Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

công tác xây dựng lực lượng cách mạng của đảng trong giai đoạn 1930 – 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.59 KB, 34 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài :
CÔNG TÁC XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
TRONG GIAI ĐOẠN 1930 – 1945


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................4
Chương I: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930-1945...........................4
1.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
về lực lượng cách mạng............................................................................4
1.2. Công tác xây dựng lực lượng chính trị...............................................5
1.3. Cơng tác xây dựng lực lượng vũ trang.............................................17
Chương II: MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG XÂY DỰNG
LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM....22
2.1. Xác định mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể trong xây dựng lực lượng cách
mạng........................................................................................................22
2.2. Lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp với trình độ giác ngộ và khả
năng đấu tranh của các tầng lớp, giai cấp...............................................24
2.3. Kết hợp đúng đắn giữa xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ
trang.........................................................................................................25
2.4. Xây dựng và bố trí lực lượng đều khắp trên các địa bàn nơng thôn và
thành thị...................................................................................................27
2.5. Gắn xây dựng lực lượng với đấu tranh, thông qua đấu tranh để củng
cố, phát triển lực lượng...........................................................................29
KẾT LUẬN....................................................................................................31
MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................32



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những sự kiện vẻ vang,
chói ngời nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam đã đập tan ách phát xít Nhật, lật đổ ách thống trị gần 100
năm của thực dân Pháp, xóa bỏ chế độ phong kiến hàng nghìn năm, đưa dân
tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH,
làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám
đã thu được thắng lợi, trước hết là do sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn của
Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc, trong
đó có vấn đề xây dựng lực lượng cách mạng của đảng.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi mà hầu hết các dân tộc ở Châu
Á, Phi, Mỹ la tinh đều nằm dưới sự thống trị và bóc lột của các nước đế quốc
chủ nghĩa. Trong đó Việt Nam nằm dưới sự thống trị và bóc lột của thực dân
Pháp. Kể từ khi Pháp tiến hành xâm lược nước ta từ 1858, đã có rất nhiều
phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản nổ ra
nhưng đều thất bại. Bởi vì các phong trào u nước đó đều khơng có đường
lối cách mạng đúng đắn và phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân
dân. Từ bài học kinh nghiệm ấy và nhận ra được tầm quan trọng sức mạnh
của quần chúng nhân dân tức là sức mạnh của lực lượng cách mạnh đối với
công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam, thì ngay khi mới ra đời
năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng Cộng sản Đông Dương) đã chú
trọng đến công tác xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng. Chính điều
này là một trong những sự chuẩn bị và là nhân tố quan trọng cho thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám 1945, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt
Nam, kỷ nguyên của độc lập, tự do. Vì vậy để hiểu rõ hơn và làm sáng tỏ hơn
quá trình xây dựng lực lượng cách mạng do Đảng lãnh đạo (1930-1945), là
điều rất cần thiết đối với mỗi chúng ta, đặc biệt là đối với những nhà nghiên
1



cứu lịch sử Đảng để từ đó thấy rõ hơn tầm quan trọng của việc xây dựng lực
lượng cách mạng đối với thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám 1945.
Đồng thời rút ra những kinh nghiệm về xây dựng lực lượng cách mạng trong
giai đoạn về sau. Chính vì những lý do trên nên em đã chọn vấn đề “Công tác
xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng trong giai đoạn 1930 – 1945” để
làm đề tài tiểu luận cho môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề về công tác xây dựng lực lượng cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn 1930-1945 để rút ra
những bài học kinh nghiệm cho giai đoạn cách mạng sau.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về
chiến lược xây dựng lực lượng cách mạng trong điều kiện một nước thuộc
địa, nửa phong kiến.
- Phân tích những nội dung cơ bản đường lối xây dựng lực lượng cách
mạng bao gồm: Xây dựng lực lượng chính trị; Xây dựng lực lượng vũ trang.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Công tác Xây dựng lực lượng chính trị; Xây dựng lực lượng vũ trang
giai đoạn 1930 - 1945
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác xây dựng lực lượng cách
mạng.


2


4.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dung phương pháp được thực hiên trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương
pháp nghiên cứu chính trị học, nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp để thực
hiện mục đích và nhiệm vụ đặt ra.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài Mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của
đề tài được kết cấu thành 2 chương và 4 tiết.

3


NỘI DUNG
Chương I:
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930-1945
1.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam về lực lượng cách mạng
Vận dụng học thuyết Mác- Lênin về chiến tranh và lực lượng vũ trang
vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đồng thời kế thừa tư tưởng quân sự trong
truyền thống đánh giặc cứu nước của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải
quyết đúng đắn vấn đề xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang
trong nhân dân cách mạng. Người cho rằng: bạo lực cách mạng ở Việt Nam là
bạo lực cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng, bao gồm hai
lực lượng cơ bản: lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang; với
hai hình thức đấu tranh cơ bản: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Lực

lượng chính trị theo người là lực lượng là lực lượng đông đảo của nhân dân
lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, là lực lượng cơ bản, là nền tảng của cách
mạng và là cơ sở để xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân, là
nguồn tiếp sức vô tận cho phát triển quân đội nhân dân. Do đó, muốn xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, phải xây dựng lực lượng chính
trị vững mạnh. Người khẳng định: muốn có quân đội vũ trang, trước hết phải
có quân đội tuyên truyền vân động, đội quân chình trị, nên phải làm ngay, sao
cho đội qn chính trị ngày càng đơng, ngày càng mạnh. Phải có quần chúng
giác ngộ chính trị, tự nguyện vác sung thì mới thắng lợi được.
Để giải quyết được hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam lúc này
cần có một tổ chức cách mạng có khả năng đề ra đường lối đúng đắn phù hợp
với nguyện vọng của nhân dân và xu thế của thời đại. Với sự chuẩn bị về tư
tưởng chính trị và tổ chức của Nguyễn Ái Quốc, đầu năm 1930, sau Hội nghị
hợp nhất Đảng, tại Hương Cảng, Trung Quốc, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời
4


cùng với cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã chỉ rõ: Về lực lượng cách
mạng: Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào
hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ và phong
kiến; phải làm cho các đoàn thể, thợ thuyền và dân cày khỏi ở dưới quyền lực
và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia; phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí
thức, trung nơng, Thanh niên, Tân Việt…để kéo họ đi vào phe vô sản giai
cấp. Đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ
phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.
1.2. Cơng tác xây dựng lực lượng chính trị
1.2.1. Xây dựng Hội phản đế đồng minh
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng tỏ rằng, Hội phản đế
đồng minh là tổ chức đầu tiên có tính cách thử nghiệm cho chính sách đồn kết

dân tộc của những người cộng sản Việt Nam trong buổi đầu khi Đảng còn non
trẻ. Vừa mới ra đời, ĐCS Việt Nam đã lãnh đạo cao trào cách mạng 1930- 1931
với đỉnh cao là đã thành lập chính quyền Xơ viết ở nhiều huyện lỵ thuộc hai tỉnh
Nghệ An, Hà Tĩnh. Lịch sử cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám khẳng định
đó là bước mở đầu quyết định thành công của cách mạng nước ta. Trong cao
trào cách mạng đó, do những nguyên nhân sâu xa, giai cấp công nhân và nông
dân đã tỏ rõ những nghị lực phi thường và mối liên minh công - nơng đã hình
thành trong chiến đấu.
Từ tháng 2-1930, Đảng ta đã đề cập vấn đề tổ chức Hội phản đế đồng
minh, hình thức MTDTTN đầu tiên ở nước ta.Tuy nhiên, lúc đó, các đảng
Thanh niên, Tân Việt và những cơ sở của Nguyễn An Ninh khơng cịn nữa,
cịn Việt Nam Quốc Dân Đảng thì đã tan rã và phân hố sâu sắc. Vì thế Hội
phản đế đồng minh thực tế chưa thành hình. Xét tính chất giai cấp, lực lượng
tham gia thông qua cao trào 1930-1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh, ta thấy thực
chất đây là phong trào của cơng nơng
Tất nhiên, ở đây chúng ta chưa nói tới những hạn chế, sai lầm về đường
lối giai cấp có tính cách biệt phái, “tả khuynh” ở những địa phương dưới sự
5


lãnh đạo của Xứ uỷ Trung Kỳ. Để thấy rõ quan điểm và sự lãnh đạo của Đảng
về xây dựng lực lượng trong mặt trận, cần đi sâu vào chính bản Luận cương
chính trị tháng 10-1930 do đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư đầu tiên của
Đảng, khởi thảo. Mặc dù vậy, chúng ta cũng cần thẳng thắn thừa nhận rằng
khó ai có thể định hướng đúng đắn ngay từ đầu về những vấn đề căn bản nhất
thuộc đường lối chiến lược, sách lược của văn kiện chính thức này. Nhưng ít
nhất, trên cơ sở khoa học, đối với những vấn đề thuộc về thực tiễn cách mạng
nước ta thì bản thân văn kiện đó ngồi những điểm thống nhất đã được khẳng
định với Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc vạch ra cịn có
những thiếu sót về vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng. Nguyên nhân của nó

bắt nguồn từ những nhận thức giáo điều, thiếu chính xác về mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và giai cấp trong điều kiện một cuộc cách mạng tư sản dân
quyền ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, trong đó “yếu tố dân tộc là đặc
trưng nhất”, cũng như chưa hiểu hết về tính chất chính trị- xã hội, đặc biệt là
về cơ cấu, tâm lý của các giai cấp xã hội ở Việt Nam.
Đó là một trong những lí do khiến trong Luận cương chính trị 10 - 1930
đã bộc lộ những thiếu sót đáng kể trong quan điểm chiến lược liên minh giai
cấp và dân tộc, thậm chí đã phủ nhận cả vai trị cách mạng vốn vẫn hiện hữu
của giai cấp tư sản dân tộc, cường điệu những hạn chế của tiểu tư sản, khơng
thấy được khả năng phân hố và liên minh với một bộ phận giai cấp địa chủ
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong khi thừa nhận:
Việc tổ chức phản đế là một trách nhiệm cần kíp của Đảng, thế
mà từ trước tới giờ, Đảng khơng có một cái kế hoạch cho xác đáng
để tổ chức hội ấy, chỉ tổ chức cá nhân mà thôi, không hề chú ý đến
các đoàn thể cách mạng phản đế. Cách ấy là rất sai lầm và nguy
hiểm, vì đồn thể phản đế như vậy là chật hẹp lắm và cũng chẳng
khác gì một đảng chính trị… phải chiêu tập các hội cơng nơng, học
sanh, binh lính, thanh niên, phụ nữ và các đảng phái cách mạng
khác (như Quốc dân Đảng…) lại mà tổ chức ra cho thành một hội
phản đế ở Đông Dương [2, tr.195].
6


Về phương pháp tổ chức của Hội, bản Chỉ thị đề ra hai cách tổ chức,
trên xuống và dưới lên, lấy ảnh hưởng của chỗ có phong trào cao dọi vào chỗ
thấp, chỗ nào có điều kiện là lập hội, những nơi chưa có đồn thể thì lợi dụng
ngay những tổ chức vốn có trong xã thơn như phường hội, hiếu hỷ để tuyên
truyền cách mạng, tiến tới thành lập hội…
Trong bối cảnh lúc bấy giờ, việc ra đời bản Chỉ thị ngày 18-11-1930
của Thường vụ Trung ương Đảng là một bước tiến đáng kể trong lịch sử nhận

thức của Đảng ta cũng như trong lịch sử phong trào MTDTTN ở Việt Nam.
Tuy nhiên, trên thực tế, Chỉ thị về việc thành lập Hội phản đế đồng minh ra
đời đúng lúc địch đang khủng bố trắng cao trào cách mạng 1930-1931, nên
Hội chưa thể hình thành, trừ lực lượng cơng nông vẫn đang chống chọi kiên
cường với đế quốc Pháp. Nhưng từ đó, những kinh nghiệm thực tiễn và sự
phát triển về lý luận công tác xây dựng lực lượng đã báo hiệu cho cả một cao
trào cách mạng mới sau Đại hội VII QTCS - mùa hè năm 1935.
Sau khi có bản Chỉ thị ngày 18-11-1930, Trung ương Đảng họp HNTW
lần thứ hai tháng 3-1931, tức là chỉ sau đó bốn tháng. Nghị quyết HNTW này
(3-1931) là một văn kiện khẳng định, bảo vệ quan điểm của Nghị quyết
HNTW tháng 10-1930. Theo đó, chúng ta dễ nhận thấy rằng, Nghị quyết này
đã không chấp nhận Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng ngày 18-111930, nếu khơng muốn nói là phủ nhận hồn tồn. Đó là những mâu thuẫn
trong đường lối lãnh đạo của ĐCS Đông Dương trong thời kỳ ra đời và hoạt
động của Hội phản đế đồng minh. Bản Chỉ thị thành lập Hội là một đường lối
đúng đắn của Đảng trong điều kiện rất khó khăn. Tuy nhiên, sự chỉ đạo phong
trào và thực tiễn vận động đã không thống nhất, công nông đã không nhận
thức rõ bạn đồng minh của mình để kéo họ lại, mà lại gạt họ ra và tự cơ lập
mình. Trong khi đó, một bộ phận lớn đồng bào vẫn kiên trì ủng hộ cơng nơng, sẵn sàng đi theo ĐCS. Cũng có một số người bắt buộc phải đứng ngồi
phong trào nhưng khơng chạy sang hàng ngũ địch vì trong họ có tinh thần dân
tộc, có tình nghĩa đồng bào và lòng căm thù quân cướp nước.
7


Sai lầm trong chỉ đạo của ĐCS Đông Dương lúc đó đã vơ tình làm lợi
cho địch, phá vỡ đường lối xây dựng lực lượng trong MTDTTN, ảnh hưởng
không tốt đến q trình phục hồi phong trào sau đó. Thực tiễn bài học rút ra
từ Xô viết Nghệ Tĩnh, từ những sai lầm trong chỉ đạo phong trào của Xứ uỷ
Trung Kỳ đã phản ánh tình trạng chung của cả nước ta lúc đó. Những mâu
thuẫn, hạn chế đó nếu được sửa chữa kịp thời theo tinh thần của Chỉ thị ngày
18-11-1930, phù hợp với nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng thì

khơng chỉ có Xơ viết Nghệ Tĩnh mà phong trào cách mạng của cả nước sẽ
mạnh mẽ gấp nhiều lần. Như thực tế lịch sử đã diễn ra, vấn đề vận động quần
chúng trong giai đoạn đấu tranh phục hồi phong trào cách mạng1932-1935 lại
càng phức tạp, khó khăn hơn trước sức đàn áp, khủng bố tàn khốc của kẻ thù.
Một mặt, chúng ta phải khắc phục, sửa chữa những sai trái đối với những chủ
trương như “thanh Đảng” ở Nghệ Tĩnh. Mặt khác lại phải uốn nắn lối vận
động quần chúng “xoay hết lực lượng và tinh thần về phía nơng thơn” cũng như
những biện pháp vận động, tập hợp có tính chất cưỡng bức với quần chúng…
1.2.2. Xây dựng Mặt trận dân chủ Đơng Dương
Ngày 26-7-1936, nhân danh đại diện QTCS, đồng chí Lê Hồng Phong
đã đứng ra triệu tập HNTW mở rộng (Thượng Hải- Trung Quốc) phân tích
nghị quyết của QTCS và tình hình thực tiễn ở Đơng Dương, thảo luận chủ
trương mới của Đảng, bổ cứu những thiếu sót của Nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ nhất. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc phản đế Đông
Dương [25, tr.80], sau gọi là Mặt trận dân chủ Đông Dương, tập hợp các lực
lượng công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, các nhân sỹ trí thức
dân chủ trong nước và những người có xu hướng dân chủ chống phát xít nước
ngồi đang sinh sống ở khu vực Đông Dương… đấu tranh chống bè lũ phản
động thuộc địa- tay sai của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh, đòi tự do dân
chủ, cải thiện đời sống và hồ bình.
Đây là một Nghị quyết lịch sử, mở đường cho một thời kỳ cách mạng
mới, phát động cao trào đấu tranh dân chủ sơi nổi trên tồn cõi Đơng Dương.
8


Tuy vậy, để đi tới nhận thức đầy đủ về nội dung tên gọi Mặt trận dân chủ Đông
Dương là cả một quá trình. Cơ cấu, thành phần Mặt trận về cơ bản là đúng song
chưa thật cụ thể và chính xác. Qua q trình hoạt động đấu tranh từ 1938 trở đi,
tên gọi Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương (hay Mặt trận dân chủ Đông
Dương) đã xuất hiện trên các văn kiện chính thức của Đảng và trên các sách báo.

Thành phần của Mặt trận này có: Công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân
tộc, những nhân sỹ trí thức dân chủ người Việt Nam và người nước ngoài sống ở
Việt Nam (Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ). Về tổ chức, Mặt trận bao gồm các đảng
phái, các đoàn thể và các cá nhân như Đoàn thanh niên dân chủ Đơng Dương,
Văn sỹ liên đồn, các hội ái hữu, các đồn thể văn hố và xã hội, các chi nhánh
của Đảng Xã hội và Đoàn thanh niên xã hội Pháp ở Đông Dương…
Như vậy, Mặt trận dân chủ Đơng Dương từ việc hồn chỉnh tên gọi cho
đến cơ cấu thành phần và tổ chức của nó là kết quả hoạt động thực tiễn quần
chúng và nhận thức lý luận sáng tạo của ĐCS Đông Dương được kết hợp chặt
chẽ với nhau. Nó là điển hình của nghệ thuật đấu tranh chính trị và vận động
quần chúng, không giống với hoạt động của Mặt trận nhân dân ở Pháp và
cũng khác với Mặt trận thống nhất chống Nhật ở Trung Quốc lúc bấy giờ.
Về phương pháp hoạt động của mặt trận, HNTW tháng 7-1936 chủ
trương phải thay đổi triệt để các phương pháp tổ chức quần chúng:
Các hình thức tổ chức quần chúng là nhiệm vụ rất quan trọng
để thúc đẩy Mặt trận dân tộc phản đế… Chính vì thế, nhiệm vụ cấp
thiết nhất là phải từ bỏ những hình thức tổ chức thiển cận, bè phái,
phải sử dụng mọi khả năng công khai và bán công khai để tổ chức
quần chúng rộng rãi hơn, không phụ thuộc vào hình thức, khơng
phụ thuộc vào tên gọi [3, tr.84-85].
Những quan điểm mới mẻ về chỉ đạo chiến lược và sách lược của Đảng
tại HNTW đã có những điểm phát triển hơn so với thời kỳ trước, là những
bước đi đúng đắn đến sự hoàn chỉnh về lý luận và chính trị, trở thành nhân tố
cơ bản tạo ra đỉnh cao của phong trào đấu tranh dân chủ sau này (1938).
9


Song, sự phát triển đó hồn tồn khơng dễ dàng một chút nào, từ 1936-1939
còn là thời kỳ mà Đảng ta đấu tranh quyết liệt với các khuynh hướng chính trị
sai lầm, phản động, đấu tranh trên nhiều lĩnh vực tạo ra nhiều hoạt động rộng

lớn và vô cùng phong phú, đa đạng, đưa công cuộc cách mạng tiến lên.
Những nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị BCHTW Đảng tháng
7-1936 đã được trình bày cụ thể trong tài liệu: "Chung quanh vấn đề chiến
sách mới", xuất bản ngày 30-10-1936 sau này được bổ sung và phát triển
trong các Nghị quyết của những Hội nghị năm 1937, 1938.
Sau HNTW tháng 7-1936, phong trào đấu tranh đã có được những chỉ đạo
cụ thể. Đảng ta triệt để vận dụng những điều kiện thuận lợi của quốc tế, nước
Pháp và phong trào trong nước triển khai hàng loạt các hoạt động đấu tranh.
- Đầu tiên là cuộc đấu tranh đòi triệu tập Đại hội Đông Dương. Khi
Quốc hội Pháp tuyên bố cử phái đồn điều tra sang Đơng Dương, Đảng chủ
trương phát động và tổ chức nhân dân ở tất cả các nhà máy, hầm mỏ, đồn
điền, công sở, trường học, khu phố, làng mạc… công khai hội họp với nội
dung là thảo luận những yêu cầu về tự do, dân chủ, dân sinh và cử đại biểu đi
dự Đại hội đại biểu nhân dân các cấp, tiến tới tổ chức Đại hội đại biểu nhân
dân tồn Đơng Dương. Tháng 8-1936, trong Bức thư ngỏ thứ ba của Ban
Trung ương ĐCS Đơng Dương, Đảng đã trình bày rõ lập trường của mình về
Đại hội Đơng Dương, kêu gọi các đảng phái, các tổ chức chính trị và đồn thể
nhân dân Đơng Dương vì lợi ích chung, đồn kết lại thành lập Mặt trận đấu
tranh bảo vệ hồ bình, địi các quyền tự do, dân chủ và cơm áo.
Trong cuộc đấu tranh này, ngồi việc vận động và lãnh đạo quần chúng
địi chính quyền thuộc địa đáp ứng 12 điều về tự do dân chủ, thành lập các Uỷ
ban hành động, nêu ra những đề nghị về phương pháp tổ chức để nuôi dưỡng
phong trào và tiến tới thành lập một tổ chức thường trực của Mặt trận thống
nhất nhân dân ở Đông Dương, Đảng ta phải lãnh đạo đấu tranh chống các âm
mưu cô lập ĐCS, khống chế nội dung các hoạt động đấu tranh của quần
chúng, chia rẽ các đảng phái, tổ chức, các thành phần tham gia mặt trận, xoa
10


dịu và mua chuộc quần chúng bằng nhiều thủ đoạn xảo quyệt của chính quyền

thuộc địa và phong kiến tay sai.
Thể hiện rõ thái độ này, đồng chí Trường Chinh đã viết một loạt bài
đăng trên tờ Tin Tức với chủ đề: “Đi tới Mặt trận dân chủ Đông Dương”.
Theo đồng chí Trường Chinh, chỉ có lập ra được Mặt trận dân chủ mới đòi
được tự do, cơm áo và hồ bình, mới chặn đứng được chủ nghĩa phát xít.
Để đẩy mạnh hơn và ủng hộ các hoạt động báo chí đấu tranh cơng khai,
Trung ương Đảng u cầu:
Đảng ta cần cổ động triệu tập các cuộc Hội nghị báo chí, văn
sĩ, các cuộc đại biểu Hội nghị của các hương hữu… dẫu rằng ta có
thể hay khơng có thể chỉ đạo những cuộc hội nghị như thế, ta cũng
nên nhiệt tình cổ động cho nó để phổ biến cái quan điểm liên hành
động trong dân chúng và để khuyến khích các hội quần chúng, đề ra
những u cầu có tính chất cấp tiến… [3, tr.296].
Một trong những thắng lợi khá rõ nét của Mặt trận dân chủ 1936-1939 là
cuộc đấu tranh nghị trường. Trên thực tế, các viện dân biểu ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ
và Hội đồng thuộc địa ở Nam Kỳ lúc đó vốn chỉ là những cơ quan tư vấn, khơng
có quyền quyết định những vấn đề chính trị, xã hội ở nước ta. Về bản chất, nó là
một loại hình “đặc biệt”, khơng giống như Nghị viện ở bất kỳ một nước dân chủ
nào, mặc dù báo giới đương thời vẫn gọi là “Nghị trường”, “Nghị viện”.
Trước năm 1936, các “nghị viên” trên danh nghĩa là được bầu, song
thực chất lại do các quan Công sứ chỉ định. Ở các nước, ĐCS nếu hoạt động
hợp pháp thì có quyền ra tranh cử, nếu hoạt động khơng hợp pháp thì đương
nhiên đứng ngồi cuộc bầu cử. Ở Việt Nam, ĐCS chủ trương tham gia bầu cử
vào Viện dân biểu và đấu tranh trong nội bộ viện này (trong lúc Đảng hoạt
động bất hợp pháp), chống lại các thế lực phản động, kết hợp những cuộc đấu
tranh này với phong trào quần chúng rộng lớn ở bên ngoài. Đây là một điều
rất đặc biệt, một hiện tượng chỉ có ở Việt Nam, một phương pháp cách mạng
độc đáo, sáng tạo và thực sự có hiệu quả, được thực tiễn xác nhận.
11



Do lực lượng đơng đảo của mặt trận đồn kết, nhất trí nên chúng ta đã
tranh thủ được các vị dân biểu trung gian, cô lập những kẻ làm tay sai cho
địch, giành được các chức vụ quan trọng như Viện trưởng, Phó Viện trưởng
Viện dân biểu. Đấu tranh với đa số phiếu tuyệt đối bác bỏ dự án thuế thân thứ
nhất và dự án thuế điền thổ do Khâm sứ Trung Kỳ đưa ra, gây một tinh thần
phấn khởi cho nhân dân trong cả nước, không chỉ riêng cho xứ Trung Kỳ,
kích thích mạnh mẽ ý thức đấu tranh cho dân chủ.
Trong thời kỳ này, Đảng ta chủ trương:
Vô luận là cuộc tuyển cử gì, Đảng có thể tham gia được là nên
tham gia. Chúng ta cần lợi dụng các thời kỳ tranh cử mà tuyên
truyền khẩu hiệu của ta, phải lợi dụng vào các cơ quan gọi là lập hiến
mà bênh vực quyền lợi cho quần chúng lao động và các lớp dân chúng
bị áp bức. Các Đảng bộ tương đương phải dự bị những người ra ứng
cử trong các Viện dân biểu, các Hội đồng thành phố [3, tr.231].
Được sự hỗ trợ đắc lực của các tổ chức hoạt động công khai, đặc biệt là
hoạt động báo chí, những chủ trương sáng tạo của Đảng đã thu được nhiều
thắng lợi trên thực tế. Trong những cuộc tổng tuyển cử tại các Viện dân biểu
năm 1937-1938, danh sách ứng cử của Mặt trận dân chủ đã giành thắng lợi ở
Trung, Bắc Kỳ và cả đại biểu trong Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương. Đặc
biệt ở Trung Kỳ, ta đã lập được Mặt trận dân chủ ở ngay trong Nghị viện, đưa
được nhiều Đại biểu của nhân dân các tỉnh vào Viện dân biểu, nhất là đưa
tiếng nói của quần chúng vào Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương vốn được
xem là nơi độc quyền của đế quốc và tay sai.
Thắng lợi của thời kỳ Mặt trận dân chủ 1936-1939 còn là thắng lợi của
cuộc đấu tranh tư tưởng trong Đảng. Trong quá trình vận động thành lập mặt
trận, từ HNTW tháng 7 năm 1936, Đảng đấu tranh chống khuynh hướng “tả”
như đưa ra những khẩu hiệu quá cao hoặc không quan tâm đến nguyện vọng
và quyền lợi của tư sản và địa chủ nhỏ. Mặt khác, lại phải đề phòng khuynh
hướng hữu, chỉ chú trọng giao thiệp với số lãnh tụ ở bên trên mà không chú ý

12


tổ chức quần chúng bên dưới, coi thường phong trào đấu tranh của quần
chúng công nông. Hội nghị nhận định công tác tổ chức và lãnh đạo quần
chúng đấu tranh còn nhiều khuyết điểm và nhược điểm. Về tổ chức, cịn có
khuynh hướng “tả”, hẹp hịi, thiếu thống nhất, khơng biết kết hợp các hình
thức đấu tranh cơng khai và nửa công khai… Phần lớn các cuộc đấu tranh của
công nhân còn chưa chĩa mũi nhọn vào tư bản thực dân Pháp mà lại hướng
vào bộ phận tiểu chủ và tư sản dân tộc, tạo kẽ hở cho bọn phản động thuộc địa
và tay sai lợi dụng, chia rẽ và phá hoại lực lượng Mặt trận dân chủ. Đối với
nông dân, Đảng chưa đặt đúng vị trí của nơng dân trong cuộc vận động dân
chủ, chưa có những phương châm và kế hoạch lãnh đạo thống nhất trong tồn
Đảng. Vì vậy, phong trào nông dân chưa thể thành một phong trào rộng lớn
và mạnh mẽ trong cả nước.
Phong trào Mặt trận dân chủ rất thích hợp với các tầng lớp tiểu tư sản
thành thị và tiểu tư sản trí thức. Là những người bị chèn ép, áp bức, họ có ý
thức chống phản động thuộc địa và bè lũ tay sai. Song, đối với họ, Đảng chưa
thật chú ý đến quyền lợi và nguyện vọng riêng của họ. Bằng chứng là Đảng
chưa thể tổ chức được phong trào riêng cho từng giới.
Cuối cùng, HNTW tháng 7-1936 nhấn mạnh: muốn cho Mặt trận dân
chủ Đông Dương được mở rộng và củng cố, mọi chủ trương, cơ sở của Đảng
được thực hiện, phải triệt để chống bọn Tờ rốt xkít, phải nghiên cứu sự khác
nhau giữa chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa Tờ rốt xky, phải hiểu đường
lối chính trị và tổ chức của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Đồng thời, phải đi
sâu trong phong trào quần chúng, chú ý từng lời nói, từng hành động của
bọn Tơ rốt xkít, vạch mặt chúng bằng những lý lẽ và chứng cớ xác thực.
Qua hơn ba năm đấu tranh, quá trình xây dựng lực lượng trong Mặt trận
dân chủ đã giúp Đảng ta và quần chúng nhân dân tự rút ra những kinh nghiệm
cho bản thân mình để tiến lên những bước cao hơn, vững chắc hơn, giành

được những thắng lợi mới to lớn hơn như:

13


Một là, xác định đúng phương hướng và mục tiêu cụ thể trước mắt là
đòi hỏi của quy luật giành thắng lợi từng bước, tạo điều kiện để tiến lên giành
thắng lợi cho mục tiêu chiến lược cách mạng.
Hai là, chủ trương xây dựng Mặt trận dân chủ hết sức rộng rãi tạo điều
kiện cho phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển thuận lợi.
Ba là, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hình thức hoạt động, hình
thức tổ chức cơng khai, hợp pháp và hình thức hoạt động, hình thức tổ chức bí
mật, khơng hợp pháp để khắc phục tình trạng ngại khó, chỉ bó mình trong
hình thức đấu tranh bí mật, đồng thời ngăn ngừa có hiệu quả chủ nghĩa “công
khai hợp pháp”.
1.2.3. Xây dựng mặt trận Việt minh
Chủ trương cứu nước, Mặt trận Việt Minh cũng khẳng định, “Việt Minh
chủ trương liên hiệp hết các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể cách mạng, các
dân tộc bị áp bức ở Đông Dương, đặng đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, làm cho
nước Việt Nam và cả xứ Đơng Dương được hồn tồn độc lập”[7, tr.9-13].
Với tinh thần coi quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy, Việt Minh sẵn
sàng giơ tay đón tiếp các cá nhân, đoàn thể thành thực muốn đánh đuổi Nhật Pháp; cũng như sẵn sàng bắt tay với các dân tộc bị áp bức châu Á để thành
lập mặt trận liên minh chống đế quốc phát xít. Mặt trận Việt Minh đã đề ra
Chương trình cứu nước gồm 44 điểm bao gồm các chính sách về chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa, các tầng lớp nhân dân. Các chính sách này nhằm thực
hiện hai mục tiêu: Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập; Làm cho dân
Việt Nam sung sướng, tự do.
Chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh là sự cụ thể hóa tư tưởng
đại đồn kết dân tộc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những chính sách
này vừa đảm bảo quyền lợi nhất định của những giai cấp cơ bản, vừa chiếu cố

tới quyền lợi của các giai cấp tầng lớp khác trong xã hội, trên cơ sở đảm bảo
quyền lợi chung của tất cả các thành viên tham gia phong trào giải phóng dân
tộc nên đã đoàn kết tập hợp được mọi lực lượng có lợi cho cách mạng.
14


Nhờ có chủ trương, chính sách rõ ràng, đúng đắn, Mặt trận Việt Minh
đã phát triển nhanh chóng từ nơng thôn đến thành thị, từ miền ngược đến
miền xuôi. Mặt trận Việt Minh thông qua hoạt động cách mạng của mình,
giương cao ngọn cờ độc lập, tự do, khơi dậy và phát huy mạnh mẽ tinh thần
yêu nước và đoàn kết thống nhất toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công nông. Đây là sự sáng tạo tuyệt vời về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mặt trận Việt Minh góp phần xây dựng và phát triển lực lượng chính
trị, lực lượng vũ trang chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa Tháng Tám
Với chủ trương, chính sách đúng đắn, từ cuối năm 1941, Mặt trận Việt
Minh đã thu hút được ngày càng đơng đảo các tầng lớp, giai cấp có tinh thần
yêu nước và chống đế quốc thực dân vào các hội cứu quốc như: Hội Nông
dân Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc, Hội Thanh niên Cứu quốc, Hội Công
nhân Cứu quốc... Các hội cứu quốc đều là thành viên của Mặt trận Việt Minh,
được thành lập ở nhiều tỉnh ở miền Bắc, một số tỉnh miền Trung và các thành
phố lớn, như: Hà Nội, Hải Phòng.
Mặt trận Việt Minh có cơ sở rộng rãi trong cả nước, trung tâm là Cao
Bằng. Cuối năm 1941, tại Cao Bằng xuất hiện một số xã, tổng hoàn toàn tham
gia Việt Minh. Đến năm 1942, Cao Bằng có 3 trên tổng số 9 châu hồn tồn
Việt Minh, xã nào cũng có Ủy ban Việt Minh. Bên cạnh Cao Bằng là trung
tâm của phong trào cứu quốc cả nước, Mặt trận Việt Minh cũng được phát
triển mạnh mẽ tại các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên,… Sang năm
1943, Ủy ban Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng lập ra 19 ban xung phong
“Nam tiến” để liên lạc với căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai và phát triển lực
lượng cách mạng xuống các tỉnh miền xuôi.

Từ thực tiễn phong trào Việt Minh trong hai năm (1941 - 1942) có
những bước phát triển đáng kể và những biến đổi của tình hình thế giới, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng đã họp từ ngày 25 - 28/2/1943 ở Võng La
(Đông Anh, Phúc Yên) để bàn về việc mở rộng Mặt trận Dân tộc Thống nhất
15


và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị chủ trương mở rộng hơn
nữa Mặt trận Việt Minh, liên minh với các đảng phái, nhóm yêu nước cả
trong và ngồi nước. Thực hiện chủ trương đó, năm 1943, Hội Văn hoá Cứu
quốc - một thành viên của Mặt trận Việt Minh đã được thành lập. Tháng
6/1944, Đảng ta đã giúp những trí thức tiến bộ, yêu nước thành lập Đảng Dân
chủ Việt Nam, thu hút họ vào Mặt trận Việt Minh.
Trong hai năm (1943 - 1944), các đoàn thể của Mặt trận Việt Minh
được thành lập và phát triển nhanh chóng ở khắp các tỉnh, thành phố, trong
các nhà máy, trường học. Tại Hà Nội, tổ chức Việt Minh đã được phát triển
mạnh trong các nhà máy xe lửa Gia Lâm, nhà máy sửa chữa ô tô AVIA,
STAI, ở các trường trung học Bưởi, Gia Lâm, trường Kỹ nghệ thực hành,...
Tại Sài Gòn, Gia Định và một số thành phố khác ở miền Nam, tổ chức Việt
Minh đã được thành lập với nhiều tổ chức thành viên như công hội, thanh
niên, phụ nữ,... Đặc biệt tại Việt Bắc, trên cơ sở các “xã hoàn toàn”, “tổng
hoàn toàn”, các căn cứ địa cách mạng đã được thành lập ở khắp các tỉnh.
Bước sang đầu năm 1944, tình hình nước ta và thế giới chuyển biến có
lợi cho cách mạng. Cuộc chiến tranh chống phát xít bước vào giai đoạn kết
thúc. Trước sự phát triển của Mặt trận Việt Minh và trước yêu cầu của cách
mạng, các đội Cứu quốc quân được thành lập. Các đội Cứu quốc quân đã tích
cực vận động quần chúng tham gia các hoạt động của Mặt trận, mở rộng căn
cứ cách mạng, phát triển vũ trang tuyên truyền.
Đầu tháng 5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp sửa soạn
khởi nghĩa và kêu gọi nhân dân “sắm vũ khí đuổi thù chung”. Khơng khí

chuẩn bị khởi nghĩa sơi sục trong khu căn cứ. Để chuẩn bị cho cuộc tổng khởi
nghĩa giành chính quyền, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân được thành lập và lập được chiến công ngay từ những trận đầu ra
quân ở Phai Khắt, Nà Ngần.
Như vậy, Mặt trận Việt Minh ra đời với chủ trương đoàn kết tập hợp
mọi lực lượng vào Mặt trận Dân tộc Thống nhất chống Pháp - Nhật đã góp
16


phần quan trọng vào việc chuẩn bị lực lượng chính trị và vũ trang cho cách
mạng Việt Nam. Với mục tiêu độc lập dân tộc là trên hết, Mặt trận Việt Minh
đã trở thành trung tâm tập hợp mọi tầng lớp ở mọi miền Tổ quốc hăng hái
tham gia các tổ chức “cứu quốc”, chuẩn bị sẵn sàng để chuyển cách mạng
Việt Nam sang thời kỳ cao trào, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền
về tay nhân dân.
1.3. Cơng tác xây dựng lực lượng vũ trang
Từ giữa năm 1939, khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ II sắp nổ ra,
Chính phủ Pháp càng thiên về hữu ra mặt phản động và phát xít hóa. Ở Đơng
Dương bọn thực dân phản động quay ra đàn áp khủng bố phong trào dân chủ.
Đảng chuyển vào hoạt động bí mật, hoạt động khơng hợp pháp, tiếp tục xây
dựng đội qn chính trị trong thời kỳ mới.
Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn cơng Ba Lan mở màn cuộc Chiến
tranh thế giới thứ II. Hai ngày sau, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Đơng
Dương từ đó bị cuốn vào khói lửa chiến tranh. Ngay sau khi lao vào cuộc
chiến, đế quốc Pháp thẳng tay đàn áp Đảng Cộng sản và phong trào dân chủ
tiến bộ ở trong nước cũng như ở các thuộc địa. Lường trước tình hình đó,
ngay khi Chiến tranh thế giới sắp nổ ra, Đảng đã chỉ thị cho cán bộ, đảng
viên đang hoạt động hợp pháp phải mau lẹ rút vào bí mật và giữ vững liên
hệ với quần chúng, phải duy trì lực lượng ở thành thị, đồng thời chuyển
trọng tâm công tác về nông thôn, biến nông thôn thành căn cứ địa rộng lớn

của cách mạng.
Hai tháng sau, Hội nghị Trung ương 6 (11-1939) họp tại Gia Định do
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội nghị đã quyết định chuyển hướng
chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc và phương pháp cách mạng trong
tình hình mới.
Hội nghị xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Đông
Dương là đánh đuổi đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đơng Dương
làm cho Đơng Dương hồn tồn độc lập. Về phương pháp cách mạng, tiếp tục
17


lợi dụng khả năng hoạt động công khai và nửa công khai để tranh thủ quần
chúng bằng cách xây dựng các tổ chức hợp pháp đơn giản, đồng thời xây
dựng các tổ chức quần chúng cách mạng bí mật như nông hội, công hội, thanh
niên phản đế, phụ nữ phản đế hoạt động bất hợp pháp, hướng tất cả các cuộc
đấu tranh của quần chúng vào chống đế quốc và tay sai nhằm dự bị những
điều kiện bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc.
Đến tháng 11-1940, Hội nghị Trung ương 7 họp tại làng Đình Bảng
huyện Từ Sơn (Bắc Ninh), dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh.
Hội nghị tiếp tục phát triển chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của
Hội nghị Trung ương 6 và đặt hẳn vấn đề khởi nghĩa vũ trang vào trương
trình nghị sự của cách mạng Đơng Dương. Hội nghị nhận định, chúng ta chưa
đứng trước một tình thế trực tiếp cách mạng, song một cao trào cách mạng
nhất định diễn ra. Nhiệm vụ trước mắt của Đảng là phải chuẩn bị để giành lấy
cái sứ mạng thiêng liêng lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ
trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập. Hội nghị đã thảo luận và quyết
định hai vấn đề cấp thiết:
Thứ nhất, duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du
kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang cơng tác vừa chiến đấu
chống địch, bảo vệ nhân dân vừa phát triển cơ sở cách mạng tiến tới thành lập

khu du kích, lấy vùng Bắc Sơn - Vũ Nhai làm trung tâm. Đảng cho rằng cuộc
khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra ngày 27-9-1940 dù chỉ tồn tại trong một tháng và
diễn ra trong phạm vi một huyện nhưng có ý nghĩa lịch sử lớn. Nó mở đầu
cuộc đấu tranh vũ trang của các dân tộc Đông Dương thời kỳ Chiến tranh thế
giới thứ II, đồng thời qua cuộc khởi nghĩa này Đảng ta rút được bài học quý
giá về đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa vũ trang và chọn thời cơ.
Thứ hai, quyết định đình chỉ việc chuẩn bị phát động khởi nghĩa của
Xứ ủy Nam Kỳ vì chưa có điều kiện bảo đảm thắng lợi. Chủ trương của
Trung ương vừa truyền đạt đến Sài Gịn thì đêm 23-11-1940 cuộc khởi nghĩa
đã bùng nổ và bị thất bại. Tiếp đó, cuộc nổi dậy của binh lính yêu nước trong
quân đội Pháp ngày 13-1-1941 do Đội Cung chỉ huy cũng bị dập tắt. Cả ba
18



×