Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Các giải pháp nhằm thúc đẩy năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.97 KB, 40 trang )

MỤC LỤC
1.1. Khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng của năng lực cạnh tranh 2
1.1.1. Các khái niệm 2
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 3
1.1.2.1. Nhóm nhân tố thuộc môi trường vĩ mô 3
1.1.2.2. Nhóm nhân tố thuộc môi trường ngành 5
1.1.2.3. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp 6
1.2. Công cụ và phương thức cạnh tranh của doanh nghiệp 8
1.2.1. Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp 8
1.2.2. Phương thức cạnh tranh của doanh nghiệp 9
1.3. Một số tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 10
1.3.1. Danh tiếng và thương hiệu 10
1.3.1. Danh tiếng và thương hiệu 10
1.3.2. Thị phần và khả năng chiếm lĩnh thị trường 11
1.3.2. Thị phần và khả năng chiếm lĩnh thị trường 11
1.3.3. Hiệu quả sản xuất kinh doanh 11
1.3.3. Hiệu quả sản xuất kinh doanh 11
1.3.4. Trách nhiệm xã hội: 12
1.3.4. Trách nhiệm xã hội: 12
2.1. Phân tích năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam 13
2.1.1. Công cụ cạnh tranh của DNNN Việt Nam 14
2.1.2. Phương thức cạnh tranh của DNNN Việt Nam 16
2.2. Đánh giá năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam 20
2.2.1. Những ưu thế 20
2.2.1.1. Đóng góp của DNNN Việt Nam 20
2.2.1.2. Danh tiếng của DNNN 21
2.2.1.3. Khả năng thích ứng của DNNN 21
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân 24
2.2.2.1. Những hạn chế 24
2.2.2.2. Nguyên nhân 25
3.1. Bối cảnh kinh tế mới và định hướng tiếp tục thúc đẩy năng lực cạnh tranh của DNNN


Việt Nam 28
3.1.1. Bối cảnh kinh tế mới 28
3.1.2. Định hướng 31
3.2. Một số giải pháp nhằm tiếp tục thúc đẩy năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam 32
3.2.1. Về phía nhà nước: 32
3.2.2. Về phía DNNN: 33
LỜI MỞ ĐẦU
DNNN Việt Nam đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế nước ta.
DNNN đang nắm giữ một số ngành, lĩnh vực then chốt, hệ thống cơ sở vật chất kỹ
thuật quan trọng nhất cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nắm toàn bộ hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, có tính huyết mạch. Hầu hết các doanh nghiệp lớn
1
là các doanh nghiệp trong các ngành xây dựng, điện tử, hóa chất, thông tin liên lạc,
vận tải đường sắt, sản xuất công nghệ tiêu dùng…nắm giữ một tỷ lệ quan trọng trong
những ngành kinh doanh dịch vụ, thương mại nhập khẩu chiếm thị phần áp đảo trong
huy động vốn và cho vay.
Với vai trò quan trọng như vậy thì DNNN Việt Nam phải có biện pháp nhằm thúc
đẩy năng lực cạnh tranh. Biện pháp quan trọng nhất là DNNN phải quản trị doanh
nghiệp theo hướng hiện đại. Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải cân nhắc kỹ khi lựa chọn
chính sách ưu đãi, hỗ trợ dưới dạng bao cấp hoặc bảo hộ, phải điều chỉnh và sớm hoàn
thiện hệ thống pháp luật để môi trường cạnh tranh trở nên bình đẳng. Hơn thế nữa,
Nhà nước phải xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi ở các tập đoàn, các tổng công ty Nhà
nước để quản lý DNNN ngày một vững mạnh.
Thực tế hiện nay cho thấy năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam còn chưa
cao bởi rất nhiều nguyên nhân. Vì vậy, việc tiếp tục thúc đẩy năng lực cạnh tranh của
DNNN Việt Nam trong bối cảnh hiện nay mang một ý nghĩa hết sức quan trọng về mặt
lý luận và thực tiễn. Trên ý nghĩa ấy, em chọn vấn đề:“Các giải pháp nhằm thúc đẩy
năng lực cạnh tranh của DNNN tại Việt Nam” làm đề tài khóa luận của mình.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là bước đầu vận dụng những lý luận về năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp vào việc phân tích, đánh giá năng lực cạnh tranh của

DNNN Việt Nam.
Bố cục của đề tài, ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo thì đề tài
được chia thành 3 chương:
Chương 1: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và giải pháp tiếp tục thúc đẩy năng lực cạnh tranh của
DNNN Việt Nam.
CHƯƠNG 1. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng của năng lực cạnh tranh
1.1.1. Các khái niệm

Cạnh tranh
Cạnh tranh là sự tranh đua giữa những cá nhân, tập thể, đơn vị kinh tế có
2
chức năng như nhau thông qua các hành động, nỗ lực và các biện pháp để
giành phần thắng trong cuộc đua, để thỏa mãn các mục tiêu của mình. Các
mục tiêu này có thể là thị phần, lợi nhuận, hiệu quả, an toàn, danh tiếng….Mục
đích của cạnh tranh là giành điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ.

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Theo diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) báo cáo về khả năng cạnh tranh
toàn cầu vào năm 1997 thì năng lực cạnh tranh được hiểu là khả năng, năng lực
mà doanh nghiệp có thể duy trì vị trí của nó một cách lâu dài và có ý chí trên thị
trường cạnh tranh, bảo đảm thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi
hỏi tài trợ những mục tiêu của doanh nghiệp, đồng thời đạt được những mục
tiêu của doanh nghiệp đặt ra.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: là khả năng duy trì và mở
rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh
trong và ngoài nước. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp, lợi nhuận và thị phần mà doanh nghiệp đó có

được. Định nghĩa đó cho thấy, một doanh nghiệp được coi là có năng lực cạnh
tranh khi doanh nghiệp đó dám chấp nhận cạnh tranh, chấp nhận sự tồn tại của
đối thủ cạnh tranh, chấp nhận việc giành những điều kiện thuận tiện có lợi cho
chính doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phải có tiềm lực đủ mạnh để có thể đảm
bảo đứng vững trong cạnh tranh.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1.2.1. Nhóm nhân tố thuộc môi trường vĩ mô
 Kinh tế.
Môi trường kinh tế bao gồm các chính sách phát triển kinh tế, chính sách
thương mại, chính sách cạnh tranh, chính sách đầu tư, chính sách hợp tác với
nước ngoài,…Các chính sách và biện pháp kinh tế như vậy nhằm khuyến khích
hay hạn chế, ưu tiên hay kìm hãm sự phát triển của từng ngành cụ thể, do đó ảnh
hưởng tới năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp thuộc các ngành đó.
Bên cạnh đó, sự phát triển của nền kinh tế được thể hiện thông qua GDP.
Do đó, khi GDP đạt mức cao tức là nền kinh tế đang phát triển theo xu thế tích
3
cực làm tăng thu nhập cũng như khả năng thanh toán của người dân sẽ tăng lên.
Ngoài ra, nền kinh tế diễn ra theo xu thế tích cực còn thể hiện ở các chỉ số lạm
phát thấp, thuế không tăng, giá cả ổn định. Đây chính là cơ hội tốt cho các
doanh nghiệp phát triển. Doanh nghiệp nào có khả năng nắm bắt được những cơ
hội này thì sẽ thành công và khả năng cạnh tranh cũng sẽ tăng lên.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế diễn ra theo xu thế tiêu cực, lạm phát tăng cao,
giá tăng, sức mua của người dân giảm sút lại làm giảm khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.
 Chính trị, luật pháp.
Sự ổn định chính trị xã hội, chính sách điều tiết vĩ mô kinh tế của nhà
nước, sự rõ ràng của hệ thống luật pháp có tác động lớn tới môi trường kinh
doanh của doanh nghiệp. Sự ổn định chính trị đem lại sự lành mạnh hóa xã hội,
sự ổn định kinh tế. Hệ thống luật pháp rõ ràng đã tạo ra một hành lang thông
thoáng, bảo đảm sự bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và

cạnh tranh có hiệu quả. Qua đó, một mặt tạo thuận lợi cho mọi doanh nghiệp
kinh doanh, mặt khác doanh nghiệp dựa vào đó mà điều chỉnh hoạt động của
mình để hài hòa lợi ích của các doanh nghiệp khác trong xã hội và trên thương
trường quốc tế đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp của
mình với các doanh nghiệp của các nước khác. Việc chấp hành luật pháp nghiêm
minh của các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp sẽ đưa lại hiệu quả kinh
doanh tốt. Ngược lại nếu việc thực thi pháp luật không nghiêm minh, thiếu trong
sáng thì tất sẽ dẫn doanh nghiệp vào con đường bất chính như là trốn thuế, gian
lận thuế hay sản xuất kinh doanh hàng giả, hàng nhái, gian lận thương mại…
Trong môi trường pháp lý không lành mạnh, nhiều khi năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp không được đánh giá đúng thực chất của nó. Điều này sẽ dẫn tới
thiệt hại kinh tế lớn và rối loạn trật tự xã hội.
 Văn hóa, xã hội.
Ở mỗi vùng khác nhau sẽ tạo ra những thuận lợi hoặc khó khăn cho doanh
nghiệp trong cạnh tranh là khác nhau do văn hóa xã hội của từng vùng là khác
nhau. Giá trị văn hóa phái sinh, lối sống, thị hiếu,…có tác động một cách gián
4
tiếp tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua khách hàng và cơ cấu
nhu cầu thị trường.
 Vấn đề khoa học, công nghệ và thông tin.
Khoa học, công nghệ là nền tảng của cơ sở vật chất kỹ thuận hiện đại của
nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như của từng doanh nghiệp. Đây là tiền đề
để các doanh nghiệp ổn định, thúc đẩy khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Khoa học và công nghệ cũng có tác động trực tiếp đến doanh nghiệp bằng cách
cung cấp những phương tiện và công nghệ tiên tiến nhằm tạo ra sản phẩm mới,
thúc đẩy hiệu quả hoạt động, giảm chi phí sản xuất. Thông tin cũng có vai trò vô
cùng quan trọng trong việc thúc đẩy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Để
cạnh tranh thành công, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần phải có thông tin về
thị trường, về đối thủ cạnh tranh và biết cách xử lý có hiệu quả những thông tin
thu nhập được. Khoa học và công nghệ hiện đại chính là phương tiện giúp cho

doanh nghiệp thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền đạt thông tin một cách nhanh
nhất, chính xác nhất.
1.1.2.2. Nhóm nhân tố thuộc môi trường ngành
 Sự đe dọa của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành:
Mức độ cạnh tranh trong ngành phụ thuộc vào tốc độ phát triển ngành, sự khác
biệt của sản phẩm, chi phí chuyển đổi…Trong trường hợp rào cản rút lui lớn,
hoặt nhiều đối thủ cạnh tranh có lực lượng cân bằng, hoặc nhiều đối thủ cạnh
tranh mạnh, các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc khai thác năng lực
cạnh tranh của mình.
 Nguy cơ nhập cuộc của những đối thủ cạnh tranh mới:
Tính hấp dẫn của ngành tùy thuộc vào rào cản gia nhập và rút lui khỏi thị
trường. Các rào cản đó có thể là: lợi thế kinh tế của quy mô, khác biệt của sản
phẩm, yêu cầu về đầu tư, chi phí chuyển đổi, khả năng thâm nhập hệ thống phân
phối, và các điều kiện khác như vị trí, vùng nguyên liệu, sự tác động của chính
phủ.
 Mối đe dọa từ sản phẩm thay thế:
5
Mức độ đe dọa này phụ thuộc vào giá của sản phẩm thay thế trong mối liên hệ
với giá sản phẩm của ngành, chi phí chuyển đổi, mức độ và xu hướng của người
mua muốn chuyển sang sản phẩm thay thế.
 Quyền lực của người mua:
Quyền lực của người mua lớn khi chi phí mua sản phẩm chiếm một phần nhỏ
trong chi phí của người mua, sản phẩm không có sự khác biệt, chi phí chuyển
đổi thấp, có thể hợp nhất ngược chiều…Khi quyền lực của người mua lớn, họ sẽ
gâp áp lực đối với các doanh nghiệp, do đó nó sẽ tạo ra sự cạnh tranh gay gắt
giữa các doanh nghiệp.
 Quyền lực của người cung ứng:
Phụ thuộc vào số lượng, tầm quan trọng của ngành đối với các nhà cung ứng,
tầm quan trọng của sản phẩm của nhà cung ứng đối với người mua, sự khác biệt
trong cung ứng và chi phí chuyển đổi sang nhà cung ứng khác.

1.1.2.3. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp, các yếu tố như vốn, công nghệ, nhân lực, nguyên liệu
đầu vào, cơ sở vật chất kỹ thuật, khả năng quản lý, hoạt động marketing, hoạt
động tài chính…có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
Các yếu tố này thể hiện nội lực của doanh nghiệp và các yếu tố này có ảnh
hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
 Vốn của doanh nghiệp:
Nếu doanh nghiệp có lượng vốn lớn thì quá trình từ đầu tư cho xây dựng
các cơ sở vật chất kỹ thuật đến thiết lập hệ thống phân phối, hệ thống các của
hàng hóa phòng trưng bày, giới thiệu sản phẩm sẽ mang tính chuyên nghiệp hơn.
Doanh nghiệp muốn chiếm lĩnh vị trí dẫn đầu thị trường, tăng thị phần, mở rộng
quy mô sản xuất thì doanh nghiệp cần có lượng vốn lớn. Nói theo cách khác,
nếu doanh nghiệp càng lớn mạnh, lượng vốn càng lớn thì doanh nghiệp càng có
nhiều cơ hội kinh doanh có hiệu quả và thúc đẩy năng lực cạnh tranh.
 Nguồn nhân lực của doanh nghiệp:
Doanh nghiệp nào có nguồn nhân lực có chất lượng cao thì doanh nghiệp đó có
khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đội ngũ công nhân lành nghề, có tay nghề
6
cao sẽ tạo ra được sản phẩm có chất lượng cao, tăng năng suất lao động. Đội ngũ
cán bộ quản lý có năng lực, đưa ra các quyết định đúng đắn và đúng thời điểm
có ý nghĩa vô cũng quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt hiện nay, sự khác biệt hóa về nguồn nhân lực
là vũ khí cạnh tranh hữu hiệu nhất cho các doanh nghiệp.
 Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp:
Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại kết hợp với công nghệ tiên tiến sẽ làm tăng khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Với cơ sở vật chất kỹ thuật như vậy thì
doanh nghiệp có khả năng sản xuất được nhiều sản phẩm có chất lượng cao,
thúc đẩy hiệu quả sản xuất. Ngược lại, doanh nghiệp sẽ không thể có được khả
năng cạnh tranh nếu doanh nghiệp đó có công nghệ sản xuất lạc hậu, máy móc
thiết bị cũ bởi vì nó sẽ làm giảm chất lượng sản phẩm, tăng giá thành.

 Quản lý tài chính trong doanh nghiệp:
Tài chính là yếu tố quan trọng quyết định khả năng sản xuất cũng như là chi tiêu
hàng ngày để đánh giá quy mô của doanh nghiệp. Tiềm lực tài chính mạnh và
hoạt động quản lý tài chính có hiệu quả sẽ giúp doanh nghiệp khẳng định vị thế
của mình trên thị trường, mở rộng thị trường, tăng thị phần của doanh nghiệp.
 Hoạt động marketing:
Nền kinh tế phát triển, cạnh tranh ngày càng gay gắt thì ảnh hưởng của hoạt
động marketing đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ngày càng lớn. Khi
đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua hoạt động marketing,
người ta thường xem xét các yếu tố: khả năng thu thập thông tin thị trường, cơ
cấu sản phẩm hiện tại, khả năng mở rộng chủng loại sản phẩm, thương hiệu,
kênh phân phối, thiết lập và quản lý các mối quan hệ với khách hàng…Các hoạt
động marketing có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển thương
hiệu của doanh nghiệp. Thương hiệu mạnh sẽ tăng cường khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp.
 Tổ chức hoạt động tiêu thụ sản phẩm:
Hệ thống phân phối tốt, làm việc có hiệu quả sẽ góp phần tạo nên nền móng
vững chắc để phát triển thị trường, tăng lượng khách hàng, tăng thị phần. Tiêu
7
thụ sản phảm tốt sẽ giúp doanh nghiệp tăng doanh thu, lợi nhuận, giúp cho việc
thu hồi vốn và từ đó sẽ kích thích sản xuất phát triển.
Ngoài ra còn có các nhân tố khác như: Chiến lược kinh doanh, cơ cấu sản
phẩm của doanh nghiệp, sự đa dạng hóa sản phẩm, giá, chất lượng sản phẩm,
văn hóa doanh nghiệp, mức độ cập nhật công nghệ thông tin, dịch vụ hỗ trợ,
hoạt động nghiên cứu, thương hiệu…đều có tác động tới khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp. Việc phân tích các nhân tố bên trong doanh nghiệp sẽ giúp
doanh nghiệp đánh giá được điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp so với đối
thủ cạnh tranh, từ đó xác định được năng lực đặc thù hay chính là lợi thế cạnh
tranh của doanh nghiệp.
1.2. Công cụ và phương thức cạnh tranh của doanh nghiệp

1.2.1. Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp

Giá cả
Giá cả là công cụ cạnh tranh có hiệu quả, nó có vị trí đặc biệt quan trọng
trong hệ thống Marketing hỗn hợp của doanh nghiệp. Dù được gọi dưới nhiều
tên gọi khác nhau nhưng giá cả luôn thể hiện lợi ích giữa người mua và người
bán trong trao đổi. Đối với doanh nghiệp thì giá cả là yếu tố tác động trực tiếp
tới các chỉ tiêu như: doanh thu, lợi nhuận, thị phần…
Tuy nhiên, các quyết định về giá của doanh nghiệp không thể chỉ phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan mà cần cân nhắc và đánh giá kỹ lưỡng các yếu tố khác
như nhu cầu và mong muốn của khách hàng, đối thủ cạnh tranh, các quy định
của nhà nước…Doanh nghiệp sẽ phải đánh giá những ảnh hưởng có thể có của
các quyết định giá cạnh tranh của doanh nghiệp tới khả năng thực hiện các mục
tiêu trong dài hạn và cả hành vi của các đối thủ cạnh tranh. Đồng thời, doanh
nghiệp cũng phải đảm bảo mối liên hệ tác động qua lại giữa giá cả với các yếu tố
khác của hệ thống marketing hỗn hợp.
Trong hệ thống các công cụ marketing hỗn hợp mà doanh nghiệp có thể sử
dụng, giá cả có vai trò đặc biệt so với các yếu tố còn lại. Nhận thức đúng đắn vai
trò của giá cả và bản chất của cạnh tranh qua giá có ý nghĩa quan trọng đối với
8
việc sử dụng giá cả vào mục đích cạnh tranh của doanh nghiệp hoạt động trong
điều kiện cạnh tranh trên thị trường ngày càng gia tăng.

Chất lượng sản phẩm
Ngày nay, chất lượng sản phẩm đã trở thành một công cụ cạnh tranh quan
trọng của các doanh nghiệp trên thị trường. Chất lượng sản phẩm càng cao tức là
mức độ thỏa mãn nhu cầu càng cao, dẫn tới đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ, làm tăng
khả năng thắng thế trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong điều kiện này,
mức sống của người dân ngày càng thúc đẩy tức là nhu cầu có khả năng thanh
toán của người tiêu dùng tăng lên thì sự cạnh tranh bằng giá cả đã và sẽ có xu

hướng đổi vị trí cho sự cạnh tranh bằng chất lượng.

Dịch vụ chăm sóc khách hàng
Đây là một công cụ hữu hiệu để tạo ra sự khác biệt giữa doanh nghiệp và
các đối thủ cạnh tranh, là thế mạnh của doanh nghiệp. Nếu dịch vụ chăm sóc
khách hàng tốt, chu đáo thì doanh nghiệp có thể cạnh tranh với các doanh
nghiệp lớn hơn cho dù họ có sản phẩm đa dạng, chào giá thấp hơn và sử dụng
các hình thức khuyến mại khác mà doanh nghiệp không có khả năng làm như
họ.

Chương trình khuyến mại của doanh nghiệp
Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc
tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng
những lợi ích nhất định.
Doanh nghiệp có rất nhiều hình thức khuyến mại như: thử dùng hàng mẫu
miễn phí, tặng quà, giảm giá, tặng phiếu mua hàng…
1.2.2. Phương thức cạnh tranh của doanh nghiệp
Hợp tác, liên kết, hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành phần kinh tế các doanh
nghiệp là đòi hỏi khách quan của hoạt động kinh tế xã hội, hơn nữa còn là điều
kiện hàng đầu để tăng cường sức cạnh tranh thị trường của mỗi doanh nghiệp
cũng như là toàn bộ nền kinh tế trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế.
9
Cùng với sự cạnh tranh thị trường lành mạnh, quá trình hợp tác, liên kết và
hỗ trợ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp còn cho phép thúc đẩy hiệu quả kinh tế
theo nguyên lý đôi bên cùng có lợi.
Sự hợp tác, liên kết được doanh nghiệp thực hiện dưới nhiều hình thức:
- Thứ nhất, góp vốn cùng kinh doanh theo hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Thứ hai, tái cơ cấu về tổ chức doanh nghiệp tạo ra các tập đoàn kinh
doanh, các công ty mẹ - con, các hình thức nhận thầu gia công, đại lý, chi nhánh
hoặc đơn giản hơn là phân công sản xuất – kinh doanh theo công đoạn, sản

phẩm trung gian của một quy trình công nghệ khép kín hoặc trong chu trình tái
sản xuất xã hội. Trong cơ cấu này, mỗi thành phần kinh tế có thể giữ nguyên
100% vốn, tính chất sở hữu hay có thể có sự đầu tư xâm nhập lẫn nhau.
- Thứ ba, tổ chức phân chia thị trường, phối hợp vận chuyển cung cấp sản
phẩm theo những nguyên tắc thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật.
- Thứ tư, tổ chức hỗ trợ nhau trong đào tạo, bao tiêu sản phẩm hay cung
ứng bán thành phẩm và các nguyên vật liệu đầu vào.
- Thứ năm, phối hợp, huy động hoặc tham khảo kinh nghiệm tổ chức các
hiệp hội, đoàn thể nghề nghiệp trong các doanh nghiệp thuộc thành phần, lĩnh
vực kinh tế mình hoặc chung cho tất cả các thành phần kinh tế.
1.3. Một số tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.3.1. Danh tiếng và thương hiệu
Uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp được phản ánh chủ yếu ở văn hóa
doanh nghiệp, bao gồm: sản phẩm, văn hóa ứng xử, hoàn thành nghĩa vụ đối với
Nhà nước, hoạt động từ thiện, kinh doanh minh bạch…Đối với những nhãn hiệu
lâu đời, có uy tín cao thì doanh nghiệp phải thường xuyên chăm lo cho chất
lượng, thường xuyên đổi mới, tạo sự khác biệt về chất lượng và phong cách
cung cấp sản phẩm.
Danh tiếng và thương hiệu chính là những giá trị vô hình của doanh nghiệp.
Giá trị vô hình này có được là do quá trình phấn đấu bền bỉ theo định hướng và
chiến lược phát triển của doanh nghiệp được xã hội, cộng đồng trong và ngoài
nước biết đến.
10
Một vấn đề quan trọng liên quan đến thúc đẩy danh tiếng của doanh nghiệp
là khả năng doanh nghiệp phát triển thành công các thương hiệu mạnh. Nếu sản
phẩm của doanh nghiệp có thương hiệu mạnh sẽ kích thích người mua nhanh
chóng đi đến quyết định mua, nhờ đó mà thị phần của doanh nghiệp tăng lên
đáng kể. Nhưng đánh giá thương hiệu của doanh nghiệp không chỉ ở số lượng
các thương hiệu mạnh hiện có mà quan trọng phải đánh giá được khả năng phát
triển thương hiệu của doanh nghiệp. Khả năng đó cho thấy sự thành công tiềm

tàng của doanh nghiệp trong tương lai. Nếu doanh nghiệp có khả năng phát triển
thương hiệu thành công thì các sản phẩm mới trong tương lai sẽ có khả năng
thành công lớn hơn trên thương trường.
1.3.2. Thị phần và khả năng chiếm lĩnh thị trường
Thị phần và khả năng chiếm lĩnh thị trường là tiêu chí quan trọng trong việc
đánh giá năng lực cạnh tranh. Thị phần là thị trường mà doanh nghiệp bán được
sản phẩm của mình một cách thường xuyên và có xu hướng phát triển. Thị phần
càng lớn càng chứng tỏ sản phẩm của doanh nghiệp được khách hàng, người
tiêu dùng ưa chuộng, năng lực cạnh tranh cao nên doanh nghiệp hoàn toàn có
thể chiếm lĩnh thị trường. Để phát triển thị phần, ngoài chất lượng, giá cả, doanh
nghiệp còn phải tiến hành công tác xúc tiến thương mại, tổ chức các dịch vụ đi
kèm, cung cấp sản phẩm kịp thời, thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp. Như
vậy, ta thấy rằng thị phần là một tiêu chí quan trọng đánh giá năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
1.3.3. Hiệu quả sản xuất kinh doanh

Năng suất lao động của doanh nghiệp
Năng suất lao động là chỉ tiêu tổng hợp của mọi yếu tố: con người, công
nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật, tổ chức phối hợp…Năng suất của máy móc, thiết
bị, công nghệ được đo bằng lượng sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian.
Ngoài ra, năng suất lao động còn được đo bằng lượng sản phẩm đảm bảo chất
lượng trên một đơn vị lao động. Năng suất này có thể tính bằng hiện vật hoặc
bằng giá trị theo công thức:
Năng = Đầu ra (hàng hóa và dịch vụ)
11
suất
Đầu vào (lao động, vốn, công nghệ…)
Năng suất lao động của một doanh nghiệp càng cao bao nhiêu thì năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao bấy nhiêu với các doanh nghiệp cùng
loại. Có năng suất cao là nhờ tổ chức sản xuất kinh doanh tốt, sử dụng tối ưu các

nguồn lực, giảm tối đa các chi phí. Vì vậy, năng suất là tiêu chí quan trọng để
xem xét, đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là yếu tố cấu thành quan trọng hàng đầu của năng lực
cạnh tranh của sản phẩm mà năng lực cạnh tranh của sản phẩm lại là yếu tố cấu
thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp kinh doanh
10 mặt hàng đều không có năng lực cạnh tranh thì chắc chắn doanh nghiệp đó
không thể có năng lực cạnh tranh. Tiêu chí chất lượng sản phẩm được chia thành
4 nhóm chỉ tiêu là: nhóm chỉ tiêu thẩm mỹ, nhóm an toàn - vệ sinh, nhóm kỹ
thuật và nhóm kinh tế. Doanh nghiệp nào có cùng sản phẩm đạt mức chất lượng
tốt nhất, doanh nghiệp đó sẽ có năng lực cạnh tranh cao nhất.
1.3.4. Trách nhiệm xã hội:

Tham gia bảo vệ môi trường
Đây là vấn đề nóng hổi, cấp bách và mang tính toàn cầu. Thế giới đánh giá
cao tiêu chí này đối với các doanh nghiệp. Để có năng lực cạnh tranh cao, sản
phẩm làm ra không được gây ô nhiễm môi trường bao gồm ô nhiễm không khí,
ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm sự yên tĩnh. Các sản phẩm của doanh nghiệp
phải có chứng chỉ an toàn môi trường theo ISO.14000 hoặc theo tiêu chuẩn khu
vực hoặc tiêu chuẩn Việt Nam. Việc đánh giá tiêu chí này phức tạp vì nó bao
hàm nhiều chỉ tiêu mà phạm vi ảnh hưởng của nó đôi khi khó xác định. Tuy vậy,
phần lớn các chỉ tiêu đều là chỉ tiêu hóa, lý, sinh, đều lượng hóa được bằng các
dụng cụ đo chính xác.
Tóm lại, thúc đẩy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế
thị trường là yêu cầu tất yếu. Bởi vì, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế sẽ đẩy
doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, nếu năng lực
12
cạnh tranh thấp, doanh nghiệp sẽ nhanh chóng bị loại khỏi sân chơi chung. Vì
thế mà bản thân mỗi doanh nghiệp và Chính phủ các nước đều quan tâm vấn đề

đẩy mạnh năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DNNN VIỆT NAM
2.1. Phân tích năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam
Theo luật doanh nghiệp của Việt Nam năm 1995 thì DNNN là tổ chức kinh
tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh
13
hoặc công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao.
DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách
nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi doanh nghiệp quản lý.
DNNN là bộ phận chủ yếu của khu vực kinh tế nhà nước - một lực lượng vật
chất cơ bản, đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế của nhà nước.
2.1.1. Công cụ cạnh tranh của DNNN Việt Nam
 Giá cả
Để tồn tại và phát triển, DNNN luôn luôn theo khuynh hướng tăng giá sản
phẩm và dịch vụ do DNNN hoạt động theo cơ chế độc quyền. Các mặt hàng
tăng giá của DNNN hoạt động độc quyền đều ở trong lĩnh vực đặc biệt thiết yếu
của đời sống và nền kinh tế quốc dân như: điện nước, xăng dầu, vận tải hàng
không, đường biển…Một số mặt hàng như phân bón, sắt, thép, xi măng…có
mức giá cao hơn các mặt hàng cũng loại nhập khẩu từ nước ngoài khoảng 20% -
40%, riêng giá đường thô cao gấp 70% - 80% so với giá đường thô thế giới.
Điều này hoàn toàn ngược lại đối với DNTN, sự giảm giá sản phẩm, dịch vụ
chính là sự tồn tại, sự cạnh tranh của các doanh nghiệp này.
 Chất lượng sản phẩm, mẫu mã, kiểu dáng, bao bì
Vượt qua khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm
2009, DNNN đã cố gắng thúc đẩy chất lượng sản phẩm của mình để đạt được
hàng Việt Nam chất lượng cao. Hầu hết các DNNN đều chọn chất lượng sản
phẩm làm công cụ cạnh tranh, bên cạnh đó, mẫu mã, kiểu dáng, bao bì cũng đáp
ứng được nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Điển hình là ngành da giày và
ngành dệt may Việt Nam.

Trong những năm gần đây, ngành da giày VN được mở rộng và ngày càng
phát triển với quy mô lớn, là một nước xuất khẩu đứng thứ tư thế giới với kim
ngạnh 2,5 tỷ USD mỗi năm. Tuy nhiên, việc cạnh tranh với hàng xuất khẩu là
một thách thức lớn, vì ta còn nhiều điểm yếu như da giày Việt Nam chủ yếu là
gia công, giày tự sản xuất thì mẫu mã nghèo nàn, giá cả lại cao. Trong khi đó
Trung Quốc có những ưu điểm này lại không phải áp dụng hạn ngạch khi xuất
khẩu ra thế giới. Ngay cả thị trường trong nước cũng phải cạnh tranh, vì hiện
14
nay Trung Quốc cũng đã đưa sang Việt Nam một lượng không nhỏ. Đứng trước
tình hình đó, hiện nay, ngành da giày Việt Nam đã được hỗ trợ rất lớn về công
nghệ để thúc đẩy chất lượng sản phẩm, làm đa dạng mẫu mã và tìm cách hạ giá
thành sản xuất sản phẩm.
Thị trường dệt may Việt Nam cũng không ngừng phát triển và tính đến đầu
năm 2010 thì con số kim ngạch xuất khẩu đạt 10,5 tỷ USD/năm, thị trường xuất
khẩu mở rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới. Từ những mẫu mã đơn giản đến
phức tạp, các sản phẩm của dệt may Việt Nam đều được làm một cách cẩn thận
và có uy tín. Sản phẩm của dệt may Việt Nam có mẫu mã, kiểu dáng rất đa dạng
và phong phú:sơmi (sơ mi nam và sơ mi nữ), đồng phục (bảo hộ lao động, công
sở, đồng phục học sinh), veston nam, quần nam (quần âu nam, quần sooc nam),
quần nữ (quần dài, quần lửng, váy), veston nữ (cleopatre), jacket nữ…
Bên cạnh đó thì không thể không kể đến Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam
(Vinamilk), để có được sức cạnh tranh lớn trên thị trường thì Công ty đã đa dạng
hóa sản phẩm với hơn 200 mặt hàng sữa và các sản phẩm từ sữa gồm: Sữa đặc,
sữa bột, bột dinh dưỡng, sữa tươi, kem, sữa chua, Phô-mai và các sản phẩm khác
như: sữa đậu nành, nước ép trái cây, bánh, cà phê hòa tan, nước uống đóng chai,
trà, chocalate hòa tan…
 Thương hiệu
Những thương hiệu lớn trên thị trường Việt Nam hầu hết là thương hiệu của
DNNN như: Công ty cổ phần May 10, Công ty cổ phần giày Việt – Vina giày,
Công ty Cổ phần sữa Việt Nam – Vinamilk, Công ty cổ phần Thăng Long, Công

ty cổ phần Kỹ nghệ thực phẩm Việt Nam – Vifon, Công ty Ajinomoto Việt
Nam…Những thương hiệu này sản xuất ra những sản phẩm được người tiêu
dùng bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao và nhiều DNNN đã đoạt giải
“Chất lượng vàng Việt Nam”, sản phẩm đạt tiêu chuẩn Quốc tế như ISO 9002,
ISO 14001, IQNET. Những doanh nghiệp có chất lượng sản phẩm tốt, có
thương hiệu, có uy tín đã được thị trường thế giới hợp tác sản xuất như Công ty
cổ phần May 10 được các hãng lớn Pierre Cardin, GuyLaroche, Maxim, Jacques
Britt, Dornbusch, C&A, Seidensticker,…hợp tác.
15
 Các chương trình khuyến mại
Nhằm quảng bá sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ, thu hút và khuyến khích
người tiêu dùng sử dụng hàng Việt Nam, các doanh nghiệp còn đưa ra các
chương trình khuyến mãi như: hàng giảm giá, hàng có quà tặng đính kèm, tặng
quà cho mỗi hóa đơn thanh toán trị giá từ 50.000 đồng trở lên…DNNN đưa ra
chương trình khuyến mại là nhằm chủ yếu đánh vào sở thích của người tiêu
dùng. Người tiêu dùng chủ yếu có sở thích là mua ít, được nhiều.
2.1.2. Phương thức cạnh tranh của DNNN Việt Nam
Đối với DNNN thì phương thức cạnh tranh cũng rất đa dạng, ta có thể kể
ra một số phương thức như sau:
 Thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá
sản DNNN làm ăn thua lỗ kéo dài.
Chúng ta phải sắp xếp và kiện toàn hoạt động của các công ty 91, lực lượng
chủ đạo của kinh tế đất nước nắm giữ hơn 80% tổng số vốn của Nhà nước trong
Doanh nghiệp. Với việc nắm giữ những ngành sản xuất quan trọng, sản phẩm
của các tổng công ty 91 ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các DNNN nói
riêng và của cả nền kinh tế bởi vì đó chính là những yếu tố đầu vào như: viễn
thông, vận tải đường sắt, xi măng, xăng dầu, sắt thép, điện…Vì vậy, muốn thúc
đẩy năng lực cạnh tranh của các DNNN thì trước hết cần thúc đẩy khả năng hoạt
động của các tổng Công ty 91 bằng nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó trọng tâm
là phải phá thế độc quyền định giá của các tổng công ty bằng kiểm soát giá của

Nhà nước, tôn trọng quan hệ cung - cầu về các sản phẩm chiến lược đó trên thị
trường trong nước và quốc tế để giá cả của các mặt hàng này phải phù hợp với
mặt bằng giá trong khu vực quốc tế.
Từ năm 2001, Nhà nước chuyển các tổng công ty 90, 91 sang hoạt động
theo mô hình công ty mẹ - con, trong đó công ty mẹ do các công ty tự đầu tư
thành lập và đồng thời công ty mẹ đầu tư bằng tài chính vào các công ty con. Có
thể nói, mô hình công ty mẹ - con đã tạo ra một bước tiến mới trong quá trình
đổi mới, sắp xếp lại khu vực DNNN. Các tổng công ty 90, 91 từ phương thức
quản lý theo kiểu hành chính (cấp trên - cấp dưới) và cơ chế vốn đã chuyển sang
16
mối quan hệ bình đẳng, tự nguyện và cơ chế đầu tư vốn. Với mục tiêu tạo ra
những doanh nghiệp “xương sống” của nền kinh tế, đủ sức cạnh tranh trong thời
kỳ hội nhập, năm 2006 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt thành lập thí điểm
tám tập đoàn kinh tế nhà nước. Những tập đoàn này lấy nòng cốt là các tổng
công ty nhà nước hoạt động trong các ngành kinh tế trọng điểm có tính chất chi
phối tới nền kinh tế, bao gồm tập đoàn Dầu khí Việt Nam, tập đoàn Điện lực
Việt Nam, tập đoàn Bưu chính-Viễn thông, tập đoàn Dệt may Việt Nam, tập
đoàn Cao su Việt Nam, tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam, tập đoàn
Than-Khoáng sản Việt Nam và tập đoàn Bảo hiểm Việt Nam.
Đối với doanh nghiệp có vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng, nhà nước không cần
nắm giữ và không cổ phần hóa được, tùy thực tế của từng doanh nghiệp, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định một trong các hình thức: giao, bán, khoán
kinh doanh, cho thuê. Khuyến khích DNNN đã giao, bán được chuyển thành
công ty cổ phần của người lao động. Sáp nhập, giải thể, phá sản của những
DNNN hoạt động không hiệu quả.
 Cổ phần hóa DNNN.
Báo cáo về kết quả sắp xếp, đổi mới, phát triển DNNN tính đến hết năm
2006 thì cả nước đã sắp xếp được 4.447 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa
được 3.060 doanh nghiệp. Riêng từ năm 2001 đến 2006 đã sắp xếp được 3.830
DNNN, bằng gần 68% số DNNN đầu năm 2001.

Tính đến đầu tháng 7 năm 2010 thì cả nước đã thực hiện sắp xếp được
5.615 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp, trong đó cổ phần hoá được 3.932
doanh nghiệp (chiếm 70,02%). Trong số các doanh nghiệp đã được cổ phần hóa
có 2.288 doanh nghiệp thuộc địa phương (chiếm 58,19%); 1.192 doanh nghiệp
thuộc khối bộ, ngành (chiếm 30,31%) và 452 doanh nghiệp thuộc khối tập đoàn,
tổng công ty (chiếm 11,5%). Số liệu DNNN đã cổ phần hóa qua các năm như
sau:
Năm 2007: 116 DNNN đã cổ phần hóa.
Năm 2008: 98 DNNN đã cổ phần hóa.
Năm 2009: 60 DNNN đã cổ phần hóa.
17
6 tháng đầu năm 2010: 26 DNNN đã cổ phần hóa.
Hình 2.1 Số lượng DNNN cổ phần hóa các năm
(Nguồn: Theo số liệu của Bộ Tài Chính)
DNNN cần tiến hành cổ phần hóa còn rất nhiều nhưng số liệu qua các năm
cho thấy số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa giảm dần. Tất cả DNNN phải cổ
phần hóa đến 1/7/2010. Sau thời điểm đó, những doanh nghiệp nào chưa cổ
phần hóa sẽ chuyển thành Công ty TNHH một thành viên.
 Chuyển đổi công ty nhà nước thành Công ty TNHH một thành viên.
Tính đến tháng 6 năm 2010 thì có 3 công ty mẹ tại 3 tập đoàn, tổng công ty
là: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam), Tổng công ty Hàng không Việt
Nam (Vietnam Airlines) và Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam (Vinataba) chuyển
sang hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên. Riêng 6 tháng đầu
năm 2010, cả nước đã có 57 DNNN chuyển sang Công ty TNHH một thành viên
Sau khi chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên, công ty mẹ Petro
Vietnam sẽ kế thừa các quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp và xử lý những vấn đề
tồn tại và phát sinh của tập đoàn này trước khi chuyển đổi.
Petro Vietnam có 11 ngành nghề kinh doanh chính gồm: nghiên cứu, tìm
kiếm thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, tàng trữ dầu khí, khí hóa than,
làm dịch vụ về dầu khí ở trong và ngoài nước; xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị dầu

khí, sản phẩm dầu khí, hóa dầu; khảo sát, thiết kế, xây dựng, khai thác, sửa chữa
các công trình, phương tiện phục vụ dầu khí, dân dụng; đầu tư, khai thác than và
18
các khoáng sản khác tại nước ngoài, ký kết hợp đồng nhập khẩu, cung ứng than;
đầu tư và sản xuất kinh doanh năng lượng tái tạo
Ngoài những ngành nghề chính trên, Petro Vietnam còn hoạt động trong
các ngành, nghề khác có liên quan như: hoạt động tài chính, chứng khoán, ngân
hàng, bảo hiểm; đào tạo, cung ứng nhân lực dầu khí, xuất khẩu lao động; đầu tư,
kinh doanh bất động sản; đầu tư, khai thác phát triển cảng, kinh doanh vận tải
biển, vận tải đường thủy, đường không và đường bộ, đại lý tàu biển
Đối với Vietnam Airlines, đây là doanh nghiệp vận chuyển hàng không,
được cấp thương quyền vận chuyển hành khách, hàng hóa, bưu kiện; được cấp
chứng chỉ khai thác tàu bay, đồng thời thực hiện chức năng đầu tư ra ngoài
doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Ngành nghề kinh doanh chính là vận
chuyển hàng không đối với hành khách, hành lý, hàng hóa, bưu kiện, bưu phẩm,
thư; hoạt động hàng không chung. Vietnam Airline còn có nhiệm vụ bảo dưỡng
tàu bay, động cơ, thiết bị hàng không và các thiết bị kỹ thuật khác, cũng như sản
xuất linh kiện, phụ tùng trang thiết bị kỹ thuật và các nội dung khác thuộc lĩnh
vực công nghiệp hàng không Ngoài ra, Vietnam Airlines còn hoạt động trên
các lĩnh vực như vận tải đa phương thức, cung ứng các dịch vụ kỹ thuật thương
mại mặt đất, các dịch vụ tại nhà ga hành khách, ga hàng hóa và các dịch vụ phuc
vụ sân đỗ tại các cảng hàng không, sân bay…
Với Vinataba, doanh nghiệp này được phép hoạt động trong 2 ngành nghề
kinh doanh chính gồm đầu tư, sản xuất kinh doanh thuốc lá tại Việt Nam và
nước ngoài; trồng cây nguyên liệu thuốc lá; thực hiện dạy nghề thuộc lĩnh vực
trồng, chế biến nguyên liệu thuốc lá và sản xuất thuốc lá điếu, công nghiệp thực
phẩm
Doanh nghiệp này gần đây cũng mở rộng kinh doanh đa ngành nghề sang
các lĩnh vực công nghiệp tiêu dùng, đầu tư tài chính, bất động sản…, thông qua
hợp tác với nhiều doanh nghiệp khác như Công ty cổ phần Bánh kẹo Hải Hà,

Vietnam Airlines, Công ty rượu bia nước giải khát Lâm Ðồng, Tập đoàn
Sapporo Holdings Limited Sau khi chuyển đổi thành công ty TNHH một thành
viên, Vietnam Airlines và Vinataba kế thừa các quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp
19
pháp và xử lý những vấn đề tồn tại, phát sinh của hai tổng công ty trước khi
chuyển đổi.
Sau đó, hai công ty mẹ là Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam
(VNPT) và Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (Vinachem) cũng được chuyển thành
công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.
VNPT kinh doanh trên 2 lĩnh vực chính gồm dịch vụ và sản phẩm viễn
thông, công nghệ thông tin; dịch vụ và sản phẩm truyền thông. Đồng thời còn
hoạt động trong các ngành, nghề kinh doanh khác như khảo sát, tư vấn, thiết kế,
xây dựng, lắp đặt, bảo dưỡng các công trình viễn thông, công nghệ thông tin và
truyền thông; sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu, cung ứng vật tư, thiết bị viễn
thông, công nghệ thông tin và truyền thông
Vinachem có ngành nghề kinh doanh chính là: sản xuất, kinh doanh phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật; hóa chất cơ bản; hóa chất tiêu dùng; công nghiệp
hóa chất, hóa dược, hóa dầu; công nghiệp chế biến cao su; công nghiệp khai thác
và chế biến khoáng sản; đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước. Ngoài ra,
Vinachem còn kinh doanh một số ngành nghề khác như kinh doanh máy móc
thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ cho ngành công nghiệp hóa chất; đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao cho ngành công nghiệp hóa chất và các ngành nghề
khác.
2.2. Đánh giá năng lực cạnh tranh của DNNN Việt Nam
2.2.1. Những ưu thế
2.2.1.1. Đóng góp của DNNN Việt Nam
DNNN chiếm thị phần lớn trên thị trường trong nước, theo số liệu thống kê,
tính đến 31/12/2008, tổng nguồn vốn của 90 tập đoàn, tổng công ty nhà nước là
1.241 nghìn tỷ đồng. Chỉ tính riêng trong năm 2008, khối doanh nghiệp nhà
nước mà nòng cốt là các tập đoàn, tổng công ty đã đóng góp gần 40% giá trị

GDP, tạo ra 39,5% giá trị sản xuất công nghiệp, trên 50% kim ngạch xuất khẩu
20
và 28,8% tổng thu nội địa, giải quyết việc làm cho hơn 1,1 triệu lao động với
mức thu nhập bình quân là 3,8 triệu đồng.
Ví dụ như Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk) là một doanh nghiệp
hàng đầu của ngành công nghiệp chế biến sữa, chiếm lĩnh tới 75% thị phần sữa
tại Việt Nam hiện nay. Ngoài việc phân phối mạnh trong nước với mạng lưới
183 nhà phân phối và gần 94.000 điểm bán hàng phủ đều 64 tỉnh thành, sản
phẩm Vinamilk còn được xuất khẩu sang nhiều nước Mỹ, Pháp, Canada, Ba
Lan, Đức, khu vực Trung Đông, Đông Nam Á…đem lại cho Việt Nam lượng
doanh thu khá lớn.
2.2.1.2. Danh tiếng của DNNN
DNNN có thương hiệu nổi tiếng là hàng Việt Nam chất lượng cao, được
nhiều người tiêu dùng bình chọn. Ví dụ như: Đạm Phú Mỹ, Agribank, PVFC,
GARCO 10, Dệt 10-10… Bên cạnh đó, DNNN được hưởng ưu đãi nhiều nhất,
hỗ trợ lớn nhất từ phía nhà nước. Các doanh nghiệp lớn về doanh thu, về tài sản
bởi họ là nơi chiếm dụng nguồn lực nhiều nhất. Đó không chỉ là tài sản vật chất:
đất đai, tài nguyên, nhà xưởng, tín dụng, vốn liếng mà cả tài sản quyền kinh
doanh, quyền nhận các dự án lớn, các hạng mục đầu tư mà nhà nước trao tặng
hoặc ưu ái.
2.2.1.3. Khả năng thích ứng của DNNN
Qua đợt khủng hoảng vừa rồi, phần lớn DNNN là bị phá sản nhưng DNNN
vẫn có khả năng thích ứng với thị trường bằng cách:
 Tái cấu trúc doanh nghiệp:
Tiến trình sắp xếp đổi mới DNNN chính thức khởi động từ 1992, với xuất
phát điểm có 6.500 DNNN. Tính đến hết năm 2008, cả nước đã có 5.414 DNNN
được sắp xếp lại. Trong đó, 3.836 DNNN được tái cấu trúc ở hình thức triệt để
nhất là cổ phần hóa. Cổ phần hóa đã huy động được thêm khoảng 100.000 tỷ
đồng vốn từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia dưới hình thức
mua cổ phần.

Theo kết quả tổng hợp báo cáo của 1.616 doanh nghiệp có thời gian hoạt
động sau cổ phần hóa trên 1 năm (tính đến cuối năm 2006) cho thấy: vốn điều lệ
21
của các doanh nghiệp này tăng 58,6%, doanh thu tăng 48,2%, lợi nhuận tăng
331,8%, nộp ngân sách tăng 44,2%, thu nhập của người lao động tăng 51,8%
Chỉ tính riêng trong 5 năm từ 2001 tới 2006, chúng ta đã sắp xếp được
3.830 DNNN; trong đó cổ phần hoá 2.472 DNNN Cho tới nay, hình thức sắp
xếp cổ phần hoá chiếm gần 65% tổng số DNNN đã sắp xếp. Sắp tới, trong giai
đoạn đến năm 2009, chúng ta sẽ còn cổ phần hoá thêm 860 DNNN nữa.
Hầu hết các công ty Nhà nước được sắp xếp đều chuyển sang hoạt động
theo hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên, công
ty mẹ - công ty con và một số tổng công ty đã trở thành những tập đoàn kinh tế
lớn. Hoạt động này đã tạo điều kiện cho các loại hình công ty trên bảo toàn và
phát triển được nguồn vốn, duy trì được tốc độ tăng trưởng, hiệu quả sản xuất
cao, bù đắp được các khoản lỗ và đóng góp hơn 40% giá trị GDP cho ngân sách
quốc gia.
Nền kinh tế vĩ mô bắt đầu được điều tiết một cách hợp lý và mềm dẻo hơn,
tập trung vào những ngành then chốt. Nếu tính từ thời điểm trước năm 2001, các
doanh nghiệp rất phân tán, dàn trải trong các ngành nghề, lĩnh vực; năm 2001
vốn bình quân của một DNNN là 24 tỷ đồng thì đến nay có khoảng gần 90 tỷ
đồng. Báo cáo của các Bộ, ngành và địa phương về kết quả của hơn 850 doanh
nghiệp đã cổ phần hoá được hơn một năm cho thấy vốn điều lệ bình quân tăng
44%, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận tăng 139,76%, trên 90% doanh
nghiệp hoạt động có lãi, thu nhập của người lao động tăng 12%, cổ tức bình
quân đạt 17,11%
Chúng ta đã tách được chức năng quản lý hành chính Nhà nước khỏi chức
năng quản lý sản xuất, kinh doanh, tạo cơ sở cho việc thực hiện chính sách phát
triển doanh nghiệp trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường định hướng
XHCN và mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế mà Đảng, Nhà nước và Chính phủ
đã đề ra.

 “Ưu tiên dùng hàng Việt!”:
Nhằm kích cầu thị trường nội địa, nhất là thị trường nông thôn thì các đơn
vị thuộc khối DNNN đã đưa hàng về tiêu thụ tại thị trường nông thôn không chỉ
22
có tác dụng kích cầu nội địa mà còn là cơ hội quảng bá thương hiệu của đơn vị
đến những thị trường mới.
Các mặt hàng được doanh nghiệp đưa ra ngoại thành để tiêu thụ chủ yếu là
những mặt hàng Việt Nam chất lượng cao nhưng giá bán phù hợp với thu nhập
của bà con nông dân ngoại thành, hàng gia dụng, may mặc, điện tử, thực phẩm
chế biến. Riêng đối với khu vực miền núi, ngoài những sản phẩm trên, doanh
nghiệp sẽ tăng cường thêm hai mặt hàng là muối iot và vở học sinh.
Bảng 2.1 : Top 10 DN trong bản xếp hạng 500 DN lớn nhất VN năm 2009
Thứ hạng Tên doanh nghiệp
1 Tập đoàn dầu khí Việt Nam
2 Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam
3 Tập đoàn Điện lực Việt Nam
4 Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam
5 Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam
6 Công ty vàng bạc đá quý Sài Gòn – SJC
7 Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Việt Nam
8 Tổng Công ty dầu Việt Nam – PVOIL
9 Tổng Công ty viễn thông quân đội
10 Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam - Vinashin
Nguồn: VNR500 – Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, năm 2009 -

Để bán được sản phẩm và có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước thì
nhiều doanh nghiệp đã đưa ra những lời kêu gọi thiết thực để mọi người cùng
hưởng ứng như:
“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”
Qua đó, ta thấy DNNN cũng có khả năng thích ứng lớn với sự biến động

của nền kinh tế, đặc biệt là sự tác động lớn từ suy thoái toàn cầu. Theo thông tin
của Công ty cổ phần Báo cáo đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) thì top 10
trong bản xếp hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam (VNR 500) trong năm
2009 lại là các Tập đoàn, Tổng công ty thuộc khối DNNN (xem bảng 2.1)
Khối kinh tế Nhà nước chiếm tới 46,4% trong VNR500, trong đó, 10 doanh
nghiệp đầu tiên này đều đạt doanh thu trên 1 tỷ USD, đóng góp hơn 10% tổng
thu ngân sách nhà nước năm 2008. Quy mô của các doanh nghiệp trong top 10
23
này cũng tăng đáng kể và ngày càng thu hẹp khoảng cách với thế giới. Cả 10
doanh nghiệp này đều đủ tiêu chí lọt vào bảng xếp hạng Fortune500 về doanh
thu. Qua đó, ta thấy được nhiều DNNN đứng vững trong cạnh tranh đặc biệt là
trong đợt khủng hoảng kinh tế vừa qua.
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân.
2.2.2.1. Những hạn chế
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất
yếu. Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế đều không thể là người
đứng ngoài cuộc. Trong đó DNNN chính là chủ thể để thực hiện quá trình hội
nhập, là động lực hết sức quan trọng và then chốt góp phần quyết định sự thành
công của quá trình này. Cho đến nay, DNNN vẫn giữ vai trò quan trọng trong
việc đảm bảo hầu hết các sản phẩm dịch vụ công ích, các điều kiện hạ tầng cơ
sở, hạ tầng kỹ thuật cho các thành phần kinh tế, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP
và là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, DNNN vẫn còn
nhiều hạn chế sau:
- Quy mô DNNN vẫn chưa lớn, còn nhiều doanh nghiệp hoạt động trong
một số ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần chi phối. Không ít tỉnh, thành
phố chưa kiên quyết trong cổ phần hóa, còn để nhiều DNNN hoạt động kinh
doanh. Trình độ công nghệ của DNNN còn lạc hậu; một số doanh nghiệp còn sử
dụng công nghệ cũ, tiêu hao nhiên liệu, năng lượng cao. Nhiều DNNN năng suất
lao động và hiệu quả hoạt động còn thấp, sức cạnh tranh chưa đáp ứng yêu cầu
của hội nhập kinh tế quốc tế; còn khoảng 15% số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.

- Tỷ lệ nợ trên vốn của DNNN còn quá cao, một số công ty có số nợ phải
trả gấp năm lần vốn nhà nước tại công ty, có công ty vay gấp hơn 20 lần vốn,
dẫn đến độ rủi ro cao, khả năng thanh toán nợ thấp. Việc xử lý các tồn tại về tài
chính còn chậm do nhiều nguyên nhân nhưng chưa được khắc phục.
- Cơ chế quản lý DNNN còn nhiều bất cập từ quyền tự chủ tuyển chọn nhân
sự, điều hành doanh nghiệp đến tài chính, giá cả, tiền lương Tổ chức quản lý
trong DNNN chuyển biến còn chậm. Nhiều DNNN và doanh nghiệp đã cổ phần
hóa chưa có điều kiện thay đổi cơ bản quản trị công ty một phần do Nhà nước
24
vẫn tiếp tục nắm giữ tỷ lệ cổ phần lớn trong các doanh nghiệp cổ phần hóa. Một
số tổng công ty nhà nước chưa phát huy được vai trò chi phối trong ngành, lĩnh
vực hoạt động. Một số công ty hoạt động còn kém hiệu quả. Ở nhiều tổng công
ty giữa Chủ tịch hội đồng quản trị và Tổng giám đốc chưa có sự thống nhất
trong quản lý, điều hành doanh nghiệp.
- Kết quả sản xuất, kinh doanh của DNNN nói chung và tổng công ty nhà
nước nói riêng chưa tương xứng với đầu tư của Nhà nước.
- Vấn đề hậu cổ phần hóa chưa được quan tâm đúng mức; sự hiểu biết pháp
luật về công ty cổ phần còn hạn chế, cho nên, có nơi chưa phát huy quyền làm
chủ của cổ đông và người lao động, ngược lại có nơi lạm dụng quy định của
pháp luật gây khó khăn cho quản lý của Hội đồng quản trị, điều hành của giám
đốc.
- Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và lợi ích của người được cử làm đại diện
chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại DNNN đã cổ phần hóa chưa được quy định
đầy đủ, nên còn lúng túng.
- Các mô hình tổ chức quản lý mới triển khai còn chậm, ở một số tổng công
ty nhà nước chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con vẫn
còn duy trì biện pháp quản lý hành chính đối với các công ty con như giao chỉ
tiêu kế hoạch, thu phí quản lý…
2.2.2.2. Nguyên nhân
Tất cả những hạn chế làm cho DNNN kém năng lực cạnh tranh trên thị

trường trong và ngoài nước đã nêu ở trên là do những nguyên nhân chủ yếu sau:
- DNNN mặc dù được đầu tư nhiều nhưng năng lực cạnh tranh lại kém là
do sử dụng vốn quá lãng phí. Không ai chịu lãng phí tài sản của mình còn tài sản
của Nhà nước thì hoàn toàn có thể, chỉ cần làm không sai luật hoặc không bị luật
pháp truy cứu. Theo số liệu thống kê năm 2007, cả nước còn gần 3000 doanh
nghiệp nhà nước các loại đang nắm giữ 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, gần
50% tổng vốn đầu tư của Nhà nước, 70% tổng vốn vay các ngân hàng nước
ngoài và gần 60% tổng lượng vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà
nước…nhưng chỉ đóng góp cho 40% thu nhập trong GDP của cả nước mỗi năm.
25

×