Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

ÔN TRIẾT HỌC THI ĐẦU VÀO CAO HỌC, TÀI LIỆU DÀNH CHO CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.59 KB, 46 trang )

Câu 1: Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin? Ý nghĩa khoa học của
định nghĩa?
Xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Trong khi chủ nghĩa duy tâm quan niệm bản chất của thế giới, cơ sở dầu tiên của
mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần, còn vật chất chỉ là sản phẩm của bản nguyên
tinh thần ấy thì chủ nghĩa duy vật khẳng định bản chất của thế giới, thực thể của thế
giới là vật chất – cái tồn tại vĩnh viễn, tạo nên mọi sự vật, hiện tượng cùng với những
thuộc tính của chúng.
Vào thời cổ đại các nhà triết học duy vật đã đồng nhất vật chất nói chung với
những dạng cụ thể của nó, tức là những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế
giới bên ngoài. Đỉnh cao của tư tưởng duy vật cổ đại về vật là thuyết nguyên tử của
Lơxip và Đemocrt. Nguyên tử là các phần tử cực nhỏ, cứng, không thể xâm nhập
được, không thể cảm giác được. Nguyên tử có thể nhận biết được bằng tư duy.
Thời kỳ phục hưng đặc biệt là thời kỳ cận đại thế kỷ XVII – XVIII , khoa học tự
nhiên phát triển mạnh. Chủ nghĩa duy vật nói chung và phạm trù vật chất nói riêng đã
có nhiều bước phát triển mới, chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng. Tuy nhiên, khoa
học thời kỳ này mới có cơ học cổ điển phát triển nhất nên hầu hết vẫn đồng nhất vật
chất với những thuộc tính cụ thể của nó: quảng tính, khối lượng, lực hấp dẫn và lực
đẩy
- Chủ nghĩa DVBC: C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những giá trị tích cực,
đồng thời vạch ra những hạn chế trong quan niệm về vật chất của các nhà duy vật
trước đó, đồng thời các ông đã tổng kết những thành tựu của khoa học hiện đại, khái
quát thành một quan niệm khoa học về vật chất. Các ông nêu lên quan niệm về sự đối
lập giữa vật chất và ý thức, về tính thống nhất vật chất thế giới, về những hình thức
tồn tại của nó là vận động, không gian và thời gian.
C.Mác và Ph.Ăngghen chưa đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất,
nhưng những tư tưởng về vật chất của các ông đã có ý nghĩa quan trọng đối với sự
phát triển của khoa học thời bấy giờ. Nó là cơ sở trực tiếp để V.I.Lênin phát triển học
thuyết duy vật biện chứng và đưa ra định nghĩa vật chất nổi tiếng sau này.
- Hoàn cảnh ra đời định nghĩa vật chất của V.I.Lêni


Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trên thế giới đã diễn ra cuộc cách mạng trong
khoa học tự nhiên, nhất là vật lý học, nó được đánh dấu bằng một loạt phát minh
quan trọng:
Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X, là tia có bước sóng cực ngắn và gần như
không có trọng lượng.
Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của một số nguyên tố
hoá học.
Năm 1897, Tômxơn tìm ra điện tử (electron).và chứng minh điện tử là một
thành tố cấu tạo nên nguyên tử.
Năm 1901, Kaufman chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là
khối lượng tĩnh mà là khối lượng thay đổi theo tốc độ vận động của điện tử.
Những phát hiện đó của vật lý học đã chứng minh rằng nguyên tử có cấu trúc
phức tạp, có thể phân chia được, có thể phá huỷ và chuyển hoá
Những phát hiện khoa học đó là bước tiến của loài người trong việc nhận thức
giới tự nhiên, đồng thời cũng đối lập với những quan niệm máy móc, siêu hình đang
thống trị trong khoa học thời bấy giờ.
Những quan niệm đương thời về giới hạn tột cụng của vật chất là nguyên tử hay
khối lượng đã sụp đổ trước khoa học. Vấn đề là ở chỗ, trong nhận thức lúc đó, các hạt
điện tích và trường điện từ coi là cái gì đó phi vật chất. Đây chính là mảnh đất để chủ
nghĩa duy tâm lợi dụng. Họ cho rằng ”vật chất” của chủ nghĩa duy vật đã biến mất
nền tảng của chủ nghĩa duy vật đã sụp đổ.
Trước tình hình đó, V.I.Lênin đã tiến hành phê phán một cách toàn diện chủ
nghĩa duy tâm, đặc biệt là chủ nghĩa duy tâm chủ quan đang thịnh hành đầu thế kỷ
XX; vạch ra nguyên nhân của cuộc “khủng hoảng vật lý”, và vạch ra lối thoat cho
cuộc khủng hoảng đó; qua đó Lênin làm giàu thêm lý luận nhận thức mácxít.
V.I.Lênin đã khẳng định, chính những phát minh mới của khoa học tự nhiên
không bác bỏ mà còn xác minh tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chứng minh sự tồn tại khách quan và vô tận của thế giới vật chất
(1)
.

Lênin đã chỉ ra con đường để các nhà khoa học thoát khỏi cuộc khủng hoảng vật
lý là phải thay chủ nghĩa duy vật siêu hình bằng chủ nghĩa duy vật biện chứng. Lênin
nhấn mạnh, sự phân nhỏ của nguyên tử, sự biến đổi của mọi hình thức vật chất và sự
vận động của nó là điều khẳng định tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Mọi giới hạn trong tự nhiên đều chỉ là tương đối, có điều kiện, đều vận động; cũng
giống như thế giới khách quan, tri thức của chúng ta về nó luôn biến đổi, phát triển.
Vật chất không biến mất và không bao giờ biến mất. Sự phát triển của khoa học tự
nhiên không chứng tỏ vật chất biến mất, mà chỉ chứng tỏ cái giới hạn nhận thức của
con người về vật chất mà thôi, vì nhận thức của chúng ta luôn luôn phát triển sâu sắc
thêm, nhận thức của chúng ta về những thuộc tính của vật chất là tương đối và biến
đổi.
Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, viết
năm 1908, V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
(2)
.
- Nội dung định nghĩa vật chất:
+ Thứ nhất, cần phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học khác
với phạm trù vật chất của các khoa học khác. Phạm trù triết học khái quát hơn phạm
trù các khoa học khác. Các đối tượng vật chất cụ thể đều có giới hạn, có sinh ra và
mất đi, chuyển hoá thành cái khác, còn vật chất nói chung thì vô hạn và vô tận, không
sinh ra và mất đi. Vì vậy, không thể qui vật chất về một dạng cụ thể duy nhất nào đó
của vật chất. Ví dụ, trong mệnh đề “nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân” thì chữ
“vật chất” trong “đời sống vật chất” không phải là phạm trù vật chất của triết học mà
Lênin định nghĩa.
+ Thứ hai, vật chất có thuộc tính cơ bản nhất, quan trọng nhất, phổ biến nhất
là “thực tại khách quan” và “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Đó là tất cả những
(

1)
V.I.Lê-nin: TT, Nxb TB, M, 1980, t.18, tr. 36-37,
(
2)
V.I.Lê-nin: TT, Nxb TB, M, 1977.t.18, tr. 151
2
gì tồn tại thực sự ở bên ngoài con người không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
con người. Chẳng hạn trái đất, ngôi sao, điện tử, nước, lửa, không khí, ánh sáng…
những cái này tồn tại thực và không phụ thuộc vào ý muốn của con người. Con người
có tồn tại hay không tồn tại, có biết hay không biết chúng thì chúng vẫn tồn tại tự
thân chúng.
Lưu ý, có những cái tồn tại thực nhưng lại phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người như tư tưởng tiểu tư sản, tình yêu, lòng căm thù… những cái đó không phải là
vật chất vì nó phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Con người gạt bỏ
những tư tưởng này thì không còn, con người giữ chúng thì chúng còn tồn tại trong
ý thức của con người.
Như vậy, thực tại khách quan là tiêu chuẩn cần và đủ để phân biệt cái gì thuộc
về vật chất. Điều này cũng nói lên rằng, vật chất có nhiều thuộc tính nhưng thuộc tính
thực tại khách quan là thuộc tính cơ bản nhất, quan trọng nhất của vật chất. Ví dụ,
quan hệ sản xuất, mặc dù chúng ta không nhìn tháy được, không đo được chúng…
nhưng vì chúng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người cho nên chúng
thuộc quan hệ vật chất.
Ngày nay, khoa học ngày càng đi sâu khám phá những bí mật của thế giới vật
chất, càng phát hiện thêm những dạng hạt, phản hạt, các loại trường với những kết
cấu và thuộc tính mới lạ đối với con người. Điều đó thể hiện sự tồn tại khách quan
của thế giới vật chất với tính đa dạng của nó. Khoa học ngày càng phát triển, càng
khẳng định quan niệm duy vật biện chứng về vật chất là đúng đắn, và do đó, chủ
nghĩa duy vật biện chứng trở thành thế giới quan và phương pháp luận của các khoa
học hiện đại, kể cả trong điều kiện đổi mới tư duy hiện nay.
Định nghĩa của Lênin về vật chất đã bao quát toàn bộ hiện thực - cả tự nhiên và

cả trong xã hội. Điều đó hết sức quan trọng để hiểu đúng vật chất xã hội là dạng vật
chất không tồn tại dưới dạng vật thể. Chẳng hạn, các quan hệ sản xuất là có tính vật
chất, mặc dù ở đây không hề có một nguyên tử vật chất nào.
+ Thứ ba, cụm từ “được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
trong định nghĩa của V.I.Lênin có nghĩa là thực tại khách quan (vật chất) là có trước,
cảm giác, ý thức của con người có sau và có thể phản ánh được thực tại khách quan
(vật chất) qua bộ óc người. Điều này cũng chứng tỏ, vật chất không tồn tại trừu tượng
đâu đó mà tồn tại qua các dạng cụ thể. Những dạng cụ thể này sẽ được cảm giác con
người phản ánh. Điều này cũng có nghĩa là ý thức của con người có thể phản ánh
được vật chất. Tức là, con người có thể nhận thức được vật chất.
Tóm lại, định nghĩa vật chất của V.I Lê nin bao gồm những nội dung cơ bản
sau.
 Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào
ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hy chưa nhận thức được
 Vật chất - cái gây lên cảm giác của con người khi nó tác động vào các giác
quan của chúng ta, do đó vật chất là cái có thể nhận thức được.
 Vật chất - cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của
nó mà thôi. Nói cách khác ý thức là sản phẩm của vật chất có kết cấu tổ chức cao đó
chính là bộ óc của con người.
- Ý nghĩa của định nghĩa vật chất.
3
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin có ý nghĩa thế giới quan và phương pháp
luận quan trọng:
+ Giải đáp duy vật khoa học vấn đề cơ bản của triết học. Đó là mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức và khả năng nhận thức thế giới của con người.
+ Khắc phục những cuộc khủng hoảng trong khoa học, khắc phục tính trực
quan, siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ, phát
triển chủ nghĩa duy vật lên một trình độ mới thành chủ nghĩa duy vật biện chứng, tạo
cơ sở khoa học cho quan niệm duy vật trong lĩnh vực xã hội đó là chủ nghĩa duy vật

lịch sử; đồng thời tạo cơ sở cho sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng với
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
+ Chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết.
+ Là cơ sở cho việc xây dựng quan điểm duy vật biện chứng trong lĩnh vực xã
hội. Làm cho CNDV triệt để cả trong lĩnh vực xã hội (vận dụng vào phân tích các
hiện tượng xã hội), từ đó liên kết chặt chẽ giữa CNDV và phép biện chứng.
+ Cổ vũ các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất, tìm ra ngày càng
nhiều những thuộc tính mới, kết cấu mới của vật chất, không ngừng làm phong phú
tri thức của con người về thế giới.
Câu 2: Quan hệ giữa vật chất và ý thức? Ý nghĩa phương pháp luận của
việc nắm vững mối quan hệ này?
1. Định nghĩa
+ Phạm trù vật chất: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
+ Phạm trù ý thức: Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người
một cách tích cực, chủ động, sáng tạo trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Ý thức là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là hình ảnh của sự vật được thực hiện ở
trong óc người. Ý thức là mang tính chất xã hội. Ý thức không phải là một hiện tượng
tự nhiên thuần tuý, mà ngay từ đầu nó đã là một sản phẩm của xã hội, bắt nguồn từ
thực tiễn lịch sử xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội, và vẫn là như vậy, chừng
nào con người còn tồn tại.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a) Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
- Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý
thức, là nguồn gốc của ý thức. Óc người là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức,
không có bộ óc người thì không thể có ý thức. Vật chất quyết định ý thức theo nghĩa
nó sinh ra ý thức (ý thức gắn liền với con người là kết quả của một quá trình tiến hoá
lâu dài phức tạp của giới tự nhiên); nó qui định nội dung của ý thức (vì ý thức suy
cho cùng là phản ánh thế giới vật chất bên ngoài); mọi sự tồn tại, phát triển của ý

thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của thế giới vật chất; thế giới vật chất (đời
sống vật chất) thay đổi, thế giới tinh thần (đời sống tinh thần) sớm muộn cũng phải
thay đổi theo.
- Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ óc trong quá trình
phản ánh thế giới khách quan. Do vậy, bộ óc có ảnh hưởng trực tiếp đến phản ánh có
ý thức của con người. Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào bộ não con người,
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
4
- Thế giới khách quan là nguồn gốc của phản ánh có ý thức, quyết định nội
dung của ý thức.
- Vai trò của vật chất đối với ý thức trong đời sống xã hội được bộc lộ ở mối
quan hệ giữa kinh tế và văn hoá, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Trong đời sống
xã hội sự phát triển của kinh tế qui định sự phát triển của đời sống văn hoá. Trong xã
hội cộng sản nguyên thủy, đời sống vật chất hết sức thấp kém thì đời sống tinh thần
cũng bị giới hạn. Trong điều kiện đó chưa thể có lý luận, càng chưa thể có các lý
thuyết khoa học.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trờ lại vật chất
Ngay trong “Phê phán học thuyết pháp quyền của Hêghen” (Lời nói đầu) C.Mác
đã viết: “lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó xâm nhập vào quần
chúng”
(1)
.
- Ý thức có tính độc lập tương đối so với vật chất, có tính năng động, sáng tạo
nên có thể tác động trở lại vật chất, góp phần cải biến thế giới vật chất.
- Ý thức tác động theo cả hướng tích cực và tiêu cực. Ý thức phản ánh đúng hiện
thực khách quan thì có tác dụng thúc đẩy và ngược lại. Trong lịch sử loài người,
những tư tưởng phản động đã từng là vật cản đối với sự phát triển của lịch sử. Nhiều
tư tưởng duy tâm tôn giáo đã hạn chế năng lực thực tiễn của con người. Tư tưởng bá
quyền, đế quốc chủ nghĩa đã từng gây ra những cuộc chiến tranh tàn khốc làm hao
tổn biết bao sức người, sức của.

- Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con
người.
- Tuy nhiên, xét đến cùng, ý thức vẫn phải phụ thuộc vào thế giới vật chất và
các điều kiện khách quan.
- Vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người; hình thành nên những mục tiêu, kế hoạch, ý chí, biện pháp cho hoạt động của
họ; nó có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng hay sai, thành công hay
thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định.
- Xã hội càng phát triển, vai trò của ý thức ngày càng to lớn. Trong thời đại
ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, kinh tế tri thức đã tạo ra
những sự phát triển vượt bậc về năng suất lao động. Con người trong thế giới hiện đại
đang khai thác ngày càng qui mô những sức mạnh vật chất tiềm tàng trong tự nhiên,
trong xã hội và trong chính bản thân mình. Tất cả những việc làm đó là nhờ có tri
thức khoa học dẫn đường, nhờ có ý chí vươn lên để làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên
và làm chủ bản thân.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, vật chất là nguồn gốc khách quan của ý thức, ý thức chỉ là sự phản
ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc con người, Vì vậy, trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn phải tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tế
khách quan, hành động tuân theo quy luật khách quan. Không được lấy ý muốn chủ
quan thay cho điều kiện khách quan. Cần tránh thái độ chủ quan, duy ý chí, nóng vội,
định kiến, không trung thực.
(1)
C.Mác- Ph.Ăngghen: TT, Nxb CTQG, H, 1995, t. 1, tr. 580
.
5
Thứ hai, ý thức có tính độc lập tương đối, có thể tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, phải thấy được vai trò tích cực của ý
thức, tinh thần để sử dụng có hiệu quả các điều kiện vật chất hiện có. Nghĩa là, phải
biết động viên tinh thần, phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của ý thức,

tinh thần vượt khó vươn lên… Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải nâng
cao trình độ tri thức, bồi dưỡng, rèn luyện tư duy trí tuệ, trình độ lý luận…. Chống
thái độ ỷ lại, bảo thủ trì trệ…Tuy nhiên sự tác động của ý thức đối với vật chất phải
thông qua hoạt động của con người.
Thứ ba, cần tránh rơi vào “chủ nghĩa khách quan” tức là tuyệt đối hoá điều
kiện vật chất, ỷ lại, trông chờ vào điều kiện vật chất kiểu “Đại lãn chờ sung”, không
chịu cố gắng, không tích cực, chủ động vượt khó, vươn lên.
Thứ tư, cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, tuyệt đối hoá vai trò của ý
thức,của ý chí, cho rằng ý chí, ý thức nói chung có thể thay được điều kiện khách
quan, quyết định điều kiện khách quan.
Toàn bộ ý nghĩa phương pháp này cũng là những yêu cầu của quan điểm
(nguyên tắc) khách quan. Vì vậy, chúng ta thấy, chính quan điểm của triết học Mác-
Lênin về vật chất, ý thức về quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở lý luận của
nguyên tắc (quan điểm) khách quan.
Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin và từ kinh nghiệm thành công và thát
bại trong quá trính lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học
quan trọng là “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn
trọng quy luật khách quan”. Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Đảng chủ trương huy động ngày càng cao mọi nguồn lực trong và ngoài
nước, đặc biệt là nguồn lực của nhân dân vào công cuộc phát triển đất nước, muốn
vậy phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, thực hiện “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Câu 3: Nguồn gốc, bản chất của ý thức?
Trong lịch sử triết học, vấn đề nguồn gốc, bản chất, vai trò của ý thức
1. Nguồn gốc của ý thức
Theo triết học duy vật biện chứng, ý thức của con người là sản phẩm của quá
trình phát triển của cả tự nhiên và cả lịch sử - xã hội. Nói khác đi, ý thức có nguồn
gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội .
- Nguồn gốc tự nhiên

Triết học duy vật biện chứng chỉ ra rằng, chính bộ óc người (cơ quan phản ánh)
và sự tác động của thế giới khách quan lên bộ óc người là nguồn gốc tự nhiên của ý
thức.
Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Đó là năng lực giữ lại và
tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác khi
hai hệ thống vật chất đó tác động lẫn nhau. Kết quả phản ánh phụ thuộc vào cả vật tác
động và vật nhận tác động . Vật nhận tác động sẽ mang thông tin của vật tác động. Ví
dụ, cầm búa (vật tác động) tác động vào tấm gỗ (vật nhận tác động), tấm gỗ có thể bị
lõm. Vết lõm trên tấm gỗ cho ta thông tin về cái búa.
Cùng với sự phát triển của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng
phát triển từ thấp lên cao; phản ánh vật lý, phản ánh hoá học – hai dạng phản ánh này
6
có tính chất thụ động, chưa có định hướng lựa chọn. Phản ánh sinh học đặc trưng cho
thế giới tự nhiên sống. Hình thức phản ánh sinh học cũng có những hình thức khác
nhau như kích thích- tức là phản ứng trả lời tác động của một bên ngoài đối với cơ
thể sống; cảm ứng - đó là sự phản ứng thể hiện sự nhạy cảm đi với sự thay đổi của
môi trường; phản ánh tâm lý động vật – là sự phản ánh có tính chất bản năng do nhu
cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và do quy luật sinh học chi phối.
Phản ánh ý thức của con người – là hình thức phản ánh cao nhất chỉ có ở con
người. Nó là thuộc tính của một dạng vật chất đặc biệt, có tổ chức cao là bộ óc người.
Có thể nói, ý thức bắt nguồn từ thuộc tính của vật chất – thuộc tính phản ánh – phát
triển thành. Đây là quá trình hết sức lâu dài.
Bộ óc người (có hàng tỉ tế bào thần kinh). Các tế bào thần kinh liên hệ với
nhau và với các giác quan, tạo thành những mối liên hệ thu - nhận, điều khiển hoạt
động của cơ thể con người và thế giới bên goài.
- Nguồn gốc xã hội
Triết học duy vật biện chứng chỉ ra rằng, lao động và ngôn ngữ là 2 nguồn gốc
xã hội quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của ý thức.
Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra những
sản phẩm phục vụ các nhu cầu của con người. Chính lao động đóng vai trò quyết định

trong việc chuyển biến vượn người thành người, làm cho con người khác động vật.
Động vật chỉ biết sử dụng những vật phẩm sẵn có trong tự nhiên, con người thông
qua lao động chế tạo ra những sản phẩm không có sẵn trong tự nhiên để phục vụ cho
nhu cầu của mình. Lao động giúp bộ óc phát triển. Hơn nữa, lao động ngay từ đầu đã
mang tính tập thể xã hội. Vì vậy, từ lao động làm nảy sinh nhu cầu trao đổi kinh
nghiệm, tư tưởng giữa con người với nhau. Trên cơ sở đó thúc đẩy sự ra đời của ngôn
ngữ, thúc đẩy tư duy trừu tượng phát triển. Nhờ có ngôn ngữ mà ý thức tồn tại và
phát triển. Bởi lẽ, ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Lao
động giúp con người tác động vào sự vật làm cho sự vật bộc lộ thuộc tính, tính chất,
quy luật. Những thuộc tính, tính chất, quy luật ấy tác động lên bộ óc con người. Trên
cơ sở đó trong bộ óc con người hình thành tri thức về các sự vật, hiện tượng ấy. Nói
khác đi, thông qua lao động mà con người mới phản ánh được thế giới khách quan.
Như vậy, lao động và ngôn ngữ là “hai sức kích thích chủ yếu” để biến bộ não
vượn thành não người, phản ánh tâm lý động vật thành ý thức.
2. Bản chất của ý thức
Các nhà triết học duy tâm tuyệt đối hoá vai trò của ý thức, cho ý thức là một
thực thể độc lập tuyệt đối, quyết định vật chất chứ không phải là phản ánh vật chất.
Các nhà duy vật siêu hình lại coi ý thức chỉ là sự phản ánh thụ động vật chất. Họ
chưa thấy được tính năng động, sáng tạo của ý thức.
Theo triết học duy vật biện chứng, ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan
vào bộ óc người, nghĩa là phản ánh ý thức phải dựa trên nhu cầu thực tiễn, do thực
tiễn quy định. Nhu cầu thực tiễn quy định chủ thể phải nhận thức cái được phản ánh.
Phản ánh ý thức là tích cực, chủ động. Nghĩa là trên cơ sở hoạt động thực tiễn
con người chủ động tác động vào sự vật, hiện tượng làm cho chúng bộc lộ thuộc tính,
tính chất, qua đó con người phản ánh và có hiểu biết về sự vật, hiện tượng. Hơn nữa,
con người còn biết vận dụng tri thức để nhận thức và cải tạo thế giới khách quan.
Phản ánh ý thức là phản ánh sáng tạo. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan. Ý thức là hình ảnh của sự vật được cải biến ở trong óc người. Do vậy, ý
7
thức không phải là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý. Ví dụ, hình ảnh của con

người trong gương khi soi gương không phải là ý thức mà là hình ảnh vật lý. Hình
ảnh được phát trên vô tuyến cũng không phải là ý thức.
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện rất đa dạng:
- Trên cơ cơ sở những tri thức có trước ý thức của con người có thể tạo ra tri
thức mới về sự vật;
- Con người có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế;
- Con người trên cơ sở hiểu biế về sự vật có thể dự báo tương lai, khuynh
hướng vận động của sự vật;
- Ý thức của con người có thể tạo ra những huyền thoại, ảo tưởng…
Quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người là quá trình năng
động sáng tạo. Quá trình năng động sáng tạo thống nhất ở ba mặt sau:
Thứ nhất, trao đổi thông tin giữa chủ thể phản ánh và đối tượng phản ánh. Sự
trao đổ này có tính chất hai chiều và có chọn lọc, có định hướng.
Thứ hai, chủ thể mô hình hoá đối tượng phản ánh trong tư duy dưới dạng tinh
thần. Đây là quá trình cải biến, sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, tư tưởng ở
trong bộ óc con người.
Thứ ba, chủ thể thực hiện quá trình hiện thực hoá tư tưởng, vật chất hoá tinh
thần, ý thức thông qua hoạt động thực tiễn của mình.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, tính sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh.
Do vậy, ý thức xét đến cùng luôn bị quy định bởi vật chất. Sáng tạo và phản ánh là
hai mặt của bản chất ý thức.
Ý thức là hiện tượng xã hội, vì sự ra đời tồn tại của nó gắn liền với hoạt động
thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ quy luật sinh học mà cả quy luật xã hội. Ý thức
luôn mang bản chất xã hội. “Con người” sống ngoài xã hội thì không thể trở thành
người đích thực và cũng không thể có ý thức được.
Câu 4: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến? Ý nghĩa phương pháp luận của
mối liên hệ này?
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những
nguyên lý, những phạm trù, những quy luật cơ bản, phản ánh đúng đắn hiện
thực. Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự

phát triển là hai nguyên lý cơ bản và khái quát nhất
1. Khái niệm mối liên hệ
Các nhà triết học duy tâm cho rằng, giữa các sự vật, hiện tượng có mối liên hệ
với nhau, nhưng cơ sở của mối liên hệ này là tinh thần, hay lực lượng siêu nhiên.
Các nhà duy vật siêu hình lại không thấy được mối liên hệ giữa các sự vật.
Thường thì họ cho rằng, các sự vật chỉ đứng bên cạnh nhau, độc lập, biệt lập nhau
giữa chúng không có mối liên hệ gì. Nếu có chăng nữa thì theo họ, đó là mối liên hệ
ngẫu nhiên, không có cơ sở.
Triết học duy vật biện chứng công nhận mối liên hệ khách quan giữa các sự
vật, hiện tượng.
Liên hệ là phạm trù triết học chỉ sự quy định, sự tác động qua lại lẫn nhau, sự
phụ thuộc lẫn nhau, sự ảnh hưởng, sự tương tác và chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự
8
vật, hiện tượng trong thế giới hay giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính của một sự
vật, hiện tượng, một quá trình.
Liên hệ phổ biến là khái niệm nói lên rằng mọi sự vật, hiện tượng trong thế
giới (cả tự nhiên, xã hội và tư duy) dù đa dạng phong phú, nhưng đều nằm trong mối
liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác; đều chịu sự chi phối, tác động ảnh hưởng của
các sự vật, hiện tượng khác.
Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới. Chúng
ta đều rõ, dù các sự vật trong thế giới đa dạng đến đâu chăng nữa thì cũng chỉ là
những hình thức tồn tại cụ thể của vật chất. Cho nên, chung đều chịu sự chi phối của
quy luật vật chất . Ngay cả ý thức, tinh thần cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật
chất có tổ chức cao là bộ óc người. Do vậy, ý thức tinh thần cũng bị chi phối bởi quy
luật vật chất.
2. Các tính chất của mối liên hệ
Theo triết học duy vật biện chứng, mối liên hệ có các tính chất sau:
Tính khách quan- nghĩa là mối liên hệ không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của con người, chỉ phụ thuộc vào bản thân sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ là mối liên
hệ vốn có của bản thân sự vật, hiện tượng.

Tính phổ biến- nghĩa là mối liên hệ tồn tại cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy;
có ở mọi lúc, mọi nơi. Ngay trong cùng một sự vật, trong bất kỳ thời gian nào, không
gian nào luôn có mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành sự vật.
Tính đa dạng, phong phú – rất nhiều mối liên hệ khác nhau phụ thuộc vào góc
độ xem xét: chẳng hạn, mối liên hệ bên trong – bên ngoài mối liên hệ tất yếu – ngẫu
nhiên; mối liên hệ trực tiếp – gián tiếp; mối liên hệ chủ yếu – thứ yếu, mối liên hệ xa
– gần; mối liên hệ bản chất và không bản chất Mỗi cặp mối liên hệ này có vai trò
khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự phân chia
các cặp mối liên hệ này cũng chỉ là tương đối. Ví dụ, mối liên hệ này trong quan hệ
này được coi là mối liên hệ bên trong nhưng trong quan hệ khác lại được coi là mối
liên hệ bên ngoài.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về mối liên hệ là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm toàn diện đòi hỏi:
+ Khi nhận thức sự vật phải nhận thức trong mối liên hệ với các sự vật, hiện
tượng khác; trong mối liên hệ giữa các mặt, các yếu tố của bản thân sự vật đó.
+ Để cải tạo sự vật trên thực tế phải sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp.
+ Phải biết phân loại đúng các mối liên hệ, trên cơ sở đó nhận thức đúng và
giải quyết để thúc đẩy sự vật tiến lên.
+ Chống lại quan điểm chiết trung – lắp ghép một cách máy móc vô nguyên tắc
những cái trái ngược nhau vào làm một; chống lại ngụy biện – một kiểu đánh tráo các
mối liên hệ một cách có ý thức, có chủ định.
- Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú cho nên trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn phải tôn trọng quan điểm lịch sử – cụ thể. Khi nhận thức sự vật thì
phải xem xét sự vật luôn trong điều kiện, hoàn cảnh, không gian, thời gian cụ thể.
Phải xem xét sự vật ra đời trong hoàn cảnh nào? Nó tồn tại, vận động, phát triển trong
những điều kiện nào? Trong hoạt động thực tiễn khả năng giải quyết vấn đề thực tiễn
nào phải có những biện pháp rất cụ thể, không được chung chung. Khi vận dụng
những nguyên lý, lý luận chung vào thực tiễn phải xuất phát từ những điều kiện thực
9

tiễn lịch sử – cụ thể. Quan điểm lịch sử – cụ thể chống lại quan điểm giáo điều. Như
vậy, chính quan điểm triết học Mác-Lênin về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận
của quan điểm lịch sử – cụ thể.
- Chống lại quan điểm phiến diện, một chiều trong nhận thức cũng như trong
hành động.
- Quan điểm toàn diện đòi hỏi không được bình quân, dàn đều khi xem xét,
đáng giá sự vật mà phải có trọng tâm, trọng điểm.
Câu 5: Nội dung, ý nghĩa của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập?
1. Vị trí của quy luật
- Đây là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. V.I.Lênin
gọi nó là hạt nhân của phép biện chứng.
- Quy luật này chỉ ra nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
2. Khái niệm
Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những những mặt trái
ngược nhau gọi là những mặt đối lập.
Mặt đối lập là phạm trù triết học chỉ những mặt có những đặc điểm, những
thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau. Ví dụ,
Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân, trong dòng điện có điện tích âm và điện tích
dương, trong thanh nam châm có cực bắc và cực nam, trong sinh vật có đồng hòa và
dị hóa, trong kinh tế thị trường có cung và cầu.
Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là phổ biến trong tất cả các sự vật.
Chúng nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện
chứng.
Mâu thuẫn biện chứng là sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau của các mặt đối
lập. Mâu thuẩn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên,
xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong
hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức.
Mâu thuẫn được hình thành từ hai mặt đối lâp nhưng không phải bất kỳ hai mặt
đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Chỉ khi hai mặt đối lập cùng tồn tại trong

cùng một sự vật, trong cùng một thời gian, về cùng một mối liên hệ và thường
xuyên tác động qua lại lẫn nhau mới tạo thành mâu thuẫn. Ví dụ, đồng hoá và dị
hoá trong cùng một cơ thể động vật; cùng về một mối liên hệ ở đây là cùng về năng
lượng (đồng hoá là nạp năng lượng dị hoá là giải phóng năng lượng); đồng hoá và dị
hoá thường xuyên tác động theo nghĩa nhờ đồng hoá mà cơ thể mới có nhu cầu dị
hoá. Ngược lại nhờ dị hoá thì cơ thể mới đồng hoá được.
Các mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau.
Thống nhất của các mặt đối lập được hiểu theo 3 nghĩa:
Thứ nhất, các mặt đối lập nương tựa vào nhau, làm điều kiện, tiền đề tồn tại
cho nhau. Như ví dụ trên, đồng hoá làm tiền đề cơ sở cho dị hoá và dị hoá làm tiền để
cơ sở cho đồng hoá. Không có đồng hoa thì cũng chẳng có dị hoá và ngược lại.
10
Thứ hai, giữa hai mặt đối lập có những yếu tố đồng nhất, giống nhau, tương
đồng nhau. Trong ví dụ trên thì đồng hoá cần đến dị hoá và dị hoá cần đến đồng hoá.
Điểm giống nhau la cần đến nhau. Tương tự như nhà đầu tư tư bản và nước ta, mặc
dù là đối lập nhau nhưng có điểm chung là lơi ích. Lợi ích chính là điểm giống nhau.
Thứ ba, giữa hai mặt đối lập có trạng thái cân bằng, tác động ngang nhau.
Trong ví dụ trên, đó chính là lúc con người không đói và cũng không khát. Đấy là lúc
đồng hoá và dị hoá cân bằng nhau, tác động ngang nhau. Trong xã hội, đó là thời kỳ
quá độ. Trong thời kỳ quá độ cái cũ và cái mới đan xen nhau, chưa cái nào thắng cái
nào; xã hội mới chưa khẳng định được mình, xã hội cũ thì chưa mất hoàn toàn.
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động lẫn nhau, bài trừ, phủ định lẫn
nhau của các mặt đối lập. Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối, vì nó diễn ra
thường xuyên, liên tục, trong tất cả quá trình vận động, phát triển của sự vật; ngay
trong sự thống nhất của các mặt đối lập cũng hàm chứa những nhân tố phá vỡ sự
thống nhất đó. Vì vậy, thống nhất của các mặt đối lập là tương đối.
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập: Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập làm cho các mặt đối lập chuyển hóa với nhiều hình thức khác nhau:
+ Chuyển hóa từng mặt, từng khía cạnh của mặt đối lập này sang mặt đối lập
khác. Chẳng hạn trong xã hội có giai cấp đối kháng, tư tưởng lối sống của giai cấp

này có thể ảnh hưởng đến tư tưởng lối sống của một bộ phận trong giai cấp khác.
Trong các thời kỳ cách mạng, những cá nhân tiến bộ thuộc giai cấp thống trị có thể
chuyển sang hàng ngũ giai cấp cách mạng.
+ Có thể mặt đối lập này chuyển thành mặt đối lập khác. Ví dụ: trong cuộc
cách mạng giai cấp bị trị có thể trở thành giai cấp thống trị và ngược lại. Hội nhập
kinh tế quốc tế, chúng ta phải chấp nhận mâu thuẫn giữa những nguy cơ (thách thức)
và cơ hội. Hai cái đó vừa đấu tranh vừa thống nhất với nhau và trong những điều kiện
nhất định có thể chuyển hóa cho nhau. Những nguy cơ, thách thức nếu khéo giải
quyết lại có thể biến thành cơ hội; ngược lại, cơ hội mà chúng ta không biết tận dụng
hoặc bỏ mất thời cơ thì cũng dễ biến thành nguy cơ.
+ Có thể cả hai mặt đối lập đều bị triệt tiêu và chuyển thành những mặt đối lập
mới. Chẳng hạn, khi chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã, cả hai giai cấp chủ nô và nô lệ
căn bản bị triệt tiêu, hai giai cấp mới là địa chủ phong kiến và nông dân hình thành.
3. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác
nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện chứng bao
hàm cả sự thống nhất, sự đấu tranh và chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Sự
thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh
gắn liền với sự ổn định tương đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là:
Sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối
còn sự đầu tranh bài trừ lẫn nhau của các mặt đối lập là tuyệt đối, cũng như sự phát
triển, sự vận động là tuyệt đối.
Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển . Bởi lẽ, khi các
mặt đối lập thống nhất với nhau thì sự vật còn là nó. Nhưng khi mâu thuẫn giữa các
mặt đối lập nảy sinh và phát triển đến mức gay gắt cần giải quyết thì khi ấy sự thống
nhất cũ của sự vật mất đi, xuất hiện sự thống nhất mới, chính là sự vật mới ra đời
11
thay thế sự vật cũ. Sự thống nhất mới này lại mâu thuẫn nhau, rồi lại được giải quyết,
cứ như vậy sự vật vận động, biến đổi, phát triển. Nói cách khác, khi hai mặt đối lập
tác động lẫn nhau, cả hai mặt đối lập đều biến đổi, mâu thuẫn biến đổi và được giải

quyết thì mâu thuẫn cũ mất đi và làm sự vật không còn là nó. Sự vật mới ra đời, mâu
thuẫn mới lại xuất hiện. Cứ như vậy sự vật vận động, phát triển. Lưu ý rằng, cả thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập đều có vai trò quan trọng trong sự vận động,
phát triển của sự vật.
Từ trên rút ra nội dung quy luật mâu thuẫn: mọi sự vật đều chứa đựng những
mặt có khuynh hướng biến đổi ngược chiều nhau gọi là những mặt đối lập. Mối liên
hệ của hai mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn. Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau
và chuyển hoá lẫn nhau làm mâu thuẫn được giải quyết, sự vật biến đổi và phát triển,
cái mới ra đời thay thế cái cũ.
4. Phân loại mâu thuẫn
- Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, người ta phân biệt các mâu
thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng
đối lập nhau của cùng một sự vật. Ví dụ, mâu thuẫn giữa đột biến và di truyền trong
cơ thể động vật. Mâu thuẫn bên ngoài là sự tác động qua lại giữa các mặt, các
khuynh hướng đối lập nhau của các sự vật khác nhau. Ví dụ, mâu thuẫn giữa con
người với môi trường tự nhiên bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong đóng vai trò quyết định trực tiếp đối với sự vận động phát
triển của sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài đóng vai trò quan trọng nhưng chỉ phát huy tác
dụng thông qua mâu thuẫn bên trong. Giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể tách
rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài. Giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện
để giải quyết mâu thuẫn bên trong.
Sự phân chia thành mâu thuẫn bên trong và bên ngoài chỉ có tính tương đối.
Trong mối liên hệ này một mâu thuẫn nào đó được coi là mâu thuẫn bên trong, nhưng
trong mối liên hệ khác lại được coi là mâu thuẫn bên ngoài. Ví dụ, mâu thuẫn giữa
con người và tự nhiên nếu ta lấy con người và tự nhiên làm sự vật thì đó là mâu thuẫn
bên ngoài. Nhưng nếu ta lấy mối liên hệ giữa hệ thiên hà và mặt trời làm sự vật thì đó
có thể là mâu thuẫn bên trong hệ thiên hà mặt trời của chúng ta
- Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, người ta chia
thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.

Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật và tồn tại trong
suốt quá trình tồn tại của sự vật. Ví dụ, mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ ở nước
ta là mâu thuẫn giữa khuynh hướng tự giác lên chủ nghĩa xã hội với khuynh hướng tự
phát lên chủ nghĩa tư bản. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một
phương diện nào đó của sự vật và quy định sự vận động phát triển của phương diện
đó của sự vật. Ví dụ, mâu thuẫn giữa lao động trí óc và lao động chân tay trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
12
- Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển của sự
vật trong một giai đoạn phát triển nhất định, người ta chia thành mâu thuẫn chủ yếu
và mâu thuẫn không chủ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển
nhất định của sự vật. Mâu thuẫn không chủ yếu là mâu thuẫn mà việc giải quyết nó
không quyết định việc giải quyết các mâu thuẫn khác ở giai đoạn đó của sự vật.
- Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, người ta chia thành mâu thuẫn
đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, tập đoan người, những
nhóm xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau không thể điều hoà. Ví dụ, mâu thuẫn
giữa tư sản và vô sản trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn không đối kháng là
mâu thuẫn giữa những lực lượng, khuynh hướng xã hội có đối lập về lợi ích nhưng đó
không phải là lợi ích cơ bản, mà chỉ là lợi ích cục bộ, tạm thời. Ví dụ, mâu thuẫn giữa
công nhân và nong dân về những lợi ích tạm thời nào đó.
5. Ý nghĩa phương pháp luận
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý
nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và họa động thực tiễn.
Để nhận thức đúng bản chất sự vật, tòm ra phương hướng và giải pháp đúng
cho hoạt động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật.
Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt, những
khuynh hướng trái ngược nhau, tức tìm ra những mặt đối lập và tìm ra những mối
liên hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó.

Khi phân tích mâu thẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng
mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau giữa các mâu thuẫn. Chỉ
như thế mới hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật để giải quyết mâu thuẫn.
Mâu thuẫn là khách quan, phổ biến nên nhận thức mâu thuẫn là cần thiết và
phải khách quan. Giải quyết đúng đắn mâu thuẫn sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển.
Vì vậy để thúc đẩy sự phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn. Không
nên sợ mâu thuẫn, không né tránh mâu thuẫn.
- Cần phải thấy được động lực phát triển của sự vật không phải ở ngoài sự vật
mà là những mâu thuẫn trong bản thân sự vật. Do vậy, tìm động lực phát triển của sự
vật phải tìm trong chính sự vật.
- Trong hoạt động thực tiễn phải biết xác định trạng thái chín muồi của mâu
thuẫn để giải quyết kịp thời.
- Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi, cho nên không
được giải quyết mâu thuẫn nóng vội khi chưa có điều kiện chín muồi, nhưng cũng
không được để việc giải quyết mâu thuẫn diễn ra tự phát. Nếu điều kiện chưa chín
muồi có thể thông qua hoạt động thực tiễn để thúc đẩy điều kiện nhanh đến.
- Nhận thức mâu thuẫn không phải chỉ là nhận thức loại hình mâu thuẫn mà còn
phải xác định được trình độ phát triển của nó. Đó là những mâu thuẫn vừa nảy sinh hay
13
mâu thuẫn đã đến độ chín muồi. Cùng một mâu thuẫn nhưng trình độ phát triển khác nhau
thì phương thức giải quyết cũng khác nhau.
- Việc phân tích và giải quyết mâu thuẫn không phải chỉ đòi hỏi sự nhiệt tình,
hăng hái mà phải có sự hiểu biết, có tri thức khoa học, có vốn sống nhất định. Thiếu
tri thức và vốn sống cần thiết sẽ không nhận thức đúng được bản chất của mâu thuẫn
và do đó cũng không thực sự hiểu biết được thế giới khách quan, không đề ra được
những phương thức giải quyết các vấn đề đặt ra một cách có hiệu quả.
- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với hoạt động của con người. Do mâu thuẫn là nguồn gốc của sự
vận động và phát triển nên muốn hiểu rõ sự vật hay cải tạo nó phải nhận thức được
mâu thuẫn. Trong xã hội xác định được mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản sẽ có cơ

sở để đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn; xác định rõ mâu thuẫn chủ yếu
sẽ có các giải pháp tập trung để giải quyết những vấn đề trọng yếu nhất tạo ra khả
năng phát triển của xã hội trong từng giai đoạn phát triển của nó. Đặc biệt khi có
những vấn đề bức xúc nảy sinh thì việc phân biệt rõ mâu thuẫn đối kháng và không
đối kháng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Điều đó sẽ giúp cho một tổ chức cách mạng
hay các cá nhân phân biệt rõ bạn và thù và đề ra được phương thức giải quyết mâu
thuẫn thích hợp, tuỳ vào tình hình cụ thể.
Câu 6: Qui luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay
đổi về chất và ngược lại?
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt
đó thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng.
Trong lịch sử triết học đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm
chất, lượng cũng như quan hệ giữa chúng giữa chúng. Những quan hệ đó phụ thuộc
trước hết và chủ yếu vào thế giới quan và phương pháp luận của các nhà triết học hay
của các trường phái triết học. Phép biện chứng duy vật đem lại quan điểm đúng đắn
về khái niệm lượng, chất và quan hệ qua lại giữa chúng, từ đó khái quát thành quy
luật cuyện hóa từ những thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược
lại.
1. Vị trí của quy luật
- Đây là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
- Quy luật này chỉ ra cách thức vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
2. Khái niệm chất và khái niệm lượng
a. Khái niệm chất
Chất là phạm trù triết học chỉ tính quy định khách quan vốn có của các sự vật,
là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó mà không phải cái
khác. Ví dụ: cái bàn, cái ghế, cửa chính, cửa sổ
Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có làm nên chính
chúng. Nhờ đó chúng mới khác các sự vật, hiện tượng khác.
Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố cấu
thành sự vật, … Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc

được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó. Tuy nhiên những thuộc tính
14
vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra thông qua sự tác động qua lại với
các sự vật, hiện tượng khác. Ví dụ, chất của đồng chỉ bộc lộ ra khi đồng tác động qua
lại với nhiệt độ, không khí, điện…. Chất của một người được bộc lộ ra qua quan hệ
của người đó với những người khác và qua công việc mà người đó làm. Như vậy
muốn nhận thức đúng đắn đúng đắn về những thuộc tính của sự vật, chúng ta phải
thông qua sự tác động qua lại của sự vật đó với bản thân chúng ta hoặc thông qua
quan hệ, mối liên hệ qua lại của nó với các sự vật khác.
Mỗi sự vật có nhiều thuộc tính; mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất của sự
vật. Do vậy, mỗi sự vật có rất nhiều chất. Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ,
không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan không thể tồn tại sự vật không có
chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật.
Chất của sự vật được biểu hiện thông qua những thuộc tính của nó. Nhưng
không phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của sự
vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản được
tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật. Chính chúng quy định sự tồn tại, sự vận động
và sự phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hoặc mất đi thì sự vật mới thay
đổi hay mất đi.
Nhưng thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối liên hệ cụ thể với các sự
vật khác. Bởi vậy sự phân chia thuộc tính thành thuộc tính cơ bản và thuộc tính
không cơ bản cũng chỉ mang tính tương đối. Trong mối quan hệ cụ thể này, thuộc
tính này là thuộc tính cơ bản thể hiện chất của sự vật, trong mối liên hệ cụ thể khác sẽ
có thêm thuộc tính khác hay thuộc tính khác là thuộc tính cơ bản. Ví dụ: Trong mối
liên hệ với động vật thì các thuộc tính có khả năng chế tạo, sử dụng công cụ lao động,
có tư duy, ngôn ngữ là thuộc tính cơ bản của con người còn những thuộc tính khác
không là thuộc tính cơ bản. Song trong quan hệ giữa những con người cụ thể với
nhau thì những thuộc tính cơ bản của từng con người ở đây lại là nhân dạng, dấu vân
tay, tính cách…
Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của những yếu tố tạo

thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu
của sự vật. Trong hiện thực các sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau song
chất của chúng lại khác nhau ví dụ như kim cương và than chì đều có cùng thành
phần hóa học do các nguyên tử các bon tạo nên, nhưng do phương thức liên kết giữa
các nguyên tử các bon là khác nhau, vì thế chất của chúng hoàn toàn khác nhau. Kim
cương rất cứng còn than chì lại mền. Trong một tập thể nhất định nếu phương thức
liên kết giữa các cá nhân biến đổi thì tập thể đó có thể trở nên vững mạnh, hoặc sẽ trở
thành yếu kém, nghĩa là chất của tập thể biến đổi. Từ đó có thể thấy sự thay đổi về
chất của sự vật phụ thuộc vào cả sự thay đổi các yếu tố cấu thành của sự vật lẫn sự
thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố ấy. như rượu etylic và ete đều có cong
thức là (C2H5OH).
Chất là sự vật là khách quan, vì đó là chất của sự vật, không do ai gán cho sự
vật. Nó do thuộc tính của sự vật quy định.
b. Khái niệm lượng
15
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật, hiện tượng về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và
phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật…
Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy
mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm.Ví dụ, khi nói sinh
viên năm thứ hai, thì sinh viên là chất để phân biệt với công nhân, bộ đội, còn năm
thứ hai chính là lượng, chỉ trình độ của sinh viên.
Lượng là cái khách quan vốn có có sự vật. Trong thực tế lượng của sự vật
thường được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể như vận tốc của ánh sáng là
300.000 kilomet trong một giây, một phân tử nước bao gồm hai nguyên tử hyđrô và
một nguyên tử ôxi. Bên cạnh đó có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu
tượng và khái quát như trình độ tri thức khoa học của một ngườ, ý thức trách nhiệm
cao hay thấp của một công dân hay với những sự vật liên quan tới tình cảm như lòng
tốt, tình yêu,… Đó là điều phải hết sức chú ý để khỏi mắc sai lầm khi nhìn nhận đánh
giá những vấn đề xã hội. Có những lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong

của sự vật (số lượng nguyên tử kết cấu thành nguyên tố hóa học, số lượng lĩnh vực cơ
bản của đời sống xã hội), có những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự
vật như chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật.
Một điều cũng cần nhấn mạnh là khi nói lượng là lượng của chất. Vì vậy, một
vật có nhiều chất thì vật cũng có nhiều lượng. Chẳng hạn, mỗi con người đều có
những thuộc tính sinh học và thuộc tính xã hội. Nếu xem con người là một “chất sinh
học” thì lượng ở đây là chiều cao, cân nặng… Nhưng con người lại cũng có thể xem
là có “chất thanh niên”, “chất trung niên”, thậm chí là “chất chính trị”, “chất quản
lý”.
Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Có những tính
trong mối quan hệ này được coi là chất của sự vật song trong mối quan hệ khác lại
biệu thị lượng của sự vật và ngược lại. Ví dụ, số 4 trong mối quan hệ phân biệt với
các số nguyên, dương khác thì nó được coi là chất. Nhưng trong mối quan hệ số 4 có
tổng số bằng 4 số 1 cộng lại, hay bằng 2 số 2 cộng lại thì khi ấy nó được coi là lượng.
Hay số lượng sinh viên học giỏi của một lớp sẽ biểu thị tình hình học tập của lớp đó.
Điều này cũng có nghĩa là dù số lượng cụ thể quy định thuần túy về lượng song số
lượng ấy cũng có tính quy định về chất của sự vật.
2. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất
a. Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng
Chúng tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự vật, quy định về lượng không bao giờ tồn
tại nếu không có tính quy định về chất và ngược lại.
Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động và
phát triển của sự vật. Nhưng sự thay đổi đó có quan hệ chặt chẽ với nhau chứ không
tách rời nhau. Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng tới sự thay đổi về chất
của nó và ngược lại, sự thay đổi về chất của sự vật tương ứng với thay đổi về lượng
của nó. Lượng thay đổi nhanh hơn chất, nhưng không phải mỗi thay đổi của lượng
đều ngay lập tức làm thay đổi căn bản về chất. Ở một giới hạn nhất định, lượng của
16
sự vật thay đổi, nhưng chất của sự vật chưa thay đổi cơ bản. Chẳng hạn, khi ta nung

một thỏi thép đặc biệt ở trong lò, nhiệt độ của lò nung có thể lên tời hàng trăm độ,
thậm chí lên tới hàng ngàn độ, song lõi thép vẫn ở trạng thái rắn chứ chưa chuyển
sang trạng thái lỏng. Khi lượng của sự vật được tích lũy vượt quá giới hạn nhất định,
thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Không giới hạn đó gọi là ĐỘ.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới trong đó sự thay đổi về lượng
của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật đó. Ví dụ, độ của chất sinh viên
là từ khi nhập học tới khi bảo vệ thành công đồ án, luận văn tốt nghiệp.
Độ là mối liên hệ giữa lượng và chất của sự vật, ở đó thể hiện sự thống nhất
giữa lượng và chất của sự vật. Trong độ, sự vật vẫn còn là nó chứ chưa biến thành cái
khác. Dưới áp suất bình thường của không khí, sự tăng hoặc sự giảm nhiệt độ trong
khoảng giới hạn tử O đến 100 độ C, nước nguyên chất vẫn ở trạng thái lỏng. Nếu
nhiệt độ của nước đó giảm xuống dưới O độ C nước thể lỏng chuyển thành thể rắn và
duy trì nhiệt độ đó, từ 100 độ C trở lên, nước nguyên chất thể lỏng chuyển dần sang
trạng thái hơi. Đó là sự thay đổi về chất trong hình thức vận động vật lý của nước.
Điểm giới hạn như 0 độ C và 100 độ ở trên gọi là điểm nút.
ĐIỂM NÚT là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay
đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Ví dụ khác: thời điểm thi đại học
hoặc bảo vệ thành công đồ án, hoặc luận văn tốt nghiệp của sinh viên là điểm nút để
chuyển từ chất học sinh lên chất sinh viên, từ sinh viên lên chất cử nhân.
Nhận thức được điểm nút là nhận thức được sự chín muồi, là biết được thời cơ,
vận hội hoặc cũng có thể dự báo được những nguy cơ, những tai họa có thể ập đến
Một nhà quản lý nhận thức được điểm nút có thể có những quyết định hoạt động
đúng đắn dứt khoát để chuyển hóa hay để bảo tồn sự vật. Không nhận thức được điều
đó, con người sẽ hành động mù quáng, có thể gặp hậu họa hoặc bỏ lỡ thời cơ.
Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra đời.
BƯỚC NHẢY là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do
sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên. Bước nhảy là sự kết thúc một giai
đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới. Bước
nhảy là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát triển liên tục của sự vật. Có thể
nói trong quá trình phát triển của sự phật, sự gián đoạn là tiền đề cho sự liên tục là sự

kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn.
Như vậy, sự phát triện của bất cứ sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích lũy về
lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song điểm
nút của quá trình ấy không cố định mà có thể có nhựng thay đổi. Sự thay đổi ấy do
tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan quy định.
Bước nhảy để chuyển hoá về chất của sự vật hết sức đa dạng, phong phú với
nhiều hình thức khác nhau.
Dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy, người ta chia bước nhảy thành bước
nhảy đột biến và bước nhảy dần dần.
Bước nhảy đột biến, chất của sự vật biến đổi một cách nhanh chóng ở tất cả các
bộ phận cơ bản, cấu thành sự vật. Ví dụ, phản ứng hạt nhân (Ur235 đạt đến khối
17
lượng nhất định sẽ xảy ra vụ nổ hạt nhất) rất nhanh và làm thay đổi chất của sự vật
nhanh chóng.
Bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng con đường tích
luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và mất đi dần dần những nhân tố của chất
cũ. Ví dụ, quá trình chuyển biến vượn người thành người diễn ra hàng vạn năm, hết
sức lâu dài. Cần lưu ý, bước nhảy dần dần sang chất mới khác sự thay đổi dần dần về
lượng (tích luỹ liên tục về lượng, ví dụ như sự tích luỹ tiền gửi tiết kiệm) của sự vật.
Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật, người ta chia thành bước
nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ.
Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổ về chất tất cả các mặt, các bộ
phận, các yếu tố cấu thành sự vật. Ví dụ, khi thực hiện cách mạng Tháng Tám năm
1945, chúng ta dã thực hiện bước nhảy toàn bộ trên tất cả các mặt đời sống kinh tế –
chính trị – xã hội – văn hoá - đạo đức
Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi một số mặt, một số yếu tố, bộ
phận của sự vật. Ví dụ, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay đang
hàng ngày, hàng giờ làm thay đổi từng mặt đời sống kinh tế – xã hội – văn hoá theo
hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong lĩnh vực xã hội, thay đổi về lượng được gọi là “tiến hoá”, thay đổi về

chất được gọi là “cách mạng”.
b. Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng
Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Sự tác động ấy thể hiện:
Chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhiệp điệu của sự vận động
và phát triển của sự vật. Ví dụ, khi sinh viên vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp
hoăc 5bao3 vệ khóa luận tốt nghiệp, tức cũng là thực hiện bước nhảy, sinh viên sẽ
nhận bằng cử nhân. Trình độ văn hóa của sinh viên cao hơn và sẽ tạo điều kiện cho
họ thay đổi kết cấu, quy mô và trình độ tri thức, giúp hô tir6n1 lên trình độ cao hơn.
Cũng như vậy khi nước chuyển từ trạng thái lỏng sang trạng thái hơi thì vận tốc của
các phân tử nước cao hơn, thể tích của nước ở trạng thái hơi cao hơn thể tích của nó ở
trạng thài lỏng với cùng một khối lượng, tính chất hòa tan một số chất tan của nó
cũng khác đi
Như vậy, không chỉ sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất mà cả
sự thay đổi về chất cũng gây nên những thay đổi về lượng.
Tóm lại, sự thống nhất giữa lượng và chất trong sự vật tạo thành độ của sự vật.
Những thay đổi về lượng dần dần đến giới hạn nhất định thì xảy ra bước nhảy, chất cũ
bị phá vỡ, chất mới ra đời cùng với độ mới. Đó chính là cách thức phát triển của sự
vật. Quá trình này diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng vận động, biến đổi.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động thực tiễn muốn có thay đổi về chất và sự vật phải tích luỹ về
lượng, không được nóng vội chủ quan.
- Trong hoạt động thực tiễn cần tránh rời vào “tả khuynh” – nhấn mạnh bước
nhảy khi chưa đủ sự tích luỹ về lượng; bởi lẽ, khi ấy rất dễ rơi vào phiêu lưu, mạo
18
hiểm. Đồng thời, phải tránh “hữu khuynh” – tuyệt đối hoá sự tích luỹ về lượng,
không dám thực hiện bước nhảy khi chưa đủ sự tích luỹ về lượng, khi ấy dễ rơi vào
bảo thủ, trì trệ, ngại khó.
- Khi tích luỹ về lượng đã đủ cần thực hiện bước nhảy, tránh bảo thủ, trì trệ,
ngại khó. Việc nhận thức được “bước nhảy” trong quá trình phát triển là một bước
tiến trong sự nhận thức thế giới. Đó cũng là tiêu chí quan trọng để phân biệt quan

điểm biện chứng và quan điểm siêu hình. Theo quan điểm siêu hình, sự phát triển của
từng sự vật, hiện tượng cũng như của thế giới nói chung chỉ là sự tăng giảm thuần túy
về lượng. Đó là sự phát triển liên tục trong thời gian đi theo sự tiệm tiến dần dần. Họ
phủ nhận “bước nhảy” và cũng có nghĩa là phủ nhận vai trò của các cuộc cách mạng
trong sự phát triển xã hội. Phủ nhận “bước nhảy” về thực chất cũng là phủ nhận sự
biến đổi về chất.
- Trong hoạt động thực tiễn cần phân biệt đúng các hình thức của bước nhảy và
vận dụng sáng tạo bước nhảy để thúc đẩy sự phát triển của sự vật.
Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên
kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động phải biết cách tác động
vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất,
quy luật, kết cấu của sự vật đó. Chẳng hạn, trên cơ sở hiểu biết đúng đắn về gen, con
người có thể tác động vào phương thức liên kết giữa các nhân tố tạo thành gen làm
cho gen biến đổi. Trong một tập thể cơ chế quản lý, lãnh đạo và quan hệ giữa các
thành viên trong tập thể ấy thay đổi có tính chất toàn bộ thì rất có thể sẽ làm cho tập
thể đó vững mạnh.
- Để sự vật còn là nó phải nhận thức được tính chất của nó và không để cho
lượng thay đổi vượt quá giới hạn độ. Ví dụ, khi sử dụng đồ điện phải chú ý tới công
xuất, điện áp của nó, nếu không sẽ cháy
Câu 7: Thực tiễn là gì? Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức?
a. Phạm trù thực tiễn
Phạm trù thực tiễn là một phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học Mac Lê nin
nói chung và của lý luận nhận thức Macxit nói riêng. Trong lịch sử triết học không
phải mọi trào lưu đều đã đưa ra quan niệm một cách đúng đắn về phạm trù này.
Chẳng hạn chủ nghĩa duy tâm chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần sáng tạo
ra thế giới của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất, là hoạt động lịch
sử, xã hội. Ngược lại, chủ nghĩa duy vật trước Mác, mặc dù đã hiểu thực tiễn là một
hoạt động vất chất của con người nhưng lại xem đó là hoạt động con buôn, đê tiện,
bẩn thỉu. Nó không có vai trò gì đối với nhận thức của con người.
Khắc phục những yếu tố sai lầm, kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố

hợp lý trong nhũng quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó, Các Mác
và Angghen đã đưa ra một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của
nó đối với nhân thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Theo triết học duy vật biện chứng, thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật
chất có mục đích, mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và
xã hội.
19
Từ định nghĩa trên cho thấy, thực tiễn có 3 đặc trưng sau:
Thứ nhất, thực tiễn là hoạt động vật chất cảm tính. Đó là những hoạt động mà
con người phải dùng công cụ vật chất, lực lượng vật chất tác động vào các đối tượng
vật chất để làm biến đổi chúng. Ví dụ, hoạt động cày ruộng đào đất, xây nhà, sản xuất
ra của cải vật chất nói chung…
Thứ hai, thực tiễn có tính lịch sử - xã hội. Nghĩa là hoạt động thực tiễn là hoạt
động của con người, diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo người, và trải
qua những giai đoạn lịch sử nhất định, bị giới hạn bởi những điều kiện lịch sử – cụ
thể nhất định.
Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích – nhằm trực tiếp cải tự nhiên
và xã hội phục vụ con người.
Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, song
có ba hình thức có ba hiện thực cơ bản là hoạt động Sản xuất vật chất, hoạt động cải
tạo xã hội – chính trị và hoạt động thực nghiệm khoa học.
- Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt cơ bản, đầu tiên quan trọng nhất
của thực tiễn. Nó có sớm nhất và đóng vai trò quyết định các hình thức thực tiễn
khác. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác
động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải và những điều kiện thiết yếu nhằm
duy trì sự tồn tại và phát triển của mình và xã hội như lương thực, quần áo, nhà cửa.
- Hoạt động cải tạo xã hội – chính trị là hoạt động của các tổ chức, cộng đồng
người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc dẩy xã
hội phát triển. Chẳng hạn như đấu tranh giai cấp, đấu tranh cho hoà bình, dân chủ,
tiến bộ xã hội,…

- Hoạt động thực nghiệm khoa học. Đây là một hình thức đặc biệt của thực
tiễn. Nó được tiến hành trong những điều kiện mà con người chủ định tạo ra để nhận
thức và cải tạo tự nhiên – xã hội thông qua các quy luật nhằm phục vụ con người.
Dạng hoạt động thự tiễn này ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của
xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay.
Mỗi hình thức hoạt động thực tiễn có vai trò, chức năng riêng không thể thay
thế, nhưng chúng quan hệ mật thiết với nhau, liên hệ tác động lẫn nhau. Trong đó,
hoạt động sản xuất đóng vai trò quyết định đối với các hình thức khác. Bởi lẽ, nó là
hoạt động nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất trong
đời sống của con người và nó tạo ra những điều kiện của cải thiết yếu có tính quyết
định đối với sự sinh tồn và phát triển của con người. Không có hoạt động sản xuất vật
chất thì không thể có hình thức hoạt động khác. Các hình thức hoạt động khác suy
cho cùng cũng xuất phát từ hoạt động sản xuất vật chất và phục vụ cho hoạt động sản
xuất của con người.
Tuy nhiên, hai hình thức thực tiễn kia có ảnh hưởng quan trọng đối với sản
xuất vật chất. Chúng có tác động kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt động sản xuất vật chất
phát triển. Chẳng hạn, nếu những hoạt động cải tạo xã hội mang tính chất tiến bộ,
cách mạng và nếu hoạt động thực nghiệm khoa học đúng đắn và tiến bộ sẽ tạo đà cho
hoạt động sản xuất vật chất phát triển. Còn nếu hoạt động chính trị xã hội lạc hậu,
phản cách mạng, hoạt động thực nghiệm khoa học sai lầm, không khoa học sẽ kìm
hãm sự phát triển của hoạt động sản xuất vật chất.
20
Chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản đó làm
cho thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng
đối với nhận thức.
b. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
- Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức
Thông qua và bằng hoạt động thực tiễn con người tác động vào sự vật làm cho
sự vật bộc lộ thuộc tính, tính chất, quy luật. Trên cơ sở đó con người có hiểu biết về
chúng. Nghĩa là thực tiễn cung cấp “vật liệu” cho nhận thức. Không có thực tiễn

không thể có nhận thức. Ví dụ, chính đo đạc ruộng đất trong chế độ chiếm hữu nô lệ
là cơ sở cho định lý Talét, Pitago ra đời.
Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi nhận thức phải trả lời. Nói
khác đi, chính thực tiễn là người đặt hàng cho nhận thức phải giải quyết. Trên cơ sở
đó thúc đẩy nhận thức phát triển. Ví dụ, dịch cúm gà H5N1 đặt ra cho toàn nhân loại
nhiệm vụ nghiên cứu chế tạo vắc xin chống loại dịch cúm này. Từ đó, các nhà khoa
học đặt cho mình nhiệm vụ nghiên cứu vi rút để tìm ra phác đồ điều trị cũng như chế
tạo vắc xin.
Thực tiễn còn là nơi rèn luyện giác quan của con người. Ví dụ, thông qua sản
xuất, chiến đấu những cơ quan cảm giá như tính giác, thị giác… được rèn luyện. Các
cơ quan cảm giác được rèn luyện sẽ tạo ra cơ sở cho chủ thể nhận thức hiệu quả hơn,
nghĩa là, thúc đẩy nhận thức phát triển.
Thực tiễn còn là cơ sở chế tạo công cụ, máy móc hỗ trợ con người nhận thức
hiệu quả hơn. Ví dụ, kính thêin văn, hàn thử biểu, máy vi tính,… đều được sản xuất,
chế tạo trong sản xuất vật chất. Nhờ những công cụ, máy móc này mà con người
nhận thức sự vật chính xác hơn, đúng đắn hơn. Trên cơ sở đó thúc đẩy nhận thức phát
triển.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Nhận thức của con người bị chi phối bởi nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại. Ngay
từ thuở mông muội, để sống con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh, tức là dể
sống, con người phải nhận thức. Nghĩa là ngay từ khi con người xuất hiện trên trái
đất, nhận thức của con người đã bị chi phối bởi nhu cầu thực tiễn.
Những tri thức, kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa đích thực khi được vận
dụng vào thực tiễn phục vụ con người. Nói khác đi, chính thực tiễn là tiêu chuẩn đánh
giá giá trị của tri thức – kết quả của nhận thức. Vì vậy, những tri thức khoa học kết
quả của nhận thức càng có ý nghĩa, giá trị khi càng được nhiều người vận dụng vào
thực tiễn.
Nếu nhận thức không vì thực tiễn mà vì cá nhân, vì chủ nghĩa hình thức, chủ
nghĩa thành tích,… thì nhận thức sớm muộn sẽ mất phương hướng, sẽ phải trả giá.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.

Theo triết học duy vật biện chứng, chân lý là những tri thức phản ánh đúng
đắn hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Ví dụ, mọi kim loại đều
dẫn điện… Điều này đã được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng.
Triết học duy vật duy vật khẳng định, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan của
chân lý. Bởi lẽ, chỉ có thông qua thực tiễn, con người mới “vật chất hoá” được tri
thức, “hiện thực hoá” được tư tưởng. Thông qua quá trình đó, con người có thể khẳng
định chân lý, bác bỏ sai lầm.
21
Phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý một biện chứng, nghĩa là nó vừa có
tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối.
* Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn ở những giai đoạn lịch sử cụ thể là
tiêu chuẩn khách quan duy nhất có khẳng định được chân lý, bác bỏ được sai lầm.
* Tính tương đối thể hiện ở chỗ, bản thân thực tiễn luôn vận động, biến đổi,
phát triển. Cho nên, khi thực tiễn đổi thay thì nhận thức cũng phải đổi thay cho phù
hợp. Nghĩa là những tri thức đã đạt được trước đây hiện nay vấn phải được kiểm
nghiệm thông qua thực tiễn. Thực tiễn được xem xét trong không gian càng rộng,
trong thời gian càng dài thì càng rõ đâu là chân lý, đâu là sai lầm.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ trên, chúng tôi rút ra quan điểm thực tiễn trong nhận thức (điều này có
nghĩa là quan điểm của triết học Mác-Lênin về thực tiễn và vai trò của nó đối với
nhận thức là cơ sở lý luận cho quan điểm thực tiễn). Quan điểm thực tiễn yêu cầu:
- Nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người, phải xuất
phát từ thực tiễn.
- Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải gắn với hành.
- Phải chú trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thành phát triển
lý luận.
- Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý luận.
- Tránh tuyệt đối hoá thực tiễn và coi thường lý luận vì khi ấy sẽ rơi vào bệnh
kinh nghiệm. Thực chất của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa là sự cường điệu hoặc tuyệt
đối hoá kinh nghiệm, coi kinh nghiệm là "chìa khoá vạn năng" trong việc giải quyết

những vấn đề của cuộc sống đặt ra. Biểu hiện của những người mắc bệnh kinh
nghiệm là đề cao kinh nghiệm cảm tính, coi thường tri thức lý luận, tri thức khoa học,
vận dụng kinh nghiệm để giải mã những vấn đề thực tiễn một cách máy móc, dẫn đến
tình trạng áp đặt kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Đối
với cán bộ lãnh đạo, quản lý, căn bệnh này làm cho họ rơi vào tình trạng mò mẫm, sự
vụ, tuỳ tiện, không nhất quán trong việc thi hành các chủ trương, chính sách của Nhà
nước, làm ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Xét từ khía cạnh trình
độ nhận thức thì bệnh giáo điều có nguồn gốc từ sự yếu kém về tư duy lý luận, nhất là
lý luận của CNDV biện chứng, do đó, dẫn đến hạn chế khả năng áp dụng tri thức một
cách linh hoạt, sáng tạo vào cuộc sống và không hiểu được tính biện chứng của quá
trình nhận thức cũng như biện chứng của lịch sử xã hội. Việc nắm vững phép biện
chứng duy vật sẽ giúp cho chủ thể vừa ngăn ngừa, khắc phục những khuynh hướng tư
duy sai lầm, vừa nâng cao năng lực tư duy, tạo khả năng giải quyết đúng đắn những
vấn đề do thực tiễn đặt ra.
- Tránh tuyệt đối hoá lý luận và coi thường thực tiễn vì khi ấy sẽ rơi vào bệnh
giáo điều. Thực chất của bệnh giáo điều là tuyệt đối hóa lý luận, coi nhẹ thực tiễn, coi
lý luận là bất di bất dịch, tách lý luận khỏi thực tiễn, vận dụng lý luận không căn cứ
vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Giáo điều lý luận: học tập lý luận tách rời thực tiễn, xa
rời cuộc sống, rơi vào bệnh sách vở, tầm chương trích cú, Giáo điều kinh nghiệm:
áp dụng một cách máy móc, rập khuôn kinh nghiệm nước khác, ngành khác, địa
phương khác vào mình mà không tính đến những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Nguyên nhân của bệnh giáo điều là sự yếu kém về lý luận; tác động tiêu cực của cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp; vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
22
tiễn. Phương hướng khắc phục: ngoài khắc phục những nguyên nhân trên cần hoàn
thiện cơ chế dân chủ cơ sở (dân chủ hóa đời sống XH).
Từ 10 đến 22
Câu 8: Biện chứng của quá trình nhận thức?
Quan niệm về bản chất nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện
ở chỗ:

Thứ nhất, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho nhận thức là quá trình phản ánh
hiện thực khách quan vào trong đầu óc người trên cơ sở thực tiễn. Điều này có
nghĩa là chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách
quan độc lập với ý thức của con người. Cơ sở của nhận thức chính là thực tiễn lịch
sử – xã hội.
Thứ hai, chủ nghĩa duy vật biện chứng công nhận khả năng nhận thức thế
giới của con người. Không có cái gì mà con người không nhận thức được, chỉ có
cái mà con người chưa nhận thức được mà thôi.
Thứ ba, nhận thức là quá trình biện chứng, có vận động biến đổi, phát triển,
đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều hơn, từ chưa đầy đủ đến đầy đủ
hơn, từ bản chất cấp 1 đến bản chất cấp 2… nhưng không có giới hạn cuối cùng.
Thứ tư, nhận thức phải dựa trên cơ sở thực tiễn, lấy thực tiễn làm mục đích
nhận thức, làm tiêu chuẩn kiểm tra chân lý.
Tóm lại, nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế
giới khách quan vào bộ óc người trên cơ sở thực tiễn.
- Biện chứng của quá trình nhận thức:
V.I.Lênin đã chỉ ra con đường biện chứng của nhận thức chân lý: “Từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là
con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách
quan”. Như vậy, nhận thức gồm 2 giai đoạn:
a. Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính)
Đây là giai đoạn đầu tiên nhận thức diễn ra dưới 3 hình thức: cảm giác, tri
thức, biểu tượng.
Cảm giác là hình thức đầu tiên, đơn giản nhất của nhận thức cảm tính, được
nảy sinh do sự tác động trực tiếp của khách thể lên giác quan của con người. Ví dụ,
chiếc xe máy đi qua cho ta cảm giác về màu sắc khi tác động vào mắt của ta (thị
giác). Về bản chất, cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Do đó,
hình thức biểu hiện của cảm giác phụ thuộc vào chủ thể nhận thức như nội dung của
nó không phụ thuộc vào chủ thể, chỉ phụ thuộc vào khách thể.
Tri giác là tổng hợp của nhiều cảm giác về sự vật. Nói khác đi, tổng hựop

nhiều cảm giác cho ta tri giác về sự vật. Nó là kết quả tác động trực tiếp của sự vật
đồng thời lên nhiều giác quan của con người. Ví dụ, khi xem ti vi, cả hình ảnh, màu
23
sắc, âm thanh đều tác động lên các cơ quan cảm giác của ta (thị giác, thính giác…) và
cho ta tri giác về cái đang xem.
Biểu tượng là hình ảnh về sự vật do tri giá đem lại nhưng được tái hiện lại nhờ
trí nhớ. Ví dụ, ta xem một loại xe máy mới xuất hiện, sau đó kể lại cho ngưòi khác
nghe về loại xe máy mới này. Để kể được ta phải huy động trí nhớ để kể về màu sắc,
hình dáng… Khác với tri giác, biểu tượng là hình ảnh được tái hiện trong óc, khi sự
vật không trực tiếp tác động vào giác quan. Nhưng biểu tưởng vẫn giống tri giác ở
chỗ, nó vẫn chỉ là hình ảnh cảm tính về sự vật, tức là hình ảnh trực tiếp, bề ngoài của
sự vật.
Cảm giác, tri giác và biểu tượng là những hình thức của nhận thức cảm tính có
liên hệ hữu cơ với nhau, phản ánh trực tiếp vẻ ngoại của sự vật. Những hình ảnh này
trực tiếp, sống động, phong phú nhưng chưa cho ta sự hiểu biết về bản chất bên trong
của sự vật.
b. Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính)
Đây là giai đoạn tiếp theo, cao hơn về chất của quá trình nhận thức. Nó nảy
sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn và diễn ra dưới 3 hình thức:
khái niệm, phán đoán, suy lý.
Khái niệm là hình thức đầu tiên, cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh khái
quát, gián tiếp một hoặc một số thuộc tính chung có tính bản chất nào đó của một
nhóm sự vật được biểu thị bằng một từ hay một cụm từ. Ví dụ, khái niệm con người,
động vật, thanh niên khái niệm được hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn và
nhận thức của con người; do đó, nó luôn vận động biến đổi.
Phán đoán, là hình thức liên kết các khái niệm để khẳng định hay phủ định một
thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượng dưới hình thức ngôn ngữ. Ví dụ, nhôm làm
kim loại, nhựa không dẫn điện Có ba loại phán đoán: phán đoán đơn nhất (ví dụ,
đồng dẫn điện); phán đoán đặc thù (ví dụ, nhôm là kim loại), phán đoán phổ biến (ví
dụ, mọi kim loại đều dẫn điện). Nhờ phán đoán mà nhận thức của con người luôn

được mở rộng, phát triển.
Suy lý là sự lập luận mà xuất phát từ những phán đoán đã biết làm tiền đề rút ra
phán đoán mới làm kết luận. Tính đúng đắn của phán đoán mới được rút ra phụ thuộc
vào tính đúng đắn của các phán đoán làm tiền đề và sự tuân thủ quy tắc lôgic cũng
như phương pháp tư duy của chủ thể nhận thức. Ví dụ, từ các phán đoán: A thuộc B
và thuộc C, người ta có thể rút ra kết luận: A thuộc C. Tương tự như vậy, từ hai
phán đoán: mọi kim loại đều dẫn điện và nhôm là kim loại, chúng ta rút ra phán đoán
mới làm kết luận: nhôm dẫn diện.
Có hai loại suy luận: Suy luận quy nạp - đi từ cái riêng tới cái chung (tức là từ
phán đoán đơn nhất qua phán đoán đặc thù đến phán đoán phổ biến) và suy luận diễn
dịch - đi từ cái chung tới cái riêng (từ phán đoán phổ biến qua phán đoán đặc thù rồi
tới phán đoán đơn nhất).
Như vậy, khái niệm, phán đoán, suy lý là những hình thức của tư duy trừu
tượng. Chúng có thể phản ánh gián tiếp, khái quát sự vật. Các hình thức này có quan
hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau.
c. Quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính và thực tiễn
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của một quá trình
nhận thức thống nhất. Tuy chúng khác nhau về vị trí và mức độ phản ánh nhưng lại
thống nhất với nhau, liên hệ bổ sung cho nhau và đều dựa trên cơ sở thực tiễn.
24
Nhận thức cảm tính là cơ sở cho nhận thức lý tính, không có nhận thức cảm
tính thì không có nhận thức lý tính.
Nhờ có nhận thức lý tính mà con người mới đi sâu nhận thức được bản chất sự
vật, làm cho nhận thức của con người ngày càng sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, đúng đắn
hơn. Ví dụ, chúng ta nhìn thấy chớp rồi mới nghe thấy sấm, thậm chí không nghe
thấy sấm. Nhưng nhờ nhận thức lý tính chúng ta mới hiểu rõ, chớp không phải là
nguyên nhân của sấm. Mặc dù chớp về thời gian là đập vào mắt chúng ta trước so với
sấm đập vào tai chúng ta. Phải nhờ nhận thức lý tính mới lý giải được vấn đề này
(chớp là ánh sáng mà ánh sáng vận động với tốc độ 300.000km/s).
Cả hai giai đoạn nhận thức này luôn dựa trên cơ sở thực tiễn, được kiểm tra bởi

thực tiễn và đều nhằm phục vụ thực tiễn.
Câu 9: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất? Ý nghĩa đối với nước ta?
- Đặt vấn đề: Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của
lực lượng sản xuất là quy luật chung nhất chi phối toàn bộ tiến trình lịch sử nhân
loại. Quy luật này làm cho lịch sử là một dòng chảy liên tục song mang tính gián
đoạn. Trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, quy luật này có những biểu hiện đặc thù
của nó.
1. Khái niệm
a. Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức mà con người dùng để làm ra của cải vật
chất cho mình trong một giai đoạn lịch sử nhất định, theo cách đó con người có
những quan hệ nhất định với tự nhiên và có những quan hệ nhất định với nhau
trong sản xuất vật chất.
Mỗi hình thái kinh tế – xã hội có một phương thức sản xuất đặc trưng nhất
định và theo đó có một phương thức sinh hoạt xã hội nhất định.
Con người và lịch sử
CON NG IƯỜ
( n, m c, Ă ặ
, i l i )ở đ ạ …
KTTT
CSHT
QHSX
LLSX
PTSX
(cách th cứ
SXVC)
SXVX
(T li uư ệ
sinh ho t)ạ

CON NG IƯỜ
( n, m c, Ă ặ
, i l i )ở đ ạ …
CON NG IƯỜ
( n, m c, Ă ặ
, i l i )ở đ ạ …
SXVX
(T li uư ệ
sinh ho t)ạ
CON NG IƯỜ
( n, m c, Ă ặ
, i l i )ở đ ạ …
SXVX
(T li uư ệ
sinh ho t)ạ
CON NG IƯỜ
( n, m c, Ă ặ
, i l i )ở đ ạ …
CON NG IƯỜ
( n, m c, Ă ặ
, i l i )ở đ ạ …
SXVX
(T li uư ệ
sinh ho t)ạ
CON NG IƯỜ
( n, m c, Ă ặ
, i l i )ở đ ạ …
SXVX
(T li uư ệ
sinh ho t)ạ

CON NG IƯỜ
( n, m c, Ă ặ
, i l i )ở đ ạ …
SXVX
(T li uư ệ
sinh ho t)ạ
CON NG IƯỜ
( n, m c, Ă ặ
, i l i )ở đ ạ …
SXVX
(T li uư ệ
sinh ho t)ạ
CON NG IƯỜ
( n, m c, Ă ặ
, i l i )ở đ ạ …
25

×