Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

thực trạng nguyên nhân tác động và biến pháp hạn chế lạm phát ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (807.43 KB, 33 trang )

MỤC LỤC:
Lý do chọn đề tài: 1
Mục đích: 1
Chương I: Lịch sử của đề tài. 2
Chương II: Khái niệm, nguyên nhân và tác động của lạm phát. 5
I. Khái niệm về lạm phát: 5
1. Lạm phát là gì? 5
2. Phân loại lạm phát. 6
3. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế: 8
II. Nguyên nhân gây ra lạm phát: 14
1. Nguyên nhân của lạm phát: 14
2. Ai là người chịu tác động của lạm phát? 15
III.Tác động của lạm phát.: 16
1. Tái phân phối lại thu nhập: 17
2. Tác động đến tăng trưởng kinh tế: 18
3. Các tác động khác đối với lạm phát. 18
Chương III:Thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay 20
I. Thực trạng của lạm phát: 20
II. Nguyên nhân cơ bản của thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay: 23
III.Một số biểu đồ thể hiện tình hình lạm phát ở nước ta hiện nay. 24
Chương IV: Một số biện pháp hạn chế lạm phát 27
1. Chính sách siết chặt cung tiền tệ. 27
2. Kiềm chế giá cả. 28
3. Ấn định mức lãi suất cao. 28
4. Giảm chi tiêu của ngân sách. 28
5. Biện pháp hạn chế tăng tiền lương. 29
6. Biện pháp lạm phát chống lạm phát. 30
7. Thực hiện một chiến lược thị trường cạnh tranh toàn cầu. 30
8. Chính sách thu nhập dựa trên thuế. 30
9. Mua lấy một tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát. 30


1

Lý do chọn đề tài:
Thời gian gần đây, chúng ta thường nghe trên đài báo một vấn đề được nhắc
tới nhiều nhất và nổi cộm nhất đó là vấn đề “Lạm phát”. Lạm phát đang xảy ra
không chỉ ở trong nước ta, mà là vấn đề của cả thế giới hiện nay. Trước tình trạng
gi nhiên liệu, đặc biệt là giá dầu thô và giá lương thực không ngừng leo thang,
cùng với đó là sự suy giảm mạnh của nền kinh tế Mỹ đã đẩy nền kinh tế thế giới đi
vào một cuộc khủng hoảng. Rất nhiều nước nghèo mà đồng tiền của họ bị trượt giá
quá nhanh, người dân ở đó đang phải sống rất khó khăn và nghèo đói luôn bao
trùm lấy họ. Giá lương thực tăng cao làm cho người dân phải hứng chịu rất nhiều
khó khăn. Theo một số chuyên gia kinh tế thì “kỷ nguyên của giá rẻ đã kết thúc,
chúng ta phải đối mặt với tình trạng giá cả leo thang”.
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới và ở
Việt Nam, lạm phát nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm về vai trò của nó đối với
sự phát triển kinh tế. Nghiên cứu lạm phát, kiềm chế và chống lạm phát được ở
nhiều quốc gia trên thế giới. Càng ngày cùng lúc với sự phát triển đa dạng và
phong phú của nền kinh tế, và nguyên nhân của lạm phát cũng ngày phức tạp.
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường ở nước ta theo định hướng xã hội chủ
nghĩa có sự điếu tiết của nhà nước, việc nghiên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên
nhân và các biện pháp chống lạm phát có vai trò to lớn góp phần vào sự phát triển
của đất nước.
Mục đích:
Nêu được thực trạng của lạm phát ở nước ta hiện nay đồng thời đưa ra được
một số biện pháp hạn chế để đẩy lùi lạm phát.

2

Chương I: Lịch sử của đề tài.
 Đổi tiền và lạm phát năm 1986

Gọi là lạm phát năm 1986 vì đó là năm có tỉ lệ tăng cao nhất, nhưng lạm
phát thực sự đã xuất hiện từ nhiều năm trước đó. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ
1981-1985 lần lượt tăng là: 70%, 95%, 50%, 65% và 92%. Chỉ có điều lúc đó
không ai thừa nhận có lạm phát trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, không ai dám
đưa vấn đề ra để phân tích, bàn luận công khai. Không có giải pháp tổng thể nào
được đưa ra trong một thời gian dài cho đến khi xảy ra cuộc đổi tiền vào năm
1985.
Có lẽ có quan niệm cho rằng đổi tiền sẽ khôi phục lại giá trị đồng bạc Việt
Nam và lạm phát sẽ chấm dứt nên mới có qui định “Sức mua của đồng tiền mới
bằng 10 lần sức mua của đồng tiền cũ” (Quyết định 01/HĐBT-TĐ ngày
13/9/1985). Nhưng sau đổi tiền, CPI năm 1985 tăng đến 92%, năm 1986 lên tới
775%, nền kinh tế bước vào thời kỳ lạm phát dữ dội với tỉ lệ tăng 3 chữ số kéo dài
trong 2 năm tiếp theo.
Phải đến cuối năm 1988 và qua năm 1989, nhiều biện pháp về tiền tệ nhằm
kiểm soát lạm phát mới được đưa ra. Một trong những quyết định quan trọng ghi
nhận được lúc đó là việc lần đầu tiên mạnh tay nới lỏng tỷ giá USD/VND vào cuối
năm 1988 và tiếp tục cơ chế linh hoạt đến năm 1991, trước khi bước vào giai đoạn
đóng băng tỷ giá từ năm 1992.
Trước tháng 12/1988, tỷ giá do ngân hàng Vietcombank công bố thường
thấp hơn thị trường tự do hàng chục lần. Các công ty xuất khẩu lẩn tránh việc đưa
ngoại tệ vào ngân hàng bằng cách nhập khẩu hàng hóa quay vòng. Vào tháng
12/1987, Vietcombank công bố tỷ giá ngoại tệ là 3.000 đồng/USD. Đây là bước
tăng vọt so với tỷ giá 368,2 đồng công bố từ đầu năm, tuy vẫn còn thấp hơn mức
giá 4.300 đồng ở thị trường tự do. Trong các tháng tiếp theo, tỷ giá được điều
chỉnh với biên độ chênh lệch khoảng 10% so với giá thị trường.
Sự thay đổi tỉ giá đã có tác động rất mạnh đến cán cân thương mại. Nếu chỉ
xét trong khu vực giao dịch bằng USD, xuất khẩu trong giai đoạn từ 1989 đến
3

1992 bình quân tăng 50% mỗi năm. Tỉ lệ nhập siêu so với xuất khẩu đã lập tức

giảm mạnh từ 47,6% trong năm 1986 xuống gần như cân bằng vào năm 1989 và
thậm chí đã có xuất siêu vào năm 1990.
Năm

Nhập siêu

1986

47,6%

1988

30%

1989

0,8%

1990

2,5%

1991

3,2%


 Đến cơn sốt tín dụng đầu thập kỷ 1990
Năm 1989, với cơ chế rất thoáng trong việc thành lập quỹ tín dụng, hàng
loạt quỹ tín dụng ra đời để huy động vốn, cho vay lòng vòng, sau một thời gian thì

đổ bể. Lãi suất tiết kiệm năm 1989 cực kỳ cao, có lúc lên đến hơn 12%/tháng cùng
với cơ chế rất thoáng. Lãi suất cho vay đầu năm 1989 là 10,5%/tháng, cuối năm
giảm xuống còn xấp xỉ 4%/tháng và duy trì ở mức trên dưới 3%/tháng trong các
năm từ 90 đến 92.
Tình hình kinh tế xã hội vào lúc đó cũng còn hết sức gay gắt, mặc dù lạm
phát đã giảm mạnh so các năm 86-88. Tỷ giá VND/USD tăng vọt lên trên 13.000
VND/USD trong tháng cuối năm 1991, giảm đột ngột còn 11.000 VND/USD đến
năm 1992, sau đó và được neo giữ ở mức thấp trong suốt nhiều năm từ 1992 đến
1996 trong khoảng từ 10.500 đến 11.000 VND/USD.
Tình trạng lỗ lãi, nợ nần mà không có cơ chế phá sản làm cho hàng loạt công
ty đang hoạt động hết sức khốn đốn. Chính phủ đã ra quyết định lập Ban thanh
toán công nợ quốc gia để thanh toán chéo nhưng kết quả không đáng kể.
Nội lực của nền kinh tế bị thương tổn nghiêm trọng. Tăng trưởng kinh tế của
VN từ 1992 đến 1996 đạt đến 9% năm, nhưng từ 1997 thì giảm dần. Một số báo
4

cáo cho rằng do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế châu Á. Đó là cách lý giải mà
ngay từ lúc đó cũng không có sức thuyết phục. Dấu ấn của chính sách tỷ giá, tiền tệ
các năm đó lớn hơn là ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực. Chính là
cơ chế cứng nhắc cùng với tỷ giá đồng nội tệ cao đã làm mất đi cơ hội của đất
nước khi mà dòng FDI thế giới đang hướng mạnh vào.
Thâm hụt thương mại do tỷ giá và cũng được giải quyết bởi tỷ giá (Số liệu
do tác giả tính toán).
 Kết quả kỳ diệu của cơ chế tỷ giá năm 1997
Đồng nội tệ đã bị đánh giá cao cùng với tỷ giá bị cố định cứng trong khoảng
thời gian dài từ 1992 đến 1996 đã thúc đẩy nhập khẩu ồ ạt. Do vậy, thâm hụt
thương mại liên tục tăng để lên đến đỉnh cao hơn 45% vào năm 1995.
Năm 1997, lần đầu tiên cơ chế xơ cứng của tỷ giá được điều chỉnh và kết
quả thật kỳ diệu. Liên tục trong 4 năm thâm hụt thương mại giảm mạnh để chỉ còn
-1% vào năm 2000.

Các năm 1999-2000 chỉ số giá chỉ tăng 0,1% và -0,6%. Tăng trưởng của
GDP cũng thấp: 4,8% năm 1999 và 6,7% năm 2000. Giải pháp được đưa ra lúc này
là kích cầu tăng trưởng thông qua gia tăng chi tiêu công và đầu tư của các doanh
nghiệp nhà nước. Chi tiêu của Nhà nước (so với GDP) đã tăng từ 5% năm 2000 lên
trên 8% từ sau năm 2005. Tỉ lệ vốn đầu tư/GDP cũng tăng lên đến 34% năm 2000
và đến 40% từ năm 2004 đến nay (2007). Từ đây các nhân tố lạm phát được nuôi
dưỡng.
Tốc độ tăng trưởng GDP thống kê qua các năm và ước tính cho 2008 (Số
liệu do tác giả cung cấp).
 Đến hôm nay lạm phát quay trở lại
Năm 2004 đã xuất hiện những dấu hiệu của cuộc lạm phát mới và được xác
nhận lại vào năm 2005 nhưng đã không có những giải pháp thoả đáng. Thậm chí
đến giữa năm 2007 dấu hiệu trở nên rõ ràng hơn thì một lãnh đạo Ngân hàng Nhà
nước vẫn tuyên bố mạnh mẽ “lạm phát không thể đến mức hai con số”.
Nếu nhìn lại trong vòng 3 thập kỷ qua, tính chu kỳ của nền kinh tế bộc lộ rõ
hơn: cứ 10 năm lặp lại một lần. Suy thoái diễn ra vào các năm x7, x8 sau khi đạt
5

được đỉnh tăng trưởng trong các năm x4, x5, x6. Tuy nhiên, đến nay liệu chúng ta
đã có đủ kinh nghiệm để không bị cuốn theo chu kỳ?
Kiểm chứng về chính sách từ lạm phát và hậu lạm phát năm 86 đến nay, cho
thấy những lúc khó khăn nhất thì có nhiều tiếng nói và có sự lắng nghe hơn, xuất
hiện những cải cách mạnh mẽ. Nhưng vào những lúc nền kinh tế đạt được tốc độ
tăng trưởng cao dần thì nhiều quyết định được đưa ra rất bất ngờ, ít được tham vấn,
tiếng nói đóng góp cũng ít xuất hiện. Phải chăng đây là căn bệnh cố hữu không thể
vượt qua?
Chương II: Khái niệm, nguyên nhân
và tác động của lạm phát.
I. Khái niệm về lạm phát:
1. Lạm phát là gì?

Có khá nhiều định nghĩa khác nhau về lạm phát thuộc các nhà kinh tế khác
nhau. Karl Marx cho rằng: “lạm phát là sự phát hành tiền mặt quá mức cần
thiết”. V.L.Lenine cũng đưa ra một ý niệm tương tự “lạm phát là sự thừa ứ tiền
giấy trong lưu thông”. Vào thập niên 1960, Milton Friedman (thuộc trường
phái trọng tiền) khẳng định rằng: “lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện
tượng tiền tệ”. Theo thuyết trọng tiền (monetarism) – một trường phái lớn về
kinh tế vĩ mô cho rằng, cần phải chú ý đến tổng mức chi tiêu của xã hội và việc
cung ứng tiền cho chi tiêu đó. Thuyết trọng tiền cho rằng tiền tệ là trung tâm
của nền kinh tế, và việc cung ứng tiền là nhân tố quyết định những sự vận động
của tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa trong ngắn hạn và nó là nhân tố quyết
định đến giá cả trong dài hạn. Thực ra không nhất thiết bắt nguồn từ nguyên
nhân là tiền tệ, tức là tăng lượng tiền cung ứng quá mức đối với nền kinh tế.
Nhiều cuộc lạm phát xảy ra lại càng bắt nguồn từ giá hoặc xuất phát từ sự suy
giảm trong tổng cung của chính nền kinh tế đó. R.Dornbusch và Fisher cho
rằng:
6

 Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên trong một thời
gian nhất định.
 Nếu căn cứ vào biểu hiển của nó, ta có thể đưa ra một khái miệm chung về lạm
phát như sau: lạm phát diễn ra khi mà giá cả của tư liệu sản xuất tăng lên, cùng
với việc tăng giá hàng tiêu dùng một cách liên tục và vững chắc, bên cạnh đó
tiền lương danh nghĩa biểu hiện như là giá cả sức lao động cũng có xu hướng
tăng lên. Tuy nhiên, thu nhập thực tế của người lao động nói chung có lúc tăng
tương ứng với lạm phát nhưng nhìn chung là suy giảm một cách nghiêm trọng.
 Điều cần lưu ý là chúng ta sử dụng khái niệm mức giá chung (theo từng “rỗ”
hàng hóa) chứ không phải căn cứ theo mức giá đơn lẻ, bởi vì rất có thể trong
khi giá cả chung tăng lên lại có một số mặt hàng có mức giá không tăng hoặc
có khi lại giảm so với trước, đồng thời giá cả các loại hàng hóa tăng lên không
phải theo cùng một loại tỷ lệ như nhau.

 Đề cập đến lạm phát, người ta thường có hai khái niệm kèm theo đó là giảm
phát hay còn gọi là thiếu phát và giảm lạm phát.
Giảm phát (deflation) là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm
xuống đi liền với việc giảm bớt thu nhập quốc dân và sản lượng.
Giảm lạm phát (disinflation) là sự sụt giảm tỷ lệ lạm phát_nghĩa là mức
giá chung vẫn tăng lên, tức vẫn còn lạm phát, nhưng với mức độ thấp hơn
trước, tức tốc độ tăng giá trở nên chậm lại.
Cố định lạm phát ở mức thấp là môi trường kinh tế vĩ mô để khuyến khích tiết
kiệm ,mở rộng đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cả lạm phát quá cao và
lạm phát quá thấp đều ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
2. Phân loại lạm phát.
a) Lạm phát vừa phải: là loại lạm phát một con số biểu hiện mức tăng giá ở
tỷ lệ thấp, dưới 10% trong một năm. Với loại lạm phát này mức giá cả tăng
chậm, dược giới hạn ở mức một con số hàng trăm. Với lạm phát vừa phải
giá cả tăng chậm, đến nổi người ta không cảm nhận là đang có lạm phát, và
do đó dược coi như là giá cả tương đối ổn định. Trong tình hình này, dân
chúng vẫn còn tin vào giá trị của đồng tiền, và do vậy, người ta sẽ không
7

lãng phí thời gian và sức lực để cố gắn bảo tồn của cải dưới các dạng tài
sản phi tiền tệ.
b) Lạm phát phi mã: là loại lạm phát hai hay ba con số, tức khoảng 10%,
50%, 200%, 300%, v.v…trong một năm.Với mức lạm phát này, mức độ
tăng giá đã gây mức nghiêm trọng đối với nền kinh tế, biểu diễn bằng đồng
tiền mất giá một cách nhanh chóng, lãi suất thực giảm xuống dưới số 0 và
có nơi lãi suất thực giảm xuống đến 50% - 100% (-50% đến 100%/năm) và
do vậy, nhân dân tránh giữ tiền mặt mà muốn bảo tồn của cải dưới dạng tài
sản phi tiền tệ.
Chính điều đó làm cho lạm phát càng trầm trọng thêm, đoi khi dẫn đến
hiện tượng “xoáy trôn ốc” rất nguy hiểm. Trong tình hình đó thị trường tài

chính có nguy cơ suy sụp.
Trong thập niên năm 1980, có nhiều nước đã lâm vào tình trạng lạm
phát phi mã đến 700% như Việt Nam, Argentina, Brazil.
Mặt dù vậy, có những nước đang trong thời kì lạm phát phi mã nhưng
vẫn có khả năng phát triển nền kinh tế,điển hình như Brazil và Ixraen vào
thập niên 1970. Tuy nhiên, sự tăng trưởng đó đã bị biến dạng bởi phần lớn
vốn đầu tư được đưa ra nước ngoài, làm giảm đầu tư trong nước.
c) Siêu lạm phát: là loại lạm phát với tốc độ tăng giá trên 1000 lần/năm. Các
cuộc siêu lạm phát điển hình như ở Đức xảy ra vào tháng 11-1923 với tỷ lệ
10.000.000 lần so với 1-1922. Một tờ séc có giá trị 30.000.000 USD, sau 2
năm không mua nổi một chiếc kẹo cao su (từ 1921-1923 kho tiền của Đức
tăng 7 tỷ lần). Sau này, ở các nước khác, siêu lạm phát diễn ra như Bolivia
vào năm 1985 với tỷ lệ 50.000%. Thực tình, không thể nói bất kì điều tốt
lành nào cho các cuộc siêu lạm phát cả. Dân chúng bị chìm ngập trong khối
tiền tệ, lặng ngụp trong khối tiền tệ ấy để tìm kiếm một chút ít hàng hóa, vì
hàng hóa đều hết sức khan hiếm. Chức năng quan trọng đầu tiên của tiền là
làm phương tiện trao đổi, thì qua lạm phát, bị triệt tiêu. Có sẵn tiền không
dễ dàng gì mau được hàng vì không ai muốn bán hàng hóa để rồi nhận lấy
những đồng tiền luôn bị mất giá đến mức chống mặt. Trong bối cảnh đó,
8

nền tài chính hoàn toàn bị suy sụp, nhiều giao dịch diễn ra trên cơ sở hàng
đổi hàng, và chức năng tồn trữ giá trị bằng tiền thay bằng việc tồn trữ bằng
hàng hóa.

3. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế:
Không lúc nào như thời gian từ đầu năm 2008 đến nay, vấn đề lạm phát và
tăng trưởng thu hút sự quan tâm của nhiều giới khác nhau: từ người dân thường
mỗi ngày khi ra chợ có cảm nhận như mình bị móc túi; các chủ doanh nghiệp phải
vật lộn với những toan tính từ chi phí vật tư, hàng hoá, dịch vụ, lương công nhân

đến giá thành, giá bán, thị trường cung cấp vật tư, hàng hoá và tiêu thụ sản phẩm;
các chủ nhà băng tính toán lãi suất huy động và cho vay như thế nào vừa để thu hút
tiền gửi của người gửi tiền và người vay vốn có thể chấp nhận với lãi suất cao hơn;
các nhà lập pháp, hành pháp và hoạch định chính sách đau đầu về những đơn thuốc
chữa trị cho nền kinh tế khi lâm vào bão bệnh “lạm phát cường độ cao”, hậu quả là
tăng trưởng bị suy giảm, đời sống nhân dân, nhất là người nghèo, người có thu
nhập thấp gặp khó khăn; trong dài hạn, Chính phủ lại lo ngại khi tăng trưởng kinh
tế bị suy giảm gây hậu quả giảm phát, làm cho đời sống của các tầng lớp dân cư
càng gặp khó khăn hơn, sức mua giảm dẫn đến kinh tế bị suy thoái, những ảnh
hưởng tiêu cực từ khủng hoảng tài chính từ nước Mỹ và toàn cầu đang tác động
xấu đến nền kinh tế nước ta, thị trường xuất khẩu hàng hoá bị giảm sút, vốn đầu tư
gián tiếp có nguy cơ bị rút khỏi thị trường chứng khoán, vốn đầu tư trực tiếp không
thực hiện được như cam kết. Để kích thích nền kinh tế, trong lúc tích luỹ của nền
kinh tế, dự trữ ngân sách, dự trữ ngoại hối của nước ta còn rất hạn hẹp, Nhà nước
ta không đủ nguồn lực để cung cấp các gói kích thích nền kinh tế như các nước
phát triển hoặc như Trung Quốc, Ấn Độ với hàng trăm tỷ đô la; Nhà nước chỉ có
những khoản kích thích bằng tăng vốn đầu tư trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp,
nông thôn, xuất khẩu, trợ cấp bằng tăng các khoản cho vay, giảm thuế, giảm lãi
suất cho vay, tăng lương hoặc giảm giờ làm việc, giảm giá hàng hoá, dịch vụ hoặc
tăng trợ cấp cho các đối tượng chính sách.
9

Để làm rõ mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng, đã có nhiều công trình
nghiên cứu của các nhà kinh tế trong nước và thế giới, về lý thuyết và thực nghiệm
có thể tóm tắt như sau:
a) Lý thuyết về lạm phát và tăng trưởng.
Về lý thuyết, lạm phát có thể tác động tiêu cực lẫn tích cực lên tăng
trưởng kinh tế: Theo Mundell (1965) và Tobin (1965), có mối tương quan tỉ
lệ thuận giữa lạm phát và tăng trưởng; hai trường phái Keynes và trường phái
tiền tệ đều cho rằng trong ngắn hạn, chính sách nới lỏng tiền tệ kích thích tăng

trưởng, đồng thời làm gia tăng lạm phát; đường cong Phillips nổi tiếng về sự
đánh đổi giữa mục tiêu lạm phát và thất nghiệp.
- Stagflation nghĩa là suy thoái và lạm phát, tình trạng nền kinh tế vừa có
những dấu hiệu của lạm phát, mà cơ bản nhất là giá cả leo thang, tiền mất giá
nhưng lại vừa có những biểu hiện của suy thoái như sản xuất đình trệ, thất
nghiệp gia tăng, lạm phát cao, tăng trưởng thấp.
- Lạm phát có thể tác động tiêu cực lên tăng trưởng như: dấu hiệu bất ổn
kinh tế vĩ mô; tăng sự không chắc chắn của các hoạt động đầu tư; lạm phát
làm thay đổi giá cả tương đối, làm méo mó quá trình phân bổ nguồn lực; lạm
phát còn được xem như là một loại thuế đánh vào nền kinh tế.
b) Các nghiên cứu kiểm nghiệm về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng.
- Nghiên cứu ban đầu (những năm 60) không tìm thấy mối quan hệ có ý
nghĩa thống kê nào.
- Giai đoạn sau khủng hoảng dầu hỏa 1973-1974, tìm thấy quan hệ âm giữa
lạm phát và tăng trưởng (Fischer, 1993; Bruno và Easterly, 1995; Barro,
1998).
c) Lạm phát và tăng trưởng trên thế giới.
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng là phi tuyến tính. Lạm phát
chỉ tác động tiêu cực lên tăng trưởng khi đạt ngưỡng nhất định nào đó
(threshold). Ở mức dưới ngưỡng, lạm phát không nhất thiết tác động tiêu cực
lên tăng trưởng, thậm chí có thể tác động dương như lý thuyết Keynes đề cập.
10


Kết quả kiểm nghiệm ảnh hưởng ngưỡng của lạm phát
- Nghiên cứu của Khan và Senhadji (2001): 140 nước, giai đoạn 1960-1998. Các
nước đang phát triển, ngưỡng lạm phát từ 11-12%/năm.
- Nghiên cứu của Li (2006): Số liệu cho 90 nước đang phát triển, giai đoạn 1961-
2004, ngưỡng là 14%/năm.

- Nghiên cứu của Christoffersen và Doyle (1998) tìm ra ngưỡng là 13% cho các
nền kinh tế chuyển đổi.

Kết luận: ngưỡng tiêu cực của lạm phát là từ 11%-14% trở lên.
Tương đồng với nghiên cứu trên, tác giả Tú Anh - Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) cũng cho rằng: giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát thường có mối quan
hệ nhất định. Tuy nhiên, mức độ gắn kết như thế nào là vấn đề còn tranh cãi. Một
số nghiên cứu và thực nghiệm cho thấy, lạm phát có thể tác động tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế khi nó vượt qua một ngưỡng nhất định. Fischer (1993) là người đầu
tiên nghiên cứu vấn đề này đã kết luận, khi lạm phát tăng ở mức độ thấp, mối quan
hệ này có thể không tồn tại, hoặc mang tính đồng biến, và lạm phát ở mức cao mối
quan hệ này là nghịch biến. Một số các nhà nghiên cứu sau này như Sarel (1996),
Gosh và Phillips (1998), Shan và Senhadji (2001), và một số các nhà nghiên cứu
khác đã cố gắng tìm ra đặc điểm đặc biệt về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng kinh tế. Bằng các nghiên cứu khác nhau, họ đã tìm ra một ngưỡng lạm phát,
mà tại ngưỡng đó nếu lạm phát vượt ngưỡng sẽ có tác động tiêu cực (tác động
ngược chiều) đến tăng trưởng. Theo Sarel, ngưỡng lạm phát là 8%, theo Shan và
Senhadji, ngưỡng lạm phát cho các nước đang phát triển là 11-12%, các nước công
nghiệp khoảng 1-3%. Gần đây nhất là nghiên cứu của tác giả Khan (2005) đã tập
trung nghiên cứu xác định mức lạm phát tối ưu. Kết quả Khan đã tìm ra mức lạm
phát tối ưu đối với các nước vùng Trung Đông và Trung Á là khoảng 3,2%.
Học thuyết kinh tế vĩ mô đã khẳng định, nếu sản lượng thực tế vượt sản
lượng tiềm năng sẽ làm lạm phát gia tăng. Thực tế 2005-2006, lạm phát thế giới
gia tăng, ngoài nguyên nhân giá dầu còn do nền kinh tế nhiều nước phát triển quá
nóng.
d) Lạm phát và tăng trưởng ở Việt Nam.
11

Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam cũng phù
hợp với lý thuyết và kết quả kiểm nghiệm trên thế giới. Ở mức lạm phát thấp

(thường là một chữ số) thì lạm phát không có tác động tiêu cực lên tăng trưởng. Ở
mức lạm phát thấp, gia tăng lạm phát thường gắn liền với tăng trưởng cao hơn (giai
đoạn 1992-2007). Tuy nhiên, khi lạm phát đạt đến một ngưỡng cao nhất định, thì
lạm phát bắt đầu tác động tiêu cực lên tăng trưởng (giai đoạn trước 1992).
Tuy nhiên, thời gian gần đây, ở Việt Nam xuất hiện thêm quan điểm mới, đó
là “tỉ lệ lạm phát tốt nhất là không vượt quá tốc độ tăng trưởng”; đây là quan điểm
của ông Lê Đức Thuý, nguyên Thống đốc NHNN khi phát biểu quan điểm này
trước Quốc hội: “Tôi cho rằng một nền kinh tế phát triển bền vững thì lạm phát ở
mức thấp hơn tăng trưởng 1-2%. Chẳng hạn GDP năm 2006 là 8% thì lạm phát là
6-7%”. Theo PGS., TS. Nguyễn Ái Đoàn, quan điểm này không có cơ sở lý thuyết
rõ ràng, không được khẳng định về mặt lý thuyết, đó là cách phát biểu mang tính
ứng dụng trong những điều kiện nhất định; trên thực tế, luận điểm này đã trở thành
nền tảng cho việc thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng kéo dài ở Việt Nam và hệ quả
tất yếu là lạm phát ở mức báo động; theo đó, quan điểm về một tỉ lệ lạm phát tốt
nhất là tỉ lệ lạm phát nhỏ hơn tốc độ tăng trưởng, thực chất chỉ là một cách phát
biểu sai lệch, pha trộn giữa một mức lạm phát mong muốn 1-3% và một mức lạm
phát vừa phải còn kiểm soát được, tức là lạm phát dưới hai chữ số đã biến thành
mức lạm phát tốt nhất (2); tương đồng với phân tích trên của PGS., TS. Đoàn, Ông
Nguyễn Văn Phúc, Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh, cũng cho rằng:
không có cơ sở khoa học, không có lý thuyết nào đề cập, không có nghiên cứu
kiểm nghiệm; ngưỡng tác động tiêu cực của lạm phát không phải là bằng tốc độ
tăng GDP.
Quan điểm về lạm phát theo ông Lê Đức Thuý “Ngay ở nước ta, trong điều
kiện bình thường, không ít nhà khoa học đã đề nghị tôi đẩy lạm phát lên cao hơn
để thúc đẩy tăng trưởng. Thậm chí họ cho rằng, nếu Việt Nam muốn tăng trưởng
cao thì lạm phát hai chữ số là bình thường. Nhưng với tôi, chừng nào còn được
giao nhiệm vụ này, sẽ tiếp tục theo đuổi quan điểm giữ cho lạm phát nằm trong
tầm kiểm soát, và tốc độ lạm phát tốt nhất là không vượt quá tốc độ tăng trưởng”.
12


Việc muốn tăng cung tiền, chấp nhận lạm phát là hệ quả trực tiếp của quan điểm về
lạm phát như: lạm phát, tăng cung tiền là tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế; có sự
đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng, chấp nhận lạm phát để tăng trưởng; hai
quan điểm này tuy khác nhau nhưng có tác động bổ sung cho nhau và làm cho các
nhà hoạch định chính sách tin rằng lạm phát có lợi hơn là có hại cho nền kinh tế
(đặc biệt tỉ lệ lạm phát dưới hai chữ số), lạm phát tăng cung tiền để thêm vốn đầu
tư từ ngân sách là giải pháp tốt nhất để đạt mức tăng trưởng nhanh. Cùng quan
điểm tăng cung tiền là tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế, ý kiến của ông Vũ Ngọc
Nhung cho rằng “Lạm phát tạo vốn lớn và cực rẻ cho phát triển kinh tế, vốn phát
hành tiền chỉ tốn chi phí in tiền nên cực rẻ”; hoặc “Lạm phát giúp ngân sách vay
ngân hàng nhiều hơn để chi cho sản xuất, tăng thu nhập của người dân”. Các nhà
kinh tế cho rằng tỉ lệ lạm phát cao, tác động tiêu cực đến sản lượng sản xuất của
nền kinh tế thông qua các kênh như đầu tư, tín dụng, tiêu dùng; người cho vay
không có động lực để cho vay vì lãi suất cho vay thường âm trong thời kỳ này và
cho vay thời hạn càng dài càng bị lỗ, với chi phí huy động vốn cao, đẩy lãi suất cho
vay cao, các doanh nghiệp dù thiếu vốn cũng rất e ngại vay vốn vì làm chi phí tăng
cao, hệ quả là kênh tín dụng bị thu hẹp; những kết quả thực tế theo công bố của
NHNN cho thấy dư nợ tín dụng 10 tháng đầu năm 2008 chỉ tăng hơn 19,6%, thấp
hơn mức tăng 37,73% so với cùng kỳ năm 2007; tỉ lệ lạm phát cao làm cho thu
nhập hộ gia đình giảm, chỉ số lạm phát đến tháng 10/2008 là 22,14% cũng có nghĩa
với việc giảm hơn 22% thu nhập so với cuối năm 2007. Mọi người phải tiết kiệm
chi tiêu dẫn đến giảm tiêu dùng; các nhà đầu tư tiềm năng sẽ giảm đầu tư vì độ rủi
ro cao và hậu quả là làm giảm sản lượng sản xuất của nền kinh tế. Như vậy, việc sử
dụng lạm phát cao để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thực chất đây là liệu pháp “sốc”
với mong muốn tăng trưởng nhanh để đạt được thành tích mong muốn, nhưng hậu
quả tiêu cực gây ra cho nền kinh tế và ảnh hưởng đến đời sống của dân cư, nhất là
tầng lớp nghèo, thu nhập thấp bị tác động nhiều nhất. Các nhà nghiên cứu kinh tế
cho rằng, đây là giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng kém bền
vững; hay còn gọi đó là giải pháp tăng trưởng “bong bóng”. Vì vậy, trong thời gian
13


qua, đã có nhiều ý kiến cần thay đổi quan điểm về lạm phát như ông Lê Xuân
Nghĩa và ông Vũ Quang Việt để đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững.
Lạm phát của Việt Nam gia tăng trong mấy năm gần đây, phải chăng cũng có
chịu ảnh hưởng bởi sự gia tăng sản lượng vượt mức tiềm năng? Theo đánh giá của
IMF (2006) về các nguyên nhân làm tăng lạm phát ở Việt Nam, bắt đầu từ năm
2005, có dấu hiệu bởi sự gia tăng sản lượng vượt mức tiềm năng (những năm trước
đó mối quan hệ này là không nhất quán và không rõ nét).
Một trong những điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng một cách bền vững đó
là sự ổn định sức mua của đồng tiền; đây là một trong những nhiệm vụ luôn luôn
đặt lên hàng đầu ở tất cả các quốc gia trên thế giới được ghi vào Hiến pháp và Luật
Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) của các nước, trong đó Luật NHNN Việt Nam đã
ghi rõ: “Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài
chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời
sống của nhân dân”.
Xu hướng các nước phát triển chọn giải pháp tăng trưởng kinh tế thực chất,
đó là dựa trên cơ sở giá cả ổn định ở mức thấp. Căn cứ biện luận cho giải pháp này
là: Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát ổn định thì tính dự báo được nâng cao.
Điều đó giúp các nhà đầu tư có thể xây dựng được các phương án đầu tư hiệu quả.
Đối với người tiêu dùng thì chi tiêu yên tâm, họ không phải lo cân nhắc các mặt
hàng khác để thay thế do giá tăng. Tất cả điều đó đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế thực chất. Hiện nay, các nước phát triển chọn mức lạm phát gần 2% là mức
tối ưu cho tăng trưởng. Tuy nhiên, cũng phải hiểu rằng, lạm phát ổn định chỉ là
điều kiện đủ cho tăng trưởng kinh tế, còn điều kiện cần cho tăng trưởng phải là vấn
đề của Chính phủ trong việc phát triển nguồn lực, vốn và công nghệ kỹ thuật
Đối với Việt Nam mức lạm phát nào là tối ưu cho tăng trưởng kinh tế? Các
ngưỡng cùng với các phân tích nêu trên có thể cung cấp một mức chuẩn cho Việt
Nam, với một thực tế rằng, các doanh nghiệp Việt Nam và người tiêu dùng không
thích một mức lạm phát cao và không ổn định. Mức lạm phát chuẩn của Việt Nam

có thể gần với mức lạm phát của các nước Đông Nam Á. Nghiên cứu bước đầu của
14

IMF (2006) về mức độ lạm phát ở Việt Nam với các nước Đông Nam Á cũng đã
chỉ ra rằng, mức lạm phát tối ưu cho tăng trưởng kinh tế ở các nước vùng Đông
Nam Á, trong đó có Việt Nam khoảng 3,6%.
Một thực tế rằng, các kết quả nghiên cứu về ngưỡng lạm phát tốt cho tăng
trưởng đều không đưa ra với mức tăng trưởng kinh tế là bao nhiêu. Đây là câu hỏi
quan trọng cho Việt Nam, bởi vì lạm phát mục tiêu được đưa ra trong mối quan hệ
với tăng trưởng kinh tế.
- Qua phân tích số liệu trong hơn 20 năm qua, dường như mối quan hệ giữa lạm
phát và tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam cũng tuân theo quy luật chung.

II. Nguyên nhân gây ra lạm phát:
1. Nguyên nhân của lạm phát:
- Lạm phát do cầu kéo
Nhiều người có trong tay một khoản tiền lớn và họ sẵn sàng chi trả cho một
hàng hoá hay dịch vụ với mức giá cao hơn bình thường. Khi nhu cầu về một mặt
hàng tăng lên sẽ kéo theo sự tăng lên về giá cả của mặt hàng đó. Giá cả của các
mặt hàng khác cũng theo đó leo thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại
hàng hoá trên thị trường. Lạm phát do sự tăng lên về cầu được gọi là “lạm phát do
cầu kéo”, nghĩa là cầu về một hàng hoá hay dịch vụ ngày càng kéo giá cả của hàng
hoá hay dịch vụ đó lên mức cao hơn. Các nhà khoa học mô tả tình trạng lạm phát
này là”quá nhiều tiền đuổi theo quá ít hàng hoá”.
- Lạm phát do chi phí đẩy
Chi phí của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu
vào, máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế Khi giá cả của một hoặc vài
yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng
lên. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản
phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.

- Lạm phát do cơ cấu
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao
động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công
15

cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành
kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh từ đó.
- Lạm phát do cầu thay đổi
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt
hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có
tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà khơng thể giảm), thì mặt hàng
mà lượng cầu giảm vẫn khơng giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng
thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.
- Lạm phát do xuất khẩu
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm
được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong
nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và
tổng cầu mất cân bằng.
- Lạm phát do nhập khẩu
Khi giá hàng hố nhập khẩu tăng thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng
tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
- Lạm phát tiền tệ :
Khi lạm phát xảy ra, giá trò của đồng tiền sụt giảm.Cung tiền tăng
(chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong
nước khỏi mất giá so với ngoại tệ; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua
cơng trái theo u cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thơng tăng lên
là ngun nhân gây ra lạm phát.
2. Ai là người chịu tác động của lạm phát?
Khi lạm phát xảy ra thì hầu hết mọi thành phần của nền kinh tế đều trở thành
nạn nhân của lạm phát, bởi nhìn một cách tổng thể thì mỗi người đều là người tiêu

dùng. Tuy nhiên, 3 thành phần chịu nhiều thiệt thòi nhất là:
- Người về hưu: Lương hưu là một trong những “hàng hố” ổn định nhất về
giá cả, thường chỉ được điều chỉnh tăng lên đơi chút sau khi giá cả hàng hố đã
tăng lên gấp nhiều lần.
16

- Những người gửi tiền tiết kiệm: Hẳn nhiên sự mất giá của đồng tiền
khiến cho những người tích trữ tiền mặt nói chung và những người gửi tiền tiết
kiệm đánh mất của cải nhanh nhất.
- Những người cho vay nợ: Khoản nợ trước đây có thể mua được một món
hàng nhất định thì nay chỉ có thể mua được những món hàng có giá trị thấp hơn.
Vậy ai là người được hưởng lợi? Có lẽ khi đồng tiền mất giá dần thì người sung
sướng nhất chính là những con nợ vì nay khoản nợ họ phải trả có vẻ nhẹ gánh hơn.
- Những người thuộc diện nghèo trong xã hội (thu nhập dưới
1USD/ngày): đây là những người chịu hậu quả nặng nề nhất của lạm phát khi số
tiền ít ỏi của họ giờ đây không đủ cho 1 bữa ăn gia đình.
Tuy nhiên lạm phát ở mức độ vừa phải cũng có cái lợi, đó là nó góp phần
phân phối lại thu nhập trong xã hội, giữa những người thừa tiền và những người có
hàng hoá cần thanh lý. Sau khi lạm phát kết thúc thì tiền sẽ phân phối đều hơn, ít
trường hợp người này wá nhiều tiền còn người kia wá nhiều hàng nhưng lại thiếu
vốn.
III. Tác động của lạm phát.
Mặc dù lạm phát diễn ra ở hầu hết các nước trên thế giới. Tuy nhiên tác động
do lạm phát mang lại không hoàn toàn đồng nhất với nhau, giữa các nhà kinh tế
xuất hiện hai trường phái khi đề cập đến tác động của lạm phát.
 Trường phái thứ nhất: Đại diện là Benjamin Franklin, trường phái này cho
rằng: không phải mọi lạm phát đều xấu mà ngược lại nhiều khi lạm phát được
sử dụng như một thứ thuốc kích thích cho tăng trưởng kinh tế, nghĩa là nếu
chúng ta muốn lạm phát bằng 0 thì ta thu về tăng trưởng cũng bằng 0, do vậy
cần sử dụng mức lạm phát phù hợp, mức lạm phát đó phải là mức lạm phát vừa

phải, tức là dưới 2 con số/năm, bằng một câu nói sau đây của ông ta “vào
khoảng thời gian có tiếng kêu đòi có nhiều tiền giấy hơn…tôi đã đứng về phía
phát hành thêm vì tôi tin chắc rằng số lượng nhỏ đầu tiên in vào năm 1723 đã
đem lại nhiều điều tốt, thúc đẩy buôn bán, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho
số dân ở các tỉnh. Tính lợi ích đó qua thời gian và kinh nghiệm đã hiển nhiên
17

đến mức sau đó không còn ai tranh cải gì nhiều. Tuy nhiên cũng có giới hạn
của nó mà vượt quá giới hạn đó thì lại trở thành hại”. Thực tiển đã chứng minh
tính đúng đắn quan điểm của Benjamin Franklin, tức là ta chấp nhận lạm phát
ở mức vừa phải.
 Trường phái thứ hai: lên án hết sức dữ dội lạm phát và không thừa nhận lạm
phát ở bất kì mức độ nào, trường phái này cho rằng lạm phát là một thứ thế phi
lí nhất, vô nhận đạo nhất, và do vậy cũng là tàn nhẫn nhất và coi đó là âm mưu
tước đoạt tài sản của dân chúng.
Trên đây là hai luận điểm khác nhau về lạm phát, tuy nhiên xét một cách toàn
diện về cả mặt tích cực và tiêu cực của nó thì lạm phát có những tác động cụ thể
sau:
1. Tái phân phối lại thu nhập:
Khi mà lạm phát xảy ra thì tầng lớp có thu nhập bằng tiền cố định thì bị tác
động trực tiếp của lạm phát nghĩa là sức mua của thu nhập giảm đi so với trước
trong khi đó người có tài sản hoặc người đi vay nợ bằng tiền lại có lợi.
Trong tình hình đó thì người ta phải điều chỉnh lãi suất, nhưng dù sử dụng biện
pháp nào đi nữa thì người có thu nhập bằng tiền vẫn bi thiệt hại vì không đuổi kịp
lạm phát.
Như vậy khi lạm phát xảy ra thì dân chúng có khuynh hướng giữ vàng hay nói
cách khác người ta tìm cách trốn khỏi thị trường tiền để tìm đến một loại tài sản
nào đó, hay nói cách khác người ta tìm cách đẩy tiền mất giá ra khỏi tay để mong
sở hữu một loại tài sản nào đó mà ít hoặc không bị mất giá theo thời gian.
Tóm lại, vai trò tái phân phối của lạm phát nó tập trung ở chổ những người

đi vay bằng tiền thì có lợi, còn người cho vay bằng tiền thì bị thiệt, thứ 2: nguời
tích trữ tài sản (tài sãn thực) thì không chịu tác động của lạm phát, thứ 3: lãi suất
thực dù đã điều chỉnh nhưng thường bằng 0 hoặc âm. Do vậy nên trực tiếp tái phân
phối lại thu nhập.
18

2. Tác động đến tăng trưởng kinh tế:
Thông thường khi lạm thì lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế tăng lên từ
đó làm cho lãi suất thị trường giảm xuống và khi lãi suất thị trường giảm xuống thí
kích thích người đi vay, chủ yếu là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và cá
nhân muốn sử dụng công cụ tín dụng để tăng v ốn sản xuất kinh doanh từ đó nó
cũng góp phần cho tăng trưởng kinh tế. Tuy ngiên nhìn chung thì bất kì loại lạm
phát nào tùy mức độ khác nhau đều gây ra hậu quả và tác động tiêu cực khác nhau.
Nếu lạm phát vừa phải thì thiệt hại là vừa phải, nếu lạm phát cao thì thiệt hại cao.
Tuy nhiên với lạm phát vừa phải thì bên cạnh mặt tiêu cực của nó nó cũng có thể
tạo ra mức tăng trưởng kinh tế khi giá cả tiêu dùng ở mức các doanh nghiệp có thể
chấp nhận, tức là với lạm phát vừa phải vừa có lợi cho tăng trưởng vừa tác động
đến những người có thu nhập bằng tiền cố định, do vậy thường nhà nước sử dụng
các biện pháp “An sinh xã hội”, tức là tìm cách để trợ cấp cho người có thu nhập
thấp để khắc phục được mức sống bị giảm đi do lạm phát gây ra.
3. Các tác động khác đối với lạm phát.
Tác động khác đối với lạm phát tùy thuộc vào các tình huống khác nhau của
lạm phát:
 Trường hợp 1: lạm phát cân bằng và có dự kiến.
Ví dụ: mức lạm phát dự kiến là 15% thì lãi suất danh nghĩa cũng tăng lên 15%,
tiền lương tăng 15%.
Nếu lạm phát cân bằng và có dự kiến trước thì nói chung không có ảnh hưởng
gì vì tốc độ của lạm phát, lãi suất, tiền lương đều như nhau.
 Trường hợp 2: nếu lạm phát không cân bằng:
Nếu lạm phát không cân bằng sẽ đẩy các loại chi phí tăng lên, thuế cũng tăng

lên làm ảnh hưởng đến sản lượng và thu nhập. Do vậy, kết luận tất cả các loại lạm
phát (trừ lạm phát cân bằng và có dự kiến) thì không có ảnh hưởng gì.Nếu lạm
phát không cân bằng và không có dự kiến thì lạm phát luôn có những tác động xấu
kèm theo.
Thông thường mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp là quan hệ chặt chẻ
với nhau biểu hiện bằng đường “Philips”.
19


Nghĩa là nếu lạm phát tăng thì thất nghiệp giảm. Ở các doanh nghiệp khi có
lạm phát xảy ra thì sẽ làm lãi suất thấp do đó sẽ tạo điều kiện để mở rộng sản xuất,
thu hút thêm nhiều lao động, giải quyết thêm nhiều việc làm. Tuy nhiên, theo nhà
kinh tế học Samuelson thì cho rằng đường Philips chỉ đúng trong ngắn hạn mà
không đúng trong dài hạn, bằng chứng là trong dài hạn giá cả tăng lên mà thất
nghiệp thì cứ xảy ra.

Thất nghiệp
Lạm phát
20

Chương III:Thực trạng lạm phát ở
nước ta hiện nay

I. Thực trạng của lạm phát:
 Lạm phát là một trong bốn yếu tố
quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng trưởng
cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân
thanh toán có số dư). Tình hình lạm phát hiện
nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 con
số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc

gia. Điều này sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của
chính phủ: làm suy vong nền kinh tế quốc gia. Bên cạnh đó là sự tác
động mạnh tới đời sống của người dân, nhất là dân nghèo khi vật giá
ngày càng leo thang.
 Ngân hàng đầu tư Merrill Lynch của Mỹ vừa công bố một báo cáo về tình hình
kinh tế châu Á, trong đó lấy Việt Nam làm tâm điểm để phân tích tình trạng
lạm phát leo thang trong khu vực Báo cáo nhận định, Việt Nam chỉ là một nền
kinh tế nhỏ trong khu vực châu Á vì GDP 70 tỷ USD của Việt Nam chỉ tương
đương với 1% GDP của toàn khu vực này, trừ Nhật Bản. Trong những năm gần
đây, Việt Nam gây ấn tượng bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục. Mặc
dù vậy, Việt Nam đang chịu tác động từ chính thành công quá lớn và quá
nhanh chóng của chính mình.
 Theo các số liệu đưa ra trong báo cáo, các dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam
trong năm 2007 có thể đạt 5,7 tỷ USD (8,1% GDP), còn các dòng vốn khác có
thể đạt khoảng 8,9 tỷ USD (12,7% GDP). Cùng với đó, tăng trưởng tín dụng
trong năm 2007 đạt mức 54%, thị trường chứng khoán cũng phát triển bùng nổ.
Ở các nước châu Á khác, giá lương thực - thực phẩm tăng cao là nguyên nhân
chính gây lạm phát, nhưng ở Việt Nam, giá cả các mặt hàng phi lương thực
21

cũng tăng tới trên 10% so với cùng kỳ năm ngoái do tăng trưởng kinh tế cao,
nhu cầu cao và thanh khoản dồi dào. Tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay
được coi là một ví dụ về “cú sốc” lạm phát. Một số ví dụ khác bao gồm Trung
Quốc hồi mùa xuân năm 2004 và mùa thu năm 2007, Ấn Độ đầu 2008,
Indonesia mùa hè 2005…
 Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay giảm xuống rất thấp và lạm phát ở mức rất
cao (trên 20%). Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay rất thấp, chỉ còn 6,7% mặc
dù tốc độ tăng trưởng của Việt Nam năm 2007 cao nhất trong 10 năm qua. Mục
tiêu tăng trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề ra từ kỳ họp cuối năm trước là
8,5- 9%, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo phấn đấu đạt trên 9%. Tuy nhiên, tăng

trưởng kinh tế quý 1/2008 đã chậm lại so với tốc độ của quý 1/2007. Lạm phát
vượt qua mức tối đa cho phép 9% và lạm phát năm 2008 tình đến nay là
22,3%. Lạm phát năm 2007 đã ở mức hai chữ số (12,63%), 3 tháng 2008 tiếp
tục lồng lên đến mức 9,19%, cao gấp ba lần cùng kỳ và bằng gần ba phần tư
mức cả năm 2007, đã vượt qua mức theo mục tiêu đã đề ra cho cả năm 2008;
nhập siêu gia tăng cả về kim ngạch tuyệt đối (3.366 triệu USD so với 1.933
triệu USD), cả về tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu (56,5% so với 18,2%)
 Lạm phát ở nước ta trong năm 2008 là sự tích hợp của nhiều yếu tố: Lạm phát
cầu kéo, lạm phát chi phí đẩy, lạm phát tiền tệ, lạm phát do yếu tố tâm lý
Chúng ta đã bàn nhiều đến nguyên nhân trong nước và quốc tế nhưng nguyên
nhân cơ bản là do đã mở rộng tín dụng và đầu tư một cách quá mức để hy vọng
đạt được tăng trưởng kinh tế cao trong ngắn hạn. Chính vì vậy, bây giờ chúng
ta phải trả giá bằng mất ổn định kinh tế vĩ mô, ít nhất là trong trung hạn .
 Chuyên gia IMF cho rằng, với chính sách hiện nay, Việt Nam đang nhập khẩu
lạm phát từ bên ngoài. Việt Nam cần có một cách tiếp cận mới, linh hoạt hơn,
thích ứng với biến động thị trường để cuối 2008 lạm phát có thể trở về một con
số. Cách đây vài năm, năm 2004, Việt Nam cũng đặt trong chỉ số lạm phát của
Việt Nam ở mức 9,4%. Tuy nhiên, so với thời điểm đó, tình hình lạm phát năm
nay có nhiều điểm khác.
22

Một là, đồng USD bị mất giá trên toàn cầu, đòi hỏi có những tính toán, cân nhắc
về việc có nên tiếp tục cố định tỷ giá tiền đồng so với tiền USD không.
Hai là, dòng vốn từ nước ngoài đổ vào Việt Nam nhiều hơn rất nhiều so với
trước. Ngân hàng Nhà nước giữ vai trò điều tiết buộc phải đóng vai trò người mua
ngoại tệ cuối cùng và đưa thêm tiền đồng vào lưu thông. Tốc độ tăng cung tiền
của Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực, đặc biệt mức chênh
lệch giữa tăng trưởng GDP và tăng cung tiền của Việt Nam dãn rộng trong 3 năm
qua.
Mức tăng cung tiền của Việt Nam lớn hơn

rất nhiều so với các nước khác trong khu vực.
Đối với một nước dân số đông và tăng
nhanh như Việt Nam, số người nghèo có thể tăng lên
cùng với lạm phát. Ứng phó trước tình trạng này, chỉ
một bộ phận người Việt có thể đầu tư vào lĩnh vực tài chính, bảo vệ chính mình.
Người nghèo không có được công cụ bảo vệ đó. Họ phụ thuộc vào thu nhập hằng
ngày. Họ có thể bị đói trong "cuộc đua" mua hàng hóa trong cơn lạm phát. Việt
Nam đang nhập khẩu lạm phát
Nhìn ra khu vực, cùng chịu tác động của cú sốc cung, của tăng giá hàng
hóa nhưng tình trạng lạm phát của các nước rất thấp, ngay cả Trung Quốc có tốc
độ phát triển kinh tế nhanh hơn nhiều so với Việt Nam.
Chuyên gia IMF cho rằng, một trong những lí do tại sao lạm phát ở
Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan thấp hơn Việt Nam nằm ở chính sách tỷ giá hối
đoái. Việt Nam ràng buộc tỷ giá vào một điểm so với đồng USD trong khi đồng
tiền này biến động trên thị trường tiền tệ toàn cầu. Điều này đồng nghĩa với việc
Việt Nam đã nhập khẩu một phần ảnh hưởng lạm phát của việc đồng USD mất giá.
Trong khi đó, các nước khác trong khu vực đã cho phép tỷ giá biến
động phù hợp với những biến động của đồng USD trên thị trường. Đồng USD đã
23

giảm giá 9% so với euro, 7% so với đồng yên. Điều này đồng nghĩa với giá hàng
hóa trên thế giới tính theo tiền USD tăng rất nhanh. Phản ứng của các nước này
giúp cho giá hàng hóa không bị tăng theo sự mất giá của đồng USD, xóa đi một số
tác động xấu đối với nền kinh tế.
Năm 2011, lạm phát 4 tháng đầu năm nay ở nước ta cũng cao hơn nhiều so
với các nước khác trong khu vực. Ví dụ, lạm phát tháng 3 năm nay ở Trung Quốc
là 5,4% so với cùng kỳ năm ngoái; còn lạm phát quý I năm nay ở Indonesia có thể
tăng lên 7,1%, ở Phillipine là 4,9%, Thái Lan là 4% và Malaysia là khoảng 2,8%
so với cùng kỳ năm ngoái.Lạm phát cao, kéo dài trong nhiều năm liên tục đã gây
nhiều tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống của người dân. Lạm phát cao là

một trong các biểu hiện của bất ổn kinh tế vĩ mô.
Lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô là bất lợi lớn đối với khuyến khích và
thu hút đầu tư; làm cho môi trường kinh doanh ở nước ta kém cạnh tranh hơn so
với các nước khác. Lạm phát cao, biến động liên tục đã làm gia tăng chi phí sản
xuất, giảm lợi nhuận; làm cho các kế hoạch đầu tư trung và dài hạn trở nên rủi ro
hơn và không dự tính được một cách chắc chắn. Hệ quả là, các doanh nghiệp nói
chung không những phải cắt giảm đầu tư phát triển, mà có thể phải cắt giảm cả quy
mô sản xuất hiện hành để đối phó với lạm phát cao.
Thực tế cho thấy, lượng vốn FDI đăng ký bốn tháng đầu năm nay chỉ bằng
52% của cùng kỳ năm ngoái. Lần đầu tiên trong hơn 10 năm qua, số doanh nghiệp
đăng ký mới và số vốn đăng ký đã giảm xuống, chỉ bằng khoảng 75% của cùng kỳ
năm ngoái. Điều tra của Hiệp hội doanh nghiệp châu Âu cũng cho thấy chỉ số lạc
quan kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên ở Việt Nam trong quý I/2011 đã
giảm đáng kể. Lạm phát cao (nhưng tiền lương và thu nhập bằng tiền khác của
người lao động không tăng lên tương ứng) đã làm cho thu nhập thực tế của họ
giảm xuống. Ví dụ, trong hai năm qua, lạm phát đã làm cho thu nhập thực tế của
người lao động mất hơn 20%; từ đó, đời sống của đa số dân cư đã trở nên khó khăn
hơn nhiều so với trước đây. Lạm phát cao làm giảm giá trị thực của đồng tiền nội
tệ, làm xói mòn giá trị số tiền tiết kiệm của dân chúng; làm giảm lòng tin và mức
độ ưa chuộng của người dân trong việc nắm giữ và sử dụng đồng nội tệ. Điều đó
vừa gây áp lực thêm đối với lạm phát, bất ổn kinh tế vĩ mô trước mắt, vừa làm xói
mòn nền tảng phát triển lâu dài trong trung và dài hạn.
II. Nguyên nhân cơ bản của thực trạng lạm phát ở nước ta hiện
nay:
Thực trạng lạm phát ở nước ta có nhiều nguyên nhân. Giá cả trên thị trường
thế giới tăng cao và các điều kiện quốc tế bất lợi khác rõ ràng có tác động đến giá
cả và lạm phát ở nước ta. Tuy vậy, lạm phát cao kéo dài và sự chênh lệch rất lớn
24

giữa lạm phát ở nước ta và các nước trong khu vực, kể cả các nước có nền kinh tế

mở hơn, chứng tỏ các nguyên nhân chủ quan, bên trong vẫn là chủ yếu.
Nguyên nhân sâu xa, bao trùm và cơ bản nhất của thực trạng lạm phát hiện
nay bắt nguồn từ mô hình tăng trưởng và cách thức mà chúng ta sử dụng để đạt
được mục đích tăng trưởng. Tăng trưởng của chúng ta cho đến nay chủ yếu vẫn
dựa vào mở rộng đầu tư, nhưng đầu tư nhìn chung lại kém hiệu quả, nhất là đầu tư
nhà nước. Tổng đầu tư xã hội nhiều năm liền luôn ở mức cao từ 40-42% GDP; hệ
số sinh lời từ đồng vốn đầu tư (viết tắt là ICOR) cao và đang có xu hướng gia tăng.
Trong giai đoạn 2006-2010 hệ số này của khu vực nhà nước là 10,2, của khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài là 9,7, và của khu vực tư nhân trong nước là 5(1). Đóng
góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng trong giai đoạn nói trên chiếm khoảng 65%;
các yếu tố khác như đổi mới công nghệ, tri thức và kỹ năng, phương thức tổ chức
quản lý,… góp phần chưa đáng kể. Do đó, cái giá hay phí tổn phải trả cho một đơn
vị tăng trưởng là rất lớn và có xu hướng tăng thêm. Tuy mô hình và cách thức tăng
trưởng đã tới hạn nhưng chúng ta vẫn dựa vào đó để đạt được mục tiêu tăng
trưởng, do đó về ngắn hạn thì cách chủ yếu để đạt tăng trưởng đó là mở rộng đầu
tư. Do đó, tốc độ tăng trưởng tín dụng, tổng phương tiện thanh toán, thâm hụt tài
khóa gia tăng, thâm hụt cán cân thanh toán gia tăng… tất cả những điều đó là
nguyên nhân mang tính nội tại làm cho lạm phát của chúng ta trong mấy năm qua
luôn ở mức cao và cao hơn nhiều so với các nước.
Còn đối với lạm phát 4 tháng đầu năm nay, thì ngoài những nguyên nhân nói
trên, thì điều chỉnh tăng giá xăng dầu, điện, tỷ giá, các mặt hàng khác .v.v… là
nguyên nhân trực tiếp làm cho lạm phát trong mấy tháng gần đây cao hơn so với
cùng kỳ của các năm trước.
III. Một số biểu đồ thể hiện tình hình lạm phát ở nước ta hiện nay.


×