhiều sắc tộc khác nhau thuộc nhóm
Malayo - Plynoisan và Môn khmer.
Kinh thành Simhapura của Vương quốc Chămpa được xây dựng cuối thế kỷ
IV dưới triều Vua Bhadravarman. Trong các cuộc chiến tranh xảy ra giữa Vương
Chămpa và các nước phía Bắc, kinh thành Simhapura nhiều lần bị tàn phá, nhưng
nơi đây vẫn là trung tâm chính trị quan trọng của Vương quốc Chămpa trong nhiều
thế kỷ. Đến đầu thế kỷ XI, khi vùng đất phía Bắc bị đe doạ, người Chăm phải dời
kinh đô vào vùng Vijaya, trung tâm là thành Đồ Bàn (Bình Định). Năm 1468 -1469,
Vua Chăm hai lần tiến đánh cướp phá Hoá Châu, Vua Lê Thánh Tông phải thân
chinh cầm quân đánh dẹp, năm 1471, quân Việt vây thành Đồ Bàn, bắt được Vua
Chăm là Bàn - La - Trà - Toàn. Sau này, một viên tướng Chămpa tên là Bố - Trì -
Trì, tập hợp tàn quân ở vùng Panduranga, tự xưng là Vua và xin lệ thuộc Đại Việt.
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 4
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
Từ đó có thể xem như vai trò chính trị của Vương quốc Chămpa đã chấm dứt,
người Chăm trở thành một bộ phận cư dân trong số 54 dân tộc Việt Nam.
2.Khái quát vùng đất Quảng Nam và giá trị văn hoá Chăm trên vùng đất
Quảng Nam
Nằm trên dải đất Miền Trung, Quảng Nam trải qua bao thăng trầm lịch sử, từ
“đất mẹ” trong nền văn hoá tiền sơ sử đến văn hoá Sa Huỳnh, văn hoá Chăm Pa,
nối tiếp cuộc hành trình mở đường về phương Nam của văn hoá và văn hoá cận
- hiện đại, có lúc sống động, có lúc tĩnh lặng đã hoà quyện, đan xen và kế thừa đã
tạo nên một diện mạo văn hoá Quảng Nam trường tồn và phát triển trong dòng lịch
sử dân tộc.
Có thể nói đây là vùng đất “giàu chất núi, mỡ màng chất đồng bằng và đậm
chất biển”. Thiên nhiên đa dạng, phong phú bao nhiêu thì con người cũng phức tạp
bấy nhiêu, nơi đây có sự hội tụ dân cư. Những cư dân có mặt trên đất Quảng Nam

ngày này và trước đây là những cư dân có mặt từ rất sớm trong lịch sử phát triển
của vùng đất. Ngoài người Chăm còn có các dân tộc Cơ Tu, Xơ Đăng, người
Kinh, Hoa và một số dân tộc ở phía Bắc di cư tự do vào: Nghệ An, Thanh Hoá
Vì vậy nơi đây được gọi là vùng đất tụ nhân, tụ văn, tụ thuỷ
Đặc biệt trên mảnh đất Quảng Nam xưa, người Chăm đã từng sinh sống.
Trong toàn bộ tiến trình lịch sử, mảnh đất và con người Quảng Nam từng chứng
kiến sự hiện diện của một nền Văn hoá Chămpa rực rỡ và huy hoàng, mà dấu ấn để
lại cho đến ngày nay là các tháp Chăm. Những giá trị văn hoá đặc sắc này được
người Chăm “bằng tài hoa, trí tuệ thấm đẫm mồ hôi, người Chăm đã thổi hồn vào
đất đá, thông qua sự sùng bái với thế giới thần linh, họ đã gửi gắm cả tâm tư, tình
cảm, khát vọng của dân tộc mình để tạo nên bằng công trình kiến trúc, những tác
phẩm điêu khắc độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc” mà cho đến ngày nay vẫn còn
tồn tại và gây sự tò mò, khám phá cho hàng ngàn du khách đến đây.
Sức cuốn hút mạnh nhất từ các điểm du lịch văn hoá Chăm là sự thần bí, sự
điêu luyện trong từng nét chạm trổ điêu khắc, nó quyến rũ lòng người bởi tự thân
toát lên những điều mà con người mơ hồ, đang muốn tìm tòi, chinh phục.
3. Sự phân bố của cơ sở di tích Chăm trên Quảng Nam
Di tích Chăm được hình thành trải dài theo mảnh đất miền Trung. Tuy nhiên
nhiều nhất vẫn là Quảng Nam, đặc biệt là vùng đất Trà Kiệu, đây không chỉ là cố
đô của Vương quốc Chămpa một thời quá vãng, vùng đất này còn có bề dày lịch sử
trên 2000 năm với sự hiện diện của Thánh địa Mỹ Sơn. Đây là vị trí được xem xét
trong mối quan hệ với Ngũ Hành Sơn. Mỹ Sơn - Trà Kiệu nằm tựa lưng vào vùng
núi thấp huyện Quế Sơn, nơi bắt đầu sự chuyển tiếp giữa các mạch nguồn tự nhiên
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 5
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
và giữa vùng đồi núi phía tây và vùng đồng bằng ở phía đông, hướng về trung tâm
của đồng bằng rộng lớn nhất Quảng Nam và Miền Trung. Theo giáo sư Trần Quốc
Vượng: “Các quần thể kiến trúc Chămpa thường được phân bố trên một trục theo
chiều Đông - Tây”. Quảng Nam là vùng đất có sự tập trung di tích Chăm nhiều nhất
trên dải đất Miền Trung. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển du

lịch ở Quảng Nam. Riêng Mỹ Sơn, vị trí này không chỉ có ý nghĩa về mặt tâm linh,
tôn giáo và quyền lực mà ngày nay trên con đường Di sản Miền Trung, Mỹ Sơn tạo
nên sự cộng hưởng và trở thành một tâm điểm, một sức hút mãnh liệt đối với du
khách thập phương. Sự phân bố các tháp Chăm ở Quảng Nam có rất nhiều thuận lợi
trong việc liên kết khai thác vào mục đích du lịch (hình thành các tuyến du lịch
trong vùng kết hợp với Hội An, Huế, Phong Nha hình thành nên con đường Di sản
Miền Trung). Vì vậy, nếu biết kết hợp các điểm trên thành một tâm điểm thu hút
khách du lịch thì Quảng Nam sẽ trở thành động lực cho phát triển ngành du lịch
đồng thời góp phần phát triển kinh tế - xã hội của Miền Trung và cả nước.
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 6
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
CHƯƠNG II
KHÁI QUÁT VỀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA VĂN HOÁ CHĂM
1. Đây là nền văn hoá mang đậm nét văn hoá Ấn Độ
Vào buổi đầu lập quốc, giới quý tộc Chămpa đã tiếp thu và sử dụng hệ thống
thần quyền Ấn Độ để củng cố cho sức mạnh Vương quyền. Họ sùng bái các vị thần
Ấn Độ giáo như: Brahma, Visnu, Siva . Người Ấn Độ đã truyền bá văn minh Ấn
và kinh nghiệm tổ chức bộ máy nhà nước, nhiều địa danh của ChămPa cũng đặt tên
như ở Ấn Độ: Amaravati, Simhapura, Indrapura . Vương hiệu của vua cũng đặt
theo tên Ấn Độ, chữ viết - một yếu tố văn hoá quan trọng bậc nhất - cũng lấy từ chữ
Sankrit, một loại văn tự cổ Ấn Độ. Trên cơ sở mẫu tự Sankrit, họ đã sáng lập ra chữ
Chăm cổ, hệ thống chữ viết đó được cải tiến qua nhiều giai đoạn. Do đó, ngày nay
rất ít người có thể đọc được chữ Chăm cổ. Nhiều điển tích tôn giáo và văn học Ấn
Độ được lặp lại trong truyền thuyết Chămpa.
Kiến trúc và điêu khắc Chămpa chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ giáo.
Người Chăm tiếp thu văn minh Ấn Độ một cách chọn lọc và thể hiện theo kiểu
Chămpa. Trong ba vị thần chính của Ấn Độ giáo, người Chăm đề cao thần Siva hơn
cả. Các ngôi tháp Chăm đều được xây dựng theo hình núi Pêru - theo quan niệm
của Ấn Độ giáo, đây là trung tâm vũ trụ, nơi ngự trị của thần linh.
2. Tính chất Siva giáo là đặc trưng chủ đạo trong đời sống tôn giáo của dân tộc Chăm

Trong tổng thể 128 bi kí Chămpa được tìm thấy, có đến 92 bi ký thờ Thần
Siva và các con vật liên quan đến Thần Siva. Trong nghệ thuật điêu khắc Chămpa,
Thần Siva được thể hiện nhiều hình tượng khác nhau, quan trọng nhất là thờ Linga,
Thần có ba mắt thể hiện sự tinh anh và quyền năng, Thần đang múa điệu múa
Tanaza (vũ trụ) trên tay có chìa ba, Nữ Thần Uma (Nữ Thần sắc đẹp) vợ Thần Siva,
hoá thân Skanda (Thần chiến tranh) con của Thần Siva, bò Thần Nandin - vật cởi
của Thần Siva . Có thể nói rằng chưa ở đâu như các nước Đông Nam Á lại có
nhiều bệ thờ Linga - biểu tượng của Thần Siva - kích thước lớn và đẹp như Linga ở
Vương Quốc Chămpa.
Thần Siva trong Ấn Độ giáo là Thần huỷ diệt nhưng huye diệt để sinh ra còn
đối với người Chămpa thì tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở - dưới dạng thờ kết
hợp Linga - Yoni, điều này thể hiện nguyện vọng sinh tồn của cư dân nông nghiệp
lúa nước -Chămpa.
3. Âm nhạc và múa có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người Chăm
Trong các lễ hội của người Chăm đều có âm nhạc và múa. Việc dùng các
hình thức nhạc vụ tuỳ thuộc vào tính chất của buổi lễ và các hình thức sinh hoạt
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 7
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
khác nhau. Nhưng hoạt động trong lễ hội thể hiện sự gắn bó hoà quyện giữa các
yếu tố thiêng liêng và đời thường, giữa ước mơ và hiện thực. Bất cứ lễ hội nào cũng
có âm nhạc và múa. Nó trở thành kiến trúc xã hội, là linh hồn của lễ hội. Lễ hội của
người Chăm có quan hệ chặt chẽ với thời tiết nhất là các kỳ gió mùa. Khi bắt đầu
gió mùa cũng là bắt đầu mùa vụ và cũng là của lễ hội. Trong hệ thống nông lịch của
người Chăm người ta đón năm mới (vụ mùa mới) bằng lễ hội RijaNưGar (bắt đầu
từ tháng giêng đến tháng 3 lịch Chăm, kéo dài 1 - 2 ngày), lễ hội này bắt đầu bằng
những bản nhạc và múa vui tươi, rộn ràng, sinh động. Có nhiều điệu múa trong lễ
hội này, quan trọng nhất là điệu múa ngư, đây là điệu múa hết sức sôi nổi thôi thúc
lòng người, điệu múa ngư do thầy dùng gươm để múa khai mạc. Giai đoạn cuối của
điệu múa là múa đạp lửa, nghệ nhân dập tắt ngọn lửa tượng trưng cho dập tắt mọi
tai ương

Lễ hội Mbăng Katê (lễ Tết của người Chăm) bắt đầu vào tháng 7 lịch Chăm
- đây là lễ lớn nhất trong các lễ hội của người Chăm, lễ hội được tổ chức để tưởng
nhớ các vị vua, các vị Anh hùng dân tộc, ông bà tổ tiên Lễ hội Mbăng katê
thường có sự tham gia của các dân tộc anh em như GiaRai, Raglay họ cũng đem
đến các điệu nhạc, điệu múa của mình hoà vào âm nhạc truyền thống của người
Chăm.
Lễ rước các trang phục của Vua được tiến hành một cách trang trọng, các
thiếu nữ Chăm múa trong âm nhạc rộn ràng vui tươi. Trong lễ tẩy thể các tượng,
dâng lễ vật, nhạc lễ là đàn Kanhi vừa chơi đàn vừa hát ca ngợi công đức của các vị
Thần, các vị Vua.
Người Chăm có nhiều lễ hội lớn nhỏ: Lễ YorYang, Lễ ChaBun trong bất
kỳ lễ hội nào, âm nhạc và múa cũng đều đóng một vai trò quan trọng góp phần làm
cho lễ hội trang nghiêm hơn và cũng vui nhộn hơn.
4. Nghệ thuật kiến trúc đặc sắc là kiến trúc đền tháp
Nói đến Chămpa là phải nói đến hệ thống Đền - Tháp. Đầu thế kỷ XX tháp
Chăm có khoảng hơn 100 đền tháp, nhưng hiện này chỉ còn 70 đền tháp, hầu hết là
những phế tích trải dài từ Quảng Bình đến Bình Thuận. Tháp Chăm được xây dựng
rãi rác khắp nơi và có những quần thể kiến trúc lơn như Mỹ Sơn, Đồng Dương,
PôNaGa . Tháp Chăm được xây dựng theo mô hình tháp Ấn Độ, song bé nhỏ và
tinh tế hơn và được Chăm hoá. Tháp Chăm thường có bình đồ vuông, bố cục hướng
tâm, chia làm 3 phần: đế, thân và mái. Bốn cạnh mở 4 cửa: cửa chính đi vào lòng
tháp mở về hướng Đông, có kết cấu nhô dài về phía trước với vòm cuốn trang trí
dẹp; ba cửa còn lại chỉ là cửa giả. Mái tháp có ba tầng thu nhỏ dần vươn lên cao,
mỗi tầng thể hiện như mô hình của tháp thu nhỏ. Lòng tháp hình vuông cao vút,
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 8
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
tường lòng tháp xây thẳng đứng, từ phần mái lòng thu nhỏ dần lên đỉnh, tạo nên
phần trên hình vòm cuốn đều nhau ở trong lòng.
Tháp Chăm chủ yếu xây bằng gạch, đá chỉ sử dụng chủ yếu trong trang trí và
một số chi tiết kiến trúc như mí cửa, vòm, trụ . Người Chăm là bậc thầy trong

việc nghệ thuật xây gạch và hiện nay còn nhiều ý kiến, giả thuyết xung quanh vấn
đề này.
Tháp Chăm được trang trí tinh tế, đặc sắc thể hiện sự kết hợp giữa nghệ
thuật kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc. Chủ đề chính trong điêu khắc trang trí là
hoa lá, hình người, hình động vật, các thần, các con vật huyền thoại theo nội dung
tôn giáo hoặc theo sử thi Ấn Độ. Nghệ thuật điêu khắc Chăm nổi tiếng với phù điêu
và tượng tròn. Điêu khắc không có sự rạo rực, sôi động như phù điêu Khmer, từng
nhân vật, từng nhóm nhân vật như tách rời nhau, độc lập gần như riêng biệt, từng
tượng như bứt ra, vươn ra khỏi kiến trúc quy định, tạo tính hoành tráng, ấn tượng,
tạo ra vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật điêu khắc cổ Champa.
Dựa vào các yếu tố trang trí mỹ thuật trên tháp, sự thay đổi kết cấu kiến trúc,
sự xuất hiện hay mất đi của các mô típ trang trí kết hợp với những tài liệu liên quan
(bi ký, tư liệu lịch sử ) người ta chia nghệ thuật trang trí tháp thành nhiều phong
cách và vạch ra quá trình phát triển của chúng tương đương với các thời kỳ lịch sử.
5. Cũng như tín ngưỡng dân tộc Việt, người Chăm cúng tổ tiên, thờ Mẹ xứ sở
Đây là tín ngưỡng tồn tại lâu đời và quan trọng nhất đối với người Chăm. Bà
Mẹ trong tín ngưỡng là PôINưNaga, được tôn là Thần Mẹ Xứ sở - người đã sáng
lập nên Vương quốc Champa và các dòng họ trị vì đất nước. Dân tộc Chăm là cư
dân nông nghiệp lúa nước. Người Chăm truyền tụng từ đời này sang đời khác rằng:
PôINưNaga là người đã dạy cho người Chăm biết trồng trọt, đánh cá, dệt vait .
Từ đó hình ảnh người phụ nữ rất được coi trọng trong gia đình cũng như trong cộng
đồng người Chăm mặc dù người đàn ông trong gia đình đảm đương những công
việc quan trọng.
Ngày nay, vẫn còn lưu lại nhiều đền tháp thờ PôINưNaga, nổi bật nhất là
đền thờ Pônaga ở Nha Trang, Khánh Hoà.
Không khác nhiều so với người Việt, người Chăm cũng có tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên. Trong những lễ hội báo ân, bao giờ cũng có lễ rước chiếc Atau, đây là
một cái rổ bằng mây hoặc tre đựng quần áo của tổ tiên.
6. Sắc thái biển thể hiện rõ nét trong văn hoá Chăm
Cư dân Chăm là chủ nhân cổ xưa của dãi đất Miền Trung, có cả một nền văn

hoá biển, có thể mệnh danh là văn hoá Ghe Bàu - là thuyền đi biển. Quen và ưa
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 9
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
dùng hải sản, nước mắm cùng các loại mắm là một Di sản văn hoá ẩm thực của
người Chăm. Và buôn biển, sử cũ chép: Thuyền lầu Chămpa vào biển, đi buôn, đi
chiến đấu .
Người Chăm xưa ở vùng đồng bằng Miền Trung trồng lúa, trồng dâu nuôi
tằm, dệt vải, trồng khoai ở đất cát. Người Chăm cổ cũng đã đẩy mạnh công nghiệp
truyền thống chế tạo thuỷ tinh với những cồn cát ven biển có hàm lượng SiO
2
rất
cao. Người Chăm đã khai thác và tận dụng các tài nguyên phong phú của núi rừng
Miền Trung, nổi tiếng với các sản vật quý giá như trầm hương, ngà voi, quế, đã
thu hút bao thuyền buôn Trung Quốc, Ấn Độ, các thuyền buôn Châu Âu
Tất cả các giá trị văn hoá này đều thể hiện đậm nét qua các tháp Chăm ở
Quảng Nam. Các tháp là biểu tượng thể hiện những đặc điểm cơ bản của văn hoá
Chăm. Vì vậy khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm chính là khai thác được đời
sống văn hoá tinh thần cũng như lịch sử một vùng đất đã từng hiện diện ở Quảng
Nam.
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 10
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
CHƯƠNG III
THỰC TRẠNG KHAI THÁC CÁC DI TÍCH VĂN HOÁ CHĂM Ở QUẢNG
NAM
1. Thánh địa Mỹ Sơn
Thánh địa Mỹ Sơn (hình 1) thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh
Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 69 km và cách thành cổ Trà Kiệu
khoảng 20 km.
Trước đây Mỹ Sơn chưa được công nhận là Di Sản Văn hoá thế giới, thì Mỹ
Sơn chưa thu hút được nhiều khách du lịch, du khách đến đây chủ yếu là các nhà

nghiên cứu, các cơ quan chức năng, học sinh, sinh viên Đến ngày 1/12/1999, Mỹ
Sơn được UNESSCO công nhận là Di sản văn hoá thế giới, điều này đồng nghĩa
với việc Mỹ Sơn rồi đây sẽ được cả thế giới biết đến, không chỉ đối với các nhà
nghiên cứu khoa học mà cả đối với khách du lịch thuần tuý. Minh chứng cho điều
đó là bảng thống kê khách du lịch đến Mỹ Sơn:
Bảng 1: Tình hình khách du lịch đến Mỹ Sơn giai đoạn 2002-2007
Chỉ tiêu
Năm
Tổng số khách
(lượt)
Khách quốc tế
( lượt)
Khách nội địa
( lượt)
2002 77558 62.397 15.161
2003 83696 51.992 31.704
2004 107512 66.034 41.478
2005 116988 82.461 34.527
2006 130079 89.496 40.583
2007 159501 113.610 45.891
Mặc dù nằm ở vị trí không thuận lợi, nhưng Mỹ sơn đã thu hút được nhiều
khách du lịch, hằng năm tăng 13.000 lượt với tốc độ tăng trung bình 26% / năm,
chủ yếu là khách quốc tế, cao nhất là năm 1999 chiếm 84,7%/tổng. Và khách nội
địa chiếm một số lượng nhỏ nhưng có tốc độ tăng đáng kể từ 17,2% năm 1999
nhưng đến năm 2000 tăng đến 21,4%, đây quả là một tốc độ tăng lý tưởng. Đặc biệt
năm 2007 tăng đến 159501 lượt khách. Điều này càng chứng tỏ rằng Mỹ Sơn là Di
sản văn hoá thế giới không những thu hút được nhiều khách quốc tế mà việc thu hút
khách nội địa góp phần không nhỏ.
Mặc dù vậy, đối với Mỹ Sơn, hình ảnh trong tâm trí du khách chưa thật sự
tương xứng với giá trị của thánh địa này. Phần lớn du khách quốc tế và khách nội

địa chưa có một khái niệm đúng đắn về Mỹ Sơn. Hơn nữa, đa số các tour du lịch
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 11
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
đến Mỹ Sơn là từ các công ty du lịch ngoại tỉnh khai thác, trên thực tế Mỹ Sơn
thuộc tỉnh Quảng Nam nhưng tỉnh chưa nhận được doanh thu từ việc bán tour
nhiều, bởi công ty du lịch Quảng Nam chỉ vừa mới thành lập (14/5/2001) còn nhiều
khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường, đội ngũ nhân viên còn non trẻ, chưa có
kinh nghiệm. Vì vậy, việc quảng cáo tuyên truyền lúc này là rất cần thiết.
Doanh thu du lịch ở Mỹ Sơn còn rất thấp so với cả tỉnh, cao nhất chỉ chiếm
38,6%, điều này cho chúng ta thấy rõ Mỹ Sơn chưa được khai thác đúng với giá trị
của nó. Phần lớn doanh thu chỉ thu từ vé tham quan, các mặt hàng lưu niệm chưa
thật sự phong phú để có thể thu hút, hấp dẫn khách du lịch. Đây là vấn đề còn rất
hạn chế của Ban quản lý Di sản này. Để thật sự thu hút khách du lịch và kích thích
sự chi tiêu của du khách, điều cấp thiết là phải xây dựng cơ sở lưu trú, ăn uống,
quầy hàng lưu niệm, để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
Trong những năm gần đây, doanh thu du lịch tăng đáng kể với tốc độ 10%
năm 1999 thì đến năm 2007 tăng đến 44,6%. Và tỷ trọng doanh thu so với tỉnh ngày
càng tăng đây là sự cố gắng của ban quản lý Di sản. Việc đầu tư cho Mỹ Sơn đòi
hỏi không chỉ ở địa phương mà cần có sự quan tâm của nhà nước và của cả thế giới.
2. Nhóm tháp Chiên Đàn
Nhóm tháp Chiên Đàn (hình 2) thuộc xã Tam An, thị xã Tam Kỳ; cách thành
phố Đà Nẵng khoảng 60 km về phía Nam, cạnh quốc lộ I.
Nhóm tháp Chiên Đàn là một trong những di tích nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc
quan trọng nhất và có giá trị nhất của nghệ thuật cổ Chămpa kể từ khi những phát
hiện về các tác phẩm điêu khắc từ năm 1989.
Hiện nay, ngoài khu tháp Chiên Đàn còn có một nhà trưng bày các vật cổ
điêu khắc Chăm được tìm thấy ở đây. Mặc dù vậy, nhóm tháp Chiên Đàn vẫn chưa
thu hút được nhiều khách du lịch trong và ngoài nước, có lẽ Chiên Đàn chưa phải là
một điểm thu hút hấp dẫn trong chương trình du lịch của các công ty du lịch. Số
lượng khách đến đây còn khiêm tốn. Quản lý khu tháp này chỉ thu phí từ khách

quốc tế, còn khách nội địa thì chỉ khuyến khích đến tham quan khu tháp này.
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 12
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
Bảng 2: Tình hình khách và doanh thu du lịch của tháp Chiên Đàn từ 2002-2007
Chỉ tiêu
Năm
Tổng lượt khách Tổng doanh thu
2002 1.362 13.620.000
2003 1.359 13.590.000
2004 1858 18.580.000
2005 1031 10.310.000
2006 1442 14.420.000
2007 2.000 20.000.000

Cùng nằm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nhưng nhóm tháp Chiên Đàn không
thể hội đủ các điều kiện để so sánh cùng Mỹ Sơn được. Bởi do Chiên Đàn chỉ là
cụm tháp nhỏ, dịch vụ tại đây nghèo nàn và Chiên Đàn chỉ là một điểm hỗ trợ cho
các tuyến điểm chính. Lượng khách thu hút và doanh thu ở đây đang còn ở mức
quá khiêm tốn so với tầm vóc của Di Sản.
Tháp Chiên Đàn thu hút chủ yếu là khách quốc tế từ các tour của các công ty
du lịch ngoại tỉnh hoặc khách đi lẻ. Lượng khách đến đây nhiều nhất năm 1999
cũng chỉ là 1007 lượt với tốc độ tăng 7,1% với doanh thu 20,14 triệu đồng nhưng
đến năm 2001 chỉ thu hút được 277 lượt khách giảm xuống 71,1%, đây là điều đáng
ngại. Sự thất thường trong lượng khách đến đây cũng như doanh thu một mặt do
các yếu tố khách quan lẫn chủ quan. Trên thực tế do điều kiện thuận lợi về địa lí
(nằm cạnh quốc lộ I) nên tháp cũng dễ dàng thu hút được nhiều khách, hơn nữa nếu
như các cơ quan ban ngành có thẩm quyền của tỉnh có nhiều chính sách, biện pháp
kinh doanh có hiệu quả cũng như sự đầu tư mang tính chiến lược hơn. Đặc biệt kể
từ khi Chiên Đàn được chuyển giao cho trung tâm bảo tồn di sản- di tích Quảng
Nam quản lí từ năm 2002 đã có nhiều chính sách, biện pháp tốt hơn cho công tác

khai thác và bảo tồn. Nhất là khi nhóm tháp này cũng là một trong những điểm thu
hút của các tour du lịch ở các công ty du lịch. Đến lúc đó Chiên Đàn mới thực sự
được đánh giá đúng giá trị hiện thực của nó.
3. Tháp Bằng An
Tháp Bằng An (hình 3) thuộc địa phận xã Điện An, huyện Điện Bàn, cách
thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km. Tháp Bằng An là một phong cách kiến trúc duy
nhất còn lại của di sản văn hoá Chăm ở Việt Nam. Hình dáng bên ngoài của tháp
Bằng An giống như một chiếc Linga khổng lồ, đó chính là Linga Paramesvara mà
Vua Bhadravaraman II đã cho xây dựng.
So với tháp Chiên Đàn thì tháp Bằng An nằm ở vị trí không thuận tuy nhiên
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 13
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
tháp Bằng An cũng đã thu hút được khá nhiều du khách nhiều bởi hình dáng đặc
biệt của nó.
Bảng 3: Tình hình khách và doanh thu du lịch ở tháp Bằng An từ năm 2001-2007
Năm Tổng số khách Tổng danh thu
2002 350 3.500.000
2003 350 3.500.000
2004 370 3.700.000
2005 305 3.050.000
2006 630 6.300.000
2007 601 6.010.000
So với các di tích Chăm ở Quảng Nam thì Bằng An là một đền tháp còn
nguyên vẹn nhất. Mặc dù chỉ có một ngôi tháp nhưng Bằng An vẫn thu hút được
nhiều khách du lịch. Và lượng khách ngày càng tăng dần, trung bình hơn 10%/năm.
Doanh thu ở đây chủ yếu từ khách quốc tế, do chủ trương của ban quản lý và khai
thác muốn nâng cao nhận thức của người dân trong nước, đặc biệt là cư dân địa
phương về các di sản văn hoá Chăm nên đã miễn vé tham quan. Lượng khách đến
đây tăng đều qua các năm
Doanh thu ở tháp Bằng An chủ yếu là khách quốc tế. Tháp Bằng An được

đưa vào kinh doanh du lịch từ năm 1997. Và đến nay, doanh thu cao nhất là năm
2006 với 6,3 triệu đồng. Với con số này thì vẫn chưa thể đánh giá đúng được giá trị
của tháp Bằng An - một phong cách kiến trúc Chăm duy nhất còn lại ở Việt Nam.
4. Nhóm tháp Khương Mỹ
Di tích tháp Khương Mỹ (hình 4) thuộc xã Tam Xuân 1, huyện Núi Thành,
tỉnh Quảng Nam, gần Quốc lộ IA; cách thành phố Tam Kỳ 2 km về hướng Tây
Nam. Cũng giống với Chiên Đàn, ba ngôi tháp của Khương Mỹ có cùng cách sắp
xếp trật tự như nhau, về mặt phong cách thì có lẽ khách du lịch khó có thể nhận
thấy được sự khác nhau giữa hai nhóm tháp này. Do không thuận tiện về vị trí địa
lý cũng như sự đặc sắc về phong cách của những tháp này, Khương Mỹ chưa có sức
thu hút lớn so với Chiên Đàn. Hơn nữa do ngân sách địa phương và nhu cầu tham
quan nhóm tháp này chưa cao nên quản lý di tích chưa đưa Khương Mỹ vào phục
vụ kinh doanh du lịch. Cũng như Chiên Đàn, Khương Mỹ rồi đây cũng sẽ khẳng
định được giá trị của mình đối với khách du lịch.
CHƯƠNG IV
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM KHAI THÁC CÓ HIỆU QUẢ DI TÍCH VĂN
HOÁ CHĂM PHỤC VỤ DU LỊCH QUẢNG NAM
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 14
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
1. Dự án về kiến trúc khu đón khách xây dựng theo lối kiến trúc dân tộc
Chăm
Cho đến hiện nay đã có nhiều công ty du lịch, nhiều tổ chức kinh doanh du
lịch đã và đang khai thác Di sản Văn hoá Chăm ở Quảng Nam. Song hiệu quả còn ở
mức độ thấp, chưa tương xứng với giá trị vốn có của nó. Một trong những cản trở
của sự phát triển du lịch văn hoá Chăm thời gian qua chính là điều kiện cơ sở vật
chất kỹ thuật chuyên ngành du lịch. Nhìn chung, cơ sở vật chất kỹ thuật chưa được
đầu tư thoả đáng, có thể nói là chưa có một điểm du lịch văn hoá Chăm nào có cơ
sở vật chất kỹ thuật đúng nghĩa, hầu hết các điểm du lịch văn hoá Chăm ở Quảng
Nam chỉ có nguồn thu từ vé tham quan. Ngoài Mỹ Sơn, thì các di tích Chăm đều
nằm gần khu dân cư và đơn lẻ nên việc xây dựng cơ sở lưu trú là không cần thiết.

Nhưng, riêng đối với Mỹ Sơn, thì việc quy hoạch xây dựng khu lưu trú, ăn uống là
điều cần thiết, tạo điều kiện tăng thêm doanh thu cho du lịch Quảng Nam.
Xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất còn là việc xây dựng nhà trưng bày,
quầy hàng lưu niệm, quầy sách báo chủ đề văn hoá Chăm, về quá trình hình thành
và phát triển của mỗi di tích, ở đây cần có phòng xem phim, tư liệu giới thiệu sơ
lược trước khi du khách trực tiếp tham quan các di tích. Hơn nữa để du lịch văn hoá
Chăm còn thêm sống động và có sức cuốn hút hơn, cần phải quan tâm hơn nữa đến
hạ tầng cơ sở - một vấn đề có thể nói là vô cùng quan trọng, không kém cơ sở vật
chất. Quảng Nam nằm trong khu vực với khí hậu khắc nghiệt, thiên tai, lũ lụt
thường xuyên xảy ra. Một thực tế cho thấy là nơi đây thường xuyên xảy ra các trận
lụt lịch sử năm 1998, 1999, 2000 làm cho cơ sở hạ tầng vốn nghèo nàn lại còn
nghèo nàn hơn. Nhưng khó khăn vẫn là khó khăn nếu chúng ta không tìm cách khắc
phục và vượt qua nó. Những năm qua với sự nỗ lực của nhân dân địa phương, hệ
thống giao thông đã được nâng cấp và mở mang nhiều, mạng lưới điện quốc gia đã
được kéo phủ có khả năng đáp ứng được mọi nhu cầu của địa phương. Nhưng đối
với các điểm du lịch văn hoá Chăm ở Quảng Nam, việc thiết kế xây dựng lại hệ
thống điện, thông tin liên lạc tại các di tích cũng cần thiết cho vấn đề bảo vệ di tích
cũng như khai thác khách, đồng thời làm tăng vẻ mỹ quan cho điểm du lịch, cần
xây dựng hệ thống nước sạch, hệ thống thoát nước trong sinh hoạt, phòng y tế tại
các điểm du lịch phục vụ khách. Đây là vấn đề lớn đối với các ban ngành có thẩm
quyền.
2. Xây dựng các chương trình du lịch với chủ đề về văn hoá Chăm
Điều quan trọng và cần thiết trong phát triển du lịch văn hoá Chăm ở Quảng
Nam là xác định các tuyến du lịch hợp lý hấp dẫn. Trong những năm qua, Miền
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 15
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
Trung nói chung và Quảng Nam nói riêng chưa thực sự chú trọng vào khía cạnh
này trong khai thác du lịch Di Sản Văn Hoá Chăm, nên chưa tạo ra các chương
trình du lịch với chủ đề này để đáp ứng nhu cầu du lịch của du khách. Do vậy tiến
hành từng bước hoàn thiện hơn nữa nhất là về chất lượng cho các chương trình di

lịch văn hoá Chăm đang được khai thác. Tạo ra các chương trình du lịch chuyên về
văn hoá Chăm ở Quảng Nam, có thể phối hợp với các tỉnh thành ở Miền Trung có
Di sản văn hoá Chăm như: Bình Định, Nha Trang, Ninh Thuận, xây dựng các
chương trình du lịch về thăm làng Chăm, tham gia lễ hội Katê, Nhằm phát huy
hết mọi tiềm năng của Di sản văn hoá Chăm, giải quyết và gắn kết các mối quan hệ
giữa yếu tố vật chất và phi vật chất, tạo nên mối quan hệ hữu cơ giữa hai yếu tố
này. Có thể xây dựng 2 chương trình du lịch chuyên đề về văn hoá Chăm như sau:
CHƯƠNG TRÌNH 1
7 ngày/6 đêm
QUẢNG NAM - QUẢNG NGÃI - BÌNH ĐỊNH - NHA TRANG - NINH
THUẬN - TP. HỒ CHÍ MINH
Ngày 1: Quảng Nam/Quảng Ngãi
+ 7 giờ: Đón khách tại Tam Kỳ, đưa khách đi Mỹ Sơn trên đường ghé tham
quan tháp Chiên Đàn.
+ 10 giờ: Tham quan Mỹ Sơn.
+ 12 giờ: Ăn trưa tại Mỹ Sơn.
+ 14 giờ: Đưa khách đi Quảng Ngãi, nghỉ tối tại Quảng Ngãi.
Ngày 2: Quảng Ngãi/Quy Nhơn
+ 7 giờ: Tham quan khu di tích Sơn Mỹ
+ 9 giờ: Rời Quảng Ngãi đi Quy Nhơn, nghỉ trưa tại Quy Nhơn.
+ 14 giờ: Tham quan tháp Hưng Thạnh, tham quan và tắm biển ở bãi tắm
Hoàng Hậu, nghỉ tối tại Quy Nhơn.
Ngày 3: Quy Nhơn/Nha Trang
+ 7 giờ: Rời Quy Nhơn đi Nha Trang, nghỉ trưa tại Nha Trang.
+ 14 giờ: Tham quan tháp Pônaga. Chùa Long Sơn, tắm biển, nghỉ tối tại
Nha Trang.
Ngày 4: Nha Trang/ Phan Rang
+ 7 giờ: Rời Nha Trang đi Ninh Thuận, nghỉ trưa tại Phan Rang.
+ 13 giờ: Tham quan tháp PôKlongarai, tháp Pôrônê, thăm làng dệt Chăm,
tắm biển và nghỉ tối tại Phan Rang.

Ngày 5: Phan Rang/Thành phố Hồ Chí Minh
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 16
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
+ 7 giờ: Rời Phan Rang đi Phan Thiết, nghỉ trưa tại Phan Thiết.
+ 13 giờ: Tham quan tháp cổ Phú Hài, đưa khách đi Mũi Né, tắm biển, nghỉ
tối tại Phan Thiết.
Ngày 6: Phan Thiết/Thành phố Hồ Chí Minh
+7 giờ: Rời Phan Thiết đi Thành phố Hồ Chí Minh
+ 10 giờ: Ghé suối Tiên, nghỉ trưa tại TP Hồ Chí Minh
+ 13 giờ: Thăm hội trường Thống nhất, nhà thờ Đức Bà, đi Đầm Sen, tối
nghỉ tại TP Hồ Chí Minh.
Ngày 7: Tiễn khách - kết thúc chương trình
CHƯƠNG TRÌNH 2
2 ngày / 1 đêm
TAM KỲ - MỸ SƠN - HỘI AN
Ngày 1:
+ 7 giờ: Đón khách tại Tam Kỳ, đưa khách đi Mỹ Sơn.
+ 10 giờ: Tham quan Mỹ Sơn.
+ 12 giờ: Ăn trưa tại Mỹ Sơn.
+ 14 giờ: Rời Mỹ Sơn đi Hội An, trên đường ghé thăm quan tháp Bằng An.
+ 17 giờ: Đến Hội An, nghỉ ngơi, tắm biển, tổi nghỉ tại Hội An.
Ngày 2:
+ 8 giờ: Tham quan làng gốm Cẩm Hà, làng mộc Kim Bồng bằng thuyền.
+ 12 giờ: Ăn trưa tại Hội An.
+ 13 giờ: Tham quan chùa cầu Nhật Bản, Hội Quán Phúc Kiến, nhà cổ
Phùng Hưng, Bảo tàng Hội An.
+ 15 giờ: Rời Hội An về Tam Kỳ - Kết thúc chương trình.
3. Kết hợp khai thác loại hình du lịch văn hoá Chăm với các loại hình du
lịch khác
Để tạo ra giá trị tổng hợp về du lịch văn hoá ở Quảng Nam. Một mặt mở

rộng, khai thác nhiều di tích văn hoá Chăm liên kết, phối hợp chúng lại với nhau,
mặt khác phải kết hợp loại hình du lịch văn hoá Chăm với các loại hình du lịch
khác trên địa bàn tỉnh cũng như các tỉnh thành khác. Đây là đòi hỏi tất yếu và cũng
là xu thế phát triển du lịch chung đối với thời cuộc. Phải làm sao đưa du lịch văn
hoá Chăm trở nên một mắc xích quan trọng đối với các sản phẩm du lịch ở Quảng
Nam, có thể là sản phẩm tương hỗ và cũng có thể là sản phẩm thay thế của nhau.
Điều này có ý nghĩa là khi khách du lịch đến Quảng Nam đã tham gia vào các loại
hình du lịch khác thì không thể bỏ qua du lịch văn hoá Chăm và ngược lại.
Tạo ra hiệu quả tốt trong việc kết hợp du lịch sinh thái ở Duy Xuyên, Hội An
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 17
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
với du lịch văn hoá Chăm là xu hướng cần phải tính đến ngay từ bây giờ. Tỉnh
Quảng Nam đa dạng và phong phú về tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn, cùng
với vị trí thuận lợi khi nằm gần Đà Nẵng - nơi có sân bay, cảng quốc tế và Huế -
nơi có di sản văn hoá thế giới. Điều này tạo nên một thế mạnh trong việc kết hợp
các loại hình du lịch khác để phát triển tốt du lịch văn hoá Chăm.
4. Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, bảo tồn, hướng dẫn viên có chuyên
môn sâu về văn hoá Chăm
Trong phát triển du lịch văn hoá Chăm, việc thu hút những cán bộ tài năng
và có tâm huyết sẽ quyết định thành công trong du lịch. Đối với tỉnh Quảng Nam để
khai thác Di sản văn hoá Chăm có hiệu quả thì cũng không nằm ngoài yêu cầu trên.
Xuất phát từ tình hình thực tế, ngành văn hoá thông tin trực tiếp tổ chức quản lý di
tích còn ngành du lịch thì khai thác di tích. Do vậy, để có một đội ngũ quản lý và
khai thác hoàn thiện cả về nghiệp vụ du lịch, văn hoá và ngoại ngữ là vấn đề khó
khăn. Song, yêu cầu của khách du lịch là phải hoàn hảo. Vậy nên du lịch và văn hoá
phải xem là bạn đồng hành, là hai chất kết dính hữu cơ với nhau trong phát triển du
lịch.
Muốn khai thác có hiệu quả Di sản văn hoá Chăm, điều quan trọng không
thể không nhắc đến là đội ngũ những người phục vụ có trình độ chuyên môn nghiệp
vụ du lịch cao, hiểu biết sâu sắc về văn hoá Chăm, về nghệ thuật kiến trúc đền tháp,

điêu khắc Phải có những cán bộ quản lý và hướng dẫn viên có ngoại ngữ thông
thạo, đam mê và hiểu biết rõ về văn hoá Chăm.
Một số vấn đề nổi cộm trong việc phát triển du lịch văn hoá Chăm đấy là đội
ngũ cán bộ tại điểm thăm quan di tích Chăm. Mặc dù ở Mỹ Sơn đã có hướng dẫn
viên nhưng chưa thật sự đầy đủ cả về số lượng lẫn chất lượng. Còn ở các điểm tham
quan di tích Chăm khác ở Quảng Nam thì chưa có hướng dẫn chuyên trách mà chỉ
là những người có trách nhiệm bảo vệ, quản lý di tích kiêm luôn việc hướng dẫn.
Bởi tình hình tổ chức kinh doanh tại đây chưa được tổ chức hoàn chỉnh. Rõ ràng là
phát triển du lịch văn hoá Chăm thật cần những người hướng dẫn, bởi trong các
phong cách kiến trúc, điêu khắc ở các đền tháp là những điều kỳ bí không những
đối với du khách mà còn đối với các nhà khoa học, mà đội ngũ hướng dẫn tại điểm
du lịch đến nay vẫn còn thiếu sót, yếu kém. Tạo được đội ngũ quản lý và khai thác
Di sản văn hoá Chăm đã khó mà việc tìm ra những con người tài năng và đam mê
thực sự lại càng khó hơn. Bởi di sản văn hoá Chăm phải được bảo vệ và nâng niu
bằng bàn tay và khối óc của những người như vậy mới có thể phát huy hết giá trị
vốn có của nó được.
Phải có kế hoạch đào tạo lại hoặc tạo ra đội ngũ cán bộ chính quy về việc
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 18
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
bảo tàng, bảo tồn, hướng dẫn bằng cách đào tạo mới. Họ phải là những người
được trang bị tốt về nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ, lý luận chính trị có thể
kết hợp đưa cán bộ nhân viên đi đào tạo ở nước ngoài nhất là nước có ngành du lịch
phát triển cao như: Pháp, Singapore, Nhật để nhanh chóng có một đội ngũ quản
lý, nhân viên phục vụ, hướng dẫn đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch văn hoá Chăm
ở Quảng Nam.
Vấn đề tăng cường giáo dục dân trí về du lịch và văn hoá ứng xử với khách
du lịch trong cộng đồng nhân dân địa phương cũng cần phải được quan tâm. Sự đón
tiếp niềm nở, thái độ hiếu khách, phục vụ tận tình của người địa phương sẽ tạo ra
những ấn tượng tốt đẹp trong lòng du khách. Kết hợp chặt chẽ giữa ban quản lý và
chính quyền địa phương trong việc vận động, giới thiệu người dân hiểu được văn

hoá Chăm và tham gia phục vụ khách du lịch.
5. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu về cung và cầu du lịch văn hoá Chăm
Vấn đề nghiên cứu, tìm hiểu thị trường phát triển du lịch chính là phân đoạn
thị trường để xác định thị trường mục tiêu và chiếm lĩnh nó. Đối với phát triển du
lịch văn hoá Chăm mà không có khả năng hoặc không tìm hiểu và lập kế hoạch dài
hạn định hướng khai thác nguồn khách sẽ có nguy cơ thất bại. Bởi thực tế cho thấy,
chính khả năng nhận biết và thích nghi với nhu cầu, mong muốn của khách hàng là
một trong những yếu tố đảm bảo thành công chứ không phải chỉ riêng là năng lực
kinh doanh.
Trong tương lai, để du lịch văn hoá Chăm phát triển bền vững, đòi hỏi công
tác nghiên cứu tìm hiểu thị trường du lịch phải được coi trọng và thực hiện nghiêm
túc. Yêu cầu thu thập thông tin đầy đủ, chính xác, cập nhật về nhu cầu của khách,
về sự biến động cung - cầu du lịch văn hoá Chăm Từ đó tiến hành phân tích rút ra
tính quy luật và xu hướng biến động của nhu cầu du lịch, làm cơ sở cho việc xác
định thị trường mà du lịch văn hoá Chăm cần hướng đến. Cùng với việc dự đoán
nhu cầu du lịch và việc đánh giá khả năng để có chiến lược thay đổi nguồn cung
phù hợp, để du lịch văn hoá Chăm ở Quảng Nam thật sự vươn cao hơn. Trong bối
cảnh cung du lịch văn hoá Chăm ở Quảng Nam chưa thật sự mạnh, và cầu du lịch
ngày càng cao cần thiết phải tạo ra được sản phẩm du lịch độc đáo, đa dạng và
mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Phát triển du lịch văn hoá Chăm trở thành một
loại hình sản phẩm du lịch đặc biệt và đặc trưng của tỉnh, thể hiện được truyền
thống văn hoá, nền nghệ thuật độc đáo của dân tộc Chăm có chất lượng cao và thoả
mãn nhu cầu du lịch của du khách trong và ngoài nước.
Văn hoá Chăm, các đền tháp của người Chăm tồn tại là độc nhất vô nhị.
Nhưng sản phẩm du lịch văn hoá Chăm tồn tại trong xu thế phát triển chung nên ít
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 19
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
nhiều nằm trong môi trường cạnh tranh với các sản phẩm du lịch khác.
6. Tăng cường công tác Quảng bá, giới thiệu sản phẩm du lịch
Đây là một trong những giải pháp rất quan trọng để khách du lịch quốc tế

cũng như khách nội địa biết đến giá trị văn hoá đặc biệt của các tháp Chăm. Cho
đến nay các tháp Chăm thực sự vẫn chưa được khai thác hết tiềm năng vào phát
triển du lịch Tỉnh nhà do chưa có sự đầu tư và khai thác hiệu quả. Do vậy, hoạt
động xúc tiến kêu gọi, thu hút các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước cho việc
khai thác giá trị các tháp Chăm vào phục vụ du lịch ở Quảng Nam là một vấn đề
bức thiết, cần phải có kế hoạch và giải pháp cụ thể như:
Phối hợp với các cơ quan, ban, ngành ở tỉnh để xây dựng kế hoạch huy động
các nguồn lực xây dựng cơ sở hạ tầng, xúc tiến kêu gọi các nguồn vốn đầu tư trong
và ngoài nước để đầu tư tôn tạo, bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên du lịch quý
giá này.
Tăng cường hoạt động tuyên truyền, quảng bá nhằm giới thiệu hình ảnh các
tháp Chăm đến với mọi du khách trong và ngoài nước bằng nhiều hình thức như:
Tờ rơi, đặc san, các bài viết trên báo chí, Wesite, thời sự, đài truyền hình…
Đẩy mạnh quan hệ với các doanh nghiệp lữ hành và các hãng thông tấn báo
chí để tuyên truyền giới thiệu giá trị hấp dẫn của các tháp Chăm về cả văn hoá vật
thể lẫn văn hoá phi vật thể.
Xây dựng bản đồ du lịch, bảng chỉ dẫn đến các điểm văn hoá Chăm, làm đa
dạng sản phẩm du lịch, tăng sự hấp dẫn và khám phá của du khách.
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 20
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
C. KẾT LUẬN
Mảnh đất Miền Trung nói chung, Quảng Nam nói riêng, tuy đời sống kinh tế
còn khó khăn nhiều do thường phải gánh chịu bao thiên tai, lũ lụt. Song, Miền
Trung đã có được may mắn khi sở hữu 3 di sản văn hoá thế giới mà Quảng Nam đã
có được 2 trong 3 di sản đó. Đặc biệt là giá trị độc đáo của những tháp Chăm trên
mảnh đất này. Hy vọng với tiềm năng to lớn và quyết tâm của mình, du lịch Quảng
Nam sẽ phát triển nhanh hơn, vươn tới một tầm cao mới góp phần thúc đẩy kinh tế
phát triển, giúp người dân Quảng Nam thoát khỏi tình trạng nghèo nàn. Muốn làm
được điều đó chúng ta cần thấy rõ được thực trạng và đề ra những giải pháp tối ưu
để nhanh chóng thúc đẩy du lịch Quảng Nam phát triển hơn nữa.

Qua quá trình thực tế và nghiên cứu đề tài tôi nhận thấy các tháp Chăm ở
Quảng Nam có giá trị rất lớn về văn hoá lẫn lịch sử. Tuy nhiên nguồn tiềm năng
này chưa được khai thác triệt để vào phục vụ du lịch Quảng Nam. Vì vậy đề nghị
các cơ quan chức năng như UBND tỉnh, Sở VHTT, chính quyền địa phương cùng
với ban quản lý di tích cần có những cơ chế, chính sách phù hợp để khai thác hợp lý
các giá trị này vào phục vụ du lịch Quảng Nam. Ngoài ra cư dân cộng đồng địa
phương cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hoá này.
Từ niềm đam mê, lòng trân trọng một nền văn hoá độc đáo - văn hoá Chăm - và
khát khao cháy bỏng muốn góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào sự giữ gìn
và phát triển của du lịch tỉnh nhà tôi đã chọn đề tài này.
Đề tài tuy đã hoàn thành, song với sự hạn chế về thời gian, về khả năng
nghiên cứu và tư liệu, hẳn còn nhiều thiếu sót. Vì vậy rất mong sự thông cảm và
đóng góp, bổ sung của quý thầy cô, cơ quan thực tập và các bạn.
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 21
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
Hình 1. Thánh địa Mỹ Sơn
Hình 2. Nhóm tháp Chiên Đàn
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 22
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
Hình 3. Tháp Bằng An
Hình 4. Nhóm tháp Khương Mỹ
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 23
§Ò tµi thùc tËp tèt nghiÖp
TÀI LIỆU THAM KHẢO
{1} Hồ Xuân Tịnh - Giám đốc Bảo Tàng Quảng Nam, “ Di tích Chăm ở
Quảng Nam”, NXB Đà Nẵng, 1998.
{2} Thạc sĩ Ngô Văn Doanh, “ Tháp cổ Chămpa Sự thật và Huyền thoại”,
NXB VHTT, 1994.
{3} Thạc Sĩ Nguyễn Chí Bền, Thạc Sĩ Ngô Văn Doanh, “ Mỹ Sơn Di sản

Thế Giới”, Tạp chí văn hoá Nghệ thuật - UBND huyện Duy Xuyên, 2001.
{4} Giáo sư Trần Quốc Vượng, “ Cơ sở văn hoá Việt Nam”, NXBGD, 1998.
{5} Nguyễn Văn Hớn, “ Môt điểm đến – hai Di sản thế giới”, Sở Du Lịch
Quảng Nam, 2006.
{6} Cẩm nang du lịch “ Khám phá con đường di sản Miền Trung – Tây
Nguyên”, NXB Tổng hợp TPHCM, 2005.
{7} Trang web: Google.com.vn
Khai thác giá trị văn hoá các tháp Chăm phục vụ du lịch Quảng Nam 24

×