Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Tiểu luận quản trị ngân hàng: Những thay đổi lớn trong khung pháp lý điều chỉnh hoạt động ngành ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn 2005 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.43 KB, 15 trang )


1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA SAU ĐẠI HỌC

BỘ MÔN QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG




Tiểu luận:

NHỮNG THAY ĐỔI LỚN TRONG KHUNG PHÁP LÝ
ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN 2005 - 2009





GVHD: TS TRƯƠNG QUANG THÔNG








TPHCM, tháng 4 năm 2010




2

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 3
NỘI DUNG 4
1. Giai đoạn từ 2005 đến nửa cuối 2007: 4
i. Nâng cao năng lực, phát triển hệ thống ngân hàng chuẩn bị cho hội nhập: 4
ii. Đảm bảo tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. 5
2. Giai đoạn nửa cuối 2007 đến cuối năm 2008: 7
i. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất 7
ii. Tín phiếu bắt buộc 8
iii. Tín dụng 9
iv. Tỷ giá 10
3. Giai đoạn cuối 2008 – 2009 11
i. Lãi suất, tỷ lệ dự trữ 11
ii. Cung ứng tiền tệ 12
iii. Tỷ giá 12
4. Sự cần thiết phải xây dựng Luật các tổ chức tín dụng mới 13
KẾT LUẬN 15


3

LỜI NÓI ĐẦU

Nền kinh tế - xã hội nước ta trong giai đoạn 2005 – 2009 có nhiều biến động phức tạp và khó lường
do bởi những nguyên nhân nội tại cũng như những tác động từ bên ngoài. Để ứng phó với những

biến động đó, duy trì sự phát triển ổn định, Chính phủ đã ban hành, thực thi nhiều biện pháp, chính
sách thông qua các công cụ điều tiết vĩ mô, trong đó quan trọng nhất là chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ. Nếu đặt câu hỏi, dấu ấn điều hành của Chính phủ trong giai đoạn 2005 – 2009 thể hiện
rõ nhất trên phương diện nào hầu như mọi người sẽ cùng câu trả lời là: trên phương diện chính sách
tiền tệ, cụ thể hơn là điều hành hoạt động của ngành ngân hàng trong nước. Đó là cơ sở để chúng tôi
thực hiện bài tiểu luận với đề tài: “NHỮNG THAY ĐỔI LỚN TRONG KHUNG PHÁP LÝ
ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
2005 – 2009”.
Với đề tài này, chúng tôi sẽ phân tích theo trình tự thời gian, chia khoảng thời gian từ 2005 đến
2009 thành nhiều giai đoạn nhỏ. Hướng phân tích bắt đầu bằng những đặc điểm lớn của kinh tế - xã
hội của từng giai đoạn, các mục tiêu vĩ mô và những chính sách, giải pháp điều hành, điều chỉnh
hoạt động của ngành ngân hành đề phù hợp với tình hình vĩ mô và mục tiêu vĩ mô trong giai đoạn
đó. Về nội dung phân tích, chúng tôi xác định “khung pháp lý” mang nghĩa rộng, bao hàm các quy
định của luật, các văn bản dưới luật (Nghị định, Thông tư) và các chính sách, giải pháp, văn bản
(quyết định, chỉ thị) của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước nhằm điều hành hoạt động của ngành
ngân hàng trong nước. Việt Nam đã ban hành Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và Luật sửa đổi,
bổ sung Luật các tổ chức tín dụng năm 2004. Tuy nhiên, Luật được xây dựng trên quan điểm chỉ
quy định những nội dung chủ yếu, bao quát, những quy định cụ thể do Chính phủ, Ngân hàng Nhà
nước hướng dẫn. Trong giai đoạn chỉ 5 năm từ 2005 – 2009 thì không có nhiều điều chỉnh các văn
bản mang tính quy phạm pháp luật như Luật, Nghị định. Do đó, “khung pháp lý” cần được hiểu
theo nghĩa rộng như trên để có thể thấy được sâu sát hơn những điều chỉnh trong hoạt động của
ngành ngân hàng.




4

NỘI DUNG


Căn cứ vào những đặc điểm lớn của tình hình kinh tế vĩ mô nước ta, chúng tôi chia khoảng thời
gian từ 2005 đến 2009 thành 3 giai đoạn:
 Giai đoạn từ 2005 đến nửa cuối 2007: kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, tốc độ tăng trưởng cao,
song song với đó là nguy cơ lạm phát cao
 Giai đoạn từ nửa cuối 2007 đến nửa cuối 2008: lạm phát ở mức cao
 Giai đoạn từ nửa cuối 2008 đến 2009: nền kinh tế bộc lộ nhiều yếu kém, cộng thêm bị tác
động bởi khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế thế giới
1. Giai đoạn từ 2005 đến nửa cuối 2007:
Kinh tế thế giới và Việt Nam trong giai đoạn này có tốc độ tăng trưởng cao. Năm 2005, theo đánh
giá của Ngân hàng Thế giới, GDP toàn cầu tăng 3,2%, GDP Việt Nam tăng 8,4%. Cùng với sự tăng
trưởng kinh tế, sự hội nhập kinh tế sâu rộng của nước ta (Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào
tháng 11/2006), nguồn vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh (năm 2005 đạt 38,5%). Các nguồn vốn từ
bên ngoài gồm đầu tư trực tiếp (FDI), đầu tư gián tiếp (FII), vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
tăng mạnh. Cùng với những thành tựu về tăng trưởng kinh tế và thu hút luồng vốn đó là tình trạng
lạm phát. Điều hành của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước trong giai đoạn này hướng tới các mục
tiêu: (i) nâng cao năng lực, phát triển hệ thống ngân hàng chuẩn bị cho hội nhập; (ii) đảm bảo tăng
trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát.
i. Nâng cao năng lực, phát triển hệ thống ngân hàng chuẩn bị cho hội nhập:
Việc nâng cao năng lực nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại (NHTM) được
chú trọng. Trước tiên, các NHTM nhà nước được bổ sung hơn 12.500 tỷ đồng tăng vốn điều lệ, cải
thiện được tỷ lệ an toàn vốn. Đối với NHTM cổ phần, theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày
22/11/2006 của Chính phủ, thì vốn pháp định phải tăng theo lộ trình: đến năm 2008 đạt ít nhất là
1.000 tỳ đồng, năm 2010 là 3.000 tỷ đồng. Ngân hàng Nhà nước có quan điểm không lập mới
những ngân hàng nhỏ bé, thậm chí buộc phá sản những ngân hàng nhỏ, hoạt động yếu kém. Trong
giai đoạn này, các ngân hàng có nhiều thuận lợi để tăng vốn như: lợi nhuận cao, thị trường vốn phát
triển (trong năm 2006, một loạt ngân hàng đã tăng vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu, trái
phiếu và không có thông tin nào nói về thất bại bởi đây là một mặt hàng hót nhất trên thị trường),
bên cạnh đó nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ các tổ chức tín dụng nước ngoài cũng là một yếu tố hỗ
trợ không kém phần quan trọng (tuy nhiên tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài vẫn bị khống
chế ở mức 30%). Vốn điều lệ của các ngân hàng tăng nhanh.

Một chính sách nhằm giải quyết cuộc chạy đua thành lập ngân hàng mới trong giai đoạn này đó là
quy chế thành lập và hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần được NHNN ban hành trong năm
2007, quy định những điều kiện cần thiết để đảm bảo an toàn hệ thống và cả… tình trạng rao bán cổ
phiếu ngân hàng chưa thành lập nở rộ trước đó.
Dự án hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán cũng đã được NHNN triển khai. Các NHTM
mở rộng mạng lưới phân phối, phát triển sản phẩm mới nhất là sản phẩm ngân hàng điện tử, gần
500 máy ATM được lắp đặt, số lượng thẻ tăng mạnh. Dịch vụ thanh toán thẻ qua hệ thống ATM

5

ngày càng mở rộng, như: nộp phí bo hiểm, tiền điện, nước, cước phí điện thoại, Mạng Bank Net
gồm 11 ngân hàng thương mại thành viên dự kiến sẽ kết nối trong năm 2006.
Bên cạnh việc mở rộng về quy mô, đa dạng hóa dịch vụ, cải thiện chất lượng thì vấn đề kiểm soát
an toàn cũng có những sự điều chỉnh phù hợp. Năm 2005, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban
hành Quyết định 493 về phân loại tài sản có và trích lập dự phòng rủi ro phù hợp với thông lệ quốc
tế. Các ngân hàng thương mại triển khai nghiêm túc việc quản lý và đánh giá chất lượng tín dụng
theo quy chế mới.
Môi trường pháp lý trong hoạt động tiền tệ - ngân hàng ngày càng được hoàn thiện là cần thiết để
nâng cao năng lực của hệ thống ngân hàng, nhằm chuẩn bị cho hội nhập. Chính phủ ban hành Nghị
định số 74/2005/NĐ - CP về phòng, chống rửa tiền. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày
1/8/2005; Nghị định số 109/2005/NĐ - CP sửa đổi, bổ sung một số điều về quy định bảo hiểm tiền
gửi. Theo đó, mức tiền gửi được bảo hiểm nâng từ 30 triệu đồng lên 50 triệu đồng. Tại phiên họp
thứ 35, Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết thông qua Pháp lệnh ngoại hối, có hiệu lực từ ngày
1/6/2006. Pháp lệnh được đánh giá là thống nhất các hoạt động ngoại hối, hướng tới một thị trường
ngoại hối mở, tự do hoá và minh bạch.
Để cải thiện công tác quản trị tại các ngân hàng, Chính phủ đã cho phép triển khai thí điểm cổ phần
hóa là ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (quyết định 230/2005/ QĐ-TTG ngày 21/09/2005 về
việc thí điểm cổ phần hóa ngân hàng Ngọai Thương Việt Nam) và Ngân hàng Phát triển Nhà đồng
bằng sông Cửu Long (quyết định 266/2005/ QĐ-TTG ngày 27/10/2005 về viêc thí điểm cổ phần
hóa ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long). Đây là bước đi phù hợp và là xu thế tất

yếu để nâng cao năng lực của ngành ngân hàng Việt Nam.
Chính Phủ đã ban hành Nghị định 22//2006/NĐ-CP ngày 28/02/2006 về tổ chức và hoạt động của
chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn
phòng đại diện tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam nhằm kiểm soát hoạt động các ngân hàng
nước ngoài. Đến năm 2006, đã có 35 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh với
nước ngoài, 4 công ty liên doanh cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài
ii. Đảm bảo tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát.
Để đảm bảo tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát, trên phương diện chính sách tiền tệ, thì cần
có sự đồng bộ giữa các công cụ như lãi suất, tăng trưởng tín dụng cũng như thị trường vàng, thị
trường tiền tệ (tỷ giá hối đoái).
Trong năm 2005, nhằm kiểm soát lạm phát, NHNN đã sử dụng công cụ lãi suất điều chỉnh hoạt
động ngân hàng phù hợp với tình hình kinh tế trong những tháng cuối năm. Lãi suất tái cấp vốn sau
3 lần điều chỉnh tăng từ 5,5% lên 6,5% vào cuối năm, lãi suất chiết khấu cũng được điều chỉnh tăng
dần từ mức 3,5% đến 4,5%, lãi suất cơ bản sau 2 lần điều chỉnh tăng từ 7,8% lên 8,25%. Tỷ lệ dự
trữ bắt buộc cũng được duy trì từ tháng 7 năm 2004 ở mức độ cao: tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền đồng
đối với NHTM nhà nước, NHTM cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, công ty tài chính tăng từ 2% lên 5%. Riêng ngân hàng nông nghiêp và phát triển nông thôn
tăng từ 1,5% lên 4% loại không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng từ 1% lên 2%. Đối với NHTM
cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng Trung ương từ 1% lên 2%. Tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và
có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 4% lên 8%, trên 12 tháng từ 1% lên 2%. Lãi suất tiền gửi và huy
động vốn nội tệ của các ngân hàng thương mại trong năm 2005 bình quân tăng 0,48%/năm -
0,63%/năm của mỗi kỳ hạn so với năm 2004. Lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay USD của

6

các ngân hàng thương mại trong nước cũng tăng lên, với mức tăng 1,25% - 1,5%/năm so với năm
2004.
Sang năm 2006, các đợt tăng lãi suất vẫn tiếp diễn và căng thẳng. Có ít nhất 3 đợt tăng lãi suất, tập
trung ở lãi suất huy động USD. Với lãi suất VND, mức tăng và các đợt tăng nhẹ nhàng, thưa thớt
hơn, chủ yếu từ các ngân hàng thương mại cổ phần. Nhưng căng thẳng trên thị trường lại tập trung

chủ yếu vào loại hình lãi suất này. Hiệp hội Ngân hàng, với vai trò trung gian, đã nhiều lần lên tiếng
về sự phá rào thỏa thuận của một số ngân hàng, kể cả ngân hàng quốc doanh. Thậm chí Hiệp hội đã
từng lên kế hoạch để các ngân hàng ngồi lại với nhau nhưng không thành công.
Vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng Nhà nước vẫn giữ nguyên các mức lãi suất chủ đạo.
Các ngân hàng, đặc biệt là khối cổ phần, vẫn tăng lãi huy động VND và phải tăng lãi cho vay đầu
ra: lãi suất huy động vốn tại các NHTM tăng bình quân từ 0,025% đến 0,032%/tháng với kỳ hạn 6
tháng và 0,031% đến 0,034%/tháng kỳ hạn 12 tháng.
Ngày 18/01/2006, ban hành Quyết định 03/2006/QĐ-NHNN về việc kinh doanh vàng trên tài
khoản nước ngoài. Quyết định này giải quyết được 2 vấn đề. Thứ nhất, nó tạo điều kiện cho các
ngân hàng được phép kinh doanh vàng giao dịch vàng trên thị trường thế giới. Thứ hai, nó giúp các
ngân hàng có thêm nguồn cung tiền đồng để cho vay (các ngân hàng bán vàng vật chất trong nước
và mua lại vàng trên tài khoản để bảo hiểm rủi ro về giá).
Với cột mốc Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào tháng 11/2006, dòng vốn nước ngoài (FDI,
FII) đổ vào Việt Nam ngày càng nhiều. Đồng thời, lượng kiều hối chuyển về nước cũng tăng cao.
NHNN buộc phải tung tiền đồng ra để mua bớt ngoại tệ trên thị trường. Dự trữ ngoại tệ đạt 10,6 tỷ
USD (so với năm 2006 là 4,6 tỷ USD). Chính lượng cung nội tệ này đóng góp phần quan trọng vào
tăng trưởng tín dụng cả năm 2007 ở mức 51,39%. Trong đó, thị trường bất động sản và thị trường
chứng khoán, có tốc độ tăng trưởng cao nhưng chứa rất nhiều rủi ro, là điểm đến ưa thích của khá
nhiều dòng vốn tín dụng.
Trước tình hình đó, NHNN đã ban hành Quyết định 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/01/2007 về việc
sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động tổ chức tín
dụng của quyết định 457/2005/QĐ-NHNN. Quyết định 457 được chỉnh sửa với một số nội dung
quan trọng liên quan đến kinh doanh chứng khoán như sau:
 Bổ sung khoản 5 vào điều 6 “nhóm tài sản “Có” có hệ số rủi ro 150%”, bao gồm: các khoản
cho vay đầu tư chứng khoán, các khoản cho vay các công ty chứng khoán với mục đích kinh
doanh, mua bán chứng khoán.
 Bổ sung điểm 5 vào khoản 1 điều 8 “tổ chức tín dụng không được cấp tín dụng cho các
doanh nhiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà TCTD nắm quyền kiểm
soát, không được cho vay không có đảm bảo đối với các khoản vay nhằm đầu tư, kinh doanh
chứng khoán ”

Động thái tiếp theo của NHNN là việc ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/05/2007 về
việc kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán, trong chỉ
thị NHNN yêu cầu các TCTD phải khống chế dư nợ vốn vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư,
kinh doanh chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ tín dụng của TCTD; tập trung cho vay hoạt
động sản xuất vật chất đáp ứng yêu cầu xã hội. Phản ứng trước chính sách này, các NHTM đã cố

7

gắng mở rộng mẫu số, tăng cường cho vay (đặc biệt là cho vay bất động sản), nền kinh tế tiếp tục
tăng trưởng nóng.
Vào tháng 4 năm 2007, Chính Phủ cũng ban hành Quyết định 69/2007/NĐ-CP ngày 20/04/2007
khống chế quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng thương mại Việt
Nam, do trong năm 2007 sẽ có nhiều loại cổ phiếu ngân hàng ngoài cổ phiếu của Sacombank và Á
Châu bắt đầu được niêm yết rộng rãi trên thị trường chứng khoán.
Về chính sách tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước khép lại năm 2007 điều hành chính sách tiền tệ bằng
quyết định nới rộng biên độ tỷ giá VND/USD (từ +/-0,5% lên +/-0,75%). Đây là lần điều chỉnh thứ
3 từ trước đến nay, thể hiện chủ trương tạo điều kiện kinh tế Việt Nam thích nghi dần với mức độ
mở cửa, đưa tỷ giá sát hơn với thị trường. Trước đó, sức ép từ cung ngoại tệ đã đẩy tỷ giá của các
ngân hàng thương mại xuống sàn biên độ trong thời gian dài. Tính chung cả năm, tỷ giá VND/USD
tương đối ổn định, chỉ tăng bình quân 0,62% so với năm 2006.

Nhìn chung, công tác điều hành hoạt động của ngành ngân hàng giai đoạn từ 2005 đến nửa đầu
2007 theo hướng chặt chẽ, thận trọng và linh hoạt, giúp ngành ngân hàng có sự mở rộng về quy mô,
phát triển về chất lượng dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, hoạt động của ngành
ngân hàng trong giai đoạn này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, gây nên nhiều tác động cho hoạt động của
ngành, của nền kinh tế trong giai đoạn sau.
2. Giai đoạn nửa cuối 2007 đến cuối năm 2008:
Từ nửa cuối năm 2007, đã có những dấu hiệu rõ ràng và mạnh mẽ hơn về nguy cơ lạm phát cao.
Tuy nhiên, vào thời điểm đó, các nhà hoạch định chính sách vẫn trấn an dư luận rằng Chính phủ vẫn
kiểm soát được lạm phát. Đến đầu năm 2008, tốc độ lạm phát đạt mức phi mã (CPI quí 1/2008 là

10%) thì ưu tiên vĩ mô chuyển mạnh sang kiềm chế lạm phát, ổn định an sinh xã hội, gây nên “cú
sốc” đối với nền kinh tế nói chung, hoạt động của ngành ngân hàng nói riêng. Bám sát mục tiêu vĩ
mô, chính sách tiền tệ trong giai đoạn này là siết chặt tiền tệ, bằng các công cụ (i) tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, lãi suất; (ii) tín phiếu bắt buộc; (iii) tín dụng và (iv) tỷ giá.
i. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất
Theo số liệu thống kê 5 tháng đầu năm 2007, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao 4,32% biểu hiện cho dấu
hiệu lượng cung tiền mặt sẽ tiếp tục tăng mạnh trong những tháng cuối năm. Ngày 28/05/2007,
NHNN ban hành Quyết định 1141/QĐ-NHNN, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của khối ngân hàng
thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, công ty tài chính là 10% đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12
tháng. Riêng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn là 8% và quỹ tín dụng nhân dân
trung ương, ngân hàng hợp tác là 4%. Đối với tiền gửi trên 12 tháng là 4% áp dụng cho tất cả
TCTD, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính.
Đến ngày 16/01/2008, NHNN ban hành Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN, mở rộng diện các
loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc, bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, thay cho
việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống trong
thời gian qua. Bên cạnh đó, Ngân hàng còn điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc 1% đối với các loại
tiền gửi so với tỷ lệ quy định hiện nay. Đối với tiền VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng,
tỷ lệ dự trữ bắt buộc được tăng từ 10% lên 11%; đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, tỷ lệ

8

dự trữ bắt buộc được tăng từ 4% lên 5%. Đối với tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn
dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11% và tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng từ
4% lên 5%.
Các chính sách trên đã buộc các NHTM từ tháng 2/2008 phải nộp dự trữ bắt buộc tăng thêm 20.000
tỷ đồng cho NHNN. Thêm vào đó, chính sách phát hành tín phiếu bắt buộc (ngày 17/3/2008) cũng
hút hết của NHTM 20.300 tỷ đồng. Hệ thống ngân hàng lâm vào tình trạng thiếu thanh khoản, có
những biến động tiêu cực và nguy hiểm như lãi suất liên ngân hàng liên tục lập kỷ lục (cao nhất là
43%/năm), các ngân hàng chạy đua lãi suất (lãi suất huy động trong dân cư lên đến mức 20%/năm).

Nhằm bình ổn thị trường tiền tệ, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu ngày 30/01/2008 đã ký ban
hành 2 quyết định số 305 và 306 điều chỉnh lãi suất cơ bản bằng VND, lãi suất tái cấp vốn và lãi
suất chiết khấu.



Theo đó lãi suất tái cấp vốn từ 6,5%/năm tăng lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ mức
4,5%/năm lên 6,0%/năm; lãi suất cơ bản VND được tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm. Đặc biệt,
trong lần điều chỉnh ngày 19/5 (lên 12%), lãi suất cơ bản được trả lại đúng chức năng của nó, trở
thành một cơ sở để xác định hành lang pháp lý cho lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại
(không quá 150% lãi suất cơ bản theo quy định của Bộ luật Dân sự).
ii. Tín phiếu bắt buộc
Ngày 13/2/2008 Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín
phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng VND dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Nội
dung chủ yếu của quyết định này là:
 Tổng giá trị tín phiếu NHNN phát hành bắt buộc đợt này là 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn là 364
ngày, lãi suất là 7,80%/năm; hình thức phát hành là ghi sổ. NHTM Nhà nước có quy mô lớn
nhất mỗi ngân hàng phải mua tới 3.000 tỷ đồng. Hai NHTM cổ phần thuộc tốp đứng đầu phải
mua 1.200 tỷ đồng và 1.500 tỷ đồng. Các NHTM cổ phần thuộc nhóm giữa phải mua 400 -

9

500 tỷ đồng/ngân hàng. Khối Ngân hàng nước ngoài có 9 chi nhánh phải mua từ 100 tỷ đồng
đến 400 tỷ đồng. Hai ngân hàng liên doanh phải mua 150 tỷ đồng/ngân hàng. Không chỉ vậy,
các NH phải mua 20.300 tỷ đồng trái phiếu cùng một lúc, gấp từ 20 đến 40 lần so với mức 500
tỷ - 1.000 tỷ đồng tín phiếu trong các phiên đấu thầu thường kỳ.
 Điều đặc biệt nữa, nếu như các loại tín phiếu trước đây được giao dịch trên thị trường mở với
NHNN để được vay tái cấp vốn thì quyết định lần này NHNN nói rõ là không được vay tái
cấp vốn. Do đó các NHTM khi thiếu hụt tạm thời thanh khoản không thể sử dụng tín phiếu
mình đang sở hữu để vay tái cấp vốn ngắn hạn 1-2 tuần tại NHNN. Kỳ hạn của tín phiếu lại

khá dài tới 364 ngày, hay gần 1 năm.
NHNN cho biết việc phát hành tín phiếu NHNN đợt này sẽ có tác động nhất định đến cung- cầu vốn
nhưng lãi suất thị trường tiền tệ sẽ ít biến động do NHNN trả lãi suất tín phiếu ở mức hợp lý, kỳ hạn
phát hành ngắn hạn, thời điểm phát hành vào sau Tết nguyên đán khi việc huy động vốn của các
TCTD có xu hướng tăng theo tính quy luật hàng năm. NHNN sẽ theo dõi chặt chẽ các tác dộng và
diễn biến thị trường tiền tệ để có giải pháp thích hợp nhằm tránh những biến động đột biến trên thị
trường tiền tệ.
iii. Tín dụng
Trong lĩnh vực tín dụng, NHNN tiếp tục có những điều chỉnh đối với hoạt động cho vay kinh doanh
chứng khoán bằng Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN, ngày 1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho
vay chứng khoán. Trái với mong đợi của các NHTM, Quyết định 03 còn thắt chặt cho vay chứng
khoán hơn so với Chỉ thị 03 trước đây, như:
 Quy định các điều kiện đối với các TCTD cho vay kinh doanh chứng khoán (KDCK) nhằm
yêu cầu các tổ chức tín dụng tuân thủ pháp luật về tín dụng và bảo đảm an toàn trong hoạt
động cho vay, như phải ban hành quy trình nghiệp vụ cho vay KDCK làm cơ sở cho việc
thanh tra, giám sát hoạt động cho vay; đảm bảo các tỷ lệ an toàn theo quy định của NHNN; có
tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ tín dụng dưới 5%; thực hiện hạch toán, thống kê chính xác, báo
cáo đúng thời hạn các khoản cho vay để phục vụ cho quản trị kinh doanh nội bộ và giám sát
của NHNN.
 Khống chế cho vay KDCK ở mức 20% vốn điều lệ: NHNN cho rằng, biện pháp kiểm soát tín
dụng này gắn quy mô, rủi ro cho vay KDCK với quy mô vốn điều lệ của TCTD, đồng thời
tránh được tình trạng tăng tổng dư nợ tín dụng nếu quy định giới hạn tỷ lệ % trên tổng dư nợ
như trước đây. Đây cũng là khuyến nghị của các chuyên gia Quỹ tiền tệ quốc tế và kinh
nghiệm kiểm soát cho vay KDCK của một số nước đã áp dựng có hiệu quả trong những năm
gần đây. Với quy định này, cho vay KDCK không quá mở rộng cho vay, nhiều NHTM có dư
nợ cho vay ở mức thấp so với vốn điều lệ vẫn có thể tiếp tục cho vay.
 Trong quyết định mới này, NHNN cũng quy định, khi cơ chế cho vay KDCK mới có hiệu lực
thi hành, nếu các TCTD đáp ứng được các quy định nêu trên thì tiếp tục cho vay. Đối với các
TCTD chưa đáp ứng được các quy định đó thì không được phép cho vay KDCK, khi đáp ứng
được các quy định này thì mới được tiếp tục cho vay KDCK trong giới hạn cho phép.

 Lý giải cho việc đưa ra quyết định mới, thay thế các quy định tại Chỉ thị 03, NHNN cho biết,
tính đến cuối tháng 12/2007, dư nợ cho vay KDCK còn 11.400 tỷ đồng, tỷ lệ dư nợ đạt 1,37%
và hầu hết các TCTD đều có tỷ lệ dư nợ dưới 3%. Tuy nhiên, nếu kéo dài biện pháp khống chế

10

tỷ lệ dư nợ 3% sẽ tạo nên yếu tố tâm lý không thuận lợi đối với thị trường và hoạt động kinh
doanh của TCTD. Vì vậy, cần có sự điều chỉnh thích hợp theo hướng kiểm soát rủi ro tín
dụng. NHNN cũng cho rằng, việc ban hành cơ chế kiểm soát cho vay KDCK thay thế quy
định tại Chỉ thị số 03 là một trong những giải pháp góp phần đảm bảo an toàn tín dụng và góp
phần tích cực làm cho thị trường chứng khoán phát triển ổn định, lành mạnh. Với cơ chế kiểm
soát cho vay KDCK này, thì dư nợ cho vay KDCK tiếp tục được kiểm soát một cách chặt chẽ,
khả năng dư nợ cho vay KDCK tăng lên không lớn so với cuối năm 2007.
 Việc áp dụng Quyết định 03 thay cho Chỉ thị 03 không có tác dụng làm tăng dư nợ chứng
khoán trong ngắn hạn, song có tác dụng phân bố lại hạn mức cho vay chứng khoán của các
ngân hàng thương mại khác nhau dựa theo ưu thế vốn điều lệ. Cụ thể, Ngân hàng Á Châu
(ACB) sẽ phải giảm hạn mức cho vay từ 948 tỷ đồng xuống 526 tỷ; Ngân hàng Sacombank sẽ
phải giảm hạn mức cho vay từ 1.029 tỷ xuống 890 tỷ; Ngân hàng Quốc tế (VIB) sẽ phải giảm
hạn mức cho vay từ 502 tỷ xuống 400 tỷ; Ngân hàng Đông Nam Á (SEA bank) sẽ tăng hạn
mức cho vay từ 331 tỷ lên 600 tỷ; Ngân hàng An Bình (ABB) sẽ tăng hạn mức cho vay từ 189
tỷ lên 460 tỷ.
 Đồng thời, các ngân hàng quốc doanh lớn chưa cổ phần hóa phải giảm hạn mức một cách
đáng kể do vốn điều lệ thấp. Nghiên cứu sơ bộ cho thấy các ngân hàng vốn điều lệ thấp mặc
dù có tổng vốn chủ sở hữu rất lớn và quản trị tốt sẽ chịu thiệt thòi nhất. Các ngân hàng cổ
phần nông thôn mới nâng cấp lên ngân hàng đô thị với vốn lớn sẽ hưởng lợi. Các ngân hàng
quốc doanh chưa cổ phần hóa sẽ chịu thiệt trong ngắn hạn. Sau IPO, vốn điều lệ tăng mạnh
như Vietcombank thì sẽ có lợi. Các ngân hàng mới thành lập có vốn điều lệ lớn sẽ được hưởng
lợi nhất.
iv. Tỷ giá
Lạm phát và tỷ giá là 2 phạm trù có quan hệ khắng khít với nhau. Lạm phát gây áp lực mất giá của

đồng nội tệ, gia tăng kỳ vọng tăng tỷ giá trong dân chúng. Do vậy, trong năm 2008 biên độ tỷ giá
liên tiếp 3 lần nới rộng, 2 lần được tăng mạnh trực tiếp ở tỷ giá bình quân liên ngân hàng, những
điều chỉnh chưa từng có trong lịch sử.
Tính chất đặc biệt của tỷ giá năm 2008 cũng thể hiện ở những biến động trái chiều. Trong những
tháng đầu năm, thị trường có hiện tượng ứ đọng ngoại tệ, tỷ giá có lúc xuống “đáy” 15.300 VND;
nhiều doanh nghiệp, ngành hàng xuất khẩu phải thông qua các hiệp hội yêu cầu ngân hàng đẩy
mạnh mua vào USD, tháo gỡ khó khăn. Nhưng từ tháng 5, “cơn sốt” khan hiếm ngoại tệ lại diễn ra
căng thẳng trên cả thị trường chính thức lẫn thị trường tự do. Nhiều doanh nghiệp phải mua với giá
trên 18.000 VND, chi phí tài chính bị đẩy cao, ảnh hưởng đến lợi nhuận.


11



Tóm lại, giai đoạn nửa cuối 2007 – cuối 2008, đặc biệt là năm 2008, thị trường ngân hàng trong
nước đã trải qua những biến động chưa từng có về lãi suất, tỷ giá. Với sự chuyển hướng mục tiêu vĩ
mô quá nhanh và mạnh vào đầu năm 2008, thị trường ngân hàng bị “cú sốc” do chính sách siết chặt
tiền tệ. Hệ thống ngân hàng bị căng thẳng về thanh khoản, làm cho lãi suất huy động cũng như lãi
suất cho vay tăng quá cao, vượt quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế, doanh nghiệp phải “lay
lắt” chịu đựng. Trong bối cảnh ngột ngạt do vòng kim cô tiền tệ đó, cuộc khủng hoảng tài chính,
dẫn đến suy thoái kinh tế thế giới xảy ra vào cuối 2008 ảnh hưởng đến Việt Nam. Chính sách vĩ mô
nước ta chuyển từ giảm lạm phát sang kích thích kinh tế; chính sách tiền tệ chuyển từ thắt chặt sang
nới lỏng.
3. Giai đoạn cuối 2008 – 2009
Trong giai đoạn này, nước ta chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh
tế thế giới. Kinh tế vĩ mô đối mặt với 3 mất cân đối lớn: thâm hụt mạnh cán cân thương mại; thu hút
vốn nước ngoài giảm, thâm hụt ngân sách tăng cao. Chính phủ chuyển từ mục tiêu kiềm chế lạm
phát sang chống suy thoái, kích thích tăng trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ được Ngân hàng Nhà
nước điều hành linh hoạt, thận trọng để đảm bảo góp phần thực hiện hài hoà các mục tiêu: Ngăn

ngừa suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế hợp lý; kiềm chế lạm phát; ổn
định tỷ giá. Các công cụ lãi suất, tỷ lệ dự trữ, khối lượng tiền cung ứng, tỷ giá tiếp tục được NHNN
điều hành linh hoạt, thận trọng.
i. Lãi suất, tỷ lệ dự trữ
 Điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ 8,5%/năm xuống còn 7%/năm vào tháng 4/2009 và được
giữ ổn định đến cuối năm 2009, lãi suất tái cấp vốn từ 9,5 - 8 - 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu
từ 7,5 - 6 - 5%/năm nhằm giảm mặt bằng lãi suất cho vay, tạo điều kiện cho TCTD mở rộng
tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế. Tuy nhiên, bước sang quý 3 và quý 4, trước áp
lực lạm phát nhiều khả năng tăng trở lại, và tốc độ tăng trưởng tín dụng cao tại các ngân hàng,
NHNN bắt đầu áp dụng các chính sách thắt chặt tiền tệ để hạn chế tốc độ tăng của tỷ lệ lạm
phát, kiểm soát và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng. Theo đó NHNN đã ban hành
Thông tư 15/2009/TT-NHNN ngày 10/08/2009 giảm tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay
trung dài hạn từ 40% xuống còn 30%. Đồng thời ngày 17/04/2009 NHNN đã ban hành Thông
tư số 07/2009/TT-NHNN quy định tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tài

12

chính qui mô nhỏ. Lãi suất cơ bản đã được điều chỉnh từ 7%/năm lên 8%/năm. Ngoài ra, trước
tình hình có thể tái diễn một cuộc chạy đua lãi suất như đã từng xảy ra, ngày 25/11/2009,
NHNN ra thông báo số 552/TB-NHNN quy định trần lãi suất huy động là 10,5%/năm.
 Điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc (DTBB) đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn
dưới 12 tháng từ 6% xuống còn 5%, rồi 3%;
 Giảm lãi suất tiền gửi DTBB bằng VND từ 8,5% đến 3,6%, 1,2%/năm; giảm lãi suất đối với
tiền gửi vượt DTBB bằng ngoại tệ của TCTD tại NHNN từ 1% đến 0,5% đến 0,1%/năm.
ii. Cung ứng tiền tệ
Nhằm thực hiện chính sách kích cầu của Chính phủ, NHNN đã yêu cầu các NHTM phải đáp ứng đủ
yêu cầu vay vốn hỗ trợ lãi suất (mức lãi suất được hỗ trợ là 4%). Nghiệp vụ thị trường mở được
điều hành linh hoạt với kỳ hạn, lãi suất hợp lý để kiểm soát chặt chẽ khối lượng vốn khả dụng, tiền
cung ứng, ổn định lãi suất và bảo đảm an toàn thanh khoản của các TCTD. Đến hết năm 2009, số
vốn hỗ trợ lãi suất được giải ngân đạt 10.000 tỷ đồng.

iii. Tỷ giá
Trong năm 2009, lượng ngoại tệ trên thị trường trở nên khan hiếm, tỷ giá VND/USD trên thị trường
chợ đen luôn cao hơn thị trường chính thức. Nguyên nhân của tình trạng này là do 3 mất cân đối lớn
nêu trên làm cho người dân và doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ. Một nguyên nhân quan
trọng nữa là với gói chính sách cho vay hỗ trợ lãi suất, các doanh nghiệp chuyển sang vay VND để
mua USD làm cho thị trường tiền tệ càng thêm mất cân đối. Để giải quyết vấn đề trên, trong năm
2009, NHNN đã nhiều lần điều chỉnh tăng tỷ giá và nới rộng biên độ tỷ giá, kết hợp với các chính
sách khác nhằm giải quyết cung – cầu ngoại tệ:
 Mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +/-3%
lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết
cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng
thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hòa ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trên
ngân hàng;
 Trình Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính bán nguồn ngoại tệ thu được từ phát hành trái
phiếu Chính phủ cho NHNN; đề nghị một số doanh nghiệp nhập khẩu lớn chuyển từ mua
ngoại tệ sang vay bằng ngoại tệ; phối hợp chặt chẽ với Bộ Công thương trong việc kiểm soát
nhập siêu và đáp ứng các nhu cầu ngoại tệ thiết yếu của nền kinh tế.
 Các biện pháp chấn chỉnh hoạt động ngoại hối cũng được tăng cường như phối hợp với các
bộ, ngành kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các hành vi quảng cáo, niêm yết giá hàng hóa bằng
ngoại tệ, mua, bán ngoại tệ trái phép; tăng cường kiểm tra hoạt động mua bán ngoại tệ của các
ngân hàng thương mại và hoạt động của các đại lý đổi ngoại tệ, xử lý nghiêm các vi phạm.
 Đặc biệt, áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp
và người dân như đẩy mạnh công tác tuyên truyền và công bố công khai, rộng rãi các thông tin
về tình hình ngoại hối, tỷ giá; yêu cầu các NHTM nhà nước giảm lãi suất cho vay và huy động
bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6-6,5%/năm xuống không quá 4%/năm kể từ
ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống mức không quá 3%/năm kể từ ngày 01/6/2009, lãi suất
huy động giảm xuống mức không quá l,5%/năm kể từ ngày 01/6/2009)

13


 Đồng thời đề nghị Hiệp hội Ngân hàng yêu cầu các NHTM cổ phần đồng thuận giảm lãi suất
huy động và cho vay bằng ngoại tệ như các NHTM nhà nước kể từ ngày 8/6/2009. Các biện
pháp trên đã có tác động giảm áp lực thiếu cung ngoại tệ trên thị trường, giữ được thị trường
ổn định.
Mặc dù đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhưng ngành ngân hàng trong năm 2009 đã góp
phần quan trọng thực hiện thành công mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2009. Nước ta là một trong
những nước sớm thoát khỏi ảnh hưởng của suy thoái kinh tế và có tốc độ tăng trưởng dương, lạm
phát được kiểm soát dưới 2 con số.
4. Sự cần thiết phải xây dựng Luật các tổ chức tín dụng mới
Phần trên đã phân tích những điều chỉnh trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong
giai đoạn 2005 – 2009 trong bối cảnh kinh tế - xã hội trong nước và thế giới có nhiều biến động
phức tạp. Nhìn chung, cả nước nói chung và ngành ngân hàng nói riêng và vượt qua thành công
những thách thức đó. Tuy nhiên, trong dài hạn, Việt Nam cần thiết phải xây dựng Luật các tổ chức
tín dụng mới phù hợp với cải cách trong ngành và quá trình hội nhập để tạo lập khung pháp lý hoàn
thiện cho hoạt động của ngành.
Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín dụng năm
2004 đã góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý và công tác quản lý giám sát của Nhà nước đối với hoạt
động của các tổ chức tín dụng trong giai đoạn đầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sau gần
10 năm triển khai thực hiện Luật, hệ thống các tổ chức tín dụng đã lớn mạnh không ngừng với hệ
thống mạng lưới ngày càng mở rộng, dịch vụ và tiện ích ngân hàng ngày càng phong phú, đa dạng.
Tuy nhiên, Luật Các tổ chức tín dụng đã bộc lộ khá nhiều hạn chế cần điều chỉnh, thay thế cho phù
hợp với chuẩn mực, thông lệ quốc tế và đáp ứng yêu cầu phát triển mới của Việt Nam sau khi gia
nhập WTO.
 Thứ nhất, Luật được xây dựng trên quan điểm chỉ quy định những nội dung chủ yếu, bao quát,
những nội dung cụ thể do Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn nên phát sinh nhiều
văn bản hướng dẫn dưới Luật
 Thứ hai, Luật các tổ chức tín dụng còn có sự phân biệt đối xử giữa các loại hình tổ chức tín
dụng, tạo ra sự cạnh tranh thiếu lành mạnh.
 Thứ ba, một số quy định của Luật các tổ chức tín dụng chưa rõ ràng, minh bạch, gây nhiều
khó khăn, vướng mắc trong triển khai thực hiện

 Thứ tư, Luật các tổ chức tín dụng hiện hành chưa cập nhật được những chuẩn mực và thông lệ
quốc tế tốt nhất nên hoạt động của các tổ chức tín dụng bị bó hẹp, khó tiếp cận và hội nhập
quốc tế.
 Thứ năm, một số điều khoản quy định trong Luật không phù hợp với hoạt động của các tổ
chức tín dụng hoặc chưa thống nhất với các Luật khác làm cản trở sự phát triển của các tổ
chức tín dụng.
Nguyên tắc, định hướng trong soạn thảo Luật các tổ chức tín dụng mới, trong đó, có một số điểm
chính như sau:

14

 Một, việc xây dựng Luật mới cần tham khảo các Luật có liên quan khác, các chuẩn mực,
thông lệ quốc tế và các cam kết quốc tế của Việt Nam để tránh xung đột và tạo thuận lợi cho
các tổ chức tín dụng hội nhập, phát triển.
 Hai, Luật mới cần có quy định chung áp dụng đối với tất cả các loại hình tổ chức tín dụng,
đồng thời có quy định cụ thể đối với từng loại hình tổ chức tín dụng. Cần xoá bỏ sự phân biệt
đối xử giữa các loại hình tổ chức tín dụng để tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, minh
bạch, lành mạnh. Cần phân định rõ sự khác biệt giữa ngân hàng với các loại hình tổ chức tín
dụng khác.
 Ba, Luật mới sẽ được xây dựng trên quan điểm quy định rõ ràng, chi tiết đến mức có thể để
hạn chế các văn bản hướng dẫn dưới Luật và hạn chế tối đa việc cấp giấy phép con, các tổ
chức tín dụng sẽ được làm những điều Luật không cấm nếu đủ điều kiện.
 Bốn, Nghiên cứu để bổ sung vào Luật những quy định còn thiếu như quy định về tổ chức tài
chính quy mô nhỏ, quỹ tín dụng nhân dân, mua bán nợ, tài trợ các giao dịch thương mại, môi
giới tiền tệ, quản lý quỹ hưu, công ty tín thác… và quy định mở đối với các loại hình tổ chức
tín dụng sẽ phát sinh trong tương lại. Quy định rõ ràng, thống nhất về chống rửa tiền, kiểm
toán và công khai báo cáo tài chính của các tổ chức tín dụng…
 Năm, Xem xét lại việc có quá nhiều cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quản lý hoạt
động của các tổ chức tín dụng, hạn chế các thủ tục hành chính không cần thiết và việc can
thiệp quá sâu vào tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng. Quy định cụ thể vai trò, thẩm

quyền, trách nhiệm của cơ quan giám sát an toàn đối với hoạt động của tổ chức tín dụng.
 Sáu, Quy định các chế tài đủ mạnh để xử lý các sai phạm trong hoạt động của tổ chức tín dụng
nhưng tránh hình sự hoá các quan hệ kinh tế.

15

KẾT LUẬN

Bài viết đã nêu ra và phân tích những thay đổi lớn trong khung pháp lý điều chỉnh hoạt động của
ngành ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2005 – 2009. Việc phân tích được thực hiện theo trình tự thời
gian bằng cách chia thành các giai đoạn nhỏ căn cứ vào tình hình kinh tế vĩ mô của đất nước. Nhìn
chung sự điều hành chính sách tiền tệ, điều chỉnh hoạt động của ngành trong thời gian trên là theo
hướng linh hoạt, thận trọng phù hợp với các mục tiêu kinh tế - xã hội chung của đất nước. Những
điều chỉnh đó đã góp phần hạn chế những khó khăn, thách thức đối với ngành nói riêng, đối với nền
kinh tế nói chung. Khung pháp lý về hoạt động ngành ngân hàng ngày càng được hoàn thiện theo
hướng minh bạch, hiện đại, phù hợp với quá trình hội nhập và chuẩn mực quốc tế.
Qua phân tích này, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm trong công tác điều hành
chính sách tiền tệ, hoạt động ngân hàng như sau:
- Cần có sự minh bạch để hạn chế những kỳ vọng sai lệch trong dân chúng; cũng như hạn chế
tác động tiêu cực của những thông tin không chính thức;
- Các nhà hoạch định cần phát tín hiệu rõ ràng trước mỗi thay đổi chính sách nhằm giúp cộng
đồng doanh nghiệp, nền kinh tế có sự chuẩn bị, thích nghi; tránh tình trạng bị “sốc”.



×