Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Sự cạnh tranh của các trung gian tài chính phi ngân hàng với ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.3 KB, 10 trang )

TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH HỌC
ĐỀ TÀI: Sự cạnh tranh của các trung gian tài chính
phi ngân hàng với ngân hàng thương mại
Sự khác nhau giữa các tổ chức trung gian tài chính phi ngân hàng với
nhtm
Ngân hàng và các tổ chức trung gian tài chính khác đều có vai trò
trung gian giữa người tiết kiệm và sử dụng vốn.
Ngân hàng thương mại Tổ chức tài chính phi ngân hàng
Ngân hàng nhận tiền gửi và trả
lãi cho người gửi tiền
Ngân hàng cho vay và tính lãi
người đi vay
Là tổ chức nhận tiền gửi
Phải tạo lập dự trữ bắt buộc
Có chức năng trung gian thanh
toán
Nhận phí bảo hiểm hoặc tiền góp
của các thành viên
Đem tiền này đi đầu tư chứng
khoán và chia lợi nhuận cho tv
Là tổ chức không nhận tiền gửi
Không cần tạo lập dự trữ bb
Không có chức năng trung gian tt
I. Hoạt động chính của ngân hàng thương mại
1. Huy động vốn
Ngân hàng huy động vốn dưới các hình thức sau:
a, Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng
khác dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại
tiền gửi khác.
b, Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để
huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được


Thống đốc NHNN chấp thuận.
c, Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và
của tổ chức tín dụng nước ngoài.
d, Vay vốn ngắn hạn của NHNN dưới hình thức tái cấp vốn.
e, Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNN.
2. Hoạt động tín dụng
Ngân hàng cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho
vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài
chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN.
3. Các hình thức vay
Ngân hàng cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức sau
đây:
a, Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, đời sống.
b, Cho vay trung hạn, dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát
triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống.
4. Bảo lãnh
a, Ngân hàng bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện
hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác cho
các tổ chức tín dụng, cá nhân theo quy định của NHNN.
b, Ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế được thực
hiện bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán và các hình thức bảo lãnh ngân hàng
khác mà người nhận bảo lãnh là tổ chức cá nhân nước ngoài theo quy định
của NHNN.
5. Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ
có giá ngắn hạn khác
a, Ngân hàng được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu thương
phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo quy định pháp luật hiện
hành. Người chủ sở hữu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác
phải chuyển giao ngay mọi quyền, lợi ích hợp pháp phát sinh từ các giấy tờ

đó cho Ngân hàng.
b, Ngân hàng được cấp tín dụng dưới hình thức cầm cố thương phiếu
và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo quy định pháp luật hiện hành.
Ngân hàng được thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp phát sinh trong
trường hợp chủ sở hữu các giấy tờ đó không thực hiện đầy đủ những cam
kết trong hợp đồng tín dụng.
c, Ngân hàng được tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy
tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác theo quy định
pháp luật hiện hành.
d, Ngân hàng có thể được Ngân hàng Nhà nước tái chiết khấu và cho
vay trên cơ sở cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã
được chiết khấu theo quy định pháp luật hiện hành.
6.Công ty cho thuê tài chính
Ngân hàng phải thành lập Công ty cho thuê tài chính khi hoạt động
cho thuê tài chính.
7. Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
a, Ngân hàng thực hiện các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ:
- Cung ứng các phương tiện thanh toán.
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khác hàng.
- Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ.
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của NHNN.
- Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép .
- Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
b, Ngân hàng tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ
thống thanh toán liên ngân hàng trong nước. Tham gia các hệ thống thanh
toán quốc tế khi được NHNN cho phép.
8.Các hoạt động khác
Ngân hàng thực hiện các hoạt động khác sau đây:
a, Dùng Vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của
doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật.

b, Góp vốn với tổ chức tín dụng nước ngoài để thành lập tổ chức tín
dụng liên doanh tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ về tổ chức và
hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam.
c, Tham gia thị trường tiền tệ theo quy định của NHNN.
d, Kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị
trường quốc tế khi được NHNN cho phép.
đ, Được quyền uỷ thác, nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực
liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư
của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đông uỷ thác và đại lý.
e,Cung ứng dịch vụ bảo hiểm; được thành lập công ty trực thuộc hoặc
liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
g, Cung ứng các dịch vụ:
- Tư vấn tài chính và tiền tệ trực tiếp cho khách hàng hoặc qua các
công ty trực thuộc được thành lập theo quy định của pháp luật
- Bảo quản tài sản có giá trị và các giấy tờ có giá, cho thuê tủ két,
nhận cầm cố và các dịch vụ khác theo quy định của luật pháp.
h, Thành lập các công ty trực thuộc để thực hiện các hoạt động kinh
doanh có liên quan tới hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật
* Với các hoạt động đa dạng và đáp ứng được nhu cầu về vốn của
mình. Các ngân hàng TM đang thể hiện vai trò và vị thế nổi bật của mình so
với các trung gian tài chính khác. Vậy các Tổ chức TGTCPNH sẽ có những
hoạt động j để có thể cạnh tranh NHTM ? Sau đây,
II, Các hoạt động của tổ chức TGTCPNH và sự cạnh
tranh với NHTM
1, Công ty tài chính
Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức
năng là sử dụng vốn tự có vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay,
đầu tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số
dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ
thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới một năm.

*Cơ hội cạnh tranh của các công ty tài chính
Trong khi ngân hàng hoạt động rộng và huy động vốn chủ yếu từ
công chúng thì công ty tài chính huy động vốn chủ yếu từ nội bộ tập đoàn và
nhóm công ty.
rủi ro xảy ra đối với các công ty tài chính chủ yếu là do nội bộ tập
đoàn hay nhóm công ty gánh chịu, rất ít ảnh hưởng tới cộng đồng. Khi các
quan hệ kinh tế trong tập đoàn là minh bạch và tuân thủ đúng pháp luật thì
khả năng xảy ra rủi ro là không lớn.
Một trong những hạn chế của các công ty tài chính so với các tổ chức
ngân hàng là không được làm dịch vụ thanh toán và nhận tiền gửi dưới 1
năm. Tuy vậy, các công ty tài chính hiện nay đã khắc phục bằng việc phát
triển thêm nhiều sản phẩm dịch vụ mới như dịch vụ nhận ủy thác vốn, nhận
ủy thác đầu tư bao thanh toán, thu xếp vốn, v.v. cho cả ngắn hạn, trung và
dài hạn. Những dịch vụ này đã giúp công ty tài chính thực hiện được các
dịch vụ khác tương tự như một ngân hàng thương mại.
Có thể thấy lợi ích của công ty tài chính mang lại cho các doanh
nghiệp là rất lớn. Không phải ngẫu nhiên mà trên thế giới, các tập đoàn lớn
thường có ít nhất một công ty tài chính. Công ty tài chính là công cụ để tập
đoàn điều tiết vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả và thuận lợi nhất.
Trong phạm vi nội bộ tập đoàn hoặc nhóm công ty có quan hệ lợi ích gắn bó,
công ty tài chính có thể dễ dàng huy động các nguồn vốn nhàn rỗi từ các
công ty thành viên để tập trung vốn đầu tư. Với tính nội bộ cao trong hoạt
động nghiệp vụ công ty tài chính có thể kiểm soát rủi ro và tập trung vốn lớn
cho các dự án quan trọng trong nội bộ tập đoàn.
Với lợi nhuận hấp dẫn và có thể kiểm soát được rủi ro, công ty tài
chính đang được mở rộng quy mô và số lượng hoạt động và đóng góp
không nhỏ vào lỗ hổng thiếu hụt tài chính do thiếu khả năng cung ứng của
các ngân hàng thế giới.
> Tại Việt Nam, hiện có tới 17 công ty tài chính, phần lớn thuộc các
tập đoàn kinh tế Nhà nước. Các công ty tài chính thường trực thuộc những

Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước như: Công ty tài chính công nghiệp Tàu
thủy, Công ty tài chính Điện lực, công ty tài chính xi măng, công ty tài chính
Than khoáng sản Việt nam, công ty tài chính Cổ phần Dầu khí…
Ưu điểm của các công ty tài chính là mang lại một nguồn vốn lớn dài
hạn, cung ứng cho nhiều dự án lớn trọng điểm. Tuy nhiên ở Việt Nam, các
công ty tài chính lại trực thuộc các tập đoàn mà các tập đoàn này về bản
chất là sử dụng vốn của Nhà nước.
Năm 2008 khi các Tập đoàn công bố báo cáo tài chính thì hầu hết các
ngành nghề chính đều thua lỗ trong khi phần thu lãi lại xuất phát từ đầu
tư tài chính. Trong khi đó, các Tổng công ty tập đoàn có vốn nhà nước
thường xuyên “kêu” thiếu vốn đầu tư cho các dự án thì vẫn thành lập ra
hàng loạt các công ty tài chính để nhằm mục đích đầu tư tài chính.
2, Quỹ đầu tư tương hỗ
Các quỹ này thu hút được các nhà đầu tư vốn ít nhỏ lẻ, các cá nhân
có ít tiền tiết kiệm muốn sinh lợi cho những đồng tiền của họ. Họ bỏ vốn vào
quỹ, những người quản lý dùng đầu tư vào chứng khoán lãi suất cao. Rồi lại
dùng chứng khoán lãi suất cao này làm đảo bảo để phát hành hoặc mua đi
bán lại chứng khoán ngắn hạn khác. Lợi tức được chia theo tháng hoặc nửa
năm 1 lần và cao hay thấp là phụ thuộc vào kết quả kinh doanh.
Các quỹ này chiếm một mảng lớn tiền nhàn rồi trong nên kinh tế và
vận động nó vào thị trường tài chính. Nó đóng góp khá quan trọng trong việc
lôi cuốn những người dân ít tiền nhất, lơi tức dư không nhiều, thu nhập thấp
vào những dịch vụ đầu tư vừa làm lợi cho chính họ vừa tạo vốn luân chuyển
cho sản xuất và trao đổi.
Quỹ tương hỗ đã ngày càng trở nên phổ biến trong vòng 20 năm qua.
Phương thức đầu tư vốn chẳng mấy được chú ý này bỗng trở nên vô cùng
hấp dẫn. Khoảng hơn 80 triệu người Mỹ, và một nửa số hộ gia đình đầu tư
vào các quỹ tương hỗ.
Lợi thế mua/bán số nhiều – vì rằng quỹ tương hỗ thường mỗi lần mua
và bán chứng khoán với số lượng lớn, nên chi phí giao dịch thường thấp

hơn mức mà nhà đầu tư cá nhân phải trả cho các giao dịch chứng khoán.
Tính thanh khoản – cũng giống như các loại chứng khoán khác, quỹ
cũng cho phép bạn bán chứng chỉ quỹ để thu vốn về bất kỳ lúc nào.
Đơn giản – mua (cổ phần) chứng chỉ quỹ rất dễ dàng! Gần như tất cả
các ngân hàng đều có lập một số quỹ đầu tư tương hỗ và quy định mức đầu
tư tối thiểu thông qua quỹ không quá lớn. Hầu hết các công ty quản lý quỹ
cũng đưa ra các chương trình đăng ký mua tự động cho phép các khoản thu
nhập nhỏ đến mức 100 đô la Mỹ có thể tham gia đầu tư hàng tháng.
Tuy nhiên, Tại Việt Nam quỹ này còn chưa có hoặc có nhưng rất ít
( Chưa chắc chắn, mọi ng về tìm thêm tài liệu)
3, Các công ty bảo hiểm
Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình hình thành,
phân phối và sử dụng các quỹ tập trung - quỹ bảo hiểm - nhằm xử lý các rủi
ro, các biến cố. Bảo hiểm bảo đảm cho quá trình tái sản xuất và đời sống
của xã hội được diễn ra bình thường.
Bảo hiểm được xem như là một cách thức chuyển giao rủi ro tiềm
năng một cách công bằng từ một cá thể sang cộng đồng thông qua phí bảo
hiểm.
Hầu hết các công ty bảo hiểm sinh mạng đểu có khuynh hướng dùng
tiền bảo hiểm để đầu tư dài hạn, thí dụ như chứng khoán, hoặc cho vay cầm
cố. Bởi vì số lượng người tử vong hoặc chết hàng năm thường không nhiều.
Tuy nhiên các công ty bảo hiểm tài sản như xe cộ, nhà cửa và các phương
tiện khác thì tình hình lại khác. Những tai nạn, cháy nổ, trộm cắp xảy ra
thường xuyên nên các công ty này rất ít dám dùng vốn đầu tư vào những tài
sản lâu dài. Thông thường họ chỉ dám đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn và
các loại tài sản dễ thanh khoản
Vậy các công ty bảo hiệm huy động vốn bằng những vốn tiết kiệm
trong dân cư để mang ra đầu tư, và việc đầu tư của các cty bảo hiểm này có
tính rủi ro khá cao. Ngoài ra vốn huy động từ bảo hiểm có tính chu kỳ, không
linh hoạt. Khó có thể so sánh được với sự linh hoạt đến chộp giật của các

ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên Mấy năm gần đây ngân hàng và các công ty bảo hiểm đã
liên kết chặt chẽ với nhau thông qua hoạt động Bancassurance. Đây là kênh
phân phối sản phẩm bảo hiểm hiệu quả, cạnh tranh mạnh mẽ với kênh phân
phối truyền thống (thông qua các đại lý bảo hiểm là các ngân hàng). Thông
qua các hoạt động này, hình ảnh của các ngân hàng và công ty bảo hiểm
được quảng bá mạnh hơn.
Tại Việt Nam đã có một số doanh nghiệp phát triển khá thành công
trên kênh phân phối này, tiêu biểu như : Liên kết Bảo Việt nhân thọ-
Techcombank: là một trong các liên kết ngân hàng và bảo hiểm ở Việt Nam
cho ra đời các sản phẩm Bancassurance đầu tiên. Vào ngày 01/08/2006 hai
bên đã ký kết hợp tác cho ra đời hai sản phẩm là “Tài khoản tiết kiệm giáo
dục” và “ Tín dụng cho nhà mới và ô tô xịn”. Ngày 20/11/2007 Bảo Việt và
Techcombank tiếp tục triển khai 2 sản phẩm mới là sự kết hợp “An tâm tiêu
dùng” của Bảo Việt và “Cho vay tiêu dùng trả góp” và “Cho vay trả góp mua
hàng” của Techcombank. Việc chính thức ra mắt các sản phẩm
Bancassurance mới này đánh dấu bước phát triển mới trong hoạt động
Bancassurance giữa Techcombank và Bảo Việt Nhân thọ.
Nước ngoài hệ thống các công ty bảo hiểm rất phổ biến và hoạt động
rất mạnh, đặc biệt là về bảo hiểm nhân thọ do Bảo hiểm này có thể giảm
được gánh nặng cho bảo hiểm xã hội nên được nhà nước ủng hộ rất nhiệt
tình.
VN chỉ có một vài công ty bảo hiểm. Hoạt động chính vẫn là công ty
bảo hiểm Việt Nam ( Bảo Việt), cty bảo hiểm TPHCM (Bảo Minh), những
doanh nghiệp nhà nước và một số công ty bảo hiểm nước ngoài như
Prudential, Manulife …Nhưng cường độ hoạt động, mức độ phát triển tải sản
nợ, có cũng như phương thức hoạt động còn rất chậm so với nước ngoài.
Sự phát triển của tài chính trong tương lai tất yếu sẽ đòi hỏi nhiều tổ chức tài
chính khác có mặt. Trong đó, sự hình thành các công ty bảo hiểm tư nhân sẽ
là điều kiện cần thiết, không những tốt cho thị trường tài chính mà còn củng

cố và phát triển ngành bảo hiểm VN.
4, Quỹ trợ cấp hưu trí
Quỹ hưu trí là một trung gian tài chính đêm lại cho người gửi một cơ
hội đa dạng hóa danh mục đầu tư các tài sản tài chính. Nguồn vốn của quỹ
này 100% là lương hưu và trợ cấp của công nhân. Vì lương hưu và trợ cấp
hàng tháng là một con số hầu như có thể xác định được và rất định kỳ. cho
nên phần lớn vốn sẽ đầu tư vào chứng khoán dài hạn để tạo lãi suất cao.
Các quỹ này có nhiều điểm tương đồng với các công ty bảo hiểm sinh mạng.
Tại Việt Nam, Nguồn tài chính nhàn rỗi của bảo hiểm xã hội được sử
dụng đầu tư nhằm làm tăng khả năng chi trả của quỹ. Và được thực hiện
theo nguyên tắc: an toàn, hiệu quả và thu hồi được vốn khi cần thiết. chính
vì vậy nguồn vốn nhàn rỗi chỉ được đầu tư vào các lĩnh vực như mua trái
phiếu chính phủ hoặc cho ngân hàng thương mai vay, đầu tư vào các công
trình trọng điểm quốc gia hoặc đầu tư khác do Chính phủ quyết định 
Hình thức hoạt động của quỹ này không thay đổi nhiều so với thời
gian về trước và phần lương hưu đước trả từ quỹ cũng nhỏ nên các loại quỹ
này không được phát triển nhiều. Do không thể cạnh tranh được với các
hình thức đầu tư khác, đặc biệt là với ngân hàng thương mại bây giờ.
5, Công ty kinh doanh và môi giới chứng khoán
Ngoài các TGTCPNH trên còn có 1 số trung gian khác như:
* Các hiệp hội tín dụng và cho vay
* Các tổ chức tín dụng hợp tác
* Cty đầu tư mạo hiểm
Tuy nhiên 2 tổ chức đầu hoạt động mang tính tương trợ cao ( lãi suất
cho vay và lãi suất trả tiền gửi thấp, tính an toàn cao) sẽ không cạnh tranh
được với các ngân hàng thương mại. Các công ty đầu tư mạo hiểm được
thành lập trên 1 tập đoàn lớn. Cho nên phần vốn ban đầu cũng phụ thuộc
vào việc làm ăn của tập đoàn đó. Giả sử nếu không có cty nào mới thành lập
để vay thì cty đầu tư mạo hiểm sẽ quay vốn về cho tập đoàn để sản xuất
kinh doanh. Ngoài ra các cty mới thành lập rất khó vay được từ các cty đầu

tư mạo hiểm(2%). Vậy chúng ta có thể thấy cty đầu tư mạo hiểm không cần
cạnh tranh với NHTM

×