Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Sự thể hiện vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết nguyễn đình tú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.19 KB, 66 trang )

1

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………..
2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………..
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát…………………..
4. Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………………...
5. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………..
6. Cấu trúc của đề tài……………………………………………………
CHƯƠNG 1. SỰ THỂ HIỆN VẤN ĐỀ THÂN PHẬN CON NGƯỜI TRONG TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY

1.1.

Về khả năng thể hiện vấn đề thân phận con người của thể loại tiểu

thuyết
1.1.1. Giới thuyết chung về khái niệm tiểu thuyết……………………………
1.1.2. Vấn đề thân phận con người – một trong những đối tượng thể hiện
chính của thể loại tiểu thuyết……………………………………………….
1.2.

Tổng quan về việc thể hiện vấn đề thân phận con người trong tiểu

thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay
1.2.1. Bối cảnh lịch sử – xã hội, văn hoá – thẩm mỹ cho sự thể hiện
vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay
1.2.1.1. Bối cảnh lịch sử – xã hội…………………………………………….


1.2.1.2. Bối cảnh văn hoá – thẩm mỹ…………………………………………
1.2.2. Nhìn chung về thành tựu của tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay
trên phương diện thể hiện vấn đề thân phận con người………………………
1.2.2.1. Tiếp cận và phơi bày nhiều vấn đề về thân phận con người……………
1.2.2.2. Đa dạng hoá bút pháp nghệ thuật trong việc thể hiện vấn đề thân phận con
người………………………………………….……………………………


2

1.3.

Cái nhìn khái quát về Nguyễn Đình Tú và vấn đề thân phận con người
trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú

1.3.1. Vài nét về nhà văn Nguyễn Đình Tú…………………………………………
1.3.2. Thân phận con người – cảm hứng chủ đạo trong tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú……………………………………………………………………………
CHƯƠNG 2. SỰ THỂ HIỆN VẤN ĐỂ THÂN PHẬN CON NGƯỜI TRONG TIỂU
THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ NHÌN TỪ BÌNH DIỆN NỘI DUNG

2.1. Bênh vực, chiêu tuyết cho thân phận những con người bị hắt hủi…………….
2.2. Đi sâu vào quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của con người……….
2.3. Day dứt về trách nhiệm xã hội đối với thân phận con người…………………
CHƯƠNG 3. NHỮNG ĐẶC SẮC VỀ HÌNH THỨC THỂ HIỆN VẤN ĐỀ THÂN PHẬN
CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ

3.1. Nghệ thuật kết cấu trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú và vai trò của kết cấu
này trong việc làm nổi bật vấn đề thân phận con người…………………………….
3.2. Vấn đề thân phận con người thông qua hệ thống nhân vật…………………….

3.3. Vấn đề thân phận con người trong mối quan hệ với ba đề tài Tôn giáo, chiến
tranh và sex…………………………………………………………………………
KẾT LUẬN……………………………………………………………………………………….
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………………………….


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong
văn học khiến tiểu thuyết không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung
mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều ḷn giải c̣c
sớng từ mợt góc nhìn riêng, với những cách xử lí vấn đề riêng. Hệ quả tất yếu là
tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều
phương diện, trong đó khơng thể khơng kể đến sự thể hiện vấn đề thân phận con
người.
1.2. Là nhà văn thuộc thế hệ 7X, Nguyễn Đình Tú thuộc trong số không nhiều
những cây bút đang khá sung sức, thể hiện được dấu ấn phong cách, cá tính sáng
tạo của mình ở cả hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Đặc biệt với năm cuốn
tiểu thuyết đã ra mắt công chúng, nhà văn trẻ này đã để lại dấu ấn đậm nét trong
đời sống văn học những năm gần đây. Tuy nhiên, các bài nghiên cứu về tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú dù khá nhiều song lại chưa có nhiều thành tựu, trong đó nhiều
c̣c tranh ḷn về tác phẩm của nhà văn này còn chưa đi đến hồi kết. Tìm hiểu sự
thể hiện vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết Ngũn Đình Tú, chúng tơi
ḿn góp thêm mợt tiếng nói khám phá tài năng, sáng tạo nghệ thuật và những
đóng góp của tác giả cho nền văn học nước nhà.
1.3. Thế giới tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú phản ánh cái nhìn đa chiều về con
người và hiện thực đương đại, thể hiện những tìm tòi, thể nghiệm của tiểu thuyết
Việt Nam những năm gần đây. Vì vậy, tìm hiểu về vấn đề này không chỉ để hiểu tài

năng cá tính sáng tạo của một nhà văn, mà còn gợi mở nhiều vấn đề mang ý nghĩa
lý luận trong sáng tác tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
1.4. Một lý do khá quan trọng nữa khiến tôi tìm đến với đề tài này là do hứng
thú cá nhân. Nguyễn Đình Tú là một trong số ít những tác giả trẻ để lại trong tôi


4

nhiều ấn tượng sâu sắc khi được tiếp cận với tác phẩm của anh. Đọc những trang
văn ấy, có mợt vấn đề luôn trở đi trở lại trong tôi ấy là sự băn khoăn, trăn trở của
nhà văn về thân phận những kiếp người trong xã hội đương đại. Và vì thế, lựa chọn
đề tài này, với tôi, còn là sự tri ân cho một cây bút trẻ mà tôi vô cùng yêu mến.
2. Lịch sử vấn đề
Điểm qua những công trình nghiên cứu về tác phẩm của Nguyễn Đình Tú,
chúng tôi nhận thấy phần lớn mới chỉ dừng lại ở một vài bài viết, được đăng rải rác
trên một sớ trang báo mạng. Nhìn chung, những bài viết đó đã ít nhiều khai mở
được lộ trình sáng tác và cho thấy những khuynh hướng phản ánh đời sống đa
chiều trong đó có sự thể hiện vấn đề thân phận con người của tác giả. Tuy vậy,
những bài viết này mới chỉ dừng lại ở cái nhìn bề mặt mang tính chất khái quát –
tổng hợp, chưa thực sự bám sát, đi sâu thâm nhập vào hình tượng của tác phẩm.
Trước một khả năng sáng tạo nghệ thuật như Nguyễn Đình Tú, chắc chắn tác phẩm
sẽ còn nhiều điều đáng để chúng ta lưu tâm khám phá đặc biệt trên phương diện thể
hiện vấn đề thân phận con người.
Đoàn Ánh Dương, trong Phiên bản hay hồ sơ một thanh tẩy, đã viết: “Không
chú ý đi sâu xây dựng những tình huống, tình tiết giàu kịch tính, những hình ảnh ly
kỳ, gay cấn giống như những tác phẩm trinh thám hay hồ sơ tội phạm thường thấy,
ở cả Hồ sơ một tử tù và Phiên bản, Nguyễn Đình Tú đã cố gắng đi vào thể hiện tâm
trạng của nhân vật, thái độ và xúc cảm của nhân vật trong cái nhìn hồi cố. Cái khác
biệt ở hai tiểu thuyết, và là nỗ lực đổi mới ngòi bút của Nguyễn Đình Tú, nằm
trong cấu trúc hồi cố ấy. Ở thời điểm khi cái thiện đã được đánh thức, để cho nhân

vật tự thú về hành động của mình, Hồ sơ một tử tù cố gắng phác họa một diện mạo
đầy đủ về khía cạnh giá trị nhân bản đã có và sẽ còn tờn tại trong kẻ tử tù khi nó
được đón nhận trong vòng tay của cái thiện. Vẻ đẹp nhân bản của tác phẩm hiện
diện trong niềm tin vào khát vọng hướng thiện của con người, vào khả năng cứu rỗi
của cái thiện trước nguy cơ con người bị dồn đuổi vào cái xấu, cái ác”[8]. Như vậy,
dù còn ở dạng sơ lược nhưng nhận xét trên đây của Đoàn Ánh Dương cũng đã bắt


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

5

đầu chạm vào cái gọi là “thân phận con người” trong hai tiểu thuyết Hồ sơ một tử
tù và Phiên bản của Nguyễn Đình Tú.
Khuất Quang Thụy trong Một khái niệm mới về tiểu thuyết từ “Hồ sơ một tử tù”
nhận định: “Đọc xong cuốn tiểu thuyết của Ngũn Đình Tú, ta khơng có được cảm
giác kiểu như “thế là đã rõ”, “thế là xong việc”, và rồi chúng ta có thể n tâm bỏ
ćn sách x́ng để chìm vào giấc ngủ hay thanh thản bước vào những công việc
thường nhật mà không còn bất kỳ sự vương vấn nào về số phận của nhân vật hay về
những vấn đề mà cuốn sách đã xới lên....Cái cảm giác gột rửa ấy xuất hiện khi đọc
xong cuốn sách, chúng ta bỗng hiểu rằng, dường như kẻ bị đưa lên cọc xử bắn kia
cũng là một nạn nhân mà mỗi chúng ta, ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp đều có
lỗi, đều tham gia xơ đẩy hắn ta vào con đường tội lỗi để dẫn tới kết cục bi thảm
này. Trong cuộc đời nhiều khi chúng ta vô tình gây ra tội ác, hoặc gieo những mầm
mống tội ác mà không biết. Đến khi cái mầm ác ấy nảy cành, xanh lá gây hoạ cho
đời thì chúng ta lại dửng dưng, coi như mình là kẻ ngoài cuộc vô can, thậm chí
chúng ta lại nhân danh pháp luật và đạo đức để phán xử chính những tội ác mà
chúng ta đã góp phần gieo mầm và ni dưỡng mà không hề hay biết?”[51]. Đây
chính là những cảm nhận rất rõ ràng về vấn đề thân phận con người trong tiểu
thuyết Nguyễn Đình Tú. Dù mới chỉ dừng lại ở một bài viết chứ chưa phải một

công trình nghiên cứu chuyên sâu song những nhận định của Khuất Quang Thụy
giữ một vai trò quan trọng trong việc gợi mở cho chúng tôi bắt tay vào thực hiện đề
tài này.
Tiểu thuyết Phiên bản ngay khi vừa ra mắt đã được người đọc chào đón rất
nờng nhiệt và cũng được nhiều nhà phê bình đánh giá cao. Hà Linh trong bài phỏng
vấn tác giả Nguyễn Đình Tú “Tác phẩm của tôi không chỉ có bạo lực + sex” đã
viết: “ Hơn 400 trang Phiên bản của Nguyễn Đình Tú đậm đặc những cảnh hành
động, các pha chém giết và mãnh liệt, dữ dội những trường đoạn làm tình. Nhưng
nhà văn khẳng định, đằng sau chuyện bạo lực và giường chiếu, anh gắng sức hướng
người đọc đến những tình cảm nhân văn của con người”. Cũng trong bài trả lời

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

6

phỏng vấn này, khi phải trả lời câu hỏi về sex trong tác phẩm của mình, Nguyễn
Đình Tú đã tâm sự : “Có người còn nói mợt cách gọn lỏn rằng, tác phẩm của tôi
đều theo một công thức chung, đó là: bạo lực + sex! Tơi chỉ nghĩ đơn giản thế này,
đằng sau những cái gọi là bạo lực và sex đó, bạn đọc của tơi có vài ba phút ngồi
thẫn thờ rưng rưng nghĩ về kiếp người, thì đó là lúc tơi đã chạm tay đến được cái
nghĩa đích thức của hai chữ: Nhà văn!”[26]. Qua những lời tâm sự ấy, chúng ta biết
được rằng thân phận con người chính là một trong những chủ đích ban đầu mà
Nguyễn Đình Tú hướng đến khi cầm bút. Những đề tài như bạo lực và sex sẽ chỉ
giữ vai trò như một phương tiện giúp nhà văn chuyển tải thông điệp về thân phận
con người mà thôi.
Năm 2010, Kín đã ra mắt bạn đọc với bản in trang trọng, bắt mắt. Cuốn tiểu
thuyết đã đi một dòng riêng, từ đề tài đến bút lực và kỹ thuật đều cho thấy một khả

năng dồi dào trong suy ngẫm và chiêm nghiệm của Nguyễn Đình Tú về cuộc sống
và thân phận những kiếp người. Nguyễn Xuân Diện trong bài viết "Kín" - một dịng
tiểu thuyết miên man, nhấn mạnh: “C̣c sống nhân vật tiểu thuyết của Nguyễn
Đình Tú, phải chăng như đoá sen đầu mùa hạ còn phong kín nhuỵ hương? Hay là
cuộc viết tiểu thuyết của Tú, phải chăng, đến cuốn thứ năm, vẫn là một dòng mải
miết miên man nhằm xâm nhập thám hiểm vào tận ngóc ngách thế giới bên trong
đầy hoang vu rợn ngợp, đầy khắc khoải đan cài vô số chuyển động ngược chiều:
các nhân vật trẻ tuổi của Tú vừa tự đập tan nát mình vỡ vụn, vừa ráng chịu đau
đớn, tự tay “khâu vá” lại những mảnh vụn nát ấy cho lành lặn?”[7]
Năm 2011, trên webside: www.phongdiep.net đăng tải bài viết “Từ kết cấu của
một cuốn tiểu thuyết cho đến cảm thức về thân phận lạc lồi, hoang hoải trong Kín
của Nguyễn Đình Tú” được viết bởi bạn đọc Lê Quốc Hiếu. Trong đó, Lê Q́c
Hiếu đã đưa ra những lời nhận xét như sau :“Nếu như ở Nháp, ta thấy nó nờng nặc
mùi sex, chuyện sex thì ở Phiên bản lại đề cập chủ yếu đến vấn đề bạo lực. Còn ở
Kín, cuốn tiểu thuyết được trình làng gần đây nhất lại “dàn trải” ra nhiều vấn đề
đang còn tồn tại một cách bức bối trong giới trẻ đương đại như: sex, quần hôn, bụi

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

7

đời, lên đồng, chuyện về mẫu Liễu Hạnh… Tuy nhiên, từng đấy vấn đề trong Kín,
theo tơi, cũng chỉ nhằm tập trung nổi bật lên vấn đề: thân phận lạc loài, hoang hoải
đến hoài nghi vỡ mộng của giới trẻ trong xã hợi hiện đại.”[12]. Như vậy, có thể
khẳng định rằng, cho đến khi tiểu thuyết Kín ra đời, các nhà nghiên cứu cũng đã có
những nhận định sát thực hơn về vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết của
Nguyễn Đình Tú. Ngoài những bài kể trên, có thể kể đến mợt sớ bài viết của các tác

giả khác như Phí Thủy Hương, Bùi Việt Thắng, Đoàn Minh Tâm, Nguyễn Thanh
Tú...Các tác giả này cũng đã có những phát hiện đợc đáo đáng ghi nhận về tiểu
thuyết của Nguyễn Đình Tú ở phương diện thể hiện vấn đề thân phận con người.
Như vậy số lượng các bài viết về Nguyễn Đình Tú và các tiểu thuyết của nhà
văn này là khá nhiều. Trong đó, những bài viết đề cập tới vấn đề thân phận con
người tuy chưa phải ở mức toàn diện, sâu sắc nhưng đều là những gợi ý bổ ích, tạo
điều kiện thuận lợi cho chúng tôi hoàn thành công trình của mình.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi tư liệu khảo sát
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự thể hiện vấn đề thân phận con người
trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú.
3.2. Phạm vi tư liệu khảo sát của đề tài là bốn cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình
Tú bao gồm :
- Hồ sơ một tử tù (Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2002).
- Nháp (Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2008).
- Phiên bản (Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009).
- Kín (Nxb Văn học, Hà Nợi, 2010).
Ngoài ra, để làm rõ vấn đề được đặt ra trong đề tài, chúng tôi còn liên hệ so sánh,
mở rộng ở một chừng mực nhất định với một số tiểu thuyết khác có thể hiện vấn đề
thân phận con người.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Tìm hiểu sự thể hiện vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết Việt Nam
từ 1986 đến nay.

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

8


4.2. Tìm hiểu sự thể hiện vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú ở hai bình diện nội dung và hình thức.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng những phương pháp sau:
5.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Đây được xác định là phương pháp chủ đạo của đề tài. Trên cơ sở phân tích bốn
cuốn tiểu thuyết đã được chọn làm đối tượng nghiên cứu, chúng tôi sẽ tổng hợp để
chỉ ra những đặc sắc trong việc thể hiện vấn đề thân phận con người trong tiểu
thuyết của Nguyễn Đình Tú trên cả hai bình diện nội dung và nghệ thuật.
5.2. Phương pháp thống kê, miêu tả.
Chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê, miêu tả để có được những dẫn chứng
cụ thể chứng minh cho vấn đề mà đề tài quan tâm.
5.3. Phương pháp đối chiếu, so sánh.
Trong quá trình nghiên cứu, phương pháp đối chiếu, so sánh là không thể thiếu.
Trong khả năng của mình, chúng tôi so sánh, đối chiếu việc thể hiện vấn đề thân
phận con người trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú với sáng tác của một số nhà văn
Việt Nam cũng như nước ngoài để thấy những tiếp thu, học hỏi và những tìm tòi,
sáng tạo trong cách viết của tác giả Nguyễn Đình Tú về vấn đề này.
5. Cấu trúc của đề tài
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài của chúng tôi được cấu
trúc qua ba chương.
Chương 1 : Sự thể hiện vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết Việt Nam
từ 1986 đến nay
Chương 2 : Sự thể hiện vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú nhìn từ bình diện nội dung
Chương 3 : Những đặc sắc về hình thức thể hiện vấn đề thân phận con người
trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn



C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

9

Chương 1
SỰ THỂ HIỆN VẤN ĐỀ THÂN PHẬN CON NGƯỜI TRONG
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY
1.1. Về khả năng thể hiện vấn đề thân phận con người của thể loại tiểu thuyết
1.1.1 Giới thuyết chung về khái niệm tiểu thuyết
Tiểu thuyết là một thể loại văn học vô cùng quen thuộc với chúng ta, tuy ra đời
muộn hơn so với các thể loại khác nhưng lại có vai trò hết sức quan trọng trong lịch
sử văn học. Thật ra, chúng ta không nên một mực cho rằng định nghĩa tiểu thuyết là
cái gì bất biến, hay là phải khái quát vấn đề một cách cụ thể, bởi vì tiểu thuyết là
một thể loại không ngừng phát triển, và vì thế, trong tư duy chúng ta, nó cũng nên
là mợt quan niệm phát triển khơng ngừng.
Có rất nhiều công trình của các nhà nghiên cứu quan tâm đến thể loại văn học này
và đã đưa ra được những khái quát chung nhất về tiểu thuyết. Tuy nhiên, như đã
nói, tiểu thuyết là “ thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa
định hình” [2,21] nên tùy theo từng góc nhìn, từng hoàn cảnh phát ngơn mà các nhà
lý ḷn có những khái quát riêng về thể loại này.
Ở phương Tây và Nga, từ lâu nay, khái niệm tiểu thuyết đã được đưa ra tranh
luận rất sôi nổi. Hêghen gọi tiểu thuyết là “ sử thi tư sản hiện đại” và nhấn mạnh
tính chất “ văn xuôi” của thể loại này. Nhà lý luận phê bình văn học Nga Bielinxki
thì cho rằng : “ Tiểu thuyết là sử thi của đời tư”, “ Anh hùng ca của thời đại ta là
tiểu thuyết (...). Nhưng khác với thời cở đại: ở đây khơng có tính thần thoại. Tính
cách các nhân vật anh hùng không còn những gương mặt khởng lờ dường như
khơng có thực” [dẫn theo 36, 79]. Eikhenbaum, nhà tự sự học thuộc trường phái
Hình thức Nga phân biệt tiểu thuyết với truyện ngắn từ góc đợ hình thức trần tḥt:
“ Tiểu thút là mợt hình thức tổng hợp, còn truyện ngắn là hình thức sơ ́u của

văn xi. Tiểu thút có x́t phát từ lịch sử, từ ghi chép và nhật ký những chuyến
du hành; còn truyện ngăn thì xuất phát từ cổ tích và giai thoại” [Dẫn theo 42, 33-

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

10

34]. N.A.Gulalev lại đưa ra định nghĩa: “ Tiểu thuyết l một hình thức tự sự lớn, mô
tả hình thức riêng của con người trong những mối quan hệ rợng lớn với xã hợi”
[10,244]. Ngồi ra, khái niệm tiểu thuyết còn được đề xuất bởi một số nhà văn, nhà
nghiên cứu như: Stendhal, Turghênhep, M.Kundera, H. Bénac...
Song đáng chú ý nhất là những luận điểm của M.Bakhtin vào những năm 70
của thế kỷ XX về tiểu thuyết. Trên cơ sở quan niệm thể loại là nhân vật chính của
lịch sử văn học chứ không phải trào lưu, trường phái hay phương pháp sáng tác,
ông cho rằng, tiểu thuyết là sản phẩm tinh thần tiêu biểu nhất của thời đại mới, bởi
vì nó thể hiện được tư duy văn học mới gắn với thời hiện tại, tư duy này gắn với
một thứ triết học mới nhân bản về con người, nhìn nhận về con người như những cá
thể độc lập, những cá nhân tồn tại với bản ngã của nó và đới thoại với những bản
ngã khác. Nó là một thể loại ở thời hiện tại, một thể loại đang vận đợng và phát
triển; nó tờn tại với tư cách như một thể loại chủ đạo của văn học hiện đại, nó giễu
nhại và thu hút các thể loại khác vào nó. Ngơn ngữ tiểu thút là ngơn ngữ có tính
đa thanh. Thời gian trong tiểu thuyết là thời gian hiện tại, trong đó khoảng cách
giữa người trần thuật và đối tượng trần thuật được rút ngắn tối đa, cho phép người
trần thuật có thể hiểu được nhân vật bằng chính kinh nghiệm sống của mình. Nhân
vật trong tiểu thút là nhân vật khơng trùng khít với chính nó, con người có thể
cao hơn thân phận hoặc có thể nhỏ bé hơn tính người của mình. Và nguồn gốc của
tiểu thuyết chính là từ lễ hội carnaval thời trung cổ ở phương Tây [2].

Ở Việt Nam, trước Cách mạng tháng Tám 1945, Phạm Quỳnh là người bàn về
tiểu thuyết sớm nhất. Trong bài Khảo về tiểu thuyết đăng trên tạp chí Nam phong,
ông viết : “ Tiểu thuyết là một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả tình tự người
ta, phong tục xã hội hay là những sự lạ tích kỳ, đủ làm cho người đọc có hứng thú”
[32,123]. Sau Phạm Quỳnh, các tác giả như: Trọng Khiêm (trong lời tựa Kim Anh
lệ sử - 1924), Nguyễn Văn Ngọc (trong Dân ta với tiểu thuyết – 1933), Thiếu Sơn
(trong Nói chuyện tiểu thuyết – 1933, Nhà viết tiểu thuyết - 1935), Thạch Lam
(trong Vài ý kiến về tiểu thuyết – 1938, Theo dòng - 1941), Hải Triều (trong Đi tới

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

11

chủ nghĩa tả thực trong văn chương: Những khuynh hướng trong tiểu thuyết –
1939), Đinh Gia Trinh (trong Đọc tiểu thuyết Việt Nam cận đại – 1942)...cũng đã
đưa ra nhiều ý kiến của riêng mình về tiểu thuyết. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng,
các tác giả này chưa có mợt cái nhìn hệ thớng, toàn diện mà mới chỉ dừng lại ở
những ý tưởng bột phát ban đầu.
Sau 1945, các nhà lý luận, nhà văn ở nước ta tiếp tục đưa ra những ý kiến khác
nhau về tiểu thuyết. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, tiểu thuyết được định
nghĩa là “Tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sớng ở mọi
giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh sớ phận của nhiều
c̣c đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh
hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [11,328].
Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu như Lại Nguyên Ân, Nguyễn Thái Hòa,
Hoàng Ngọc Hiến...cũng đưa ra những ý kiến cá nhân về khái niệm tiểu thuyết. Nói
chung, những ý kiến đó đều chỉ ra được những đặc trưng của thể loại này ở những

khía cạnh khác nhau gắn với những quan niệm khác nhau. Vì là thể loại đang trong
quá trình vận động và biến đổi không ngừng nên hiện tại, chưa thể đưa ra mợt định
nghĩa hoàn toàn chính xác và có thể bao quát được toàn bộ thực tiễn sáng tác đa
dạng, sinh động của thể loại này.
1.1.2.Vấn đề thân phận con người – một trong những đối tượng thể hiện chính của
tiểu thuyết.
Con người là chủ thể, là đối tượng đồng thời là mục đích của văn học. Vì vậy,
tầm vóc, chiều sâu và ý nghĩa của một nền văn học chẳng những phụ thuộc vào lý
tưởng, vào mục đích phục vụ của nó mà còn phụ tḥc vào cách hiểu biết, tiếp cận
và sáng tạo con người...
Sáng tác văn học là một hoạt động nhận thức nên bao giờ cũng mang tính
quan niệm: phản ánh và thể hiện con người. Suy cho cùng, giá trị của văn học
chính là ở chỗ nó đã hiểu, đã cảm nhận và chiếm lĩnh con người sâu sắc đến mức
đợ nào. Do đó, vấn đề thân phận con người có thể nói là mợt trong những đối tượng

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

12

thể hiện chính của văn học. I.P.Eremin, một trong những nhà phê bình, nghiên cứu
nổi tiếng về văn học Nga cổ, đã cho rằng: “ Con người trong sự miêu tả của nhà
văn là một trong những tâm điểm mà qua đó phong cách nhà văn được thể hiện
sáng rõ hơn hết...Và chính những nguyên tắc miêu tả con người đã cung cấp chìa
khóa để giúp ta hiểu được phương pháp sáng tạo của nhà nghệ sỹ” [Dẫn theo 42,
26]. Như vậy, qua số phận nhân vật mà tác giả dụng công thể hiện trong tác phẩm
của mình, đợc giả hoàn toàn có thể cảm nhận được những thông điệp mà nhà văn
gửi gắm bởi nhân vật chính là nơi thể hiện một cách tập trung nhất, sâu đậm nhất

quan niệm nghệ thuật về con người của tác giả.
Nhìn từ góc đợ thể loại, đặc điểm tiêu biểu nhất của tiểu thút chính là cái
nhìn c̣c sớng từ góc đợ đời tư. Chính dung lượng phản ánh hiện thực rợng lớn đã
giúp cho tiểu thút có được khả năng đi sâu vào từng hoàn cảnh, từng nhân vật, số
phận cụ thể một cách đầy đủ, toàn diện và tỉ mỉ.
Ở phương diện khác, tiểu thuyết là thể loại có cấu trúc linh hoạt, khơng chỉ
cho phép mở rợng về thời gian, không gian, nhân vật, sự kiện mà còn ở khả năng
dồn nhân vật và sự kiện vào một khoảng không gian và thời gian hẹp, đi sâu khai
thác cảnh ngộ riêng và khám phá chiều sâu số phận cá nhân nhân vật. Nhà văn Bùi
Hiển trong bài tiểu luận Cánh cửa sổ mở ra cõi mung lung, từng nói : “ Đúng ra có
thể nói: mở vào. Vì cái chốn mung lung cần phải soi rọi vào ấy, lại chính là tâm
hồn, tâm thức, tâm linh, là những điều gì diễn ra trong tầng sâu ý thức, trong bộ
não, trái tim con người trước khi thể hiện ra ngồi (mà cũng có thể khơng thể hiện)
bằng cử chỉ và hành động (...). Văn học, với chức năng của nó là khám phá bản thể
con người (song song với việc khám phá ngoại giới), lẽ tự nhiên nó rất khát khao
soi tìm vào những miền uẩn áo của nội tâm, vào những động cơ thầm kín đến mức
tăm tối của những ứng xử ý thức: các hiện tượng mà người ta gọi siêu tâm lý” [Dẫn
theo 51]. Đó cũng chính là lý do khiến tiểu thuyết trở thành thể loại có ưu thế nhất
trong việc thể hiện vấn đề về thân phận con người.

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

13

1.2. Tổng quan về sự thể hiện vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết
Việt Nam từ 1986 đến nay
1.2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội, văn hóa – thẩm mỹ cho sự thể hiện vấn đề thân

phận con người trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay
1.2.1.1 Bối cảnh lịch sử - xã hội
Tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử - xã hội cho sự phát triển của tiểu thuyết Việt
Nam sau 1986, sẽ thấy được từ những biến động của hoàn cảnh hơn 30 năm sau
chiến tranh đã tác động lớn đến tâm lý con người như thế nào. Đại thắng mùa xuân
năm 1975 đã mở ra cho đất nước ta một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân
tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, với một quốc gia nhỏ bé để dành được
thắng lợi qua hai cuộc kháng chiến thần thánh chống đế quốc hùng mạnh là điều
không hề dễ dàng. Hơn bao giờ hết, chúng ta phải dồn tất cả sức người, sức của cho
cuộc kháng chiến. Hoà bình lập lại, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội gặp vơ vàn khó
khăn trong bới cảnh đất nước vừa bước ra khỏi chiến tranh với bao thương tích
nặng nề. Đó khơng chỉ là những thiệt hại về vật chất mà còn hao tởn lớn về sức
người, thật khó có thể bù đắp được trong một thời gian ngắn. Con đường chúng ta
đi không phải là con đường bằng phẳng, mà chông gai, gập ghềnh, “vấp váp và trả
giá” (Nguyên Ngọc). Khi vết thương chiến tranh còn chưa lành, chúng ta lại phải
gồng mình bước vào cuộc kiến thiết thời hậu chiến với mn vàn khó khăn, thử
thách. Nhìn từ thực tiễn hoàn cảnh đất nước, mới thấy nhà văn Nguyễn Minh Châu
nói thật chí lý: “Cái mảnh đất bao lớp người liên tiếp đổ xương máu giành được
độc lập, xưa nay đất dưới chân người thắng giặc có bao giờ nở sẵn đầy hoa”. Nền
kinh tế sau chiến tranh bị khủng hoảng trầm trọng: những mặt trái của xã hội không
ngừng bộc lộ, phát triển, len lỏi vào tất cả mọi ngõ ngách của đời sống, nhiều tiêu
cực của cơ chế quản lý bao cấp đã góp phần tạo nên sự trì trệ. Mâu thuẫn giai cấp,
mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hợi ngày càng nởi rõ khó bề giải quyết được. Tâm
lý con người hẳn không tránh khỏi những băn khoăn, hoang mang lo lắng khi đối
diện với những biến đợng khủng hoảng của xã hợi. Đó là mơi trường thích hợp cho
những tiêu cực có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Đời sống văn hoá văn nghệ chững lại,
độc giả dửng dưng với người viết, nhiều nhà văn lâm vào tình trạng bế tắc, không
tìm được phương hướng sáng tác. Ý thức nghệ thuật của số đông người viết và
công chúng chưa thực sự bắt nhịp với thời đại, những quan niệm và cách tiếp cận
hiện thực vốn quen thuộc trong thời kỳ trước tỏ ra bất cập, lỗi thời trước hiện thực

mới và thị hiếu độc giả. Đây là thời gian mà nhà văn Nguyên Ngọc gọi là “khoảng
chân không trong văn học”. Nhưng cũng chính trong khoảng thời gian này đã diễn

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

14

ra sự vận đợng có chiều sâu trong đời sống văn học. Văn học đã chuyển từ “cuộc
chiến đấu cho quyền sống của cả một dân tộc” sang một cuộc chiến đấu mới, dù âm
thầm nhưng quyết liệt khơng kém. Đó là “c̣c chiến đấu cho qùn sớng của từng
cá nhân”, mà theo cách nói của nhà văn Ngũn Minh Châu: “khơng có gì ờn ào
nhưng xảy ra từng giờ, từng ngày ở khắp mọi lĩnh vực của đời sống”. Văn học đặt
trong mối quan hệ với hiện thực đời sống thường nhật đã bộc lộ tất cả sự phức tạp,
đa dạng, đa chiều của nó trong g̀ng máy vận động không ngừng nghỉ. Đây quả là
bước chuyển không hề giản đơn với một nền văn học đã được mặc định với “bè
cao” trong một thời gian dài. Nhà văn Nguyễn Khải cũng phải thừa nhận: “Chiến
tranh ồn ào náo đợng mà lại có sự n tĩnh, giản dị của nó, hoà bình mà lại chất
chứa những sóng ngầm, những gió xoáy ở bên trong”. Khó khăn lớn của mợt đất
nước vừa mới được giải phóng như là một lời thách thức, “như một thứ chiến
trường mới, lập tức mở ra trên vùng chiến trường cũ”, đòi hỏi con người phải đầy
đủ bản lĩnh, nghị lực, trí tuệ mới vượt qua được. Những vận động chiều sâu của đời
sống văn học, những trăn trở kiếm tìm âm thầm mà quyết liệt, “điềm đạm mà dũng
cảm” ở một số nhà văn mẫn cán với nghề, bước đầu đã mang lại những kết quả
đáng ghi nhận.
Năm 1986, Đảng ta tiến hành Đại hội Đảng lần thứ VI. Đây là Đại hội đổi mới
toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hợi, văn hóa và tư duy. Đặc biệt,
vào tháng 10 năm 1987, c̣c giao lưu văn hóa, văn nghệ giữa Tổng Bí thư Nguyễn

Văn Linh và các anh em văn nghệ sĩ được diễn ra trong không khí dân chủ, cởi mở.
Tại diễn đàn này, đi kèm với chủ trương cách tân là những trao đổi thẳng thắn, một
cánh cửa lớn đã mở ra cho văn học nghệ tḥt nước nhà. Nới tiếp sau đó là sự ra
đời của Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về cơng tác văn hóa văn nghệ (1987), nhân
thêm vị trí và chức năng mới cho văn nghệ: “Văn học nước ta phải đổi mới tư duy,
đổi mới cách nghĩ, cách làm”. Tất cả đã tạo động lực quan trọng thúc đẩy sự đổi
mới, cách tân trong văn học. Là bộ phận nhạy cảm nhất của xã hội, văn học nghệ
thuật hưởng ứng kịp thời và hết sức mạnh mẽ đường lới đởi mới của Đảng, đờng
thời nhanh chóng hiện thực hoá tư tưởng đổi mới trong sáng tác của mình.
Không những thế, trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam mở cửa hội nhập giao lưu
kinh tế, văn hoá với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là với phương Tây. Do đó,
giai đoạn này có nhiều l̀ng tư tưởng mới từ bên ngoài tràn vào, nhiều trào lưu,

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

15

khuynh hướng văn học và lý luận nghệ thuật hiện đại của thế giới đã được giới
thiệu ở Việt Nam. Đón nhận những l̀ng tư tưởng ấy, các nhà văn có dịp “hiểu
mình” hơn trên cơ sở “hiểu người”. Đồng thời, công tác dịch thuật phát triển, nhiều
tác phẩm văn học nước ngoài, nhất là văn học Xô viết đã đến tay các nhà văn Việt
Nam. Tất cả đã tạo ra một cú hích, khuyến khích các nhà văn tìm toi, đổi mới, sáng
tạo và làm biến đổi cả thị hiếu tiếp nhận của công chúng.
Ngoài ra, sau 1975, sự bùng nổ của nhiều thế hệ nhà văn, sự ra đời của nhiều hội
văn nghệ, sự phát triển của báo chí, in ấn, xuất bản, internet….cũng góp phần quan
trọng làm cho văn học phát huy được chức năng của nó, đưa văn học trở về đúng
nghĩa “phản ánh hiện thực”, đồng thời tạo điều kiện để văn học được giao lưu rợng

rãi, giúp tác phẩm nhanh chóng đến được với cơng chúng.
Như vậy, có thể nói, hiện thực đất nước sau chiến tranh, nhất là sau đổi mới
(1986) ngày càng có sự thay đởi toàn diện và sâu sắc. Đất nước ta chính thức bước
sang một thời đại mới. Thực tế c̣c sớng đó khiến những người cầm bút không thể
tiếp tục viết theo cách cũ, không thể nhìn c̣c sớng bằng “đơi mắt cũ” mà phải đặt
nó trong sự biến động, đổi thay phức tạp, phải thay đổi cách viết của mình. Đây
chính là tiền đề quan trọng cho sự phát triển, đổi mới văn học nghệ thuật nói chung
và tiểu thuyết nói riêng. Trong đó, vấn đề thân phận con người cá nhân sau 30 năm
dài vắng bóng trên văn đàn đã chính thức có mợt hoàn cảnh lịch sử thuận lợi để
quay trở lại.
1.2.1.2. Bối cảnh văn hóa – thẩm mỹ
Chúng ta dễ dàng nhận thấy, bất kỳ một tác phẩm, một trào lưu, một nền văn
học nào, xét đến cùng, cũng không thể đứng đứng ngoài sự vận động của nền tảng
của xã hội, thị hiếu, lý tưởng thẩm mỹ... của mảnh đất đã sinh ra nó, tức là sự vận
đợng của nền tảng xã hợi mà trên cơ sở đó nó hình thành và phát triển. Và như vậy,
việc đổi mới của văn xuôi Việt Nam giai đoạn sau 1986 không nằm ngoài quy luật
trên.

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

16

Cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ta toàn thắng đã đưa đất nước tới
ngày thống nhất. Nhưng ngày vui chưa trọn vẹn: những tàn dư của hai cuộc kháng
chiến, những thách thức, yếu kém về kinh tế do sự tác động của những nhân tố
khách quan và chủ quan, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn, lòng
người bất an, niềm tin với Đảng có lúc bị lung lay...Những ́u tớ đó ít nhiều đều

tác động đến đời sống văn học. Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong bài Hãy đọc lời
ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa (1987) đã nhấn mạnh: “...Thời kì này
diễn ra một cuộc đối chứng giữa nhân cách và phi nhân cách, giữa hoàn thiện và
phi hoàn thiện, giữa ánh sáng và khoảng bóng tới còn rơi rớt bên trong mỗi tâm
hờn, mỗi con người”. Đó chính là mảnh đất màu mỡ để văn học khám phá.
Trước hết, trên bình diện ý thức và quan niệm nghệ thuật, từ những năm 90
của thế kỉ trước văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng đã có những biến đởi quan
trọng theo hướng dân chủ hóa. Ở giai đoạn trước, do sự chi phối của chiến tranh,
văn học được nhìn nhận như là vũ khí tư tưởng, tự nguyện gánh vác nhiệm vụ
tuyên truyền, thiên về chiến thắng, về cái anh hùng vĩ đại của dân tộc. Ngày nay
những tác phẩm viết theo lối tư duy cũ không còn hấp dẫn độc giả. Trước đây cách
viết sử thi là khuynh hướng cơ bản, đến nay nó khơng còn đáp ứng được nhu cầu
phản ánh hiện thực đa dạng, đa chiều của cuộc sống sau chiến tranh. Yêu cầu đổi
mới nền văn học một cách toàn diện càng trở nên bức thiết, từ quan niệm nghệ
thuật, quan niệm hiện thực về con người, các thủ pháp nghệ thuật. Giờ đây, nhiệm
vụ khám phá thực tại được coi trọng, ý thức sâu hơn về sự thật. Văn học hướng đến
tiếp cận đời sống trên bình diện thế sự - đời tư, nhất là từ nửa đầu những năm 80
trở đi, nhiều cây bút đã đi vào thể hiện mọi khía cạnh của đời sống cá nhân và
những quan hệ thế sự đan dệt nên cuộc sống đời thường phồn tạp mà vĩnh hằng. Có
lẽ do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường cái nhìn về văn học cũng thoáng và cởi
mở hơn. Khơng những thế văn học còn đóng vai trò như mợt thứ hàng hóa đặc biệt,
viết văn được xem như một trò chơi tinh thần, không vụ lợi nhằm để thưởng thức
và giải trí lành mạnh nhất. Vì thế, quan niệm về kiểu nhà văn đã có sự thay đổi.

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

17


Nếu như trước đây chúng ta quá đề cao các chức năng nhận thức, giáo dục, và cho
rằng “mỗi nhà văn là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa” có nhiệm vụ diễn đạt
tiếng nói chung của dân tộc thì bây giờ, người ta coi văn học như mợt phát ngơn
của người nghệ sĩ, là tiếng nói của cá nhân, là sự can dự của người trí thức vào thời
đại mình làm phong phú và giàu có hơn đời sống tinh thần của xã hội. Để không bị
công chúng đối xử với những trang viết của mình bằng một thái độ thờ ơ, lạnh nhạt,
các nhà văn ḅc phải thay đởi cách viết. Đó là lí do tại sao nền văn học dân tộc
sau 1975, đặc biệt từ 1986 đến nay xuất hiện nhiều cây bút độc đáo như Bảo Ninh,
Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Khắc Trường, Dương Hướng, Hồ Anh Thái, Võ Thị
Hảo, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Việt Hà,
Nguyễn Bình Phương, Thuận, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Đình Tú…
Đứng về phía bạn đọc mà xét, sau 1986 trong hoàn cảnh hoà bình, nhu cầu thẩm
mĩ của bạn đọc đã thay đổi. Nếu như trong chiến tranh con người đối mặt giữa sự
sống và cái chết, anh dũng và hèn nhát, thì trong thời bình con người lại phải đối
mặt với bao biến cố của cuộc sống thường nhật. Trong guồng quay của nền kinh tế
thị trường, sự bon chen, xô bồ của đời sống mưu sinh, nội tâm con người sẽ trở nên
bí ẩn và khó nắm bắt hơn. Thế nên thị hiếu, khả năng nhận thức của con người
cũng không hề đơn giản dẫn đến cách thẩm định văn học cũng gai góc hơn. Đợc giả
ngày nay “khơng bằng lòng với hiện thực khách quan được phản ánh, họ đòi hỏi ở
nhà văn tinh thần nghiền ngẫm, suy luận nghiêm túc. Bởi vậy cái nhìn giản đơn
một chiều về cuộc sống không còn hấp dẫn. Thậm chí người đọc hôm qua còn mặn
mà là thế, bỗng dưng hờ hững quay lưng lại với văn học nước nhà vì lối viết không
mới mẻ, vì những vấn đề hiện thực đã quá cũ mòn. Đòi hỏi từ phía người tiếp nhận,
sự tự ý thức phải thay đổi từ phía người sáng tạo cợng với đường lới chính sách
thơng thoáng đã tạo đà cho văn học Việt Nam chuyển mình mạnh mẽ” [3, 9]. Công
chúng đòi hỏi mỗi nhà văn phải đáp ứng thị hiếu, nhìn nhận hiện thực cuộc sống
của đất nước một cách toàn diện chứ không phải một chiều như văn học thời chiến.
Điều này đòi hỏi các nhà văn buộc phải thay đổi cách viết, thay đổi tư duy nếu


@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

18

không muốn bị độc giả bỏ quên. Người ta bắt đầu nhìn nhận lại nhiều giá trị cũ, bàn
bạc lại một số chân lý của thời đã qua, dường như mọi thứ đều muốn được đo đạc
bằng những tiêu chí mới. Hiện thực cuộc sống sau chiến tranh và diễn biến tâm lý
phức tạp của con người, đòi hỏi các lĩnh vực của xã hợi phải có cơ chế quản lí thích
hợp. Đối với văn học, người nghệ sỹ phải nhìn nhận lại mọi vấn đề đa dạng, phức
tạp của cuộc sống. Người nghệ sỹ, qua thực tế của đời sống văn học phải phản ánh
đúng bản chất của hiện thực, phải nói thẳng, nói thật mới mong đáp ứng nhu cầu
thẩm mĩ của người đọc. Hơn bao giờ hết, tầm quan trọng của thị hiếu người đọc là
cái nôi cho tác phẩm ra đời và sống được. Trong bới cảnh đó, cảm hứng về vấn đề
con người cá nhân, đời tư xuất hiện trở lại sau 30 năm dài vắng bóng. Nhiệm vụ
bức thiết của văn học giai đoạn này là phải phản chiếu, soi tỏ chiều sâu con người
cá nhân. Sự thật phải được nhìn nhận như những gì nó vớn có và vì thế, vấn đề về
thân phận con người với những tất cả những niềm vui, nỗi buồn, những uất ức, đớn
đau, giằng xé...trở thành một cảm hứng lớn trong văn học thời kỳ này.
1.2.2. Nhìn chung về thành tựu của tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay
trên phương diện thể hiện vấn đề thân phận con người
1.2.2.1. Tiếp cận và phơi bày nhiều vấn đề về thân phận con người
Trong nền văn học thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, con người luôn
là một đề tài muôn thuở. Văn học phản ánh c̣c sớng của con người, văn học vì
con người và cho con người. Một tác phẩm văn học được xem là đích thực khi nó
phản ánh được những khía cạnh bản chất của cuộc sống. Con người là đối tượng
khám phá, phát hiện và tái hiện trung tâm của văn học. Quan niệm nghệ thuật về
con người chính là thước đo sự tiến bộ, phát triển nghệ thuật từ xưa đến nay. Bởi

nó là ́u tớ chi phới các yếu tố khác của nghệ thuật biểu hiện. Mỗi thời kỳ lịch sử,
văn học lại có những cái nhìn mới về vấn đề thân phận con người.
Thân phận con người được văn học quan tâm từ rất sớm. Ở phương Tây trong
thời kỳ Phục hưng, con người được xem là trung tâm của cuộc sống, là “kiểu mẫu
của muôn lồi”( Hămlet, hời II, cảnh 2). Sau mợt thời gian dài phải chịu sự đè nén

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

19

của giai cấp phong kiến và giáo hội Cơ đớc, thời đại Phục hưng như mợt cơn gió
mạnh thổi luồng sinh khí mới vào đời sống người dân phương Tây, làm bừng dậy
tất cả các mặt của đời sớng, trong đó đặc biệt có sự thức tỉnh của con người cá
nhân. Họ ý thức được về bản thân mình, về thế giới xung quanh mình, từ đó ý thức
được sứ mệnh của mình trước lịch sử. Và họ chính là những người “khổng lồ” của
thời đại tiền tư bản chủ nghĩa. Điều này đã được phản ánh rõ nét trong văn học qua
những hình tượng nhân vật như Otenlo, Hămlet, Đônkihôtê.....
Trong lịch sử văn học Việt Nam, phải đến nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế
kỷ XIX khi chủ nghĩa nhân văn xuất hiện và trở thành một trào lưu thì con người
mới được xem là một chủ thể, một đối tượng chính của văn học. Với những cây bút
thấm đẫm tinh thần nhân văn cao cả như Đặng Trần Côn, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát...vấn đề về thân phận con người đã được
đặt ra một cách sâu sắc, bức thiết. Hàng loạt các sáng tác văn học thời kỳ này ra đời
đã cho độc giả thấy được tầm quan trọng của việc thể hiện vấn đề thân phận con
người trong văn học. Chúng ta đã sống quá lâu trong thời đại mà cái Tôi cá nhân
của con người bị đè nén, áp bức. Đã đến lúc phải trả cho con người cái vị thế cần
phải có của nó trong văn học.

Sang thế kỷ XX, với sự nở rộ của các trào lưu văn học đặc biệt là văn học lãng
mạn và văn học hiện thực phê phán, vấn đề thân phận con người tiếp tục được các
nhà văn, nhà thơ quan tâm thể hiện. Có thể nói rằng, chưa khi nào vấn đề về con
người cá nhân được khắc họa nhiều như giai đoạn văn học này. Những trang thơ
thấm đẫm tinh thần cái tôi cá nhân của các nhà thơ Mới như Thế Lữ, Xuân Diệu,
Hàn Mặc Tử, Huy Cận... cũng như những trang văn của các tác giả trào lưu văn học
hiện thực phê phán như Nam Cao, Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố...đã cho ta thấy được
những thân phận con người cá nhân trong xã hội thực dân nửa phong kiến, trong
b̉i giao thời hai nền văn hóa Đơng – Tây. Ở họ có sự bế tắc, cùng quẫn của người
dân mất nước, của con người với nỗi lo cơm áo gạo tiền và khát khao chối bỏ thực
tại...Nhưng tới khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, để đáp ứng nhu cầu

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

20

lịch sử đất nước, con người cá nhân ấy đã hòa nhập vào cái ta chung của cộng
đồng. Những nhà nghệ sỹ đã hòa mình vào nền văn học Cách mạng với chủ trương
phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu. Vì thế, văn học từ đây trở thành vũ khí chiến
đấu, nhân vật trung tâm của văn học lúc này phải là người chiến sỹ trên mặt trận vũ
trang và những lực lượng trực tiếp phục vụ chiến trường. Đặc điểm nổi bật và hết
sức quan trọng của văn học giai đoạn này chính là nền văn học sáng tác theo
khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Có thể nói rằng chính đặc điểm này
đã khiến cho vấn đề thân phận con người hoàn toàn vắng bóng trong văn học giai
đoạn 1945 – 1975.
Sau năm 1975, đặc biệt từ giai đoạn đổi mới 1986, văn học từ tư duy sử thi
chuyển sang tư duy tiểu thuyết, từ cảm hứng cao cả chuyển sang cảm hứng đời

thường, thế sự. Tiểu thuyết thời kỳ này phát huy được khả năng tiếp cận và phản
ánh hiện thực con người thời kỳ đổi mới một cách nhanh nhạy, sắc bén.
Đặc trưng của thể loại tiểu thuyết là tìm ra những tình h́ng tiêu biểu, có khả
năng khai thác sâu những bước ngoặt của số phận, tạo cơ sở cho sự thay đổi quan
niệm nghệ thuật về con người. Tiểu thuyết có thể viết về mọi chuyện, có điều kiện
đi sâu vào các trạng huống tinh thần tinh tế, nhạy cảm trong thế giới tâm linh của
con người. Tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 đã đề cập, phản ánh tương đối toàn diện
về vấn đề thân phận con người. Con người cá nhân với những mối quan hệ trong
cuộc sống thường nhật được xem là đối tượng trung tâm của văn học. Bối cảnh mới
đã thúc đẩy sự thức tỉnh của ý thức cá nhân, đòi hỏi văn học phải quan tâm đến mỗi
con người và từng số phận. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân cũng là mốc quan trọng
nhất làm thay đổi quan niệm về con người ở thời kỳ đổi mới. Tiểu thuyết ở thời kỳ
này đã quan tâm đến mọi vấn đề của con người. Đó là nỗi cô đơn của thân phận
con người, nỗi đau của chiến tranh để lại, là sự mất mát của người lính bước ra khỏi
cuộc chiến, là nỗi hận thù của dòng họ, gia tộc, là cái khắc nghiệt của sự đói khát
cơ đơn, là những vấp váp của nhân cách trước những cám dỗ của kinh tế thời mở
cửa và cả những vấn đề của cõi tâm linh, tiềm thức và vô thức… Mọi cung bậc cảm

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

21

xúc của đời sống đều sống dậy trong những câu chữ giản dị. Bao nhiêu phức tạp ồn
ào, bao nhiêu dư vị đắng chát của cuộc sống thời đổi mới đều được phản ánh chân
thực trên trang sách. Sau năm 1986, đặc biệt là ở giai đoạn hiện nay, mọi ngóc
ngách sâu kín, riêng tư nhất của con người, bằng hình thức này hoặc hình thức khác
đều được đưa lên mặt giấy. Những vấn đề tế nhị, thiêng liêng nhất của con người,

văn học đều chạm tới và xới tung lên như một vấn đề của hiện thực chân thực. Vì
thế những mảnh đời riêng biệt, âm thầm lặng lẽ hay sôi động ồn ào đều được nhà
văn nhìn nhận khai thác làm nên sự đa dạng, phong phú và cũng không kém phần
phức tạp trong thế giới nhân vật.
Tiểu thuyết thời kỳ đổi mới đi sâu vào mọi vấn đề của c̣c sớng thường
nhật. Đó là chiều sâu triết lý và những cảm nhận về thân phận con người đan xen
giữa cái ảo và cái thực, giữa cõi vô thức và ý thức.... Bao nhiêu dư vị, khoảnh khắc
từ hạnh phúc đến đau khổ, từ đắng chát đến ngọt ngào ở mọi phương diện của đời
sống đều được soi tỏ tận cùng, chân xác. Sau mỗi câu chụn ta thấy ẩn hiện thấp
thoáng đâu đó mợt đời người, một kiếp người, và không khí của một xã hội, một
thời đại. Con người luôn phải đặt trong tình thế mong manh của đường phân giới
hai cực đối lập vừa phải chung sống vừa phải đấu tranh với nhau. Tiếp cận với thế
giới nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 đến nay, chúng ta luôn thấy họ
là những cá thể riêng biệt, nhưng lại là những khuôn mặt khác nhau của cuộc sống
đời thường đa dạng, biến hóa sinh đợng.
Khi các nhà văn hoà mình vào c̣c sống, cùng trải nghiệm và trăn trở với
chính cuộc sống ấy thì tất yếu cảm hứng sáng tạo sẽ phong phú, đa dạng hơn. Đó
cũng chính là mợt trong các lí do khiến cho tiểu thuyết sau 1986 chuyển từ cảm
hứng sử thi sang cảm hứng đời tư thế sự. Xuất hiện trong tiểu thuyết lúc này không
còn là những con người anh hùng với giọng điệu ngợi ca hào sảng, mà là số phận
những cá nhân đời thường chân thực và gần gũi nhất.
Tựu trung lại, có thể thấy, văn học sau 1975, đặc biệt là sau 1986 ngày càng
đi tới một quan niệm trọn vẹn và sâu sắc hơn về con người mà nền tảng triết học và

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

22


hạt nhân cơ bản của quan niệm ấy là tư tưởng nhân bản. Con người vừa là điểm
xuất phát, vừa là đối tượng khám phá chủ yếu, vừa là cái đích cuối cùng của văn
học, đồng thời cũng là điểm quy chiếu, là thước đo giá trị của mọi vấn đề xã hội,
mọi sự kiện và biến cố lịch sử. Có thể kể đến mợt sớ tác phẩm tiêu biểu thời kỳ này
có thể hiện cảm hứng về thân phận con người như : Thời xa vắng ( Lê Lựu), Những
mảnh đời đen trắng (Nguyễn Quang Lập), Đám cưới khơng có giấy giá thú, Cơi cút
giữa cảnh đời, Ngược dòng nước lũ (Ma Văn Kháng), Nỗi buồn chiến tranh (Thân
phận của tình u – Bảo Ninh), Bến khơng chồng (Dương Hướng), Mảnh đất lắm
người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường ), Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh), Cuốn
gia phả để lại (Đoàn Lê), Cơ hội của chúa ( Nguyễn Việt Hà), T. mất tích (Thuận),
Cánh đồng bất tận ( Nguyễn Ngọc Tư)....Rất nhiều vấn đề thể hiện cảm hứng thân
phận con người đã được các nhà văn khai thác và mang lại một diện mạo hoàn toàn
mới cho văn học Việt Nam giai đoạn 1986 đến nay.
1.2.2.2. Đa dạng hóa bút pháp nghệ thuật trong việc thể hiện vấn đề thân
phận con người.
Thay đổi đáng kể nhất trong nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi
mới là sự đa dạng và linh hoạt về bút pháp nghệ thuật. Và những bút pháp này trở
thành một trong những nguyên nhân chính giúp cho vấn đề thân phận con người
được thể hiện một cách chân thực, sâu sắc và toàn diện nhất.
Đầu tiên, có thể kể đến bút pháp tả thực mới. Khái niệm tả thực trong văn học
đã xuất hiện từ lâu, tuy nhiên phải đến khi chủ nghĩa hiện thực ra đời, tả thực mới
trở thành nguyên tắc nghệ thuật có ý nghĩa quan trọng. Trong quan niệm truyền
thống, tả thực được hiểu như là sự thể hiện một cách trung thành hiện thực và hiện
thực trong tác phẩm có sự đờng đẳng với hiện thực vớn có ngoài đời. Quan niệm
này có thể nhìn thấy trong tuyên bố của Balzac: “Nhà văn là người thư ký trung
thành của thời đại”. Stendhal cũng coi văn chương như là tấm gương phản ánh
cuộc đời. Ở Việt Nam, bút pháp và tinh thần tả thực cũng được các nhà văn hiện
thực đặc biệt chú ý. Vũ Trọng Phụng từng bày tỏ quan điểm nghệ thuật của mình:
“Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng

như tôi coi tiểu thuyết là sự thực ở đời” (Báo Tương lai, số 9, ngày 25.3. 1937).
Khơng thể phủ nhận những đóng góp to lớn của các nhà văn hiện thực khi họ phát
huy tối đa sức mạnh bút pháp tả thực đặc sắc và trên thực tế, nhiều nhà văn đã để

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

23

lại hàng loạt kiệt tác như Tấn trò đời (Balzac), Đỏ và đen (Stendhal), Hội chợ phù
hoa(W.Thackeray), Số đỏ, Vỡ đê (Vũ Trọng Phụng)... Trên cơ sở tiếp thu những
thành tựu của chủ nghĩa hiện thực, văn học Xô viết đã đưa ra nguyên tắc tả thực xã
hội chủ nghĩa. Nguyên tắc tả thực xã hội chủ nghĩa (gắn “tả thực” với định ngữ “xã
hội chủ nghĩa” = tả thực xã hội chủ nghĩa hoặc tả chân xã hợi chủ nghĩa) cũng từng
được Hải Triều nói đến trong c̣c tranh ḷn nghệ tḥt năm 1936-1939, sau đó
được đưa vào Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 và trên thực tế đã trở thành nguyên
tắc cơ bản của văn học cách mạng giai đoạn 1945-1975. Tuy nhiên, bên cạnh nhiều
tiểu thút có giá trị nghệ tḥt cao, khơng ít tiểu thuyết thời kỳ này rơi vào công
thức, khuôn sáo. Sau 1975, nhất là từ 1986 đến nay, khi văn học tự “cởi trói” để
hướng tới sự đa dạng thì bút pháp tả thực mới phát huy tối đa tác dụng. Điều đó
gắn liền với nhu cầu “nói thẳng, nói thật” trong quá trình tiến hành đổi mới tư duy.
Nhu cầu nói thẳng nói thật trong văn học thời đởi mới cần được hiểu trên những
phương diện: thứ nhất, không thi vị hóa đời sớng mà nhìn c̣c sớng trong tính
phức tạp, đa chiều như nó vớn có; thứ hai, không còn những đề tài cấm kị, tất cả
đều được hiện lên trong thanh thiên bạch nhật; thứ ba, nhà văn tự do nói lên chính
kiến của cá nhân chứ không nhân danh tập thể, cộng đồng để trình bày quan điểm.
Về cơ bản, tả thực trong tiểu thuyết sau 1986 khác với tả thực theo quan niệm
truyền thống. Các tiểu thuyết gia hiện đại không muốn dừng lại ở vai trò “thư ký”

thời đại hoặc coi văn học là tấm gương thuần túy mà cố gắng soi chiếu hiện thực từ
nhiều góc nhìn khác nhau. Nhà văn có thể sử dụng bút pháp tả thực bằng cái nhìn
khách quan, có thể tả thực theo cái nhìn giễu nhại... Điều quan trọng là bên cạnh
thông tin về sự thật, người đọc phải tìm thấy trong thế giới nghệ thuật của nhà văn
lượng thông tin thẩm mĩ phong phú. Bởi thế, khi hai yếu tố thông tin sự thật và
thông tin thẩm mĩ kết hợp hài hòa thì tác phẩm mới có thể tờn tại lâu dài. Hàng loạt
tiểu thút của Lê Lựu (Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội), Nguyễn Khắc Trường
(Mảnh đất lắm người nhiều ma), Chu Lai (Vòng tròn bội bạc), Dương Hướng (Bến
không chồng)... với bút pháp tả thực mới đã đem lại cho công chúng nhiều nhận
thức mới mẻ về hiện thực, trong đó có vấn đề về thân phận con người.
Ngoài ra, giai đoạn văn học sau 1986 còn có sự nở rợ của bút pháp huyền
thoại. Đây là bút pháp nghệ thuật được rất nhiều nhà tiểu thút thời kỳ đởi mới sử
dụng. Sự có mặt của bút pháp huyền thoại vừa cho phép nhà văn nhìn sâu hơn vào
thế giới, vừa tạo ra sự lạ hóa để thu hút người đọc. Những Thiên sứ (Phạm Thị
Hoài), Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh), Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh
Thái), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo)... đã đem đến cho người đọc nhiều cảm xúc mới
mẻ về một hiện thực nghiệt ngã và phức tạp qua những huyền thoại giàu chất tưởng
tượng. Các nhà văn đã tìm đến các môtip huyền thoại như một phương tiện nghệ

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

24

thuật hữu hiệu để truyền đến người đọc những cách tiếp cận hiện thực một cách
sinh động. Theo đó, người đọc khơng nhìn về thế giới theo chiều tuyến tính mà
nhận ra sự đa dạng chính là bản chất cuộc sống. Trong nhiều tiểu thuyết, bút pháp
huyền thoại có khả năng tạo nên những hình tượng mang tính ẩn dụ cao, và các

hình tượng ẩn dụ ấy tồn hiện như một ký hiệu nghệ thuật đa nghĩa giàu chất tượng
trưng. Tất nhiên, khi đi vào tiểu thuyết, các huyền thoại không còn là những huyền
thoại mang nghĩa nguyên thủy mà đã được cải biến để mang chứa những hàm
lượng nghĩa mới. Chẳng hạn ánh trăng trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
không còn là ánh trăng thơ mộng, trữ tình mà là thứ ánh sáng ma mị, nhiều khi quái
lạ. Trong Thiên sứ, Phạm Thị Hoài luôn pha trộn các huyền thoại phương Đông và
phương Tây, huyền thoại cũ và huyền thoại mới nhằm tạo ra sự trùng phức hình
tượng. Ở Thiên thần sám hối, Tạ Duy Anh lại tạo dựng tình huống độc đáo: đứa bé
suy ngẫm chuyện đời khi còn nằm trọng bụng mẹ và toàn bộ câu chuyện diễn ra
dưới cái nhìn đó. Rõ ràng, việc sử dụng bút pháp huyền thoại đã làm cho người đọc
hứng thú vì họ phát hiện sự toàn vẹn và sinh động của cuộc sống thông qua tính
sinh động cuả nghệ thuật. Với tư cách là một phương thức nghệ thuật “biến hiện
thực thành hoang đường mà không đánh mất tính chân thật”, việc đưa cái huyền ảo
vào thế giới thực tại đã lấy cái phi lý để nhận thức cái hữu lý, lấy lôgic của nghệ
thuật và trí tưởng tượng để nhìn thấy logic cuộc sống một cách hiệu quả. Chính từ
bút pháp này, vấn đề thân phận con người cũng được soi tỏ theo nhiều chiều hơn,
mang lại những hiệu quả nghệ thuật sâu sắc.
Ngoài sự xuất hiện của bút pháp tả thực mới và bút pháp huyền thoại, tiểu
thuyết Việt Nam giai đoạn sau đổi mới còn có sự x́t hiện của bút pháp giễu nhại,
trào lợng. Bút pháp này có ý nghĩa cân bằng sinh thái văn học sau một thời gian dài
văn học ta quá nghiêm trang. Đồng thời, đây còn là một nhu cầu giải tỏa áp lực đời
sống hiện đại và quan trọng hơn, nhờ bút pháp này, tinh thần dân chủ hóa trong văn
học được thể hiện một cách rõ nét. Không nên hiểu đơn giản trào lộng và giễu nhại
chỉ nhằm tới một mục đích giải thiêng mà cần hiểu sâu hơn, đó là hình thức tiếp
cận các giá trị đời sống một cách dân chủ bằng cách phá vỡ các quy phạm. Trong
những tiểu thuyết thời kỳ đổi mới đến nay thì Thời xa vắng (Lê Lựu), Thiên
sứ (Phạm Thị Hoài), Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải), Cõi người rung chuông
tận thế và Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), T. mất tích (Thuận)... là những tác
phẩm sử dụng bút pháp trào lộng, giễu nhại thành công. Trong số các nhà văn
đương đại, Nguyễn Khải được coi là nhà văn nhạy cảm. Ngay từ sau 1975, Nguyễn

Khải đã có Gặp gỡ cuối năm, Cha và con và... Ông sớm nhận ra phải nhanh chóng
từ giã thời lãng mạn, đơn giản, dễ dãi để viết những tác phẩm mang quan điểm cá
nhân. Tuy nhiên, khi Thượng đế thì cười xuất hiện, người đọc vẫn bất ngờ khi nhận

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


C.33.44.55.54.78.65.5.43.22.2.4..22.Tai lieu. Luan 66.55.77.99. van. Luan an.77.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.37.99.44.45.67.22.55.77.C.33.44.55.54.78.655.43.22.2.4.55.22. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an.Tai lieu. Luan van. Luan an. Do an

25

thấy một Nguyễn Khải mới mẻ với chất giọng giễu nhại sắc sảo. Màu sắc “tự trào”
hiện ra qua cách xưng hô “lão Khải”, “anh Khải”, “thằng Khải”, “hắn” cùng với
những chi tiết giàu chất hài hước, hóm hỉnh. Cái cười của Nguyễn khải vừa bao
dung vừa nâng tầm nhận thức về một thời giản đơn và ấu trĩ, đầy ngộ nhận. Những
điều vụn vặt lại tưởng lớn lao, những thứ đơn giản lại cố phức tạp và cho rằng thế
mới là quan trọng. Hồ Anh Thái cũng là nhà văn có ý thức sử dụng bút pháp giễu
nhại thành công và phong cách trần thuật này ám cả vào giọng điệu của nhà
văn...Có thể nói rằng, chính nhờ bút pháp này mà vấn đề thân phận con người được
nhìn nhận một cách toàn diện, đa chiều và phong phú hơn.
Góp mặt trong những bút pháp nghệ thuật nở rợ sau thời kỳ đởi mới còn có
bút pháp tượng trưng. Đây là bút pháp được các nhà văn sử nhằm làm gia tăng chất
lượng, ý nghĩa của văn chương đồng thời tăng thêm sức mê hoặc của tác phẩm.
Trong tiểu thuyết, màu sắc tượng trưng thường hiện ra qua những chi tiết khác lạ so
với logic thông thường. Chẳng hạn nhân vật Mai Trừng trong Cõi người rung
chuông tận thế của Hồ Anh Thái. Mai Trừng hiện ra như mợt thiên sứ có sức mạnh
siêu nhiên, trừng phạt cái ác. Nhưng lạ là ở chỗ, kẻ ác nhìn thấy cô đã sợ, nhưng
những người yêu thương Mai Trừng cũng khơng thể gần cơ. Nhân vật này đã góp
phần đắc lực trong việc bộc lộ chủ đề tác phẩm: đề cao sức mạnh của cái thiện
trong cuộc chiến chống lại cái ác và chủ trương hóa giải hận thù. Trong Giàn

thiêu của Võ Thị Hảo, hình ảnh Từ Vinh dù đã chết vẫn đứng trên sông chỉ tay vào
nhà Diên Thành Hầu cũng là chi tiết giàu chất tượng trưng. Bút pháp tượng trưng
không chỉ thể hiện qua các chi tiết giàu tính nghệ thuật mà nó còn thể hiện trong
việc tổ chức cấu trúc tác phẩm và xây dựng hình tượng. Để thể hiện cái nhìn mới
về lịch sử, Võ Thị Hảo đã để cho các nhân vật trải qua nhiều kiếp, miêu tả tiếng
vọng của những oan hồn bị giết, thậm chí xoáy sâu vào những chi tiết mà các sử
gia đã bỏ qua hoặc không thật chú ý (trường hợp Ỷ Lan giết cung nữ). Nguyễn
Xuân Khánh cũng xây dựng hình tượng Sử Văn Hoa như mợt nhân vật có quan
điểm, có tiếng nói riêng khơng lệ thuộc vào quyền uy, không khuất phục sức mạnh
của những kẻ quyền thế. Rõ ràng, Nguyễn Xuân Khánh và Võ Thị Hảo có ý thức lý
giải lịch sử theo cách riêng và quan điểm của nhà văn không nhất thiết lúc nào cũng
trùng khít với lịch sử đã được ghi chép trong các bộ chính sử.
Bút pháp tượng trưng đặc biệt hiệu quả vì nó có khả năng tạo nên tính đa
nghĩa của tác phẩm, làm cho hình tượng trở nên “nhòe” nghĩa. Người đọc phải có
năng lực giải mã các hình tượng đẫm chất tượng trưng thì mới hiểu được chiều sâu
tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Hiện tượng này không chỉ diễn ra với tiểu thuyết
mà còn diễn ra trong truyện ngắn. Các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp
như Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Con gái thủy thần... đều mê hoặc người đọc

@edu.gmail.com.vn.bkc19134.hmu.edu.vn


×