Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

Thảo luận quản lý nhà nước về kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.83 KB, 79 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
Phòng đào tạo Sau Đại học
*************
Khoa Kinh tế

BÀI THẢO LUẬN MÔN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
KINH TẾ
Giảng viên hướng dẫn:
Lớp: 28BQLKT.N1
Nhóm học viên: Nhóm 1

HÀ NỘI
THÁNG 06 NĂM 2023


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................................6
NỘI DUNG.....................................................................................................................................7
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ VÀ CÁC CÔNG CỤ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ.....................................................................................7
1. Khái niệm về Quản lý nhà nước về kinh tế.....................................................................7
2. Các công cụ quản lý nhà nước về kinh tế........................................................................8
II. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ QLNN VỀ KINH TẾ TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM....................................................................20
1. Thực trạng sử dụng các công cụ QLNN về kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay.................................................................................................................20
2. Những ưu điểm đạt được trong quá trình sử dụng các công cụ QLNN về kinh tế hiện
nay.....................................................................................................................................23
3. Những tồn đọng, hạn chế cịn sót lại trong q trình sử dụng các công cụ QLNN về
kinh tế hiện nay..................................................................................................................28


III. GIẢI PHÁP CHO VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ QLNN VỀ KINH TẾ TRONG
ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM...............................................31
1. Giải pháp vĩ mơ.............................................................................................................31
2. Giải pháp về phía nhóm đề ra........................................................................................35
3. Kiến nghị của nhóm.......................................................................................................39
KẾT LUẬN...................................................................................................................................41
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................................42
PHẦN NỘI DUNG MỖI THÀNH VIÊN ĐẢM NHẬN...........................................................43


LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập quốc tế đã và đang mở ra cho Việt Nam cơ hội phát triển mới. Do vậy, để
nắm bắt được cơ hội đó địi hỏi Việt Nam phải cải cách và đổi mới mọi mặt, trong đó có đổi
mới quản lý nhà nước về kinh tế. Nếu khơng đón bắt được cơ hội, Việt Nam sẽ tụt hậu và
khó có sự phát triển nhanh, bền vững. Đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế thích ứng với hội
nhập quốc tế là hướng đi đúng đắn, cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và mở cửa hội nhập với khu vực, thế giới, Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu khơng nhỏ. Nhà nước đã đóng vai trị cơ bản trong định hướng, xây dựng và hồn
thiện thể chế kinh tế; bước đầu tạo ra được môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và
lành mạnh cho các chủ thể kinh tế hoạt động thông qua việc ban hành nhiều chính sách, luật
phù hợp. Q trình quản lý nhà nước về kinh tế đã góp phần khơng nhỏ trong huy động và
phân bổ có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước, tạo ra động lực tích cực để giải
phóng sức sản xuất xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được, quản lý nhà
nước về kinh tế cũng gặp những thách thức rất lớn, địi hỏi phải có sự thay đổi tồn diện,
chẳng hạn như xây dựng mới nhiều pháp luật và thể chế kinh tế cho phù hợp với luật lệ quốc
tế có thể làm đảo lộn nhiều trật tự quan hệ kinh tế; kiến thức về pháp luật và thể chế kinh tế
của các quốc gia, các khối kinh tế mà Việt Nam là thành viên; q trình đơ thị hóa và việc
xây dựng các khu cơng nghiệp FDI làm ảnh hưởng đến vấn đề tam nơng, đến di tích văn hóa
lịch sử của Việt Nam;…. gây ra những bất cập lớn trong quá trình quản lý nhà nước về kinh

tế, ảnh hưởng xấu tới quá trình phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập.
Do đó, nhóm em lựa chọn đề tài “Những vấn đề đặt đối với việc sử dụng các công cụ
Quản lý nhà nước về kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam?” để làm
đề tài thảo luận


NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ VÀ CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
1. Khái niệm về Quản lý nhà nước về kinh tế

Sự can thiệp của nhà nước vào quá trình thị trường để sửa chữa những sai sót của thị
trường và thúc đẩy phúc lợi chung của người dân. Sự can thiệp kinh tế là một hành động được
thực hiện bởi chính phủ hoặc tổ chức quốc tế trong nền kinh tế thị trường nhằm nỗ lực tác
động đến nền kinh tế vượt ra ngoài quy định cơ bản về gian lận và thực thi hợp đồng và cung
cấp hàng hóa cơng cộng. Can thiệp kinh tế có thể nhắm vào nhiều mục tiêu chính trị hoặc
kinh tế, như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng việc làm, tăng lương, tăng hoặc giảm giá, thúc
đẩy bình đẳng thu nhập, quản lý cung tiền và lãi suất, tăng lợi nhuận hoặc giải quyết các thất
bại của thị trường.
Quản lý nhà nước về kinh tế là sự quản lý nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế quốc
dân bằng quyền lực nhà nước thông qua cơ chế quản lý kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu
phát triển kinh tế của đất nước, trên cơ sở sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài
nước trong điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Quản lý nhà nước về kinh tế là một
dạng quản lý xã hội của Nhà nước. Nó rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, nhưng cũng rất phức tạp. Nhà nước quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân trên tất cả
các ngành kinh tế, các lãnh thổ kinh tế, các thành phần kinh tế và các chủ thể kinh tế hoạt
động trong toàn bộ nền kinh tế. Quản lý nhà nước về kinh tế được thực hiện thông qua 3 cơ
quan là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quản lý nhà nước về kinh tế có 2 loại là Quản lý nhà
nước về kinh tế của nhà nước tư sản và Quản lý nhà nước về kinh tế của nhà nước xã hội chủ

nghĩa.
Nhà nước quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân không chỉ trên phạm vi quốc gia mà
còn cả một số hoạt động kinh tế đối ngoại diễn ra ở nước ngoài, như các doanh nghiệp có vốn
đầu tư ở nước ngồi, các hàng hóa xuất nhập khẩu từ nước ngồi, thẩm định các cơng nghệ
thiết bị nhập khẩu.
Quản lý nhà nước về kinh tế là quản lý ở tầm vĩ mô, giải quyết những quan hệ vĩ mơ
có liên quan đến tồn bộ nền kinh tế quốc dân, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ
đạo. Nhà nước khơng can thiệp, khơng giải quyết những vấn đề quản lý sản xuất kinh doanh
của các chủ thể kinh tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường (cá nhân, doanh nghiệp, các tập
đoàn kinh tế...).
Quản lý nhà nước về kinh tế là quá trình thiết kế mục tiêu quản lý và căn cứ vào đó mà
sử dụng cơng cụ quản lý hiện hữu và phương pháp quản lý thích hợp để điều tiết sự vận hành
của nền kinh tế quốc dân theo quỹ đạo mục tiêu đã định. Tuy nhiên, mục tiêu quản lý đề ra dù
có chính xác và khả thi đến đâu đi nữa, nhưng nếu khơng có cơng cụ quản lý tương ứng thì


cũng không thể thực hiện, vẫn chỉ là mục tiêu quản lý trên lý thuyết, chứ chưa phải là mục
tiêu quản lý trong thực hiện.
2. Các công cụ quản lý nhà nước về kinh tế
2.1. Các công cụ và khái niệm về các công cụ quản lý nhà nước về kinh tế

Công cụ quản lý kinh tế là những phương tiện được chủ thể quản lý sử dụng để tác
động lên đối tượng quản lý với mục đích điều chỉnh, khuyến khích và phối hợp hoạt động
kinh tế hướng tới các mục tiêu xác định. Công cụ quản lý nhà nước là những biện pháp quản
trị được Nhà nước sử dụng để điều tiết nền kinh tế, giúp tăng cường sự phát triển và nâng cao
chất lượng cuộc sống của người dân. Những công cụ này được sử dụng linh hoạt và hiệu quả
để đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dân và đẩy mạnh phát triển kinh tế đất nước.
Trong quản lý, công cụ được xem là phương tiện mà con người có thể sử dụng để tác
động vào đối tượng, là cầu nối giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Các công cụ quản
lý kinh tế bởi vậy được xem là nhu cầu khách quan của quản lý kinh tế ở cả tầm vĩ mô và vi

mô. Về bản chất, công cụ quản lý kinh tế là tổng thể những phương tiện mà chủ thể quản lý sử
dụng nhằm định hướng, khuyến khích và phối hợp hoạt động kinh tế của các tập thể và cá
nhân người lao động hướng tới mục tiêu xác định. Công cụ quản lý kinh tế là những phương
tiện cần thiết, bao gồm cả phương tiện hữu hình và vơ hình mà chủ thể quản lý sử dụng để
truyền tải những ý định và ý chí của mình đến đối tượng quản lý.
Pháp luật, kế hoạch và chính sách kinh tế là những công cụ quản lý kinh tế chủ yếu
với tư cách chúng là phương tiện để nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình đối với
các hoạt động kinh tế. Tương ứng với các công cụ này, tại các đơn vị kinh tế cơ sở đó là các
cơng cụ: hệ thống điều lệ hoạt động, quy chế, quy định; chiến lược và kế hoạch kinh doanh;
chính sách kinh doanh, chính sách tiền lương, tiền thưởng, khốn...
2.1.1. Cơng cụ pháp luật:
Pháp luật kinh tế là một bộ phận nằm trong hệ thống pháp luật nói chung, nó bao
gồm những quy tắc xử sự bắt buộc do Nhà nước đặt ra hay thừa nhận mà mỗi cá nhân, đơn vị
kinh tế buộc phải tuân theo để hành vi ứng xử của họ phù hợp với những quan hệ kinh tế
khách quan và lợi ích chung của xã hội. Quản lý kinh tế bằng pháp luật là việc xác định quyền
và nghĩa vụ của tất cả các chủ thể tham gia vào hệ thống kinh tế quốc dân. Thông qua việc
xác định quyền và nghĩa vụ, cũng như việc đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ ấy mà pháp
luật tác động, chi phối các hành vi kinh tế của đối tượng bị quản lý cũng như chủ thể quản lý
kinh tế.
Đặc điểm của công cụ pháp luật trong quản lý kinh tế:


o

Quản lý bằng pháp luật là quản lý bằng sức mạnh của những quyền uy khách quan kết

hợp với sức mạnh quyền uy của nhà nước. Sức mạnh, quyền uy của pháp luật hay khả năng
điều chỉnh hành vi con người của pháp luật trước hết nằm ngay trong nội dung của pháp luật
và phụ thuộc vào tính xác thực của nội dung đó. Việc tuân thủ pháp luật, hành động theo pháp
luật đó là do cái lẽ phải hiển nhiên của pháp luật chứ khơng phải vì sự cưỡng chế của nhà

nước. Cái uy quyền cưỡng chế của nhà nước chủ yếu có ý nghĩa bảo vệ dưới dạng răn đe.
o

Quản lý bằng pháp luật chứa đựng tính phổ qt và cơng bằng. Những quy định của

pháp luật có ý nghĩa phổ biến, bao quát tất cả các đối tượng tham gia và khơng có sự phân
biệt. Trước pháp luật, mọi người đều có cơ hội ngang nhau và bình đẳng về cơ hội phát triển
kinh tế.
2.1.2. Cơng cụ kế hoạch
Với tư cách là một công cụ quản lý kinh tế, kế hoạch là một chương trình hành động
của chủ thể quản lý bao gồm việc xác định mục tiêu, các điều kiện và cách thức, biện pháp
cần thiết để thực hiện và đạt được mục tiêu đó một cách tối ưu. Kế hoạch là các quyết định
của chủ thể quản lý về mục tiêu, biện pháp và các đảm bảo vật chất cần thiết để thực hiện mục
tiêu đó trong một thời kỳ nhất định. Điều này có nghĩa kế hoạch là một cơng cụ quản lý có
tính định hướng trong tổ chức và điều khiển các hoạt động kinh tế.
Đặc điểm của công cụ kế hoạch trong quản lý kinh tế:
Ở phạm vi vĩ mô, kế hoạch nhà nước nói chung là cơng cụ hướng tới thực hiện các
nhiệm vụ: Bảo đảm những đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
huy động và khai thác có hiệu quả các nguồn lực của xã hội, đảm bảo các cân đối tổng thể nền
kinh tế, điều tiết hoạt động sản xuất - kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở. Cịn ở phạm vi
vi mơ, kế hoạch của các đơn vị kinh tế cơ sở là kế hoạch kinh doanh, phương án hoạt động
phù hợp với yêu cầu của thị trường cũng như những chính sách điều tiết vĩ mơ của nhà nước.
Mục tiêu của kế hoạch của các đơn vị kinh tế cơ sở là đạt được lợi nhuận cao và phát triển bền
vững.
2.1.3. Cơng cụ chính sách kinh tế
Chính sách kinh tế là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà
Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế nhằm giải quyết vấn đề chính sách, thực
hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của đất nước. Các chính
sách kinh tế là cơng cụ quản lý kinh tế quan trọng của nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế
cũng như đối với từng cấp, lĩnh vực hoạt động kinh tế.



Đặc điểm của cơng cụ chính sách kinh tế trong quản lý kinh tế:
o

Căn cứ vào lĩnh vực tác động, các chính sách kinh tế có thể được chia thành các loại

chính sách:
i)

Chính sách tài chính;

ii)

Chính sách tiền tệ - tín dụng;

iii)

Chính sách phân phối;

iv)

Chính sách kinh tế đối ngoại;

v)

Chính sách cơ cấu kinh tế;

vi)


Chính sách cạnh tranh;

vii)

Chính sách phát triển các ngành kinh tế, các loại thị trường...

o

Căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng, các chính sách kinh tế được phân thành 3 nhóm chính

sách, bao gồm:
i)

Chính sách vĩ mơ

ii)

Chính sách trung mơ

iii)

Chính sách vi mơ

o

Căn cứ vào cấp độ của chính sách hay chủ thể quyết định chính sách, các chính sách

kinh tế bao gồm:
i)


Chính sách quốc gia do Quốc hội ra quyết định;

ii)

Chính sách của Chính phủ;

iii)

Chính sách của địa phương do chính quyền địa phương quyết định.

o

Căn cứ vào thời gian phát huy hiệu lực, các chính sách kinh tế bao gồm các loại:

i)

Chính sách dài hạn

ii)

Chính sách trung hạn

iii)

Chính sách ngắn hạn

2.2. Tác dụng của các công cụ quản lý nhà nước về kinh tế

2.2.1. Cơng cụ pháp luật
Nhờ vào pháp luật, nhà nước có cơ sở để phát huy quyền lực của mình. Trong tổ chức

và quản lý kinh tế, pháp luật lại càng có vai trị to lớn. Nó góp phần tích cực vào việc tổ chức,
quản lý và điều tiết nền kinh tế, điều đó được thể hiện ở một số điểm quan trọng sau:
Pháp luật xác định rõ chế độ kinh tế, các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu, chính sách
tài chính…, qua đó góp phần vào việc sắp xếp, cơ cấu các ngành kinh tế, tác động đến sự tăng
trưởng và ổn định, cân đối nền kinh tế. Với mức độ đáng kể, sự phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay bị chi phối và nhằm phục vụ cho định hướng xã hội chủ nghĩa. Đương


nhiên, nhân tố sâu xa bảo đảm định hướng chính trị đối với kinh tế là đường lối, quan điểm, tư
tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền.
Song, để đường lối, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng biến thành hiện thực vận
động của nền kinh tế, chúng phải được thể chế hóa thành hệ thống pháp luật, chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế – xã hội và được triển khai bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước,
dưới sự quản lý của Nhà nước do Đảng lãnh đạo. Thơng qua pháp luật, Nhà nước hoạch định
các chính sách kinh tế, trật tự hóa các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức và cá
nhân, định hướng cho các quan hệ kinh tế phát triển theo những mục đích mong muốn. Chính
sách kinh tế của nước ta hiện nay được xác định trong điều 15 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi,
bổ sung năm 2001: “Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội
lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Nhà nước thực hiện nhất qn chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh
doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở
hữu tồn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Chính sách kinh tế của Nhà nước ta luôn hướng
tới mục đích làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh, đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân.
Thông qua pháp luật, nhà nước ta xác định các hình thức sở hữu trong xã hội, từ đó tác
động tới quan hệ sở hữu, đặc biệt là sở hữu đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu trong nền sản
xuất xã hội. Đối với nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay, pháp luật cũng đã có
những điều chỉnh mang tính định hướng phù hợp với hồn cảnh kinh tế đất nước. Chẳng hạn,
việc quy đinh về các hình thức sở hữu trong xã hội được thể chế trong chương II Hiến pháp

năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001. Việc thừa nhận kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản
nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư của nước ngồi dưới nhiều hình thức, bên cạnh việc củng
cố, khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể thông qua pháp luật là
một bước đi phù hợp với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn đổi mới. Trước tình hình hội
nhập với quốc tế, việc điều chỉnh trong pháp luật đã giúp nước ta phá bỏ được nhiều trở ngại
trong tiến trình phát triển nền kinh tế của đất nước cũng như trong các quan hệ hợp tác kinh tế
với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Pháp luật thể chế hóa các chính sách kinh tế của nhà nước, điều chỉnh các hợp đồng
kinh tế, quy định trình tự và thủ tục ký kết các hợp đồng kinh tế, trình tự và thủ tục giải quyết
các tranh chấp kinh tế, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể. Thơng qua
các quy định đó, việc tổ chức và quản lý nền kinh tế của Nhà nước mới có hiệu quả, giúp cho
kinh tế tăng trưởng trong sự ổn định, cân đối. Nó biến các nhu cầu sản xuất, kinh doanh thành
quyền pháp định và thậm chí cao hơn là quyền Hiến định. Nhu cầu kinh doanh cũng như sản


xuất trong nền kinh tế là nhu cầu mang tính xã hội, vì vậy, việc biến những nhu cầu xã hội
này thành quyền Hiến định hay pháp định là tiền đề để thúc đấy kinh tế phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, việc thể chế
kinh tế thông qua pháp luật đóng vai trị quan trọng trong việc định hướng, hướng dẫn, tạo
khung khổ cho việc tổ chức và hoạt động của nền kinh tế. Nó góp phần đồng bộ hố hệ thống
thị trường, từng bước hồn thiện và phát triển hệ thống thị trường của nền kinh tế thị trường
nước ta. Khơng chỉ vậy, pháp luật cịn tạo ra những tiền đề điều kiện hạn chế những khuyết tật
của kinh tế thị trường. Bên cạnh những mặt tích cực là tạo ra cơ chế năng động, sáng tạo và
hiệu quả thì cũng tồn tại những mặt tiêu cực như chạy theo lợi nhuận mà quên đi mục tiêu xã
hội, phân hóa giàu nghèo… thơng qua hệ thống pháp luật, hệ thống các chính sách mà nhà
nước ta có thể điều chỉnh, hạn chế các mặt tiêu cực đó.
2.2.2. Công cụ kế hoạch
Kế hoạch đã và đang dần dần thể hiện được vai trị quan trọng của mình trong nền
kinh tế thị trường. Có thể nói rằng vai trị được thể hiện đối với nền kinh tế bao gồm như:
Thứ nhất: Điều tiết phối hợp ổn định kinh tế vĩ mơ bằng các chính sách. Với chức

năng này thì mục tiêu chính của kế hoạch đó là ổn định giá cả, bảo đảm công ăn việc làm,
tăng trưởng và cân đối cán cân thanh toán quốc tế. Các mục tiêu này đan xen lẫn nhau không
thể quá chú trọng vào một yếu tố nào đó sẽ làm ảnh hưởng tới các yếu tố khác. Trong chức
năng điều tiết ổn định kinh tế vĩ mơ thì kế hoạch thể hiện ở chỗ là hoạch định chính sách
chung tổng thể của nền kinh tế, đưa ra các biện pháp phân bổ nguồn lực cho phát triển kinh tế,
đảm bảo sử dụng hiệu quả những gì đã có. Bên cạnh đó kế hoạch đảm bảo môi trường kinh tế
ổn định và cân đối, bảo đảm sự công bằng xã hội giữa các vùng miền, giữa các tầng lớp nhân
dân.
Thứ hai - định hướng phát triển kinh tế xã hội. Đây là chức năng thể hiện bản chất của
kế hoạch trong nền kinh tế và chính nó làm cho kế hoạch khơng bị lu mờ trong cơ chế thị
trường vì vậy, kế hoạch cần phẩn: Xây dựng được chiến lược và quy hoạch phát triển toàn bộ
nền kinh tế cũng như quy hoạch phát triển vùng, ngành, đưa ra hệ thống mục tiêu phát triển
kinh tế xác hội nhằm thực hiện chức năng dẫn dắt định hướng phát triển xử lý kịp thời các
mất cân đối xuất hiện trong nền kinh tế thị trường.
Thứ ba: Kiểm tra giám sát hoạt động kinh tế xã hội. Chính phủ thơng qua các cơ quan
chức năng thường xuyên theo dõi kiểm tra tình hình thực hiện các tiến độ kế hoạch thực hiện
và tuân thủ các cơ chế, chính sách áp dụng trong thời kỳ kế hoạch. Đánh giá kết quả của việc
thực hiện các chính sách và các mục tiêu đề ra. Phân tích hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh tế
bảo đảm các luận cứ quan trọng cho việc xây dựng kế hoạch tiếp theo.


2.2.3. Cơng cụ chính sách kinh tế.
Vai trị cơ bản của chính sách cơng thể hiện ở chỗ là cơng cụ hữu hiệu chủ yếu để nhà
nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, duy trì sự tồn tại và phát triển của nhà nước,
phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ người dân.
Thứ nhất, định hướng mục tiêu cho các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế - xã hội.
Do chính sách phản ánh thái độ, cách xử sự của nhà nước đối với một vấn đề cơng, nên nó thể
hiện rõ những xu thế tác động của nhà nước lên các chủ thể trong xã hội, giúp họ vận động
đạt được những giá trị tương lai mà nhà nước mong muốn. Giá trị đó chính là mục tiêu phát
triển phù hợp với những nhu cầu cơ bản của đời sống xã hội. Nếu các chủ thể kinh tế, xã hội

hoạt động theo định hướng tác động của chính sách thì khơng những dễ dàng đạt được mục
tiêu phát triển mà còn nhận được những ưu đãi từ phía nhà nước hay xã hội. Điểu đó có nghĩa
là, cùng với mục tiêu định hướng, cách thức tác động của CSC cũng có vai trị định hướng
cho các chủ thể hành động.
Thứ hai, tạo động lực cho các đối tượng tham gia hoạt động kinh tế - xã hội theo mục
tiêu chung.
Muốn đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội chung, nhà nước phải ban hành nhiều
chính sách, trong đó mỗi chính sách lại có những cách thức tác động mang tính khuyến khích
đối với các chủ thể thuộc mọi thành phần như: miễn giảm thuế, tạo cơ hội tiếp cận với nguồn
vốn có lãi suất ưu đãi, ban hành những thủ tục hành chính đơn giản và các chế độ ưu đãi đặc
biệt khác… Sự tác động của CSC không mang tính bắt buộc, mà chỉ khuyến khích các chủ thể
hành động theo ý chí của nhà nước. Chẳng hạn, để tăng cường đầu tư vào nền kinh tế, Nhà
nước ta ban hành chính sách khuyến khích các chủ thể trong nước và nước ngồi tích cực đầu
tư vào các ngành, lĩnh vực hay những vùng cần được ưu tiên phát triển.
Thứ ba, phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị
trường.
Trong nền kinh tế thị trường, quy luật cạnh tranh và các quy luật thị trường khác đã thúc đẩy
mỗi chủ thể trong xã hội đầu tư vào sảnxuất kinh doanh, không ngừng đổi mới công nghệ
nâng cao năng suất lao động, chất ượng sản phẩm, hạ giá thành hàng hóa và dịch vụ cung cấp
cho xã hội. Nhờ đó mà cả xã hội và từng người dân, tổ chức đều được hưởnq lợi như: hàng
hóa và dịch vụ tăng về số lượng, đa dạng, phong phú về chủng loại, thương hiệu, mẫu mã,
chất lượng ngày càng tược nâng cao với giá tiêu dùng ngày càng rẻ. Nhưng, sự vận hành của
thị trường cũng gây ra những tác động tiêu cực mà các nhà kinh tế gọi là mặt không thành
công hay mặt trái của thị trường như: độc quyền trong sản xuất cung ứng khơng đầy đủ hàng
hóa cơng cộng, sự bất công bằng, chênh lệch giàu nghèo và thất nghiệp gia tăng, bất ổn định


kinh tế vĩ mô, cá lớn nuốt cá bé... gây ảnh hưởng khơng tốt lên tồn xã hội và mỗi người dân.
Trong tình hình đó, nhà nước phải sử dụng hệ thống CSC để giải quyết những vấn đề bất cập
về kinh tế, khắc phục những thất bại của thị trường thông qua trợ cấp, cung ứng dịch vụ công

cho người dân do các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp cơng hay hội, tổ chức phi
chính phủ thực hiện.
Thứ tư, tạo lập các cân đối trong phát triển.
Để kinh tế - xã hội phát triển một cách ổn định bền vững, nhà nước phải dùng chính sách để
tạo lập các cân đối vĩ mô cơ bản như cân đối giữa hàng - tiền, cung - cầu, xuất - nhập khẩu,
tiết kiệm - tiêu dùng... Đồng thời, nhà nước cịn dùng chính sách để điều tiết đảm bảo cho sự
phát triển cân đối giữa các vùng miền của đất nước.
Thứ năm, kiểm soát và phân bổ các nguồn lực trong xã hội
Nhà nước luôn luôn quan tâm đến quản lý, khai thác và sử dụng các nguồn lực cho phát triển.
Mục tiêu phát triển bền vững bao gồm cả gia tăng về lượng và cải thiện về chất trong hiện tại
và tương lai, vì thế tài nguyên tự nhien và xã hội của một quốc gia là cái hữu hạn ln trở
thành vấn đề quan tâm chính yếu của nhà nước. Để sử dụng có hiệu quả tài ngun theo
hướng bền vững, nhà nước thơng qua các chính sách thực hiện kiểm sốt q trình khai thác,
sử dụng tài nguyên và phân bổ hợp lý các nguồn lực trong xã hội, ví dụ như chính sách xây
dựng vùng kinh tế mới, chính sách xây dựng khu cơng nghiệp, khu chế xuất, chính sách đất
đai, chính sách thuế, chính sách bảo vệ tài nguyên, môi trường...
Thứ sáu, tạo môi trường thích hợp cho các hoạt động kinh tế - xã hội.
Thơng qua các chính sách, nhà nước tạo những điều kiện cần thiết để hình thành mơi trường
thuận lợi cho các chủ thể xã hội hoạt động như: chính sách phát triển thị trường lao động, thị
trường vốn, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường bất động sản, phát triển cơ sở hạ
tầng...
Các chính sách là cơng cụ đặc thù và không thể thiếu được mà nhà nước sử dụng để quản lý
kinh tế vĩ mô, chúng có chức năng chung là tạo ra những kích thích đủ lớn cần thiết để biến
đường lối chiến lược của đảng cầm quyền thành hiện thực, góp phần thống nhất tư tưởng và
hành động của mọi người trong xã hội, đẩy nhanh và hữu hiệu sự tiến bộ của các hoạt động
thuộc mục tiêu bộ phận mà chính sách hướng tới và thực hiện các mục tiêu chung của phát
triển kinh tế quốc dân.
Thứ bảy, thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các cấp, các ngành.
Việc thực hiện các giai đoạn trong chu trình chính sách khơng chỉ và không thể do một cơ
quan nhà nước đảm nhiệm, mà cần có sự tham gia của nhiều cơ quan thuộc các cấp, các

ngành khác nhau hay của nhiều tổ chức, cá mân. Vì vậy, thơng qua q trình chính sách sẽ


thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các
tầng lớp nhân dân, góp phần tạo nên sự nhịp nhàng, đồng bộ trong hoạt động thực thi CSC.
2.2.4. Tài sản quốc gia
Tài sản công là nguồn lực nội sinh của đất nước, là yếu tố cơ bản của quá trình sản
xuất và quản lý xã hội, là nguồn lực tài chính tiềm năng cho đầu tư phát triển, phục vụ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cùng với việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý, sử dụng thì việc khai thác nguồn lực
tài chính từ tài sản cơng chính là bước đột phá quan trọng. Nguồn lực từ tài sản cơng được
khai thơng sẽ đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội và điều hành kinh tế vĩ mô. Việc khai
thác nguồn lực tài chính từ tài sản cơng được triển khai thực hiện với những tài sản có khối
lượng và giá trị lớn: nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước; kết cấu hạ tầng giao thông; đất đai và tài
nguyên thiên nhiên; tài sản tịch thu và tài sản xác lập sở hữu nhà nước… Hầu hết các cơ chế,
chính sách do Cục Quản lý Cơng sản tham mưu, trình cấp có thẩm quyền ban hành trong giai
đoạn này đều xoay quanh “tiết kiệm, hiệu quả và khai thác nguồn lực”.
Các loại tài sản cơng được sử dụng với những mục đích và nhiệm vụ quan trọng trong
việc phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng tại địa phương và đóng góp vào
việc thực hiện các mục tiêu phát triển chung của quốc gia.
2.3. Vai trò, ý nghĩa của các công cụ quản lý nhà nước về kinh tế

2.3.1. Cơng cụ pháp luật
Vai trị của cơng cụ pháp luật
Pháp luật kinh tế có vai trị tạo ra khung pháp lý ổn định, chính thức mà trong đó các
quan hệ kinh tế tự do tồn tại và phát triển, phù hợp với giá trị vốn có của nó được xã hội cần
có và thừa nhận. Cụ thể, những vai trị của công cụ pháp luật trong quản lý kinh tế được thể
hiện ở những khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, bằng việc xác lập cho thị trường một cơ sở pháp lý để hoạt động, pháp luật
trực tiếp bảo vệ và hỗ trợ sự điều tiết của cơ chế thị trường nhằm hướng tới các mục tiêu của

quản lý kinh tế. Mặt khác, nhờ sự bảo vệ và hỗ trợ của pháp luật mà ý thức tôn trọng, tuân thủ
các quan hệ kinh tế khách quan của các bên tham gia sẽ điều chỉnh những hành vi kinh tế của
họ. Bởi vì, pháp luật kinh tế chính là sự tổ chức có tính nhà nước của những quan hệ kinh tế
khách quan, đồng thời là điều kiện để thực hiện và phát triển các quan hệ ấy. Như vậy, tác
động quản lý của pháp luật không chỉ là sự tác động, hỗ trợ bên ngoài đối với cơ chế thị
trường mà cịn là sự tác động từ bên trong để hình thành khả năng thực hiện sự quản lý có
khoa học đối với nền kinh tế và hoạt động có ý thức của người lao động trong các lĩnh vực


kinh tế. Nói cách khác, pháp luật kinh tế có vai trò là nhân tố nội sinh điều tiết định hướng sự
vận động của cơ chế thị trường.
Thứ hai, với tư cách là sự tổ chức có tính nhà nước của các quan hệ kinh tế khách quan
dưới hình thức quyền và nghĩa vụ cơ bản, pháp luật xác lập được một trật tự và môi trường
kinh doanh lành mạnh. Mục tiêu mà quản lý kinh tế trực tiếp hướng tới là duy trì trật tự cho
các hoạt động kinh tế cũng như hoạt động của bộ máy quản lý kinh tế. Pháp luật kinh tế
không chỉ là “hành lang” duy trì trật tự mà cịn tạo ra chính trật tự ấy. Bởi vì, quyền và nghĩa
vụ mà pháp luật xác định trong các quan hệ kinh tế luôn hàm chứa những yếu tố của một trật
tự. Đó là sự phân cấp và thẩm quyền, điều kiện thực hiện, phạm vi, trình tự thực hiện, những
điều được làm và khơng được làm. Chẳng hạn, trật tự và môi trường kinh doanh có thể bị phá
hoại bởi những hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh do khơng có luật bảo vệ quyển sở hữu
công nghiệp, luật về quảng cáo và môi giới. Hay một thị trường thống nhất có thể bị phá hoại
nếu như thẩm quyền quản lý của các cấp, các ngành không được pháp luật phân định. Điều
này cũng có nghĩa pháp luật kinh tế góp phần tích cực vào việc tạo môi trường thuận lợi cho
các hoạt động kinh tế.
Thứ ba, thông qua việc ghi nhận quyền và nghĩa vụ, cũng như việc đảm bảo thực hiện
quyền và nghĩa vụ ấy mà lợi ích chính đáng, quyền sở hữu của các chủ thể tham gia vào các
quá trình kinh tế được thực hiện. Chẳng hạn, bằng việc ghi nhận, bảo vệ quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia hợp đồng kinh tế, ghi nhận hình thức và thủ tục giải quyết các tranh
chấp trong kinh doanh, trong phá sản doanh nghiệp mà lợi ích chính đáng của các chủ doanh
nghiệp được tôn trọng và được giải quyết một cách có trật tự.

Ý nghĩa của cơng cụ pháp luật
Pháp luật là công cụ xác định rõ chế độ kinh tế, các thành phần kinh tế, các hình thức
sở hữu, chính sách tài chính…, qua đó góp phần vào việc sắp xếp, cơ cấu các ngành kinh tế,
tác động đến sự tăng trưởng và ổn định, cân đối nền kinh tế. Thông qua pháp luật, Nhà nước
hoạch định các chính sách kinh tế, trật tự hóa các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tổ
chức và cá nhân, định hướng cho các quan hệ kinh tế phát triển theo những mục đích mong
muốn. Chính sách kinh tế của nước ta hiện nay được xác định trong điều 15 Hiến pháp năm
1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001: “Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở
phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”.
Nhà nước thực hiện nhất qn chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh
doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở


hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Chính sách kinh tế của Nhà nước ta ln hướng
tới mục đích làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân.
Thông qua pháp luật, nhà nước ta xác định các hình thức sở hữu trong xã hội, từ đó tác
động tới quan hệ sở hữu, đặc biệt là sở hữu đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu trong nền sản
xuất xã hội. Đối với nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay, pháp luật cũng đã có
những điều chỉnh mang tính định hướng phù hợp với hoàn cảnh kinh tế đất nước. Chẳng hạn,
việc quy đinh về các hình thức sở hữu trong xã hội được thể chế trong chương II Hiến pháp
năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001. Việc thừa nhận kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản
nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư của nước ngồi dưới nhiều hình thức, bên cạnh việc củng
cố, khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể thông qua pháp luật là
một bước đi phù hợp với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn đổi mới. Trước tình hình hội
nhập với quốc tế, việc điều chỉnh trong pháp luật đã giúp nước ta phá bỏ được nhiều trở ngại
trong tiến trình phát triển nền kinh tế của đất nước cũng như trong các quan hệ hợp tác kinh tế
với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.

Pháp luật thể chế hóa các chính sách kinh tế của nhà nước, điều chỉnh các hợp đồng
kinh tế, quy định trình tự và thủ tục ký kết các hợp đồng kinh tế, trình tự và thủ tục giải quyết
các tranh chấp kinh tế, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể. Thơng qua
các quy định đó, việc tổ chức và quản lý nền kinh tế của Nhà nước mới có hiệu quả, giúp cho
kinh tế tăng trưởng trong sự ổn định, cân đối. Nó biến các nhu cầu sản xuất, kinh doanh thành
quyền pháp định và thậm chí cao hơn là quyền Hiến định. Nhu cầu kinh doanh cũng như sản
xuất trong nền kinh tế là nhu cầu mang tính xã hội, vì vậy, việc biến những nhu cầu xã hội
này thành quyền Hiến định hay pháp định là tiền đề để thúc đấy kinh tế phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, việc thể
chế kinh tế thông qua pháp luật đóng vai trị quan trọng trong việc định hướng, hướng dẫn,
tạo khung khổ cho việc tổ chức và hoạt động của nền kinh tế. Nó góp phần đồng bộ hố hệ
thống thị trường, từng bước hồn thiện và phát triển hệ thống thị trường của nền kinh tế thị
trường nước ta. Khơng chỉ vậy, pháp luật cịn tạo ra những tiền đề điều kiện hạn chế những
khuyết tật của kinh tế thị trường. Bên cạnh những mặt tích cực là tạo ra cơ chế năng động,
sáng tạo và hiệu quả thì cũng tồn tại những mặt tiêu cực như chạy theo lợi nhuận mà quên đi
mục tiêu xã hội, phân hóa giàu nghèo… thơng qua hệ thống pháp luật, hệ thống các chính
sách mà nhà nước ta có thể điều chỉnh, hạn chế các mặt tiêu cực đó.
Có thể thấy được, trong thời kỳ hiện nay, pháp luật đã trở thành một bộ phận cấu thành
của nền kinh tế. thiều pháp luật, nền kinh tế, nhất là nền kinh tế thị trường định của nước ta
trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội sẽ rất khó vận hành hoặc vận hành khơng có hiệu


quả, các hoạt động kinh tế sẽ trở nên hỗn loạn và khơng thể kiểm sốt. Vai trị của pháp luật
đối với sự phát triển kinh tế là không thể phủ nhận. Vì vậy, việc hồn thiện hệ thống pháp luật
phù hợp với những bước đi kinh tế của nước ta có ý nghĩa quyết định trong cơng cuộc xây
dựng đất nước ngày một giàu mạnh, hiện đại với một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2.3.2. Công cụ kế hoạch
Vai trị của của cơng cụ kế hoạch
Vai trị của công cụ kế hoạch trong quản lý kinh tế được thể hiện ở các khía cạnh sau
đây:

Thứ nhất, nhờ kế hoạch mà chủ thể quản lý và đối tượng quản lý biết được mục tiêu và
lựa chọn giải pháp thích hợp để đạt tới mục tiêu đó một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. Ở
phạm vi vĩ mô, kế hoạch tạo ra khuôn khổ, đường hướng và xác lập một ngơn ngữ chung, qua
đó mọi chủ thể, tổ chức, mọi ngành, mọi thành phần kinh tế cũng như các cá nhân trong hệ
thống/tổ chức kinh tế hành động tự giác, chủ động và thống nhất.
Thứ hai, kế hoạch là những tư duy và tầm nhìn chiến lược, bao quát để hướng tới
tương lai trên cơ sở những tiên đoán của chủ thể quản lý đối với sự phát triển của đối tượng
quản lý trong bối cảnh ln có sự thay đổi của môi trường hoạt động. Bởi vậy, cơng cụ kế
hoạch góp phần hình thành tư duy nhìn xa, trơng rộng cho nhà quản lý. Hay nói cách khác,
cơng cụ kế hoạch có vai trị hình thành tầm nhìn chiến lược cho nhà quản lý, giúp họ phát
hiện và giải quyết vấn đề một cách chủ động, có tính tốn và dự báo khoa học, phù hợp và tối
ưu nhất ở mọi hoàn cảnh thay đổi trong quá trình vận động và phát triển của đối tượng quản
lý.
Thứ ba, kế hoạch không chỉ là một công cụ quản lý mà còn là căn cứ để tổ chức bộ
máy quản lý, kiểm tra và đánh giá hiệu quả các hoạt động quản lý kinh tế.
Bên cạnh những vai trò trên, bản thân cơng cụ kế hoạch cũng có tính hai mặt. Nếu kế
hoạch khơng chính xác, thiếu cơ sở khoa học sẽ gây hậu quả xấu cho sự phát triển của một
nền kinh tế cũng như đối với một đơn vị kinh tế cơ sở. Đặc biệt là khi các yếu tố ngẫu nhiên,
yếu tố khách quan tác động làm đảo lộn mọi dự kiến ban đầu thì hậu quả đó càng trở nên
nghiêm trọng. Mặt khác, trong một số trường hợp, các chương trình mục tiêu, các phương án
hành động dễ gây ra “đường mòn” trong suy nghĩ và hành động của chủ thể quản lý. Từ đó,
hạn chế tính năng động, linh hoạt và mềm dẻo trong các hoạt động kinh tế, nhất là trong cơ
chế thị trường hiện nay.
Ý nghĩa của công cụ kế hoạch


Trong nền kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, sự quản lý can thiệp vĩ mô của Nhà nước phải thích hợp với yêu cầu của các quy luật
kinh tế thị trường. Nhà nước sử dụng công cụ kế hoạch định hướng để tác động tới thị trường,
điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp cho phù hợp. Phát triển nền kinh tế nhiều thành

phần, do vậy nội dung kế hoạch không được phép chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực kinh tế
nhà nước mà phải mang tính tổng thể toàn nền kinh tế. Việc đổi mới này sẽ tác động một cách
sâu sắc đến tính dân chủ và công khai của kế hoạch. Chuyển từ nền kinh tế được xây dựng
theo hướng có cơ cấu kinh tế hồn chỉnh, quan hệ kinh tế đối ngoại - bao gồm ngoại thương
và các quan hệ tài chính, tín dụng được tiến hành chủ yếu với các nước XHCN, sang một nền
kinh tế mở ngày càng thơng thống hơn, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế đối
ngoại, từng bước hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Theo đó kết quả là đã đạt được
những thành tựu về mặt kinh tế nhất định.
Trong thời gian qua, công tác kế hoạch đã chuyển dần từ kế hoạch pháp lệnh sang kế
hoạch định hướng. Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu để hướng dẫn, làm định hướng cho các
bộ, ngành, địa phương, giảm nhiều chỉ tiêu hiện vật, bổ sung thêm nhiều chỉ tiêu giá trị và xã
hội; Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng quy hoạch phát triển, tạo cơ sở
khoa học và thực tiễn cho công tác xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm; phân cấp mạnh
hơn cho các cấp cơ sở để phát huy quyền chủ động, sáng tạo; Đổi mới quy trình và phương
pháp xây dựng kế hoạch…
2.3.3. Cơng cụ chính sách kinh tế
Vai trị của các chính sách kinh tế
Là một trong những công cụ quản lý kinh tế của nhà nước, các chính sách kinh tế có
vai trị hết sức quan trọng thể hiện ở những chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, chức năng định hướng. Chính sách kinh tế xác định những chỉ dẫn chung
cho quá trình ra quyết định của các chủ thể kinh tế, vạch ra phạm vi hay giới hạn cho phép
của các quyết định, định hướng việc huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực nhằm giải
quyết các vấn đề chính sách kịp thời và hiệu quả. Điều này có nghĩa các chính sách kinh tế
góp phần định hướng hành vi của các chủ thể kinh tế để cùng hướng tới mục tiêu chung mà
chính sách đề ra.
Thứ hai, chức năng điều tiết. Chính sách kinh tế được nhà nước ban hành để giải
quyết những vấn đề bức thiết phát sinh trong hoạt động kinh tế nói riêng và đời sống kinh tế xã hội nói chung, nó điều tiết những mất cân đối, những hành vi không phù hợp nhằm tạo ra
hành lang hợp lý, công bằng, ổn định cho các hoạt động kinh tế theo mục tiêu đã đề ra. Trong
nền kinh tế thị trường, các khuyết tật vốn có của nó như sự phát triển bất ổn định và cân đối,



tình trạng độc quyền, phân hóa giàu nghèo, ơ nhiễm mơi trường, thất nghiệp… là những vấn
đề ln địi hỏi có những chính sách kịp thời để điều tiết.
Thứ ba, chức năng tạo tiền đề cho sự phát triển. Để phát triển nền kinh tế, nhà nước
có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng và nâng cấp các yếu tố tiền đề quyết định
sự phát triển như giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, hệ thống thông
tin, các cam kết quốc tế, các thị trường vốn… Thơng qua các chính sách đi tiên phong trong
các lĩnh vực mới, đòi hỏi đầu tư lớn, có độ mạo hiểm cao và lơi cuốn các thành phần kinh tế
khác cùng tham gia thông qua các chính sách hỗ trợ trực tiếp hay gián tiếp như hỗ trợ về vốn,
nghiên cứu và ứng dụng khoa học cơng nghệ mới...
Thứ tư, chức năng khuyến khích sự phát triển. Mỗi chính sách kinh tế khi hướng vào
giải quyết một vấn đề bức thiết cũng chính là đã tạo ra cho chính đối tượng quản lý một sự
phát triển. Đồng thời, khi giải quyết một vấn đề thì chính sách đó lại tác động lên vấn đề khác
và làm nảy sinh những nhu cầu phát triển mới.
Ý nghĩa của cơng cụ chính sách kinh tế
Cơng cụ chính sách kinh tế có nhiều ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế, một trong các
ý nghĩa quan trọng đó là:
- Tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế: Các biện pháp thuế, chi tiêu chính phủ, lãi suất
và tỷ giá hối đối có thể được sử dụng để tạo ra động lực cho tăng trưởng kinh tế. Chính phủ
có thể tăng chi tiêu đầu tư cơng để thúc đẩy sản xuất và tăng cung ứng hàng hóa và dịch vụ.
- Tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi: Các chính sách như giảm thuế, giảm quy
định và thúc đẩy đầu tư nước ngồi có thể giúp tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi,
thu hút đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Kiểm soát lạm phát: Chính sách tiền tệ và chính sách thuế có thể được sử dụng để
kiểm sốt lạm phát và giảm thiểu tác động tiêu cực của lạm phát đến nền kinh tế.
II. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ QLNN VỀ KINH TẾ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng sử dụng các công cụ QLNN về kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
1.1. Các tác động của hội nhập kinh tế tới Việt Nam và việc sử dụng các công cụ QLNN


Nền kinh tế Việt Nam với hơn 32 năm đổi mới đã có những bước phát triển và đạt được
nhiều thành tựu. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng khá trong nhiều năm, quy mô GDP đã lớn
hơn rất nhiều so với trước. Năm 2018, GDP đạt khoảng 240 tỷ USD, GDP bình quân là 2580
USD/người; nếu tính cả con số chưa được thống kê thì GDP đạt khoảng 320 tỷ USD, GDP
bình quân đạt khoảng 3400 USD/người. Năm 1990, xuất khẩu của Việt Nam mới đạt được
khoảng 1 tỷ USD, thì đến năm 2018, tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu đã đạt mức 481,7 tỷ
USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 244,7 tỷ USD, nhập khẩu đạt 237 tỷ USD, xuất siêu


đạt 7,7 tỷ USD. Điều này cho thấy, nền kinh tế Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, có độ
mở và hội nhập cao. Kết quả đó có sự góp phần quan trọng của mở cửa và hội nhập ngày càng
sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Có thể nói, hội nhập quốc tế là
một yếu tố quan trọng thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển.
Và hội nhập quốc tế tạo điều kiện cho việc sử dụng công cụ QLNN theo các khía cạnh
sau:
- Hội nhập quốc tế cho phép các quốc gia tham chiếu, học hỏi nhau mô hình phát triển.
Bên cạnh đó, nhờ có mà việc hoạch định chính sách tốt hơn, nhanh hơn và hiệu quả hơn; đồng
thời dễ phát hiện và định lượng được những rào cản có thể xuất hiện và có biện pháp để xử lý,
giải quyết và loại bỏ các rào cản này, bảo đảm cho hoạch định chính sách kinh tế đạt được
như mong đợi.
- Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế giúp cho các quốc gia có tầm nhìn về kinh tế xa hơn, có
hiểu biết khơng chỉ trong phạm vi một quốc gia mà cả trên toàn thế giới. làm cho các quốc gia
khi đưa ra tầm nhìn chiến lược về kinh tế thuận lợi hơn và có cơ sở khoa học hơn, cũng như
tạo điều kiện để quá trình hoạch định chính sách kinh tế có thể thực hiện nhanh hơn, tốt hơn
và khoa học hơn. Hơn nữa, việc hoạch định chính sách kinh tế có thể rút ngắn khoảng cách,
thời gian, rút ngắn một số bước mà chất lượng chính sách có thể cao hơn, tốt hơn.
Như vậy, Hội nhập quốc tế đã và đang làm thay đổi mọi vấn đề, từ tư duy, nhận thức,
tầm nhìn, phương thức và hình thức đến cơ chế, chính sách, giải pháp trong quản lý nhà nước
về kinh tế. Hội nhập quốc tế làm cho các quốc gia có nhiều cơ hội để mở rộng và tiếp cận dễ
dàng với các quốc gia khác không chỉ trong quản lý kinh tế mà cịn trên tất cả các lĩnh vực từ

chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đến quốc phịng, an ninh... Hội nhập quốc tế đã đưa đến cho
các quốc gia có cơ hội học tập, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau và triển khai các hoạt động liên
kết, hợp tác, sẻ chia cùng có lợi. Hội nhập quốc tế cũng làm cho các quốc gia khơng cịn tách
biệt và biệt lập mà chịu tác động chung của những biến đổi trên thế giới. Sự tác động qua lại
và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế đang diễn ra ngày càng nhiều hơn, nhanh hơn và
phức tạp hơn. Bên cạnh tiến trình hội nhập quốc tế đã và đang diễn ra ngày một sâu rộng,
mạnh mẽ, liên tục thì cuộc CM xuất hiện lại càng làm cho tiến trình hội nhập quốc tế nhanh
hơn, mạnh mẽ hơn và sâu rộng hơn.
1.2. Các hạn chế của Việt Nam trong q trình sử dụng các cơng cụ QLNN trong bối cảnh hội nhập
kinh tế

Bên cạnh những thành công nêu trên, nền kinh tế nước ta đang đứng trước nhiều khó
khăn thách thức. Mặc dù tăng trưởng kinh tế cao, bình quân 6,3%, nhưng vẫn thấp hơn mục
tiêu đề ra của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020, ở mức 7-8%. Tỷ lệ lao
động và vốn góp phần tạo nên tăng trưởng kinh tế vẫn còn ở mức cao (8,4% và 53,3% năm
2018), yếu tố TFP đóng góp vào tăng trưởng kinh tế cịn hạn chế, mới ở mức 38,3% năm


2018. Đặc biệt, yếu tố thể chế chưa được cải thiện, nhiều thói quen và cách quản lý cũ vẫn
hiện diện trong các văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách ... Theo WEF năm 2018 (GCI 4.0)
thì chất lượng thể chế Việt Nam xếp hạng 94/140 nước trên thế giới. Do đó, cần phải đổi mới
mạnh mẽ hơn nữa thể chế nhằm tạo cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam phát triển.
Thêm vào đó, một trong những yếu tố quyết định đến thành công trong bối cảnh hội
nhập quốc tế là khoa học công nghệ trong nền kinh tế. Ở Việt Nam, tỷ lệ chi cho nghiên cứu
và ứng dụng khoa học và công nghệ từ ngân sách nhà nước còn rất thấp, mới ở mức 0,44%
GDP, trong khi trên thế giới vào những năm 1993-1994, khi có mức GDP bình quân đầu
người tương tự Việt Nam, các quốc gia khác đã chi cho nghiên cứu và ứng dụng khoa học
công nghệ ở mức 1,97%/GDP (Trung Quốc năm 2006-2007, tỷ lệ này là 1,37%).
Như vậy: Hiện nay, thế giới đang đổi thay chóng mặt. Việc hội nhập đang tạo ra nhiều
thời cơ cho các nước phát triển nhanh và bền vững, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức nếu

không nắm bắt kịp xu thế này. Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu để mang lại phồn vinh
và giàu mạnh cho những nước nắm bắt được thời cơ, đổi mới mạnh mẽ mọi mặt của nền kinh
tế. Một trong những khâu đột phá là đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế để theo kịp với hội
nhập quốc tế sâu rộng và đang phát triển và lan rộng nhanh chóng.
1.3. Sau hội nhập, là gì ?

Ngồi việc hội nhập quốc tế, việc Cách mạng cơng nghiệp 4.0 xuất hiện và phát triển
với tốc độ nhanh chóng nhờ các cơng cụ như: internet vạn vật, điều khiển tự động, trí tuệ nhân
tạo, trí tuệ thơng minh, robot, big data, vật liệu mới, khơng gian thơng thống... Nó làm cho
thế giới phẳng hơn, gần hơn, nhỏ hơn và làm thay đổi mọi mặt của đời sống con người ở mọi
nơi, mọi chỗ. Với Cách mạng công nghiệp 4.0, việc tiếp cận và xử lý thông tin diễn ra dễ
dàng, nhanh chóng. có khả năng vơ tận, có thể giải quyết, truyền tải nhiều loại thông tin cùng
một lúc, trong khoảng thời gian ngắn nhất, khoảng vài giây, vài phút và có điều kiện để cung
cấp cho con người những cơ sở dữ liệu đủ lớn để đưa ra các căn cứ khoa học cho những tầm
nhìn xa, rộng, cho sự đốn định tương lai tương đối chính xác, cũng như hỗ trợ, gợi mở đưa ra
chính sách, giải pháp có khả năng đúng đắn và chính xác cao và đây sẽ là một khía cạnh hỗ
trợ cho việc hội nhập quốc tế cũng như hỗ trợ cho việc sử dụng các công cụ quản lý nhà nước
về kinh tế.
Công tác tuyên tuyền, giáo dục và phổ biến chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách và
giải pháp quản lý kinh tế của nhà nước và sự phản hồi của nhân dân, của các tổ chức chính trị
- xã hội... về tính đúng đắn, phù hợp của chính sách và giải pháp quản lý của nhà nước về
kinh tế dễ dàng hơn khi vận dụng thành quả của Cách mạng công nghiệp 4.0, của mạng xã
hội, của hệ thống thông tin rộng khắp và của hội nhập quốc tế. Với các công cụ hiện đại, việc
đưa quản lý nhà nước về kinh tế thay đổi từ đường lối, định hướng đến cơ chế, chính sách,


giải pháp cụ thể vì có căn cứ hơn, khoa học hơn, sâu sắc hơn với tầm nhìn dài hơn, xa hơn,
đầy đủ hơn và xác đáng hơn.
Đặc biệt, trong bối cảnh Cách mạng cơng nghiệp 4.0, tầm nhìn và hoạch định chính
sách kinh tế sẽ có thuận lợi hơn khi có thể tham khảo rộng rãi ý kiến của nhân dân. Sự phản

hồi, phản biện của nhân dân sẽ giúp bổ sung nhiều căn cứ thực tế cho việc lựa chọn được
chính sách kinh tế tốt nhất, phù hợp nhất.
Tuy vậy, khi Chính phủ số được hình thành, quản lý nhà nước về kinh tế cũng sẽ phải
thay đổi theo hướng quản lý nhà nước kỹ thuật số. Mọi hoạt động kinh tế được số hóa, được
điện tử hóa, các số liệu kinh tế, tài chính được cập nhật và lưu trữ trong hệ thống “big data”.
Điều này đòi hỏi quản lý nhà nước về kinh tế phải có nhiều
2. Những ưu điểm đạt được trong quá trình sử dụng các công cụ QLNN về kinh tế hiện nay

Pháp luật, kế hoạch và chính sách kinh tế là những công cụ quản lý kinh tế chủ yếu
với tư cách chúng là phương tiện để nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình đối với
các hoạt động kinh tế. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã sử dụng các
công cụ chủ yếu trong quản lý nhà nước về kinh tế với những ưu điểm cụ thể:
2.1. Công cụ pháp luật

- Quản lý bằng pháp luật là quản lý bằng sức mạnh của những quyền uy khách quan kết
hợp với sức mạnh quyền uy của nhà nước. Bởi vậy, sức mạnh, quyền uy của pháp luật hay
khả năng điều chỉnh hành vi con người của pháp luật trước hết nằm ngay trong nội dung của
pháp luật và phụ thuộc vào tính xác thực của nội dung đó. Nói cách khác, việc tuân thủ pháp
luật, hành động theo pháp luật đó là do cái lẽ phải hiển nhiên của pháp luật chứ khơng phải vì
sự cưỡng chế của nhà nước. Cái uy quyền cưỡng chế của nhà nước chủ yếu có ý nghĩa bảo vệ
dưới dạng răn đe. Vì vậy, pháp chế kinh tế có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao hiệu lực
quản lý kinh tế của công cụ pháp luật.
- Quản lý bằng pháp luật chứa đựng tính phổ qt và cơng bằng. Đối tượng điều chỉnh
của pháp luật kinh tế là những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý sản xuất và trao
đổi sản phẩm của con người. Nhưng không phải tất cả mà chỉ bao gồm những quan hệ kinh tế
cơ bản nhất, quan trọng nhất. Mặt khác, việc điều chỉnh của pháp luật kinh tế là chung cho tất
cả các đối tượng khi tham gia vào các quan hệ kinh tế chứ không phải cho từng đối tượng
riêng lẻ. Vì vậy, những quy định của pháp luật có ý nghĩa phổ biến, bao quát tất cả các đối
tượng tham gia và khơng có sự phân biệt. Trước pháp luật, mọi người đều có cơ hội ngang
nhau và bình đẳng về cơ hội phát triển kinh tế.

- Tác động quản lý của pháp luật nói chung và của pháp luật kinh tế nói riêng là sự tác
động điều chỉnh gián tiếp dưới hình thức đưa ra các giả định về điều kiện để quy định quyền
và nghĩa vụ cho các hoạt động kinh tế. Pháp luật kinh tế đưa ra các quy phạm được phép và



×