Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Các trung gian tài chính tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.82 KB, 13 trang )

Các trung gian tài chính tại Việt Nam

cafephutho
Các tổ chức tài chính trung gian là các tổ chức tài chính
thực hiện chức năng dẫn vốn từ người có vốn tới người cần
vốn. Tuy nhiên khơng như dạng tài chính trực tiếp người cần
vốn và người có vốn trao đổi trực tiếp với nhau ở thị trường
tài chính, các trung gian tài chính thực hiện sự dẫn vốn
thơng qua một cầu nối. Nghĩa là người cần vốn muốn có
được vốn phải thơng qua người thứ ba, đó chính là các tổ
chức tài chính gián tiếp hay các tổ chức tài chính trung gian.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê thì hiện Việt nam có: 5
Ngân hàng thương mại lớn (Ngân hàng Ngoại thương, Ngân
hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Công Thương, Ngân hàng
Đầu tư Phát triển, Ngân hàng Xuất nhập khẩu), Ngân hàng
chính sách, Ngân hàng phát triển; 6 Ngân hàng liên doanh;
36 Ngân hàng thương mại cổ phần; 46 chi nhánh Ngân hàng
nước ngồi; 10 Cơng ty tài chính; 13 Cơng ty cho th tài
chính; 998 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở.
Các tổ chức tài chính trung gian có thể là các ngân hàng, các
cơng ty chứng khốn, các hiệp hội cho vay, các liên hiệp tín
dụng, các cơng ty bảo hiểm, các cơng ty tài chính...
Tại Việt Nam, hiện có đầy đủ các loại hình tổ chức tài chính
trung gian bao gồm:
• Ngân hàng thương mại
• Cơng ty chứng khốn
• Cơng ty tài chính
• Cơng ty bảo hiểm
• Quỹ đầu tư

Gửi


email Bả
n in
09:55' AM Thứ hai,
26/10/2009


a. Loại hình: Ngân hàng thương mại
Ở Việt Nam Pháp lệnh ngân hàng ngày 23/5/1990 của hội
đồng Nhà nước Việt Nam xác định: "Ngân hàng thương mại
là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách
nhiệm hồn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện
nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh tốn".

Theo số liệu của Tổng cục thống kê thì hiện Việt nam có: 5
Ngân hàng thương mại lớn (Ngân hàng Ngoại thương, Ngân
hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Công Thương, Ngân hàng
Đầu tư Phát triển, Ngân hàng Xuất nhập khẩu), Ngân hàng
chính sách, Ngân hàng phát triển; 6 Ngân hàng liên doanh;
36 Ngân hàng thương mại cổ phần; 46 chi nhánh Ngân hàng
nước ngồi; 10 Cơng ty tài chính; 13 Cơng ty cho th tài
chính; 998 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Các đơn vị trên đều
có chức năng cho vay, là chức năng chính của ngân hàng.
Dân số nước ta hiện nay ước khoảng 86 triệu người, GDP
khoảng 65 tỷ USD, số lượng các ngân hàng này hiện này
được xem là đông đảo với một thị trường tài chính nhỏ như
Việt Nam. H
ệ thống ngân hàng Việt Nam đã có sự tăng trưởng rất nhanh
trong những năm qua với tốc độ tăng trưởng bình quân



35%/năm.
Bên cạnh sự tăng trưởng, hiệu quả hoạt động của các Ngân
hàng thương mại cũng được nâng lên rõ rệt, đặc biệt là khối
NHTMCP. Năm 2007, tỷ lệ ROA trung bình của tồn hệ
thống đạt 1,51%, ROE đạt 16,42% so với mức trung bình
trong khu vực lần lượ
t là 1,18% và 16,47%. Tỷ lệ NPL của toàn hệ thống ngân
hàng trong đã giảm từ 14% trong năm 2006 xuống 3% trong
năm 2007, tính theo chuẩn quốc tế (IFRS) tỷ lệ này lần lượt
là 30% năm 2006 và 6% năm 2007.
Tuy tỷ lệ nợ xấu giảm mạnh nhưng hiện vẫn cao hơn nhiều
so với mức 0,06% của các chi nhánh Ngân hang nước ngồi
tại Việt Nam.
b. Loại hình: Cơng ty Chứng khốn
Tính từ khi ra đời, số lượng các cơng ty Chứng khốn khơng
ngừng tăng nhanh về số lượng. Nếu như năm 2000 khi thị
trường Chứng khốn Việt Nam chính thức đi vào hoạt động
với 4 cơng ty Chứng khốn thì đến thời điểm năm 2007 đã
có tới 61 cơng ty Chứng khoán với tổng số vốn điều lệ đạt
5735 tỷ đồng. Và đến nay đã có hơn 100 cơng ty Chứng
khốn đang hoạt động.

Các cơng ty Chứng khốn trong q trình phát triển ln
đồng thời tăng vốn điều lệ, nhằm đáp ứng được khả năng tài


chính và sự phát triển. Các cơng ty chứng khốn đã góp phần
tốt trong việc thúc đẩy q trình cổ phần hóa các doanh
nghiệp. Tính đến cuối năm 2008, tỷ lệ vốn hóa thị trường

chứng khốn đạt gần 40% GDP quốc dân. Điều này chứng
tỏ, Các cơng ty chứng khốn đã giúp các doanh nghiệp niêm
yết có điều kiện tiếp cận với nguồn vốn từ công chúng đầu
tư, ổn định và với chi phí vốn thấp, mang tính dài hạn.
c. Loại hình: Cơng ty Tài chính
Khi thị trường tài chính Việt Nam phát triển, nó sinh ra một
nhu cầu lớn về vốn. Khi này, các Ngân hàng với những điều
kiện chặt chẽ về hạn mức cho vay, kỳ hạn vay, điều kiện giải
ngân... sẽ rất khó đáp ứng hết được nhu cầu vốn lớn này. Sự
ra đời của các công ty tài chính, cho thuê tài chính là một
bước phát triển tất yếu của thị trường tài chính.
Tại Việt Nam, hiện có tới 17 cơng ty tài chính, phần lớn
thuộc các tập đồn kinh tế Nhà nước. Các cơng ty tài chính
thường trực thuộc những Tập đồn, Tổng cơng ty Nhà nước
như: Cơng ty tài chính cơng nghiệp Tàu thủy, Cơng ty tài
chính Điện lực, cơng ty tài chính xi măng, cơng ty tài chính
Than khống sản Việt nam, cơng ty tài chính Cổ phần Dầu
khí…

Các cơng ty tài chính với ưu thế về nguồn vốn lớn từ các tập
đoàn rót xuống đã liên tục đầu tư dài hạn, tài trợ các dự án


như: Dự án đóng tàu, dự án thủy điện, đầu tư tài chính...
Ưu điểm của các cơng ty tài chính là mang lại một nguồn
vốn lớn dài hạn, cung ứng cho nhiều dự án lớn trọng điểm.
Tuy nhiên ở Việt Nam, các cơng ty tài chính lại trực thuộc
các tập đoàn mà các tập đoàn này về bản chất là sử dụng vốn
của Nhà nước.
Năm 2008 khi các Tập đoàn cơng bố báo cáo tài chính thì

hầu hết các ngành nghề chính đều thua lỗ trong khi phần thu
lãi lại xuất phát từ đầu tư tài chính. Trong khi đó, các Tổng
cơng ty tập đồn có vốn nhà nước thường xuyên “kêu” thiếu
vốn đầu tư cho các dự án thì vẫn thành lập ra hàng loạt các
cơng ty tài chính để nhằm mục đích đầu tư tài chính.
d. Loại hình: các Công ty Bảo hiểm
Dẫn lời một quan chức trong ngành Bảo hiểm thì Việt Nam
vẫn là một thị trường bảo hiểm năng động và tiềm năng. Sự
ra đời và xuất hiện các công ty bảo hiểm trên thị trường đem
lại cho người tiêu dung nhiều lợi ích từ việc bảo hiểm những
rủi ro trong cuộc sống hàng ngày.
Các công ty bảo hiểm với rất nhiều sản phẩm bảo hiểm hầu
như đã đáp ứng được những nhu cầu bảo hiểm phong phú từ
khách hàng. Hiện các công ty bảo hiểm đang quản lý một
lượng lớn nguồn vốn. Nguồn vốn này các Cơng ty bảo hiểm
có nhu cầu đầu tư dài hạn, đầu tư vào các dự án có mức độ
mạo hiểm nhằm thu lợi nhuận.
Theo số liệu của Hiệp hội Bảo hiểm Quốc gia thì tính đến
tháng 6 năm 2009, tổng số tiền các doanh nghiệp bảo hiểm
nhân thọ năm giữ là 250,43 ngàn tỷ đồng. Các công ty Bảo
hiểm tham gia tích cực khi tham gia đầu tư, tài trợ dự án, giải
ngân vốn cho các tổ chức tín dụng, các tổ chức kinh tế vay
vốn. Và với lợi thế ngành, các doanh nghiệp Bảo hiểm còn tư
vấn cho các khách hàng vay vốn của mình nên mua bảo hiểm
để giảm thiểu rủi ro và cũng là giảm thiểu rủi ro cho các
doanh nghiệp Bảo hiểm.
Theo số liệu chưa kiểm tốn thì tính đến thời điểm tháng 6


năm 2009 các doanh nghiệp có tổng mức trách nhiệm cao

trên thị trường bảo hiểm là: Prudential 94 ngàn tỷ, Bảo Việt
nhân thọ là hơn 67 ngàn tỷ, AIA là 27 ngàn tỷ đồng.

Như vậy, sự phát triển của các loại hình tài chính trung gian
đã tạo ra một lượng cung vốn dồi dào cho các doanh nghiệp,
có tác dụng thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng kinh tế.
Sự tác động của các trung gian tới sự phát triển kinh tế Việt
Nam
Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 1997 bắt
nguồn từ Thái Lan đã có những tác động đến thị trường tài
chính Việt Nam. Tuy nhiên mức độ tác động là chưa lớn vì
lúc này thị trường tài chính Việt Nam chưa hội nhập sâu vào
nền kinh tế thế giới.
Kể từ khi Việt Nam tham gia hội nhập mở cửa và trở thành
thành viên của tổ chức thương mại quốc tế WTO từ
11/01/2007, thị trường tài chính Việt Nam có những sự phát
triển nhanh chóng rõ rệt.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, Nhà nước
khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân phát triển các ngành
nghề. Cùng với sự phát triển thì nhu cầu vốn cho sản xuất
kinh doanh, cho nhu cầu xuất nhập khẩu ngày càng tăng cao:


Năm 2000 đánh dấu sự ra đời của thị trường Chứng khoán
Việt Nam. Các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính sẽ có
nhiều lựa chọn hơn trong việc huy động vốn và sử dụng
đồng vốn của mình. Nếu từ trong giai đoạn năm 1998 đến
thời điểm trước năm 2005, quy mơ vốn của các trung gian tài
chính trên thị trường Việt Nam là rất nhỏ bé thì sau năm
2005 các mơ hình, loại hình thị trường có sự phát triển mau

lẹ, rõ rệt.
Ta ln được chứng kiến có sự cạnh tranh mạnh mẽ nhất và
sôi động nhất giữa các tổ chức trung gian tài chính trong việc
thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư.
Trong thời gian gần đây, các Tổ chức tín dụng đưa ra các
hình thức sau:
- Cạnh tranh khuyến khích khách hàng mở tài khoản cá nhân,
tài khoản sử dụng thẻ... Tính đến nay trong cả nước đã mở
được khoảng trên 1.300.000 tài khoản cá nhân, trong đó có
khoảng trên 750.000 tài khoản của các chủ thể.
- Cạnh tranh thu hút tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức
kinh tế - xã hội. Giữa các tài chính tín dụng cạnh tranh thu
hút tiền gửi của Kho bạc nhà nước, bảo hiểm xã hội Việt
Nam, Bảo Việt, các cơng ty bảo hiểm nhân thọ, bưu chính
viễn thơng, điện lực...
- Cạnh tranh thu hút tiền gửi tiết kiệm. Đây là hình thức huy
động vốn truyền thống giữa các tài chính tín dụng và Cơng ty
dịch vụ tiết kiệm bưu điện, nhất là các Quỹ tín dụng nhân
dân cơ sở.
Thời gian gần đây, để khuyến khích khách hàng, một số ngân
hàng thương mại đưa ra dịch vụ: gửi một nơi lĩnh nhiều nơi,
tiết kiệm tích lũy hay cịn gọi là tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm
gắn với bảo hiểm nhân thọ, tiết kiệm lũy tiền trả lãi theo số
tiến gửi càng cao thì lãi suất càng cao, tiết kiệm linh hoạt tức
là khách được chủ động rút tiền ra bất cứ lúc nào có nhu cầu
và lãi suất tính theo số ngày thực tế gửi tương ứng với kỳ
hạn gần nhất, tiết kiệm dự thưởng...


- Phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu... chủ

yếu là huy động vốn có thời hạn từ 6 tháng trở lên, lãi suất
hấp dẫn. Trong những năm gần đây, đã có sự cạnh tranh sơi
động trên thị trường thu hút tiền gửi và thị trường huy động
vốn, đặc biệt là các tổ chức trung gian tài chính thực hiện rất
đa dạng và phong phú các sản phẩm và dịch vụ thu hút tiền
gửi, huy động vốn.
Tuy nhiên trong việc phát triển thị trường này, có thể thấy
một tồn tại lớn là chưa thu hút được tối đa tiền gửi không kỳ
hạn, tiền nhàn rỗi trong dân cư vào hệ thống ngân hàng, trên
cơ sở đó lựa chọn các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng hay
rút tiền mặt ra chi tiêu bất cứ lức nào có nhu cầu.
Đây là nguồn vốn rất lớn và rất quan trọng, tạo đà cho phát
triển thị trường tiền tệ, bởi vì nó gia tăng nguồn tiền gửi
khơng kỳ hạn, gia tăng vốn khả dụng cho các tài chính tín
dụng. Trong năm 2007, cùng với sự phát triển nóng của thị
trường Chứng khốn là sự ra đời hàng loạt các cơng ty chứng
khốn, các cơng ty quản lý quỹ.
Sự ra đời các Ngân hàng khiến thị trường tài chính Việt Nam
có những sự phát triển rất nóng. Cùng với những luồng tiền
được đầu tư ngày càng nhiều vào Việt Nam thì những dự án
đầu tư xem ra chưa thấy rõ được hiệu quả. Theo thống kê
của WB thì hệ số ICOR của Việt Nam đang ở mức rất cao,
vào khoảng trên 5.
Khi thị trường phát triển quá nóng, các trung gian tài chính
ngày càng phình to ra thì nguy cơ về một cuộc “nổ bong
bóng” kinh tế đã được nhiều chuyên gia kinh tế phản ánh dự
báo trước. Thị trường tài chính Việt Nam khi này được ví
như một “lị hơi”, có thể xì hơi bất cứ lúc nào.
Điều tai hại hơn ở chỗ, ngay cả các trung gian tài chính cũng
lao vào cuộc chạy đua đầu tư tài chính. Luồng vốn lớn không

được đổ nhiều vào sản xuất kinh doanh mà lại sử dụng vào
việc mua bán vốn trên thị trường. Cùng với đó các tập đồn
cũng trích từ nguồn vốn của mình một lượng vốn lớn để đổ


vào thị trường tài chính: hiện trạng trên khiến thị trường tài
chính Việt Nam trong giai đoạn năm 2007 phát triển nhanh
và rất nóng.
Khi thị trường tài chính Việt Nam phát triển, kéo theo sự
tăng điểm hàng ngày của thị trường chứng khốn. Đã có thời
điểm thị trường chứng khốn Việt Nam “cán đích” trên 1100
điểm. Số lượng các tài khoản được mở tại các Cơng ty chứng
khốn ln ở mức ấn tượng. Lúc này các doanh nghiệp niêm
yết rất dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn giá rẻ qua các cuộc
phát hành thêm cổ phiếu.
Nhận thấy những bất cập trên và dự đoán được những tác
động tai hại nếu để thị trường chứng khốn phát triên q
nóng, bộ tài chính quyết định dùng một chính sách nhằm
điều tiết thị trường.
Ngày 17/03/2008, Bộ Tài chính ban hành một nghị quyết mà
theo đó các Ngân hàng thương mại buộc phải mua 20.300 tỷ
đồng tín phiếu bắt buộc. Chính điều này đã một lúc “ép” các
ngân hàng thiếu vốn khả dụng, buộc họ phải tìm mọi cách
thu hút lượng tiền gửi từ dân cư.
Hành động của Bộ Tài chính có tác dụng thắt chặt tiền tệ,
kiểm soát lạm phát. Việc ban hành quyết định phát hành tín
phiếu đã hút khỏi thị trường một lượng vốn khồng lồ. Hành
động này Nhà nước kỳ vọng sẽ kiểm sốt được tình trạng
phát triển q nóng của thị trường tài chính.
Song kịch bản thị trường đã có nhiều điểm thăng trầm! Do

hành động quá mạnh tay, nhiều ngân hàng rơi vào tình trạng
thiếu hụt nguồn vốn khả dụng nghiêm trọng. Và khi đó diễn
ra cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường vốn giữa các
Ngân hàng. Các Ngân hàng liên tục hút người gửi tiền bằng
hình thức chạy đua lãi suất huy động. Có nhiều ngân hàng
thương mại thậm chí đã đẩy mức lãi suất huy động lên tới
hơn 20%/năm.
Điều này ngay lập tức tác động lớn đến tâm lý của công
chúng đầu tư. Một lượng vốn lớn bị rút khỏi thị trường


chứng khoán: Thị trường chứng khoán bị down liên tục, phá
vỡ tất cả các ngưỡng hỗ trợ mặc cho Bộ Tài chính liên tục có
những sự động viên. Các cơng ty chứng khốn, quỹ đầu tư
rơi vào tình trạng heo hắt khi mà giao dịch cực thấp, lượng
nhà đầu tư đóng băng tài khoản rất lớn.
Sự ngừng hoạt động (giải thể) hoặc rút bớt nghiệp vụ của các
công ty chứng khoán là một tất yếu được dự báo trước. Một
hệ quả tất yếu nữa là các doanh nghiệp càng ngày càng gặp
khó khăn qua các phương án tăng vốn bằng hình thức phát
hành cổ phiếu. Mà việc tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng thì
rất khó khăn bởi lãi suất giải ngân rất lớn. Nhiều doanh
nghiệp xuất nhập khẩu đã bị mất những đơn hàng quan
trọng. Nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bị đình đốn.
Vào thời điểm gần nửa cuối năm 2008, thị trường tài chính
Việt Nam gặp khủng hoảng. Các doanh nghiệp Việt Nam bị
co cụm thu hẹp sản xuất. Nhiều doanh nghiệp ngành may
mặc, chế biến sa thải công nhân ồ ạt. Lượng người bị mất
việc ở các khu công nghiệp cộng thêm số lao động bị mất
việc ở nước ngoài trở về nước đã trở thành “gánh nặng” lớn

đối với nền kinh tế đất nước.
Bước sang năm 2009, nền kinh tế thế giới chính thức rơi vào
khủng hoảng với sự bắt đầu ở Mỹ khi thị trường nhà đất Mỹ
bị đóng băng và sự phá sản của hàng loạt Ngân hàng lớn.
Cơn bão khủng hoảng lập tức lan nhanh ra khắp thế giới.
Ở Việt Nam, cuộc khủng hoảng này kéo theo suy thoái nền
kinh tế. Mục tiêu phát triển kinh tế cả năm khó có khả năng
hồn thành, vì thế Chính phủ đã chấp nhận mức điều chỉnh
tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hạ xuống dưới 6% so với mục tiêu
tăng trưởng được đặt ra đầu năm là 8.5%. Tất cả Chính phủ
các quốc gia đều rất nỗ lực trong cơng cuộc cứu vãn, đối phó
với cơn bão khủng hoảng.
Chính sách được hầu hết các quốc gia đưa ra mà đi dầu là
Mỹ và EU là các gói hố trợ kinh tế khổng lồ. Ở các nước
này, chính phủ chủ trương bơm thêm tiền vào thị trường tài


chính thơng qua hệ thống Ngân hàng: Cho các doanh nghiệp
vay ưu đãi sản xuất, hỗ trợ cho vay xuất nhập khẩu, cho vay
tiêu dùng.
Ở Việt Nam, chính phủ cơng bố gói hỗ trợ lãi suất đối với
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là hơn 1 tỷ USD được
giải ngân thông qua hệ thống Ngân hàng. Mức hố trợ lên tới
4%/ năm Sự can thiệp của chính phủ phần nào có tác dụng
tốt tới thị trường tài chính. Các ngân hàng bớt sự khó khăn
trong vấn đề huy động vốn. Các doanh nghiệp vui mừng sẽ
được tiếp cận được luồng vốn rẻ.
Tuy nhiên, thực tế diễn ra không phải lúc nào cũng như
mong đợi của Chính phủ. Các doanh nghiệp vốn vừa và nhỏ
gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ này

bởi những điều kiện chặt chẽ do Ngân hàng đề ra. Còn các
doanh nghiệp tập đồn lớn thì nhu cầu về vốn khơng q bức
thiết. Việc nguồn vốn hỗ trợ chưa thực sự đến “tận tay”
những đối tượng cần vốn phần nhiều đã giảm tác dụng của
gói kích cầu do chính phủ đề ra.
Tháng 6 năm 2009, Việt Nam tuyên bố thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế nhưng nhiều chuyên gia còn khá thận trọng khi
đề cập đến vấn đề này. Việc giải ngân vốn rất dễ gây ra hiện
tượng lạm phát cho Việt Nam trong tương lai gần. Sự kiềm
chế lạm phát của chính phủ trong những tháng vừa qua sẽ là
vô nghĩa nếu như để hiện tượng lạm phát quay trở lại.
Trong các buổi hội thảo, tọa đàm, Chính phủ ln đề cao vai
trị của các trung gian tài chính, trong đó chủ chốt là ngành
Ngân hàng trong việc điều tiết lượng cung cầu vốn trên thị
trường. Vai trò của các trung gian tài chính rất to lớn đối với
sự phát triển của nền kinh tế. Nó đảm bảo được sự thanh
khoản trong nền kinh tế cũng như có tác động tốt tới việc
cung ứng vốn, điều tiết vốn. Tin rằng trong thời gian tới, thị
trường tài chính sẽ có sự phát triển mạnh mẽ hơn, góp phần
thúc đẩy sự phát triển đi lên của nền kinh tế.



×