Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Trung y để quản lý bệnh crohn tái phát và khó điều trị báo cáo 1 trường hợp lâm sàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.97 KB, 11 trang )

NNK dịch 23/8/2023

Trung Y để quản lý bệnh Crohn tái phát và khó điều trị Báo cáo 1 trường hợp lâm sàng
HezhengLai, BHSce,f,g, KangWang, MDd,e,f, QingDong, MDb, XiaoshuZhu, MDe,f,g,
XiaokeLi, MDc, ShuoQi, MDa,e,f,g,
Medicine (Baltimore). 2019 Apr; 98(15): e15148.
Published online 2019 Apr 12. doi: 10.1097/MD.0000000000015148
Ủy ban Khoa học & Công nghệ Thành phố Bắc Kinh;Z161100001816014. Đã có được sự đồng ý bằng văn bản từ
bệnh nhân để công bố chi tiết vụ việc. Các tác giả khơng có xung đột lợi ích tiết lộ.
a Khoa Tuyến giáp, b Khoa Huyết học và Ung thư, c Khoa Tiêu hóa, Bệnh viện Dongzhimen,
d Khoa Xoa bóp và Vật lý trị liệu, Bệnh viện Đơng Phương, Trực thuộc Đại học Trung Y Bắc Kinh, Bắc Kinh, Trung
Quốc,
e Trường Khoa học và Sức khỏe, Đại học Western Sydney, Campbelltown, New South Wales,
f Trung tâm Y học Trung Quốc, Sự hợp tác giữa Đại học Y học Trung Quốc Bắc Kinh và Đại học Western Sydney,
g Viện Nghiên cứu Sức khỏe NICM, Đại học Western Sydney, Sydney, New South Wales , Châu Úc.

Tóm tắt
Giới thiệu:
Bệnh Crohn là một bệnh viêm hệ thống tái phát mãn tính ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa
với tỷ lệ mắc bệnh cao. Ngày càng có nhiều mối quan tâm lâm sàng đối với phương
pháp điều trị bệnh Crohn bằng Trung y. Báo cáo này nhằm mục đích trình bày kết
quả quản lý điều trị của bệnh nhân bằng Trung y kết hợp với liệu pháp dược lý.
Những thông tin cần quan tâm trên bệnh nhân:
Một phụ nữ 53 tuổi có tiền sử hơn 23 năm về chứng khó tiêu mãn tính, trào ngược,
đau bụng và tiêu chảy quá mức, và tiền sử hơn 21 năm bị bệnh Crohn dai dẳng. Tình
trạng này đã được kiểm soát trong 21 năm bằng liệu pháp dược lý liên tục và can thiệp
phẫu thuật; tuy nhiên, hiệu quả điều trị kém.
Chẩn đoán:


NNK dịch 23/8/2023



Trong nghiên cứu này, chẩn đoán bệnh Crohn dựa trên việc tích hợp các triệu chứng
của bệnh nhân và kết quả chụp X quang và kết quả sinh thiết. Bệnh nhân khơng có
chẩn đốn phân biệt.
Can thiệp:
Bệnh nhân được điều trị châm cứu với tần suất xấp xỉ một lần mỗi tuần trong tổng số
21 buổi cho đến ngày 5 tháng 11 năm 2018. Bệnh nhân cũng được dùng Trung dược
khi cần thiết để kiểm soát các triệu chứng của mình.
Kết quả:
Bệnh nhân cho biết các triệu chứng khó tiêu mãn tính, trào ngược, đau bụng và tiêu
chảy quá mức đã được cải thiện đáng kể nhờ can thiệp điều trị theo Trung y và liệu
pháp dược lý kết hợp, trong đó liều lượng thuốc của bà đã giảm.
Phần kết luận:
Sau khi điều trị bằng châm cứu, các triệu chứng chủ quan: khó tiêu mãn tính, trào
ngược, đau bụng và tiêu chảy nhiều đã được cải thiện. Trung dược giúp giảm ngay
chứng khó tiêu, trào ngược và đau bụng.
Trung Y có thể là một chiến lược trị liệu tiềm năng để kiểm soát các triệu chứng lâm
sàng của bệnh Crohn, nếu điều này được chứng minh là hữu ích trong các nghiên cứu
RCT trong tương lai.
Từ khóa: châm cứu, bệnh Crohn, Trung Y
1. Giới thiệu
Bệnh Crohn (CD) là một bệnh viêm hệ thống tái phát mãn tính ảnh hưởng đến hệ tiêu
hóa với tỷ lệ mắc bệnh cao.[1,2] Đây là một loại bệnh viêm ruột mạn tính (IBD) có
thể liên quan đến bất kỳ phần nào của đường tiêu hóa và nhiều vị trí ngồi ruột. .[3,4]
Các triệu chứng biểu hiện hay biến đổi và thường xuyên bao gồm đau bụng, sốt, tiêu
chảy phân có máu hoặc chất nhầy hoặc cả hai, buồn nôn, nôn và sụt cân.[2,5] Bệnh
Crohn có thể gây ra các biến chứng bao gồm tắc ruột non và ruột già, rò và áp xe
trong ổ bụng, bệnh quanh hậu môn.[3,6] Chất lượng cuộc sống thường bị ảnh
hưởng.[7]
Các mục tiêu điều trị hiện tại đối với bệnh Crohn là đem lại và duy trì sự thuyên giảm

bệnh mà không cần steroid, giảm nguy cơ biến chứng và phẫu thuật, ngăn ngừa sự
tiến triển của bệnh và cải thiện chất lượng cuộc sống nói chung.[5,8,9] Quản lý bệnh


NNK dịch 23/8/2023

thường bằng liệu pháp dược lý . Việc lựa chọn thuốc phụ thuộc vào mức độ nghiêm
trọng của bệnh và đáp ứng với các liệu pháp điều trị trước đó. Các loại thuốc được sử
dụng phổ biến nhất trong bệnh Crohn là corticosteroid, thuốc ức chế miễn dịch
(thiopurine [azathioprine và mercaptopurine] và methotrexate), sinh phẩm (chống
TNF (yếu tố hoại tử khối u) [infliximab, adalimumab và certolizumab pegol] và các
phân tử chống bám dính (vedolizumab) [9] Mặc dù liệu pháp chống TNF dường như
là liệu pháp hiệu quả nhất, được sử dụng một mình hoặc kết hợp với bộ điều hịa miễn
dịch để tạo ra và duy trì sự thuyên giảm ở bệnh nhân mắc Crohn từ trung bình đến
nặng,[5] nhưng nó đã được chứng minh là làm tăng gấp đơi nguy cơ nhiễm trùng cơ
hội[5] 10] và có thể làm tăng nguy cơ ung thư hắc tố da.[11]
Hơn nữa, một thách thức lớn liên quan đến bệnh Corhn là khoảng sau 20 năm mắc
bệnh , 80% bệnh nhân sẽ cần phẫu thuật[5] và tỷ lệ tái phát trên lâm sàng sau 2 năm
phẫu thuật là khoảng 30%. Nhiều bệnh nhân vẫn cần điều trị bằng thuốc suốt đời
ngay cả sau khi phẫu thuật vì bệnh tái phát và chất lượng cuộc sống kém do gánh
nặng triệu chứng liên tục.[12] Vì phẫu thuật khơng thể chữa khỏi CD nên bệnh nhân
thường phải phẫu thuật nhiều lần trong đời khi xảy ra biến chứng hẹp và/hoặc rò
rỉ.[13] Tỷ lệ tái phát lâm sàng có thể là 30% trong vịng 2 năm sau phẫu
thuật.[3] Nhiều bệnh nhân vẫn cần điều trị bằng thuốc liên tục suốt đời ngay cả sau
khi phẫu thuật vì bệnh tái phát và chất lượng cuộc sống kém do gánh nặng bệnh tái
diễn.[5]
Châm cứu là liệu pháp chính được sử dụng trong Trung Y (TCM) và đã được sử dụng
rộng rãi cho các bệnh về đường tiêu hóa.[14] Các phát hiện từ các thử nghiệm ngẫu
nhiên có đối chứng cho thấy châm kết hợp với phương pháp cứu có thể giúp cải thiện
các triệu chứng bệnh Crohn và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Tuy nhiên, cho

đến nay, chưa có nghiên cứu nào báo cáo những cải thiện về hiệu quả khi coi châm
cứu là liệu pháp chính. Trường hợp hiện tại cung cấp cho các bác sĩ lâm sàng thêm
bằng chứng lâm sàng về việc sử dụng châm cứu như một chiến lược điều trị trong việc
kiểm soát căn bệnh tái phát dai dẳng này.
2.

Báo cáo trường hợp

Một phụ nữ 53 tuổi có tiền sử khó tiêu mãn tính, trào ngược, đau bụng và tiêu chảy
hơn 23 năm, và tiền sử bệnh Crohn hơn 21 năm đến phòng khám vào ngày 11 tháng
12 năm 2017. Trong lịch sử gia đình bà khơng có bệnh lý bất thường . Bà khơng có
tiền sử uống rượu và hút thuốc trước đây.
Bệnh nhân lần đầu tiên trải qua các triệu chứng tiêu chảy dai dẳng và đau bụng vào
năm 1994. Năm 1997, cơ trải qua xét nghiệm tồn diện bao gồm nuôi cấy phân, nội
soi dạ dày, nội soi đại tràng, sinh thiết ruột non và nhiều xét nghiệm máu, cuối cùng
xác nhận bệnh Crohn ruột non rất hoạt động và một mảng viêm ở đoạn cuối hồi tràng,


NNK dịch 23/8/2023

trĩ sờ thấy được, thiếu lactase và loét tá tràng nông. Điều trị triệt để các vết loét tá
tràng và chế độ ăn khơng có lactose khơng làm khác biệt triệu chứng của cô ấy. Số
lần đại tiện mỗi ngày là nhiều hơn 10 lần nếu không dùng thuốc và thường là 1 hoặc 2
lần vào ban đêm.
Bệnh Crohn được kiểm soát bằng liệu pháp dược lý: mesalazine (500 mg- 2 lần/24h ,
uống), prednisone (75 mg 1 lần/24h, uống để làm thuyên giảm (đợt cấp - ND) và 5 mg
1 lần/24h là liều duy trì liên tục) và azathioprine (50 mg - 2 lần/24h , uống). Mặc dù
thuốc đã giúp bệnh nhân trở lại làm việc và tiếp tục cuộc sống hàng ngày, nhưng tình
trạng này khơng được kiểm sốt tốt. Bà tiếp tục chịu đựng (ruột -ND) tắc nghẽn và có
các triệu chứng đau đớn, nôn mửa, khiến cô phải nhập viện thường xuyên. Vào năm

2005, cô đã phải phẫu thuật cắt bỏ ruột. Liệu pháp dược lý được tiếp tục sau phẫu
thuật và giúp duy trì sự thuyên giảm triệu chứng; tuy nhiên, bệnh nhân tiếp tục gặp tắc
nghẽn ( ruột - ND), kèm theo triệu chứng đau và nôn, diễn ra với tần suất hàng tháng.
Kết quả là vào năm 2013, bệnh nhân được cắt ruột lần thứ hai và sửa chữa các chỗ
hẹp.
Sau phẫu thuật vào năm 2013, liệu pháp dùng thuốc được tiếp tục để kiểm soát các
triệu chứng của bệnh nhân bằng mesalazine (500 mg- 2 lần/24h , uống), prednisone
(tăng lên 100 mg 1 lần/24h, uống để gây thuyên giảm (đợt cấp - ND) và 5 mg 1
lần/24h làm liều duy trì liên tục) và azathioprine (tăng lên 50 mg - 3 lần/24h , uống).
Do tác dụng phụ lâu dài của thuốc, prednisone đã bị ngừng vào tháng 5 năm 2017.
Bệnh nhân có biểu hiện khó tiêu mãn tính, trào ngược, đau bụng đặc trưng bởi cảm
giác nóng và tiêu chảy q mức khiến cơ khó chịu và giảm chất lượng cuộc sống hàng
ngày. Các triệu chứng là mãn tính và cũng trầm trọng hơn do căng thẳng. Cơ bị đau
bụng và tiêu chảy 5 đến 6 lần một ngày. Cô ấy tiếp tục được quản lý bằng liệu pháp
dược lý azathioprine (50 mg - 3 lần/24h , uống) và mesalazine (500 mg - 3 lần/24h ,
uống). Khi bắt đầu điều trị, ngồi việc dùng thuốc thơng thường hàng ngày, cơ ấy còn
dùng Mylanta (Infirst Healthcare Inc., Westport, CT) (magiê hydroxit 800 mg, nhôm
hydroxit khô 800 mg) và Gastro-Stop (Aspen Pharmacare Australia Pty Ltd, Victoria,
Australia) (loperamide hydrochloride 4 mg - 2 lần/24h , uống). Tuy nhiên, hiệu quả
điều trị còn kém; trào ngược và chứng khó tiêu khơng thể thun giảm, và chỉ giảm
thiểu ở bệnh tiêu chảy. Thuốc không thể cải thiện rõ rệt chuỗi triệu chứng của cô ấy
hoặc cải thiện chất lượng cuộc sống.
Bệnh nhân được điều trị châm cứu vào ngày 11 tháng 12 năm 2017. Bệnh nhân được
điều trị bằng châm cứu với tần suất xấp xỉ một lần mỗi tuần trong tổng số 21 buổi cho
đến ngày 5 tháng 11 năm 2018. Các huyệt đạo được chọn trong trường hợp này
thường được sử dụng để điều trị bệnh đường tiêu hóa và dạ dày- ruột. Bệnh nhân ở tư
thế nằm ngửa khi điều trị bằng châm cứu. Sau khi da tại chỗ đâm kim được khử trùng,
kim châm cứu đã tiệt trùng dùng một lần được đưa vào Khúc Tuyền (LV 8), Khúc



NNK dịch 23/8/2023

Trì (LI 11), Trung Quản (CV12), Khí Hải (CV6), Túc Tam Lý (ST36) và Tam
Âm Giao (SP6). ). Tất cả các điểm đều được châm hai bên ngoại trừ CV12, CV6 và
LV8 được châm ở bên trái. Đắc Khí (cảm giác nặng nề và đau âm ỉ của bệnh nhân do
kim tiêm) cần đạt được ở tất cả các huyệt. Kim được giữ lại trong 20 phút nữa mà
khơng cần kích thích thêm. Vào ngày 5 tháng 2 năm 2018, bệnh nhân được bắt đầu sử
dụng Trung dược là phương tễ dạng hạt Thống Tả Yếu Phương trong 2 tuần.
Trong q trình can thiệp, bệnh nhân khơng nhận được bất kỳ điều trị nào thêm từ bất
kỳ phòng khám hoặc bệnh viện nào khác. Ngoài việc điều trị bằng châm cứu, bà tiếp
tục dùng các loại thuốc thông thường như azathioprine (50 mg - 3 lần/24h , uống) và
mesalazine (500 mg - 3 lần/24h , uống), Mylanta (magie hydroxit 800 mg, nhôm
hydroxit khô 800 mg) và Gastro-Stop (loperamid hydrochloride). 4 mg - 2 lần/24h ,
uống).
Hiệu quả điều trị của phương pháp châm cứu là tích cực. Trong thời gian điều trị,
bệnh nhân thấy các triệu chứng của mình được cải thiện rõ rệt. Đến tháng 3/2018, các
triệu chứng của bệnh nhân đã được kiểm sốt tốt; Các đợt bùng phát tiêu chảy, khó
tiêu, trào ngược và đau bụng xảy ra lẻ tẻ và chỉ do các yếu tố liên quan đến chế độ ăn
uống. Từ tháng 3 năm 2018, bệnh nhân cho biết đã giảm Gastro-Stop từ 2 viên/ngày
xuống còn 1 viên, giảm đau bụng và tiêu chảy từ trung bình 5 đến 6 lần/ngày xuống
trung bình 3 lần/ngày. Cơ cho biết các triệu chứng của cơ khơng cịn trầm trọng hơn
trong thời gian căng thẳng. Cô tiếp tục được châm cứu hàng tháng từ ngày 13 tháng 8
năm 2018 cho đến ngày 5 tháng 11 năm 2018. Khi kết thúc thời gian điều trị, cô cho
biết tất cả các triệu chứng của mình đã khỏi 100%: khó tiêu mãn tính, trào
ngược, đau bụng và tiêu chảy.
Hơn nữa, hiệu quả điều trị của công thức Trung dược Thống Tả Yếu Phương (Tong
Xie Yao Fang) cũng rất tích cực. Bệnh nhân cho biết đã giảm ngay chứng khó tiêu,
trào ngược và đau bụng sau khi dùng phương thuốc. Cô tiếp tục chỉ dùng phương
thuốc khi cần thiết, bất cứ khi nào cô cảm thấy những cơn khó tiêu, trào ngược và đau
bụng bùng phát do các yếu tố liên quan đến chế độ ăn uống.

3. Thảo luận và kết luận
Chẩn đoán lâm sàng bệnh Crohn được thiết lập thơng qua việc tích hợp các triệu
chứng của bệnh nhân và kết quả X quang và nội soi. [2,9,14] Dấu hiệu bệnh lý có thể
giúp xác nhận chẩn đoán. Các dấu hiệu bệnh lý thường gặp bao gồm u hạt biểu mô,
tập hợp bạch huyết xuyên thành, dị sản tuyến môn vị, thâm nhiễm viêm khu trú mạn
tính, loang lổ, khơng liên tục và xun thành, và bảo tồn tế bào hình đài.[9] Các phát
hiện nội soi điển hình bao gồm viêm từng đoạn, loét áp tơ, loét dọc và , ngoằn
ngoèo.[9] Các kết quả xét nghiệm điển hình bao gồm tăng tiểu cầu, tăng protein giai
đoạn cấp tính (đặc biệt là protein phản ứng C) và thiếu máu.[9]


NNK dịch 23/8/2023

Sau khi chẩn đoán được thiết lập, việc điều trị bằng thuốc được xác định bởi kiểu
bệnh, hoạt động của bệnh, bệnh đi kèm và các đặc điểm cá nhân khác của bệnh nhân
và thuốc. Hoạt động của bệnh, sự nghiêm trọng, phạm vi và trạng thái cũng như sự
hiện diện của các biến chứng như hẹp hoặc rị được đánh giá bằng cách sử dụng hình
ảnh cắt ngang như chụp cắt lớp vi tính hoặc chụp cộng hưởng từ-chụp đường
ruột.[2,9] Bệnh nhân được phân loại kiểu bệnh theo Phân loại Montreal: viêm, hẹp và
rò.[2,9] Viêm trong bệnh Crohn được đặc trưng bởi tình trạng viêm đường tiêu hóa
mà khơng có bằng chứng về bệnh liên quan đến hẹp hoặc rị.[5] Kiêủ bệnh có hẹp
được đặc trưng bởi xơ hóa và hẹp lịng ống do viêm đường tiêu hóa.[5] Chỉ can thiệp
phẫu thuật mới có thể đảo ngược những thay đổi xơ hóa khi chúng xảy ra. Bệnh
Crohn có kiểu bệnh rị được đặc trưng bởi sự phát triển của lỗ rò hoặc đường rò do
viêm xuyên thành đang diễn ra.[5] Mức độ nghiêm trọng của bệnh được xác định bởi
sự kết hợp giữa ảnh hưởng của kiểu bệnh ở từng bệnh nhân, các biến chứng tích lũy
và phẫu thuật cắt bỏ, tình trạng khuyết tật do bệnh gây ra, gánh nặng viêm nhiễm của
bệnh và chiều hướng của bệnh.[9]
Hiện tại, khơng có phương pháp điều trị nào khắc phục được cơ sở di truyền cơ bản
của căn bệnh mãn tính này, vì vậy bệnh nhân bị bệnh Crohn cần được theo dõi liên tục

do nguy cơ bùng phát và biến chứng lâu dài.[2] Điều trị lâu dài được khuyến nghị cho
bệnh Crohn với mục tiêu đem lại và duy trì sự thuyên giảm trên lâm sàng và nội soi
mà không dùng steroid (chữa lành niêm mạc), để ngăn chặn quá trình phá hủy tiến
triển theo tự nhiên của bệnh dẫn đến suy ruột, ngăn chặn các biến chứng liên quan và
phẫu thuật, và để cải thiện chất lượng cuộc sống tổng thể của bệnh nhân.[2] Hình ảnh
cắt ngang được sử dụng trong quá trình theo dõi liên tục để đánh giá hoạt động của
bệnh, các biến chứng và đáp ứng của bệnh nhân với các liệu pháp. Nội soi đại tràng
được sử dụng để đánh giá quá trình lành niêm mạc, theo dõi hoạt động của bệnh thông
qua giám sát khối u đại trực tràng và để kiểm sốt các biến chứng, chẳng hạn như chít
hẹp.[9]
Chiến lược điều trị phổ biến nhất liên quan đến việc sử dụng chất tác dụng nhanh, tác
dụng ngắn hạn (tức là corticosteroid toàn thân hoặc thuốc chống TNF) để giúp giảm
triệu chứng nhanh chóng và kiểm sốt sự tiến triển của bệnh và đạt được sự duy trì lâu
dài bằng cách kết hợp với thiopurine. [2] Các loại thuốc thông thường hiện nay đều
gây ra tác dụng phụ; ưu tiên lâm sàng là đạt được sự cân bằng giữa hiệu quả với tác
dụng phụ và các biến chứng lâu dài của bệnh.
Corticosteroid toàn thân được sử dụng để làm thuyên giảm bệnh Crohn từ trung bình
đến nặng; tuy nhiên, các nghiên cứu đánh giá xác định rằng chúng không phải là chất
hiệu quả để duy trì [5,17,18] vì chúng làm tăng nguy cơ nhiễm trùng nghiêm trọng và
tử vong ở những bệnh nhân mắc bệnh Crohn từ trung bình đến nặng.[5] Hiện nay, liệu
pháp kháng TNF được coi là liệu pháp hiệu quả nhất đối với bệnh Crohn từ trung bình
đến nặng khi sử dụng đơn độc hoặc kết hợp với thuốc điều hòa miễn dịch để tạo ra và


NNK dịch 23/8/2023

duy trì sự thuyên giảm; tuy nhiên, thuốc có nguy cơ mắc bệnh ác tính và nhiễm trùng
nặng do ảnh hưởng của chúng lên hệ thống miễn dịch.[4] Thuốc ức chế miễn dịch
thiopurines (azathioprine và mercaptopurine) đã được Cochrane xem xét trong tài liệu
cho thấy không tốt hơn giả dược trong việc gây thuyên giảm hoặc cải thiện lâm sàng ở

bệnh Crohn đang hoạt động.[19,20] Trong khi mesalamine đã được sử dụng rộng rãi
trong quá khứ, hiện tại nó được khuyến cáo khơng nên sử dụng bởi Học viện Tiêu hóa
Hoa Kỳ và các hướng dẫn điều trị của Châu Âu,[21] và các nghiên cứu cho thấy nó
khơng hiệu quả trong việc đem lại hoặc duy trì sự thuyên giảm bệnh.[22]
Ustekinumab, một chất ức chế interleukin (IL)-12/IL-23, gần đây đã được phê duyệt
để sử dụng và đã được chứng minh là có hiệu quả tương đương với liệu pháp kháng
TNF trong việc đem lại và duy trì sự thuyên giảm ở bệnh Crohn từ trung bình đến
nặng.[23] Tuy nhiên, một nghiên cứu Thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng (RCT)
cho thấy khơng có sự cải thiện nào về khả năng chữa lành niêm mạc so với giả dược,
trong khi vẫn chưa có dữ liệu về chất lượng cuộc sống.[24] Ứng dụng lâm sàng lâu
dài của các phương pháp điều trị dược lý cơ bản hiện nay bị hạn chế do hiệu quả kém,
liên quan đến các tác dụng phụ đáng kể và khả năng tái phát sau khi giảm liều hoặc
ngừng thuốc.[16]
Do tính chất tái phát mãn tính và dai dẳng của Crohn và tác dụng phụ tiêu cực của
nhiều liệu pháp thông thường, nhiều bệnh nhân chuyển sang dùng y học bổ sung và
thay thế để kiểm soát các triệu chứng của họ. Châm cứu trị liệu là một phương pháp y
học bổ sung và thay thế đã được chứng minh là có hiệu quả trong điều trị các cơn đau
và rối loạn tiêu hóa khác nhau.[25] Ngày càng có nhiều mối quan tâm lâm sàng về
điều trị châm cứu cho viêm ruột và các nghiên cứu trên động vật đã chỉ ra rằng liệu
pháp châm kết hợp với phương pháp cứu có thể kiểm sốt hiệu quả tình trạng viêm
ruột bằng cách điều chỉnh đa mục tiêu cho sự cân bằng sinh lý của cơ thể.[26] Trong
khi các nghiên cứu RCT [15,27] cho thấy bằng chứng về châm và cứu trong việc cải
thiện điểm hoạt động của bệnh viêm ruột (trong Crohn hoạt động và viêm loét đại
tràng), chúng không chứng minh được sự cải thiện về chất lượng cuộc sống hoặc điểm
triệu chứng thông qua biện pháp này. Nghiên cứu RCT cho thấy châm cứu mang lại
lợi ích điều trị bổ sung ở những bệnh nhân có Crohn hoạt động nhẹ đến trung bình,
ngồi tác dụng giả dược.[15] Một đánh giá có hệ thống và phân tích tổng hợp 43 RCT
[28] đã kết luận rằng liệu pháp châm và cứu chứng minh hiệu quả tốt hơn so với
sulfasalazine đường uống trong điều trị viêm ruột. Châm kết hợp với cứu có thể có lợi
cho việc điều trị viêm ruột, đặc biệt là Crohn; tuy nhiên, tác dụng của nó chưa được

nghiên cứu chính thức như một liệu pháp độc lập trong việc kết hợp với can thiệp
bằng thuốc.
Kết quả tích cực trong điều trị Crohn tái phát và khó chữa bằng cách sử dụng châm
cứu kết hợp với các thuốc dược lý chăm sóc tiêu chuẩn trong trường hợp này là bằng
chứng độc đáo lần đầu tiên được đưa vào nghiên cứu y học. Trường hợp này chứng


NNK dịch 23/8/2023

minh rằng châm cứu đã thành công trong việc điều trị các triệu chứng dai dẳng của
bệnh Crohn (khó tiêu mãn tính, trào ngược, đau bụng và tiêu chảy quá mức), bệnh tái
phát liên tục trong 23 năm và không được điều trị thành công bằng cách chăm sóc tiêu
chuẩn. Châm cứu khơng chỉ giúp giải quyết hồn tồn các triệu chứng mà cịn giúp
giảm liều lượng các loại thuốc dược lý chăm sóc tiêu chuẩn (tên thuốc) đồng thời đạt
được kết quả lâm sàng tốt và cải thiện chất lượng cuộc sống ở các bệnh cụ thể như
Crohn, viêm loét đại tràng, [27] hội chứng ruột kích thích ,[29] và chứng khó tiêu
chức năng.[30] Theo lý thuyết của Đông y, tỳ hư và đàm thấp là dạng bệnh Crohn phổ
biến, thường kèm theo các triệu chứng Thận hư Can uất.[16] Trong trường hợp này,
chúng tôi đã sử dụng các huyệt Khúc Tuyền (LV 8), Khúc Trì (LI 11), Trung Quản
(CV12), Khí Hải (CV6), Túc Tam Lý (ST36), và Tam Âm Giao (SP6) và Trung
dược cho mơ hình này để kiểm soát các triệu chứng .
Bệnh Crohn thường gặp trên lâm sàng. Điều trị bằng thuốc là phương pháp điều trị
chính, trong khi phẫu thuật là cần thiết để giải quyết các biến chứng. Tuy nhiên, một
số trường hợp Crohn khơng được kiểm sốt tốt bằng phương pháp điều trị bằng thuốc
và phẫu thuật. Qua trường hợp này, Đông y đã được sử dụng kết hợp với điều trị bằng
thuốc và đạt được kết quả khả quan. Đông Y là một chiến lược điều trị tiềm năng để
kiểm sốt các triệu chứng lâm sàng của Crohn.

Sự nhìn nhận
Các tác giả cảm ơn tất cả mọi người đã đóng góp cho nghiên cứu này.

Đi đến:
Sự đóng góp của tác giả
Giám sát: Xiaoshu Zhu.
Viết – bản thảo gốc: Hezheng Lai.
Viết – nhận xét & chỉnh sửa: Kang Wang, Qing Dong, Xiaoke Li, Shuo Qi
Shuo Qi orcid: 0000-0001-7559-4606.


NNK dịch 23/8/2023

Tài liệu tham khảo
[1] Akobeng AK, Zhang D, Gordon M, et al. Enteral nutrition for maintenance of
remission in Crohn's disease. Cochrane Database Syst Rev 2018;8:CD005984. [PMC
free article] [PubMed] [Google Scholar]
[2] Baumgart DC, Sandborn WJ. Crohn's disease. Lancet 2012;380:1590–605.
[PubMed] [Google Scholar]
[3] Parker CE, Nguyen TM, Segal D, et al. Low dose naltrexone for induction of
remission in Crohn's disease. Cochrane Database Syst Rev 2018;4:CD010410. [PMC
free article] [PubMed] [Google Scholar]
[4] Sanghamitra MM. Integrative therapies and pediatric inflammatory bowel
disease: the current evidence. Children (Basel) 2014;1:149–65. [PMC free
article] [PubMed] [Google Scholar]
[5] Feuerstein JD, Cheifetz AS. Crohn disease: epidemiology, diagnosis, and
management. Mayo Clin Proc 2017;92:1088–103. [PubMed] [Google Scholar]
[6] Baumgart DC, Sandborn WJ. Inflammatory bowel disease: clinical aspects and
established and evolving therapies. Lancet 2007;369:1641–57. [PubMed] [Google
Scholar]
[7] Hommes D, Colombel JF, Emery P, et al. Changing Crohn's disease management:
need for new goals and indices to prevent disability and improve quality of life. J
Crohns Colitis 2012;6Suppl 2:S224–34. [PubMed] [Google Scholar]

[8] Chunhui B, Di W, Peng L, et al. Effect of electro-acupuncture and moxibustion on
brain connectivity in patients with Crohn's disease: a resting-state fMRI study. Front
Hum Neurosci 2017;11:559. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
[9] Torres J, Mehandru S, Colombel JF, Peyrin-Biroulet L. Crohn's
disease. Lancet 2017;389:1741–55. [PubMed] [Google Scholar]
[10] Ford AC, Peyrin-Biroulet L. Opportunistic infections with anti-tumor necrosis
factor-α therapy in inflammatory bowel disease: meta-analysis of randomized
controlled trials. Am J Gastroenterol 2013;108:1268–75. [PubMed] [Google Scholar]
[11] Longo DL, Beaugerie L, Itzkowitz SH. Cancers complicating inflammatory bowel
disease. N Engl J Med 2015;372:1441–52. [PubMed] [Google Scholar]
[12] Bouguen G, Peyrin-Biroulet L. Surgery for adult Crohn's disease: what is the
actual risk? Gut 2011;60:1178–81. [PubMed] [Google Scholar]
[13] Bernstein CN, Loftus EV, Ng SC, et al. Epidemiology and Natural History Task
Force of the International Organization for the Study of Inflammatory Bowel Disease


NNK dịch 23/8/2023

(IOIBD). Hospitalisations and surgery in Crohn's disease. Gut 2012;61:622–9.
[PubMed] [Google Scholar]
[14] Cheifetz AS, Gianotti R, Luber R, Gibson PR. Complementary and alternative
medicines used by patients with inflammatory bowel
diseases. Gastroenterology 2017;152:415.e15–29.e15. [PubMed] [Google Scholar]
[15] Joos S, Brinkhaus B, Maluche C, et al. Acupuncture and moxibustion in the
treatment of active Crohn's disease: a randomized controlled
study. Digestion 2004;69:131–9. [PubMed] [Google Scholar]
[16] Bao CH, Zhao JM, Liu HR, et al. Randomized controlled trial: moxibustion and
acupuncture for the treatment of Crohn's disease. World J
Gastroenterol 2014;20:11000–11. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
[17] Steinhart AH, Ewe K, Griffiths AM, et al. Corticosteroids for maintenance of

remission in Crohn's disease. Cochrane Database Syst Rev 2003;CD000301.
[PubMed] [Google Scholar]
[18] Rutgeerts PJ. The limitations of corticosteroid therapy in Crohn's disease. In.
Vol 15. Oxford UK 2001:1515–1525 [PubMed] [Google Scholar]
[19] Patel V, Wang Y, Macdonald JK, et al. Methotrexate for maintenance of
remission in Crohn's disease. Cochrane Database Syst
Rev 2014;2014:CD006884. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
[20] Chande N, Townsend CM, Parker CE, et al. Azathioprine or 6-mercaptopurine
for induction of remission in Crohn's disease. Cochrane Database Syst
Rev 2016;10:CD000545. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
[21] Cheifetz AS. Management of active Crohn disease. JAMA 2013;309:2150–
8. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
[22] Lichtenstein GR, Hanauer SB, Sandborn WJ. Practice Parameters Committee of
American College of Gastroenterology. Management of Crohn's disease in adults. Am
J Gastroenterol 2009;104:465–83. [PubMed] [Google Scholar]
[23] Sandborn WJ, Gasink C, Gao LL, et al. CERTIFI Study Group. Ustekinumab
induction and maintenance therapy in refractory Crohn's disease. N Engl J
Med 2012;367:1519–28. [PubMed] [Google Scholar]
[24] Simon EG, Ghosh S, Iacucci M, Moran GW. Ustekinumab for the treatment of
Crohn's disease: can it find its niche? Therap Adv Gastroenterol 2016;9:26–36. [PMC
free article] [PubMed] [Google Scholar]
[25] Garcia MK, McQuade J, Haddad R, et al. Systematic review of acupuncture in
cancer care: a synthesis of the evidence. J Clin Oncol 2013;31:952–60. [PMC free
article] [PubMed] [Google Scholar]


NNK dịch 23/8/2023

[26] Wu HG, Zhang BM, An GQ. Herb-partitioned moxibustion modulates ulcerative
colitis fibrosis TGF-β and its receptorsin rats. J Jiangxi College Trad Chinese

Med 2003;15:39–42. [Google Scholar]
[27] Joos S, Wildau N, Kohnen R, et al. Acupuncture and moxibustion in the
treatment of ulcerative colitis: a randomized controlled study. Scand J
Gastroenterol 2006;41:1056–63. [PubMed] [Google Scholar]
[28] Ji J, Lu Y, Liu H, et al. Acupuncture and moxibustion for inflammatory bowel
diseases: a systematic review and meta-analysis of randomized controlled
trials. Evid Based Complement Alternat Med 2013;2013:158352. [PMC free
article] [PubMed] [Google Scholar]
[29] Park JW, Lee BH, Lee H. Moxibustion in the management of irritable bowel
syndrome: systematic review and meta-analysis. BMC Complement Altern
Med 2013;13:247. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
[30] Ma TT, Yu SY, Li Y, et al. Randomised clinical trial: an assessment of
acupuncture on specific meridian or specific acupoint vs. sham acupuncture for
treating functional dyspepsia. Aliment Pharmacol Ther 2012;35:552–61.
[PubMed] [Google Scholar]



×