Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Thân phận con người trong tiểu thuyết tạ duy anh nhìn từ tâm thức hiện sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
––––––––––––––––––––

BÙI VĂN CHUNG

THÂN PHẬN CON NGƯỜI
TRONG TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH
NHÌN TỪ TÂM THỨC HIỆN SINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN – 2015

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
––––––––––––––––––––

BÙI VĂN CHUNG

THÂN PHẬN CON NGƯỜI
TRONG TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH
NHÌN TỪ TÂM THỨC HIỆN SINH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21



LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRƯƠNG ĐĂNG DUNG

THÁI NGUYÊN – 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
cứ công trình nào khác.
Ngày 30 tháng 8 năm 2015
Tác giả luận văn

Bùi Văn Chung

ii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân

thành và sâu sắc nhất của mình tới PGS. TS. Trương Đăng Dung, người đã tận
tình chỉ bảo, hướng dẫn trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn các quý thầy cô trong Ban giám hiệu;
Khoa Ngữ Văn; Ban chủ nhiệm; quý thầy cô trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong
suốt thời gian học tập, nghiên cứu khoa học.
Và cuối cùng tôi xin cảm ơn BGH, các thầy cô giáo Trường THPT Yên Hòa,
những người thân trong gia đình, bạn bè đã luôn bên tôi chia sẻ với tôi những khó
khăn và giúp đỡ tôi rất nhiều để tôi có được thành quả như ngày hôm nay.

Ngày 30 tháng 8 năm 2015
Tác giả luận văn

Bùi Văn Chung

iii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




MỤC LỤC
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu ...................................................... 7
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 8
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 8

6. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 9
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................ 10
Chương 1. CHỦ NGHĨA HIỆN SINH TRONG TRIẾT HỌC VÀ VĂN HỌC 10
1.1. Nguồn gốc và cơ sở hình thành, phát triển của chủ nghĩa hiện sinh .......... 10
1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa hiện sinh ................................................................ 10
1.1.2. Hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa hiện sinh ............................................... 12
1.1.3. Những phạm trù cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh .................................... 13
1.2. Thân phận con người trong triết học hiện sinh ........................................... 16
1.2.1. Thân phận con người ............................................................................... 16
1.2.2. Ở con người tồn tại có trước bản chất ..................................................... 21
1.3. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh trong văn học .................................... 23
1.3.1. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh trong đời sống văn học Phương Tây.... 23
1.3.2. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh ở Việt Nam .................................... 31
Chương 2. CÁC DẠNG BIỂU HIỆN THÂN PHẬN CON NGƯỜI TRONG
TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH ..................................................................... 41
2.1. Con người trong thế giới phi lý .................................................................. 41
2.2. Con người lưu đày ...................................................................................... 53
iv
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




2.3. Con người cô đơn ....................................................................................... 59
2.4. Con người dấn thân..................................................................................... 65
Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN THÂN PHẬN CON NGƯỜI
TRONG TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH...................................................... 69
3.1. Kết cấu lắp ghép ......................................................................................... 69
3.2. Cốt truyện phân mảnh................................................................................. 77
3.3. Không gian - thời gian hiện sinh ................................................................ 81

3.3.1. Không gian hiện sinh ............................................................................... 81
3.3.2. Thời gian hiện sinh .................................................................................. 85
KẾT LUẬN....................................................................................................... 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 94

v
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong những năm gần đây, Tạ Duy Anh trở thành một gương mặt
nhà văn tiêu biểu, một hiện tượng văn học nổi bật với “những tác phẩm luôn
làm bạn đọc giật mình và suy ngẫm bởi những vấn đề gai góc của xã hội hiện
đại”. Anh đã làm “cháy” báo văn nghệ trên tất cả các sạp báo cả nước bằng
truyện ngắn Bước qua lời nguyền. Đặc biệt, với bốn cuốn tiểu thuyết: Lão Khổ,
Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối, Giã biệt bóng tối, Tạ Duy Anh đã dành
được chỗ đứng trong độc giả.
Cho đên nay, tiểu thuyết của Tạ Duy Anh không nhiều, nhưng qua đó,
độc giả có thể tìm thấy những chiêm nghiệm, triết lí về con người và đời sống,
tìm thấy những cách tân, thử nghiệm mới trong sáng tạo nghệ thuật thể hiện nội
dung tư tưởng tác phẩm của anh.
1.2. Chủ nghĩa hiện sinh là một trào lưu tư tưởng quan trọng có ảnh
hưởng mạnh mẽ ở phương Tây và đã có mặt ở Việt Nam hơn nửa thế kỷ nay,
nhưng việc nghiên cứu đánh giá về ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh trong
đời sống văn học chưa thỏa đáng. Sau 1986, với quan niệm mới về hiện thực,
về con người, văn học đã bám sát đời sống, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, bao quát được những vấn đề cơ bản của đời sống xã hội và số

phận con người trong sự vận động và phát triển, đáp ứng những đòi hỏi bức xúc
của công chúng.
Tìm hiểu văn xuôi, đặc biệt là tìm hiểu tiểu thuyết giai đoạn này sẽ giúp
chúng ta có được cái nhìn bao quát về đời sống văn học Việt Nam đương đại.
Với đặc thù của đời sống hiện đại là bề bộn, hỗn loạn, xói mòn, khủng hoảng
lòng tin, với những chuyển biến trong tư tưởng của người cầm bút. Một nền
văn học vừa bước ra khỏi chiến tranh, phải đối mặt với nhiều vấn đề mới nảy
sinh, không ít người viết lâm vào tình trạng bối rối, “chông chênh”, đã gây nên
những “khoảng chân không” trong văn học. Nhưng cũng chính thời gian này đã
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




diễn ra một cuộc vận động nội sinh ở chiều sâu của đời sống văn học, với
những trăn trở, vật vã, tìm tòi thầm lặng mà không kém phần quyết liệt của một
số nhà văn có mẫn cảm với những đòi hỏi của cuộc sống, có ý thức trách nhiệm
cao về ngòi bút của mình.
1.3. Tạ Duy Anh đã có những đóng góp rất đáng trân trọng vào cao trào
đổi mới văn học nói chung và tiểu thuyết Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, tiểu
thuyết của Tạ Duy Anh cho đến nay vẫn chưa được nghiên cứu một cách toàn
diện, hệ thống. Chính vì thế, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Thân phận con
người trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh nhìn từ tâm thức hiện sinh” nhằm
hướng tới khẳng định nét riêng trong cá tính sáng tạo tiểu thuyết, thành công và
phần đóng góp của Tạ Duy Anh. Đồng thời, ở một phạm vi nhất định, góp phần
làm sáng tỏ những vấn đề đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói
riêng và văn học đổi mới nói chung.
Từ những lí do trên tôi chọn đề tài luận văn của mình là “Thân phận con
người trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh nhìn từ tâm thức hiện sinh”.

2. Lịch sử vấn đề
Khảo sát quá trình lịch sử nghiên cứu về tiểu thuyết của Tạ Duy Anh, có
các dạng ý kiến: khái quát chung toàn bộ sáng tác của nhà văn và dạng bài viết
đi sâu phân tích từng khía cạnh vấn đề, từng tác phẩm cụ thể. Tạ Duy Anh đã
góp vào dòng tiểu thuyết đương đại một tiếng nói đáng kể vì những vấn đề
nhân sinh đặt ra trong tiểu thuyết của nhà văn.
Tạ Duy Anh đánh dấu sự xuất hiện của mình, một cây bút văn xuôi độc
đáo trong nền văn học bằng truyện ngắn Bước qua lời nguyền (1989), nhà thơ
Hoàng Minh Châu đã xem Tạ Duy Anh như là sự “báo hiệu về một tấm lòng
lớn, một tầm nhìn xa và một tài năng viết về số phận con người”. Quả thật, sau
khi làm “cháy” báo văn nghệ trên tất cả sạp báo cả nước, Tạ Duy Anh đã xoá
tan mối nghi ngờ trong nhiều người rằng anh sẽ quay về nhấm nháp niềm vinh
quang bằng việc cho ra đời cuốn tiểu thuyết Lão Khổ (1990), tác phẩm được
GS. Hoàng Ngọc Hiến đánh giá là “một cuốn tiểu thuyết rất quan trọng về thân
phận người nông dân Việt Nam” [4, tr.408].
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




Những tưởng, sau khi buộc độc giả phải tím đọc, phải trăn trở, suy tư về
những vấn đề gai góc của xã hội trong những năm thực hiện cải cách ruộng đất,
Lão Khổ cùng Tạ Duy Anh mất hút trong mắt độc giả. Nhưng không, hơn mười
năm sau, “trong khi văn đàn đang có dấu hiệu rệu rã, thì liên tiếp trong hai
năm, Tạ Duy Anh đã cho ra đời hai cuốn tiếu thuyết gây xôn xao dư luận trong
và ngoài nước, trước hết bởi sự kỳ lạ về hình thức và vấn đề nhức nhối mà nó
quan tâm” [4, tr.408]: Đi tìm nhân vật và Thiên thần sám hối.
Ngay khi vừa chào đời, Đi tìm nhân vật (2002) đã nhận được đủ lời
khen, tiếng chê. Trong bài Tạ Duy Anh đi tìm nhân vật, Trần Thị Trường cho

biết, đã lâu lắm rồi chị mới lại được đọc một cuốn tiểu thuyết thú vị như thế.
Tác giả bài báo đánh giá đây là cuốn tiểu thuyết đáng đọc nhất trong nhiều năm
trở lại đây, bởi nó đã hoàn toàn thoát khỏi lối viết truyền thống quen thuộc, đó
là hiện thực được che phủ bởi nhiều lớp mùng màn, miêu tả dầm dề, hành động
chậm chạp, ngôn ngữ sạch bóng trơn tru…ngoài ra, Đi tìm nhân vật còn cuốn
hút tác giả bài viết ở phương pháp tiếp cận hiện thực đa diện, đa chiều, ở nghệ
thuật xây dựng nhân vật, cách sử dụng ngôn ngữ phong phú, đa dạng và lối
hành văn hiền đại, giàu chất trí tuệ [41].
Phạm Xuân Nguyên, tác giả bài viết “Tôi đi tìm tôi” (Tiệp kí khi đọc Đi
tìm nhân vật của Tạ Duy Anh), sau khi đọc xong cuốn tiểu thuyết, anh mãi bị
ám ảnh bởi cái chết của thằng bé đánh giày. Anh tâm sự, anh cũng đã bắt đầu đi
tìm mình, và dường như, anh cảm thấy nhiều người cũng là tôi [35].
Trần Quang trong bài Đọc tiểu thuyết Đi tìm nhân vật công nhận: Đi tìm
nhân vật đã đánh dấu một bước tiến dài của Tạ Duy Anh về nghệ thuật thể loại,
bởi anh đã phá bỏ lối kể chuyện đơn tuyến và lối kết cấu mạch thẳng hay mạch
vòng của chủ nghĩa cấu trúc thô lậu. Xuyên suốt tác phẩm chỉ là cuộc tìm kiếm
không mệt mỏi để trả lời một câu hỏi cổ xưa: Ta là ai?. Tác giả đặc biệt chú ý
đến những đoạn cật vấn căng thẳng, những đoạn đối thoại kỳ thú có ở khắp các
trang tiểu thuyết Đi tìm nhân vật. Ngoài ra, tác giả bài viết còn phát hiện ra
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




điểm giống nhau giữa Tạ Duy Anh với nhà văn Nam Cao ở khả năng khám phá
những diến biến tâm lí phức tạp của nhân vật [37].
Thụy Khê ở Tạ Duy Anh, người đi tìm nhân vật khẳng định: “lời nguyền
và tội ác” là hai luận đề trong tác phẩm được nhà văn thể hiện qua những
hướng khác nhau trong bút pháp cũng như cách biến thiên nhân vật [28].

Dư luận về Đi tìm nhân vật chưa kịp lắng thì năm 2004, độc giả lại bị Tạ
Duy Anh làm cho mê mẩn bởi sự phá cách nghệ thuật trong tiểu thuyết Thiên
thần sám hối. Nhưng tiểu thuyết này có một số phận khá long đong, qua tay 7
nhà xuất bản, đến tháng 4 năm 2004 mới được in tại nhà xuất bản Đà nẵng.
Thật bất ngờ, cũng trong năm đó, Thiên thần sám hối được tái bản lần thứ 5 với
con số kỷ lục: 20.000 bản. Tất nhiên, tác phẩm cùng không tránh khỏi những
bình luận của báo giới và nhiều bạn đọc yêu thích tiểu thuyết Tạ Duy Anh.
Thiên thần sám hối được Nguyễn Hằng giới thiệu là “một thử nghiệm
mới trong sáng tạo, một thử nghiệm đầy day dứt, trong đó những yếu tố phi
lí, hoài nghi, liên thông, bất ngờ và mang đậm dấu ấn chủ quan, tạo nên cái
riêng của tác phẩm” [26].
Tác giả Ngô Thị Kim Cúc trong bài Đọc sách Thiên thần sám hối của
Tạ Duy Anh: Nếu các thiên thần biến mất trên báo Thanh Niên số ra ngày
21/05/2004 cho rằng, điều làm nên sức hấp dẫn của cuốn tiểu thuyết không
chỉ là “hiện thực tàn nhẫn tràn khắp các chi tiết”, mà còn ở chỗ, tác phẩm ít
nhiều bộc lộ niềm tin vào cuộc sống trước tình mẹ bao la và sự ra đời của
đứa trẻ [27].
Dương Thuấn trong bài Nét đặc sắc của Thiên thầm sám hối trên báo
điện tử www.Talawas.org số ra ngày 10/06/2004 Tạ Duy Anh nhìn nhận, Thiên
thần sám hối mang một lối viết hoàn toàn hiện đại. Điều đó được thể hiện rõ
nhất trong cách kể, cách dẫn chuyện, nghệ thuật mê hoặc bạn đọc. Đặc sắc hơn
cả là cách xây dựng nhân vật Tôi - đứa trẻ còn ba ngày nữa sẽ sinh đang nằm
trong bụng mẹ - của tác giả. Khác với tiểu thuyết truyền thống, nhân vật của Tạ
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




Duy Anh không xây dựng theo kiểu miêu tả diện mạo bên ngoài sao cho phù

hợp với ý nghĩa nội tâm, trau chuốt các lời thoại sao cho đẹp đẽ…mà “đứa trẻ”,
từ đầu đén cuối chuyện không nói bao giờ, chỉ thể hiện tư tưởng tình cảm qua ý
nghĩ. Bên cạnh đó, tác phẩm còn lôi cuốn bạn đọc ở giọng điệu hài hước với
dung lượng vừa phải, nhưng mang dáng vóc của một tác phẩm lớn. Tác phẩm
đã đem đến cho người đọc cả sự sảng khoái lẫn sự suy nghĩ chua chát, sâu
cay…, bởi toàn bộ câu chuyện là lời kể của một đứa trẻ ba ngày cuối cùng
trong bụng mẹ. Đó là nét đặc sắc và cũng là sự bí ẩn không chỉ đối với người
đọc ngày hôm nay mà còn mai sau [42].
Báo Thể thao và Văn hoá số 47 năm 2004 có nhận xét: “Tiểu thuyết mới
nhất của Tạ Duy Anh, Thiên thần sám hối, gọn nhẹ và giản dị về hình
thức…chứa đựng những ấn số lớn về con người và nhân thế”, tác giả bài viết
còn nhấn mạnh: “có thể coi ông là nhà văn của đạo đức. Văn chương ông có
lúc hiện lên bằng gương mặt thế sự, đau đáu riết róng chuyện thánh thiện, tàn
ác, liêm sỉ, và vô lương…nhưng không phải như khái niệm truyền báo chết khô,
mà thông qua sự cảm nhận đau đớn về số phận…” [43].
Báo Pháp Luật số 140 năm 2004 trong bài phỏng vấn nhà văn của Chu Thị
Thơm cũng nhận định: “Tạ Duy Anh là tác giả của những tác phẩm luôn làm bạn
đọc giật mình và suy ngẫm bởi những vấn đề gai góc của xã hội hiện đại. Ông
cũng là tác giả tâm huyết, trăn trở với số phận con người, nhất là khi họ bị rơi vào
tình trạng khủng hoảng nhân cách. Trong lăng kính đa chiều, Tạ Duy Anh đã nhìn
hiện thực một cách lý trí lạnh lùng nhưng cũng đầy thương xót con người - để qua
đó mổ xẻ nhân vật mình với khát vọng của một cây bút hiện thực - với những trăn
trở, suy ngẫm trước những vấn đề mang tính thời sự” [40].
Tác giả bài viết Tạ Duy Anh giữa lằn ranh thiện ác của Việt Hoài trên
báo Tuổi trẻ cũng góp thêm nhận xét về nhân vật của anh, đó là những nhân vật
nhờ nhờ, xam xám về ngoại hình, song về bản chất con người thì luôn ở ranh
giới thiện - ác. Phải chăng, “anh đang tìm về thế giới của cái ác để lay thức cái
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





thiện” và buộc người đọc phải có cái nhìn thẳng vào sự thật chua chát của
cuộc sống và con người hiện đại” [4, tr.419].
Trong các trường đại học có một số luận văn Thạc sĩ, khoá luận tốt
nghiệp về các tác phẩm của Tạ Duy Anh. Có thể kể như Nguyễn Thị Mai Loan
(2004), Nông thôn trong sáng tác của Tạ Duy Anh, luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn,
ĐHSP, Hà Nội; Nguyễn Thị Ninh (2005), Thế giới nghệ thuật Tạ Duy Anh,
luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn, ĐHSP, Hà Nội; Nguyễn Thị Hồng Giang (2005) Tạ
Duy Anh và việc làm mới nghệ thuật tiểu thuyết, luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn,
ĐHSP, Hà Nội; Cao Tố Nga (2006), Cảm thức về cái phi lí trong sáng tác của
Tạ Duy Anh, luận văn Thạc sĩ, ĐHSP, Hà Nội; Vũ Lê Lan Hương (2006), Thế
giới nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh, luận văn Thạc sĩ, ĐHSP, Hà Nội;
Võ Thị Thanh Hà (2006), Nhân vật tiểu thuyết Tạ Duy Anh, luận văn Thạc sĩ,
ĐHV, Nghệ An; Nguyễn Thị Kim Lan (2006), Nghệ thuật kết cấu trong một số
tiểu thuyết huyền ảo triết luận của Tạ Duy Anh, Châu Diên, Hồ Anh Thái,
ĐHSP, Hà Nội; Nguyễn Tiến Hùng (2008), Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết
Tạ Duy Anh, luận văn Thạc sĩ, ĐHSP, Hà Nội…
Trên đây là những bài viết, những công trình nghiên cứu về tiểu thuyết
Tạ Duy Anh, dù khen hay chê, các nhà nghiên cứu đều nhằm khẳng định:
Một là, Tạ Duy Anh luôn mang trong mình nỗi trăn trở, băn khoăn về số
phận con người và hiện thực cuộc sống. Ngòi bút của nhà văn đã gióng lên hồi
chuông cảnh tỉnh cái ác và lay thức cái thiện. Đối diện với hiện thực khốc liệt,
anh không “ngần ngại chạm vào những chủ đề gai góc của xã hội hiện đại và
tìm cách lí giải nó” [4, tr.383]. Anh mong muốn vì những trang tiểu thuyết của
mình mà cái ác mỗi ngày ít đi một chút, một chút như những hạt bụi.
Hai là, nhà văn có đạo đức, có trách nhiệm cao đối với nghề - Anh quan
niệm viết đương nhiên là một nghề, nó đòi hỏi chuyên môn sáng tác cao.
Tạ Duy Anh đánh giá rất cao việc tìm tòi, đổi mới kĩ thuật viết. Tiểu

thuyết của anh đã thoát ly hoàn toàn lối sáng tác của tiểu thuyết truyền thống.
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




Nó mang vẻ đẹp cách tân về thể loại, đổi mới từ quan niệm nghệ thuật về con
người, về cách xây dựng nhân vật…đến ngôn ngữ, giọng điệu…
Tiểu thuyết Tạ Duy Anh sẽ còn làm cho dư luận chưa thể đặt dấu chấm
hết cho những lời bình, những lời nhận xét và cả những công trình nghiên cứu.
Tuy nhiên qua khảo sát lịch sử nghiên cứu về tiểu thuyết Tạ Duy Anh,
chúng tôi nhận thấy: cho đến nay, vẫn chưa có những công trình nghiên cứu
một cách hệ thống toàn bộ tiểu thuyết của nhà văn dưới cái nhìn của chủ nghĩa
hiện sinh. Chọn nghiên cứu đề tài Thân phận con người trong tiểu thuyết Tạ
Duy Anh nhìn từ tâm thức hiện sinh này, luận văn của chúng tôi sẽ đi sâu
khảo sát toàn diện, hệ thống sáng tác tiểu thuyết của Tạ Duy Anh từ tâm thức
hiện sinh, từ đó, khẳng định phần thành công, đóng góp của nhà văn vào sự đổi
mới của văn học Việt Nam nói chung và sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam
đương đại nói riêng.
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Mục đích chính của luận văn là sẽ nghiên cứu
những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong việc khắc họa thân phận con
người trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh nhìn từ tâm thức hiện sinh ở một số
phương diện cơ bản nhất.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Trong luận văn chúng tôi tập trung nghiên cứu ở
các phương diện: con người trong quan niệm của chủ nghĩa hiện sinh, con
người hiện sinh trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh, nghệ thuật miêu tả con
người hiện sinh trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh.
3.3. Phạm vi nghiên cứu: Do hạn chế về tư liệu, chúng tôi sẽ khảo sát qua các

tiểu thuyết tiêu biểu của ông:
Luận văn chủ yếu tập trung khảo sát ba cuốn tiểu thuyết của Tạ Duy Anh,
bao gồm: Lão Khổ, 1992, Nxb Văn học; Đi tìm nhân vật, 2002, NXB Văn hóa dân
tộc; Thiên thần sám hối, 2004, NXB Đà Nẵng. Để có cơ sở so sánh, làm nổi bật
những nét đặc sắc của tiểu thuyết của Tạ Duy Anh, trong quá trình nghiên cứu,
chúng tôi cũng khảo sát những tiểu thuyết của nhà văn và một số tiểu thuyết tiêu
biểu trong thời kì đổi mới cùng một số tiểu thuyết hiện đại trên thế giới.
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




3.4. Nhiệm vụ nghiên cứu: Nhiệm vụ của luận văn là đưa ra một cái nhìn
khái quát về tiểu thuyết Tạ Duy Anh dưới cái nhìn của tâm thức hiện sinh
trong bối cảnh của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Khảo sát, phân tích,
xác định các phương diện cơ bản nhất của nội dung và nghệ thuật trong
việc thể hiện thân phận con người trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh dưới ánh
sáng của tâm thức hiện sinh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được triển khai theo phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp
kết hợp một số thao tác chứng minh, đối chiếu, so sánh để làm nổi bật vấn đề.
Ngoài ra để làm nổi bật sự cách tân trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh dưới tâm
thức hiện sinh với các nhà văn khác cùng thời trong nên văn học dân tộc, tôi đặt
hoàn cảnh ra đời và thời điểm xuất hiện tác phẩm trong tiến trình chung của
văn học dân tộc và thế giới, đối chiếu và so sánh tiểu thuyết của ông với một số
tiểu thuyết của một số nhà văn khác.
Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các kiến thức liên ngành: hệ thống lí
thuyết về tự sự học, thi pháp học, triết học…để tìm hiểu nghệ thuật miêu tả
thân phân con người trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh.

Để triển khai luận văn, chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu
chủ yếu sau: Phương pháp nghiên cứu theo đặc trưng thể loại, phương pháp phân
tích, phương pháp hệ thống, tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn của tôi muốn qua thể loại tiểu thuyết để khẳng định nét riêng
trong cá tính sáng tạo của Tạ Duy Anh, những thành công và phần đóng góp
của nhà văn vào công cuộc đổi mới văn học. Đồng thời, qua đó, ở một góc độ
nhất định, chúng tôi cũng làm sáng tỏ những vấn đề đổi mới của tiểu thuyết
Việt Nam đương đại nói riêng và văn học đổi mới nói chung.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu hữu ích đối với
những người nghiên cứu tiểu thuyết Tạ Duy Anh nói chung và chủ nghĩa hiện
sinh nói riêng.
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Chủ nghĩa hiện sinh trong triết học và văn học
Chương 2: Các dạng biểu hiện con người mang tâm thức hiện sinh trong tiểu
thuyết Tạ Duy Anh
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện con người mang tâm thức hiện sinh trong
tiểu thuyết Tạ Duy Anh.

9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CHỦ NGHĨA HIỆN SINH TRONG TRIẾT HỌC VÀ VĂN HỌC
1.1. Nguồn gốc và cơ sở hình thành, phát triển của chủ nghĩa hiện sinh
1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh là một phong trào triết học nở rộ sau đại chiến thế
giới lần thứ hai. Trào lưu triết học học này ảnh hưởng to lớn đến nhiều khuynh
hướng của triết học và văn học nghệ thuật hiện đại của các nước phương Tây.
Chủ nghĩa hiện sinh không chỉ được bàn luận sôi nổi đề cập phong phú trong
những lý thuyết triết học, mà còn thâm nhập vào đời sống, tạo nên một lối sống
mang tên chủ nghĩa này được tán dương, ưa chuộng nhất trong nhiều nước
phương Tây sau đại chiến. Giai đoạn thịnh vượng của chủ nghĩa hiện sinh là
những năm 50 mươi và những năm 60 mươi của thế kỷ XX.
Theo Từ điển Thuật ngữ văn học định nghĩa thì Chủ nghĩa hiện sinh
(tiếng Pháp: existentialisme), một trào lưu văn học xuất hiện ở châu Âu, trước
hết là ở Pháp, vào những năm trước và sau chiến tranh thế giới thứ hai và tiếp
đó lan rộng nhanh chóng sang một số nước khác trên thế giới. Ngay trong tư
tưởng triết học của họ không hoàn toàn đồng nhất. Có người hữu thần, có
người vô thần, song họ giống nhau ở tư tưởng bi quan sâu sắc đối với con
người và cuộc sống. Các nhà tư tưởng của chủ nghĩa hiện sinh cho rằng thế giới
ngày nay mọi giá trị tinh thần đang mất hết ý nghĩa mà không thể bù đắp lại
được. Điều đó sẽ dẫn tới thảm kịch truyền kiếp “thân phận con người” mà nhà
triết học Đan Mạch Kiếckơgơ thế kỷ XIX, đã nói đến trong các thuyết về tội lỗi
của con người ở “một thời đại mất chúa” (thực chất là sự qian niệm về sự mất ý
nghĩa của cuộc sống). Theo họ, con người đang bị bỏ rơi trong nỗi cô đơn giữa
cái hiện hữu thù nghịch, cho nên cuộc đời chỉ là mọi sự vô nghĩa “sự vô nghĩa
sinh ra từ sự đối chiếu giữa lời kêu gọi của con người và sự im lặng của cuộc

đời” (A.Camus) [23, tr.75].
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




Để khắc phục tình trạng ấy, xuất phát từ một quan niệm duy tâm về bản
chất con người, trong mệnh đề triết học khá tiêu biểu của họ “cái hiện sinh có
trước bản chất”, các nhà hiện sinh chủ nghĩa kêu gọi con người quay về với cá
nhân mình, “dựa vào cái mình có để không ngừng nâng cao mình lên”, để “tự
do sáng tạo ra mình bằng mỗi hành động của mình, tự do mang đến sự sinh tồn
của mình một ý nghĩa và trở thành cái mà trước đây mình không phải như thế”
(jean Paul Sartre). Các khái niệm “dấn thân” và “nhập cuộc”mà các nhà chủ
nghĩa hiện sinh thường nói tới chỉ là sự diễn đạt quan niệm và hành động tự do
sáng tạo ra “con đường riêng của mình”, như một sự cần thiết lựa chọn của bản
thân mình trong những “tình huống bên bờ vực thẳm” đầy bi kịch, bất chấp tiêu
chuẩn đạo đức không tính đến động cơ, hiệu quả. Như vậy, họ hành động trước
hết vì các nhân mình, vì sự tự vượt lên mình.
Theo Từ điển văn học (bộ mới), theo quan điểm của chủ nghĩa hiện sinh:
nhận thức duy lý là bất cập đối với hiện sinh của con người; nhưng hiện sinh lại
có thể được khám phá bằng sự trải nghiệm trực tiếp; bởi vậy có thể miêu tả nó
gần với cung cách miêu tả của nghệ thuật. Trung tâm chú ý của các nhà hiện
sinh là vấn đề các nhân và các quan hệ của nó với thế giới, với những người
khác và với chúa trời. Giọng điệu chung thể hiện tâm trạng bi quan, bi đát. Chủ
nghĩa hiện sinh là triết học của sự khủng hoảng; không phải ngẫu nhiên mà nó
nảy sinh vào thời kỳ của những chấn động và tai biến của xã hội [25, tr.279].
Khi nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh người ta thấy đây không phải một
trao lưu triết học thuần nhất mà là triết học khá phức tạp ở nội dung những lý
thuyết cũng như trong những biến thế của chúng, chính vì vậy có nhà nghiên

cứu đã nói rằng: “có bao nhiêu nhà triết học hiện sinh thì có bấy nhiêu chủ
nghĩa hiện sinh”. Nhưng có một điều mà tất cả những nhà triết học hiện sinh
đều thống nhất và đồng tình với nhau rằng triết học của họ khác với mọi triết
học đã có dành mọi ưu tiên cho việc nghiên cứu con người. Các nhà triết học
hiện sinh nói như vậy không có nghĩa họ phủ nhận các triết học, các trào lưu,
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




khuynh hướng triết học trong quá khứ đã không nghiên cứu vấn đề con người
hay đã “bỏ quên” hoàn toàn vấn đề con người như một vài nhà nghiên cứu đã
gắn cho họ những lời trách cứ ấy. Theo quan điểm của những nhà triết học hiên
sinh việc nghiên cứu con người trong những triết học trước đây chưa đi vào
thực chất của vấn đề con người để tìm hiểu, nghiên cứu. Và họ đã đưa ra quan
điểm, lập trường của họ về vấn đề này.
1.1.2. Hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa hiện sinh
Khi nghiên cứu nguồn gốc về hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa hiện sinh,
nhiều nhà nghiên cứu thường nhắc đên nguyên nhân xã hội đó là chiến tranh,
đặc biệt là hai cuộc đại chiến thế giới khốc liệt - là hoàn cảnh quyết định để
hình thành và phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa hiện sinh. Những cuộc tranh
này đã cuốn hút châu Âu vào cuộc chém giết liên miên, làm cho dân chúng
châu Âu đặc biệt là tầng lớp thanh niên cảm thấy mình “như những con số vô
danh”, “những tấm thẻ vô hồn” trong bộ máy chiến tranh khổng lồ. Nhân tính
con người đã được thay thế bằng “con người thú tính” trong các quân đội phát
xít. Người dân châu Âu thấy rõ cơ cấu xã hội của họ đã bị lung lay đến tận gốc
rễ: chính trị, pháp luật, lý luận, tôn giáo…đều trở thành những trò thực dụng,
dối trá lừa bịp tiếp tay cho tọi ác nên đã làm cho nhiều người mất hết tin tưởng,
nghi ngờ mọi giá trị, dẫn đến những tư tưởng bi quan, thất vọng. Con người

sống trong lo âu, chán nản và thấy cuộc đời thật vô nghĩa, phi lý từ đó làm cho
hiện tượng tha hóa của con người ngày càng trầm trong, cá tính con người mất
đi, tự do của con người bị tước đoạt, con người bị chi phối của vật và tất cả sức
mánh tha hóa trong xã hội hiện đại đầy mâu thuẫn và khủng hoảng. Vấn đề
cuộc sống con người và thân phận con người mà chủ nghĩa hiện sinh đề cập tới
đã có từ lúc con người bắt đầu biết suy nghĩ, biết tư duy về sự hiện diện của
mình trên cõi đời
Con người là ai? Ai sinh ra con người? Con người sẽ sống ra sao? Và
sống theo cách nào? Cuộc đời của người đến lúc nào mới hết đau khổ, mới hết
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




buồn phiền, lo âu? Con người có hoàn toàn bất lực không? Con người có chống
lại được cái chết không? Con người hiểu biết tới mức nào? Sức mạnh của con
người có tới đâu?…Đó là những câu hỏi đặt ra với con người từ rất sớm và
càng trở thành thường xuyên hơn, gay gắt hơn, sâu sắc hơn tư khi chủ nghĩa
hiện sinh ra đời. Và theo họ, đây chính là những cơ sở, nguồn gốc trực tiếp, căn
bản để hình thành và phát triển chủ nghĩa hiện sinh.
Các nhà nghiên cứu mác-xít còn đưa thêm một nguyên nhân sâu xa và
bao quát hơn: đó chính là những mâu thuẫn, những sự bất công giữa những con
người sống trong những xã hội dựa trên bóc lột, và biêu hiện rõ nhất trong xã
hội tư bản, nói khác đi là trong nền văn minh tư sản.
Chủ nghĩa hiện sinh ra đời không phải ngẫu nhiên, xét về mặt lý luận, nó
là sự kế tục truyền thống của chủ nghĩa phi lý tính đã tồn tại rất sớm trong triết
học phương Tây.Truyền thống này có từ nên văn hóa Hy Lạp cổ đại. Những
người theo chủ nghĩa hiện sinh cũng tìm thấy được yếu tố tư tưởng chủ yếu của
mình trong thần học đạo cơ đốc, đặc biệt là trong thuyết giáo về tín ngưỡng cao

hơn lý tính của cha cố Augustinus. Nguyên tắc chủ nghĩa chủ quan “tôi suy
nghĩ nên tôi tồn tại” của Descartes thời cận đại, nhân tố chủ nghĩa phi lý tính
trong triết học của con người của Blaise - Pascal (1623-1662), Kant, Schelling
cùng với một số tư tưởng nào đó của nhà văn F.M.Dostoevsky đã được không
ít những người theo chủ nghĩa hiện sinh thường viện dẫn. Còn quan hệ giữa
chủ nghĩa phi lý tính của Phương Tây hiện đại như chủ nghĩa duy ý chí (đặc
biệt là triết học của Nietzsche và triết học sinh mệnh) với chủ nghĩa hiện sinh
lại càng mật thiết hơn. Ở mức độ nhất định, chủ nghĩa hiện sinh là sự phát triển
và đi sâu hơn tư tưởng triết học chủ nghĩa phi lý tính của nó trước đây.
1.1.3. Những phạm trù cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh
Kiếckơgơ (1813-1855) được coi là ông tổ của chủ nghĩa hiện sinh hiện
đại. Ông quan niệm “chỉ có cá nhân có thể quyết định rằng nó thật sự ở trong
sự khủng hoảng hay nó là một kỵ sĩ của niềm tin”. Nói cá nhân, ông nêu khái
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




niệm hiện sinh như đó là cái sống đích thực của cá nhân. Con người luôn bất
hạnh vì nó bị gạt ra ngoài bản thân nó, con người sống bằng hồi tưởng quá khứ
hay bằng hy vọng tương lai, điều đó có nghĩa là ngay lúc đó, nó không đạt
được cái sống đích thực của nó, tức nó không hiện hữu. Đối với ông điều đáng
kể là cá nhân hiện hữu (hiện sinh).
Hiện sinh là trạng thái tình cảm qua đó cá nhân thấy được cái hữu hạn và
cái vô hạn, cái khoảnh khắc và cái vĩnh cửu thống nhất với nhau. Hiện sinh
không thể định nghĩa mà chỉ có thể mô tả. Kiếckơgơ cho rằng nhiệm vụ của
nhà tư duy chủ quan là mô tả hiện sinh trực tiếp, làm cho chúng ta biết thế nào
là hữu thể người, thế nào là hiện sinh một cách con người. Những nét cơ bản
mà ông rút ra từ sự mô tả trực tiếp ấy, ông gọi là những “phạm trù” - những

phạm trù hiện sinh (phạm trù theo cách hiểu của Kiếckơgơ không có nghĩa là
những khái niệm chung nhất phân chia các thuộc tính của phán đoán thành từng
cụm, và cũng không phải là những quy luật của tinh thần chỉ cho ta cách tập
hợp các hiện tượng của kinh nghiệm để hiểu biết nó. Như vậy “phạm trù” sẽ là
những yếu tố trừu tượng, phổ biến và có tính năng. Theo Kiếckơgơ “phạm trù”
là những tính cách cụ thể, không thể tư duy, không thể giải thích, những tính
cách cụ thể ấy là cá tính của mỗi người được nhận định như cái hiện sinh cụ
thể. Kiếckơgơ đưa ra những phạm trù hiện sinh chính sau:
Phạm trù cái duy nhất. Trong cuộc đời không một người nào giống
người nào, không thể có hai người tuyệt đối như hệt nhau, hai người đồng nhất.
Là một cá nhân, mỗi người là một đơn vị riêng biệt, một thế giới riêng biệt, một
cái đơn nhất, khác với người bên cạnh. Mỗi người có một thân xác riêng, một
cuộc sống riêng tư, những tình cảm, suy tư riêng. Không ai sống, sinh tồn thay
cho tôi được. Mỗi người là một cái độc đáo và như vậy là một trường hợp đặc
biệt. Con người là một hữu thể đơn độc.
Phạm trù cái huyền bí. Mỗi một người là một vũ trụ đóng kín, mỗi ý
thức là một thế giới không thể thông tin đầy đủ với bên ngoài, những biểu hiện,
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




ngôn ngữ của người ta hết sức trừu tượng, nghèo nàn, mờ nhạt, khô cứng so với
tâm hồn phong phú, sôi động, với muôn ngàn đợt song xô đẩy. Làm sao có thể
thông tin với người khác cái thế giới bên trong phức tạp như thế? Lý trí, tư duy
trừu tượng, trí tuệ chỉ cung cấp cho tôi một hình bóng chết, những ý nghĩ chung
chung và máy móc, mơ hồ và im lìm về một con người chứ không đi sâu vào cá
tính cụ thể của nó.
Phạm trù cái sinh thành. Con người là một hữu thể sống, nó không tồn

tại im lìm, bất động, nó luôn luôn vươn tới. Hiện sinh là một sức năng động
tích cực, là một hữu thể luôn luôn biến chuyển, một cố gắng liên tục để tự vượt
qua nó, tự chinh phục nó, để trở thành nó. Tiêu cực, chờ đợi, thụ động, không
phải là dấu hiệu của hiện sinh, không biến đổi chỉ là phản ánh yếu ớt của thế
giới. Đặc điểm của hiện sinh là cái sinh thành.
Phạm trù lựa chọn. Tự do là một đặc tính riêng của con người, tự do là
cơ sở của cá tính, là điều kiện của sự vươn tới. Có tự do mới có cá tính, không
có tự do con người sẽ không có nhân cách, mà chỉ là một cái bóng của những
lực lượng tự nhiên. Kiếckơgơ, là một sự khởi đầu “tuyệt đối” tức là phi lý tính
và ngẫu nhiên, hành động tự do là một hành động phi lôgíc không thể giải
thích, không có nguyên nhân. Lựa chọn cái gì, cuối cùng, tức là tự lựa chọn.
Người ta lựa chọn trở thành cái không phải cái người ta hiện nay. Trong triết
học hiện sinh, tự do, lựa chọn có một vị trí quyết định, bởi vì đó là “bước nhảy
siêu nghiệm” từ tồn tại sang hiện sinh.
Phạm trù lo âu. Con người là một hữu thể mang lo âu trong bản thân nó.
Lo âu, theo Kiếckơgơ và triết học hiện sinh không phải là sự khiếp sợ một cái
gì cụ thể, nó không có đối tượng trực tiếp. Con người, bất kì ai dù là sung
sướng nhất cũng đầy lo âu đơn giản vì là con người. Con người là một hữu thể
đơn độc, một thế giới đóng kín và mang một trách nhiệm nặng nề với bản thân
nó. Con người là cái hữu hạn đối lập với cái vô hạn, con người như vậy đảm
nhiệm “thân phận đau khổ” của nó và không thể không đi tới diệt vong tức là
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




cái tuyệt vọng tuy nhiên theo Kiếckơgơ cái tiêu vong lại là con đường giải thoát
cho nó, tuyệt vọng mở cho nó con đường hướng cái vĩnh cửu, cái vô hạn. Lo âu
và tuyệt vọng gắn liền với nhau, cái sau là tận cùng của cái trước. Tuyệt vọng

là sự phủ định hữu hạn, là cánh cửa mở đến cái tuyệt đối.
Đó là những phạm trù hiện sinh cơ bản về con người, về hiện sinh cụ thể.
Những “phạm trù” ấy là cơ sở của chủ nghĩa hiện sinh hiện đại.
1.2. Thân phận con người trong triết học hiện sinh
Cũng như những trào lưu triết học lớn khác, các nhà triết học của chủ
nghĩa hiện sinh đã bàn đến những vấn đề quan trọng nhất của triết học: vấn đề
bản thể luận, vấn đề con người, vấn đề nhận thức luận, vấn đề thượng đế…triết
học hiện sinh không trình bày những vấn đề triết học của họ một cách có hệ
thống, hay theo kiểu chương mục như triết học cổ điển, truyền thống mà trình
bày những vấn đề triết học thông qua các cuốn tiểu thuyết, kịch huyền thoại,
hay các luận đề triết học…Nói như vậy không có nghĩa ở mọi lúc, ở mọi nhà
triết học hiện sinh đều làm như vậy mà cũng có lúc cũng có nhà triết học hiện
sinh đã trình bày những vấn đề triết học theo cách thức của triết học truyền
thống như Heidegger, Merleau Ponty, một phần quan trọng trong triết học của
J.P.Sartre hay một số nhà triết gia hiện sinh khác.
1.2.1. Thân phận con người
Vấn đề thân phận con người đã được các nhà triết học hiện sinh quan
tâm một cách sâu sắc. Tuy nhiên, nhìn chung họ đều có cái nhìn tiêu cực về
thân phận con người. Một số nhà triết học hiện sinh cho rằng, bản chất con
người đã không mỉm cười mà cất tiếng khóc chào đời. Theo họ, nỗi đau khổ là
vì cuộc đời con người là một lỗi lầm. Lỗi lầm căn bản của con người nằm ngay
trong giới hạn và yếu hèn của chính cuộc đời. Con người thấy mình là tất cả,
nhưng đồng thời lại chẳng là gì cả. Con người cũng thấy mình luôn luôn hướng
về cái hoàn thiện, toàn mỹ, những cõi vô cùng, nhưng con người lại thấy mình
hạn chế, bản chất còn nhiều thiếu sót, khuyết điểm, con người cũng thấy chân
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





mình chạm đất như nhiều sinh vật khác, nhưng lại khác với mọi loài sinh vật,
đầu óc con người luôn luôn hướng lên trời… nhưng rốt cuộc, con người không
thể giải quyết được những mâu thuẫn ấy và luôn luôn sống trong trạng thái bi
kịch vì năng lực bản thân, vì thực tại tăm tối.
Thân phận của con người hay cái kiếp của con người luôn luôn phải sống
ở cái thế mâu thuẫn như vậy, theo Jaspers còn thấy rõ ở sự vật lộn đấu tranh
bền bỉ của con người trong cuộc sống hàng ngày giữa cái mà ông gọi là: “qui
pháp ban ngày” tượng trưng cho những gì sáng sủa, minh bạch, qui tắc, trật tự,
có đức, có nghĩa, có tín…và “đam mê ban đêm” là những tượng trưng cho
những điều con người nhìn nhận một cách mơ hồ, mọi sự vật dường như bị
biến dạng, biến hình lúc thế này, khi thế khác, chuyển đổi sinh động phong phú
làm ta nhìn nhận không thể rõ ràng, những điều này là do những đam mê của
con người gây nên. “qui pháp ban ngày” là lý trí đanh thép, con “đam mê ban
đêm” là tình cảm tuôn trào. “qui pháp bàn ngày” là những gì thuộc về những
qui chế, những phép tắc, luật lệ đạo đức, phong tục,tập quán, truyền thống, tôn
giáo, dư luận…con “đam mê ban đêm” là những gì phóng túng, thác loạn của
tình cảm, thậm chí đó là những tình cảm mù lòa, tối tăm, vô thức. Sự “đam mê
ban đêm” có thẻ phá bỏ mọi trật tự, phép tắc, lề thói trong mọi lĩnh vực (đạo
đức, lối sống, tôn giáo…) mà được “qui pháp ban ngày” xây dựng nên. Nói
tóm lại “đam mê ban đêm” chính là những tình cảm được bắt nguồn từ những
nơi sâu thẳm nhất, bí ẩn nhất trong con người, chúng co sức mạnh thật lớn lao,
nhiều khi không có một lực lượng vật chất, tinh thần nào tiêu diệt, chôn vùi
được. Hủy diệt đam mê là hủy diệt mầm mống sinh tồn. Đam mê và lý trí
tương tự như cực âm và cực dương trong một vật thể. Chúng là hai mặt khắng
khít như hình với bóng của một thực thể người. Người chính là đam mê và lý
trí. Và theo những nhà triết học hiện sinh tất cả mọi thiên tài của nghệ thuật văn
chương, triết học…đều là những con người đã thực hiện một cách cao độ
những đòi hỏi của đam mê và lý trí trong đời sống của họ. Và lịch sử của vũ
17

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




trụ, của nhân loại chính là lịch sử của sự đấu tranh không ngừng giữa thần ánh
sáng và bóng tối, giữa lý trí và đam mê, giữa thiện và ác. Những người theo
chủ nghĩa hiện sinh cho rằng mãi mãi không thể có sự hòa hợp giữa những lực
lượng đối chọi này, và cũng khó có thể phân biệt, nhân xét một cách rõ rang,
rành mạch giữa ánh sáng và bóng tối, giữa lý trí và đam mê bên nào là tiêu cực,
là có lỗi hơn bên nào. Theo Jaspers, lỗi lớn nhất chính là sự từ chối không chấp
nhận những khả năng khác nhau, không có đêm thì cũng không có ngày, và cái
điều đáng nói nhất chính là con người không thể sống hoàn toàn trong ánh sáng
ban ngày mà không cần đến những bóng tối ban đêm. Đây chính là bi kịch của
con người. Con người không thể trở nên hoàn thiện, toàn mỹ được nếu không
có một cuộc đời siêu vượt. Chính vì thế nên Jaspers cho rằng người là hiện
sinh, là một hữu (tồn tại) luôn luôn trong thế thất bại. Nhưng có thất bại và
càng thất bại mới hiểu được hiện sinh..
Martin Heidegger cảm thấy con người sống trong trần thế như những kẻ
bị bỏ rơi, những kẻ bị lưu đầy. Con người hiện diện trong cuộc đời nhưng
không biết minh đi từ đâu tới và cũng không biết mình sẽ đi về đâu. Con người
chỉ biết mình tồn tại trong trần gian, bị ném vào một thế giới xa lạ, phi ngã,
trong đó con người không có sự nương tựa chống đỡ nào khác ngoài chính
hoàn cảnh sống của mình, vì thế con người luôn luôn cảm thấy cô đơn, ghẻ
lạnh, tuy vậy con người vẫn luôn luôn tạo cho mình một cuộc sống, tự mình
làm cho đời mình có ý nghĩa, tự mình sáng tạo nên mình - tức là con người tự
làm nên mình, tự tạo ra mình trong sự ruồng bỏ. Vì vậy, Heidegger gọi thế giới
hoàn cảnh con người đang sống vừa là chốn lưu đầy nhưng vừa là cố hương.
Thân phận con người phải sống trong một tình trạng như vậy nên lúc nào cũng
cảm thấy kinh hoàng, lo âu. Con người luôn ở trong trạng thái kinh hoàng, lo

âu, sợ hãi là vì thấy trong đời sống có nhiều điều bất ổn, hiểm nguy, thiếu sự an
toàn, đó là tâm trạng của những thân phận sống ở nơi đất khách quê người,
sống trong chốn lưu đầy của trần thế.
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




Con người luôn luôn sống trong tâm trạng kinh hoàng, lo âu, sợ hãi còn
là ví lúc nào cũng phải đối mặt với cái chết, dù con người cố tìm đủ mọi cách
chạy chốn chạy để xa lánh cái chết. Cái chết có thể đến với con người bất cứ
lúc nào, bất kỳ nơi đâu. Nhưng chính do cái chết là một khả năng hiện thực
luôn luôn đe dọa con người, nên con người càng thấy trách nhiệm nặng nề, lớn
lao của mình trong lúc sống. Và cũng do vì sống tức là đang đi về cái chết, mà
theo Heidegger là “đi trước vào trong cái chết”, nên con người càng cần phải
nhận thức rõ cảnh ngộ của mình để có những lựa chọn đúng đắn và có ý nghĩa
cho những hành động ở đời. Những nhà hiện sinh không nhìn những tâm trạng
kinh hoàng, lo âu của con người là những điều hoàn toàn tiêu cực. Theo
Heidegger thì chính những điều đó lại là nguồn gốc của mọi sự bận rộn, mọi sự
cố gắng, nhiệt tình, thiết tha với cuộc sống và đồng thời cũng chính là động cơ
để thúc đẩy, khính lệ mọi hoạt động, mọi sự dồn bước của con người trong
những năm tháng sống trong cuộc đời.
A.Camus nhìn thân phận con người ở khía cạnh: đời là vô nghĩa lý. Con
người luôn phải sống trong thế giới vô nghĩa và phi lý, cái thế giới mà ông gọi
là “thế giới tầm thường, ghẻ lạnh - thế giới không có người”. Còn J.P.Sartre thì
phát hiện thấy đời người là kinh tởm, đáng buồn nôn. Những theo A.Camus và
J.P.Sartre: con người thấy đời là vô nghĩa, phi lý, đáng buồn nôn thật đấy,
nhung con người không thể thôi băn khoăn cho thân phận của mình, điều đó
thôi thúc con người muốn làm một cái gì khác hơn để thân phận của mình có

khả năng tiến bước, vượt lên những thực trạng buồn thảm, đen tối ấy để làm
cho đời người có một ý nghĩa nào đó. Đây là những tư tưởng khởi nguồn cho
“thuyêt nổi loạn” của A.Camus và thuyết “chủ nghĩa hiện sinh hành động” của
J.P.Sartre.
Từ những nhận định trên về con người, chủ nghĩa hiện sinh bác bỏ mọi
cách định nghĩa về con người của các trào lưu, học thuyết triết học trước đó.
Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng: người không phải là “con vật có lý trí” theo
19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




×