Chuyên đề
TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ
VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TCH & HNKTQT
1. TCH & HNKTQT – Xu hướng hiện thực khách quan
a) Khái niệm:
Quốc tế hóa đời sống kinh tế là một u thế khách quan, gắn liền với sự phát triển
của các quan hệ kinh tế, do sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động
quốc tế qui định.
Toàn cầu hóa và Khu vực hóa kinh tế là những hệ quả bắt nguồn từ xu thế quốc
tế hóa đời sống kinh tế;
Hợp tác kinh tế và Hội nhập kinh tế quốc tế lại là những nội dung cơ bản của
Toàn cầu hoá và Khu vực hóa kinh tế
Thuật ngữ Toàn cầu hóa (Globalization) xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1961 và
được sử dụng phổ biến từ khoảng cuối thập niên 1980 cho tới nay.
Thuật ngữ Khu vực hóa xuất hiện phổ biến từ sau thế chiến II với sự nổi lên của xu
hướng tập hợp thành những nhóm khu vực ở nhiều lĩnh vực khác nhau của các nước, các
dân tộc
Hai thuật ngữ Toàn cầu hóa và Khu vực hoá sử dụng trong lĩnh vực kinh tế được
hiểu là:
Quá trình hình thành và phát triển của các quan hệ kinh tế vượt qua biên giới
giữa các quốc gia;
Quá trình gia tăng sự tương tác và tùy thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các nước
thông qua sự gia tăng các luồng giao lưu hàng hoá và nguồn lực;
Sự hình thành các định chế - các tổ chức quốc tế nhằm quản lý – điều tiết các
hoạt động giao dịch kinh tế trên phạm vi khu vực và toàn cầu
Điểm khác nhau cơ bản giữa hai thuật ngữ trên là ở qui mô và phạm vi địa lý:
1
Khi quá trình này diễn ra giữa hai hoặc nhiều quốc gia – lãnh thổ trong một khu vực
địa lý nhất định, được gọi là Khu vực hoá;
Khi quá trình có sự tham gia của rất nhiều quốc gia – lãnh thổ ở những khu vực địa lý
khác nhau trên toàn thế giới, được gọi là Toàn cầu hóa.
Tuy là hai hiện tượng khác biệt nhưng về cơ bản, Toàn cầu hóa và Khu vực hóa là
thống nhất với nhau.
Khu vực hoá là quá trình Toàn cầu hóa diễn ra theo từng bộ phận và từng khu vực
địa lý.
Khu vực hóa là bộ phận của quá trình Toàn cầu hóa, là những bước đi để tiến tới
Toàn cầu hóa.
Cũng như Toàn cầu hóa và Khu vực hóa, thuật ngữ Hội nhập (Integration) cũng
xuất phát từ các nước phương Tây.
Trên thế giới, từ nửa cuối thập niên 1950, đặc biệt là vào thập niên 1960 và 1970 đã ra
đời nhiều công trình lý luận và nghiên cứu thực tiễn về integration.
Ở Việt Nam, thuật ngữ này được sử dụng nhiều từ giữa thập niên 1990 trở lại đây.
Hội nhập Kinh tế Quốc tế (International Economic Intergration) là:
Quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế của từng quốc gia và vùng lãnh thổ với
nền kinh tế khu vực và thế giới, thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa trên các cấp
độ đơn phương, song phương và đa phương.
HNKTQT thực chất chính là sự chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế
Hợp tác kinh tế quốc tế và Hội nhập kinh tế quốc tế là hai khái niệm khác nhau
Hợp tác Kinh tế Quốc tế là quá trình hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế
(phân công, trao đổi, liên kết, phối hợp …) một cách chủ động, tích cực giữa hai hay nhiều
quốc gia.
HT KTQT có nhiều hình thức và có thể diễn ra trên nhiều lĩnh vực (như: Hợp tác
Thương mại, Hợp tác Đầu tư, Hợp tác sản xuất, Hợp tác tín dụng, Hợp tác khoa học -
công nghệ, Hợp tác Dịch vụ …).
HT KTQT phải tuân thủ các nguyên tắc như: Tự nguyện, Bình đẳng, Cùng có lợi,
Tôn trọng chủ quyền …
2
Hợp tác KTQT và Hội nhập KTQT là hai khái niệm khác biệt về cấp độ, trong đó
“Hội nhập” ở cấp độ cao hơn nhiều so với “Hợp tác”.
Trong “Hợp tác” các thể chế kinh tế – xã hội của một quốc gia vẫn mang tính
quốc gia, tuy có chịu tác động phần nào của định chế quốc tế;
Còn trong “Hội nhập” thì các thể chế kinh tế – xã hội của một quốc gia tất yếu
phải có những đặc trưng thích hợp với những định chế khu vực và toàn cầu và do những
định chế này qui định.
Trong bối cảnh hiện nay, hai quá trình “Hợp tác” và “Hội nhập” thường đan xen
với nhau.
“Hội nhập” phải trên cơ sở của “Hợp tác”, là sự phát triển của “Hợp tác”,
Và “Hợp tác” luôn phải hướng tới mục tiêu “Hội nhập”
b) Những nội dung (hay biểu hiện) chủ yếu của quá trình TCH & HNKTQT
Nội dung chủ yếu của quá trình toàn cầu hoá
Thứ nhất, sự gia tăng các luồng giao lưu quốc tế về các yếu tố - nguồn lực về sản
xuất, thương mại, đầu tư, tài chính, công nghệ, dịch vụ, nhân công …
Thứ hai, sự hình thành và phát triển của các thị trường thống nhất trên phạm vi
khu vực và toàn cầu
Thứ ba, sự hình hành và phát triển của các cơ chế, tổ chức và định chế kinh tế
quốc tế để điều chỉnh và quản lý các hoạt động giao dịch kinh tế trên phạm vi khu vực và
toàn cầu (theo hướng làm cho các hoạt động này ngày càng tự do hơn)
Thứ tư, các quốc gia - dân tộc không còn là chủ thể duy nhất, mà tồn tại đồng thời
nhiều chủ thể khác nhau, đều có vai trò quan trọng đối với việc chế định các chính sách
và hoạt động kinh tế diễn ra trong nền kinh tế toàn cầu
Các chủ thể này bao gồm: Các chính phủ; Các tổ chức liên chính phủ; Các tổ chức
kinh tế khu vực; Các tổ chức kinh tế toàn cầu; Các công ty xuyên quốc gia v.v.
Đặc biệt, các công ty xuyên quốc gia (TNCs) với cấu trúc hoạt động theo mô hình
mạng lưới, cắm nhánh ở hầu hết các quốc gia và khu vực trên thế giới, là những tế bào
kết nối nền kinh tế thế giới thành một hệ thống toàn cầu )
3
Thứ năm, xu hướng liên kết quốc tế với nhiều hình thức, nhiều nội dung, nhiều
cấp độ khác nhau … được đẩy nhanh hơn bao giờ hết, giữa các nền kinh tế có tính tương
thuộc chặt chẽ
Các quốc gia, bất kể thuộc trình độ và xuất phát điểm phát triển như thế nào, buộc
phải tham gia vào một “sân chơi chung” và bình đẳng.
Sự liên kết kinh tế, xét trên mọi góc độ, giúp cho các nền kinh tế quốc gia phát huy
được tối đa lợi thế so sánh của mình
Nội dung chủ yếu của các quá trình HNKTQT:
Thứ nhất: Ký kết và tham gia các định chế - tổ chức kinh tế quốc tế, cùng đàm phán,
xây dựng các “luật chơi” chung và thực hiện đúng các quy định, cam kết của các định chế -
tổ chức đó.
Thứ hai: Tiến hành các cải cách và điều chỉnh cần thiết ở trong nước theo hướng ngày
càng hoàn chỉnh và phù hợp hơn với các qui định, cam kết quốc tế về hội nhập
Những nội dung quan trọng nhất của việc cải cách - điều chỉnh trong nước bao
gồm:
- Điều chỉnh các luật định và chính sách theo hướng tự do hóa và mở cửa, giảm và
tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, làm cho việc trao đổi và luân chuyển các
yếu tố - nguồn lực giữa các nước thành viên ngày càng thông thoáng hơn
- Điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế cho phù hợp với quá trình tự do hóa và mở cửa, tạo
ra được một cơ cấu kinh tế tối ưu, có khả năng cạnh tranh cao, phát huy tốt nhất những ưu
thế của đất nước trong quá trình hội nhập.
- Tiến hành những cải cách cần thiết về kinh tế, xã hội để nâng cao năng lực cạnh
tranh, đặc biệt là cải cách hệ thống các doanh nghiệp, nhằm bảo đảm quá trình hội nhập
được thực hiện và đưa lại hiệu quả cao.
- Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực để có thể đáp ứng tốt các đòi hỏi của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó đặc biệt là đội ngũ doanh nhân, cán bộ quản lý,
công chức, và lực lượng công nhân lành nghề ….
c) Các hình thức (hay mức độ) HNKTQT
- HNKTQT là một quá trình tổng hợp, diễn ra cả ở cấp độ đơn phương, song phương
và đa phương.
4
Ở cấp độ “Đơn phương”, mỗi nước có thể chủ động thực hiện những biện pháp tự do
hóa - mở cửa trong một số lĩnh vực nhất định, vì mục đích phát triển kinh tế của mình
Ở cấp độ “Song phương”, các nước tiến hành đàm phán để ký kết với nhau các hiệp
định song phương trên cơ sở các nguyên tắc của một khu vực mậu dịch tự do.
Ở cấp độ “Đa phương”, nhiều nước cùng nhau thành lập hoặc tham gia vào những
định chế - tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu.
Về hình thức HNKTQT: Có 5 mô hình từ thấp đến cao:
1. Khu vực mậu dịch tự do (Free Trade Area ):
Là hình thức thấp nhất của tiến trình HNKTQT, trong đó các nền kinh tế thành
viên sẽ tiến hành giảm và loại bỏ dần các hàng rào thuế quan, phi thuế quan, cũng như các
hạn chế định lượng trong thương mại nội khối.
Các thành viên tham gia FTA vẫn giữ tư cách độc lập và vẫn áp dụng chính sách
thuế quan đối với các nước ngoài khối.
(Ví dụ: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); Khu vực mậu dịch tự do Bắc
Mỹ (NAFTA); Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – TBD (APEC) …)
2. Liên minh thuế quan (Customs Union):
Là hình thức HNKTQT trong đó
Tham gia vào C.U, các thành viên ngoài việc hoàn tất loại bỏ thuế quan và các hạn
chế về số lượng trong thương mại nội khối, còn phải cùng nhau thực hiện một chính sách
thuế quan chung đối với các nước ngoài khối.
(Ví dụ: Cộng đồng kinh tế Châu Au (EEC), Cộng đồng phát triển Nam Phi (SADC)
…)
3. Thị trường chung (Common Market):
Là mô hình liên minh thuế quan cộng thêm với việc bãi bỏ các hạn chế đối với việc
lưu chuyển của các yếu tố sản xuất khác.
Trong một Thị trường chung, không những hàng hóa, dịch vụ mà hầu hết các nguồn
lực khác (vốn, kỹ thuật, công nghệ, nhân công…) đều được tự do lưu chuyển giữa các thành
viên.
(Ví dụ: Thị trường chung Châu Au (EEC); Thị trường chung Nam Mỹ
(MERCOSUR) …)
5
4. Liên minh kinh tế (Economic Union):
Là mô hình hội nhập ở giai đoạn cao. Mô hình này dựa trên cơ sở Thị trường chung,
cộng thêm với việc phối hợp các chính sách kinh tế giữa các thành viên như:
i) Ấn định một tỷ giá hối đoái cố định trong một thời gian dài giữa các nước trong
liên minh với nhau; ii) Ấn định lãi suất trong nước cân đối với lãi suất của liên minh ; iii)
Lập ra một cơ quan duy nhất có trách nhiệm quản lý tiền tệ chung.
Ví dụ: Liên minh Châu Au (EU)
5. Liên kết toàn diện (Comprehensive Union):
Là giai đoạn cao nhất của quá trình hội nhập. Trong mô hình này, các thành viên thực
hiện sự thống nhất về các lĩnh vực kinh tế, tài chính, tiền tệ, thuế … và các chính sách xã
hội.
Các thành viên cùng nhau thỏa thuận về các vấn đề chính yếu như:
i) Xây dựng một chính sách phát triển kinh tế chung; ii) Xây dựng một chính sách đối
ngoại chung; iii) Hình thành một đồng tiền chung; iv) Qui định chính sách lưu thông tiền tệ
thống nhất; v) Xây dựng một ngân hàng chung; vi) Xây dựng một chính sách quan hệ tài
chính đối ngoại chung của liên minh với các nước ngoài liên minh và với các tổ chức tài
chính tiền tệ quốc tế. …
Ở giai đoạn này, quyền lực quốc gia trong các lĩnh vực trên được chuyển giao cho
một cơ chế cộng đồng.
(Những mô hình trên chỉ có tính lý thuyết. Trên thực tế, nhiều quá trình HNKTQT
không đi theo đúng trình tự và hoàn toàn khớp với nội dung của các mô hình đó).
Mỗi hình thức - mức độ hội nhập trên đều đòi hỏi những điều kiện nhất định mà
các thành viên tham gia phải đáp ứng được.
Về mặt kinh tế, các thành viên phải là những nền kinh tế theo cùng một mô – típ, và
khi hội nhập ở mức càng cao thì đòi hỏi các thành viên phải có trình độ phát triển kinh tế
không quá cách xa nhau.
Về mặt địa lý, những tổ chức kinh tế khu vực thường bao hàm yếu tố gần nhau về địa
lý giữa các nước, nhất là cùng nằm trong một khu vực địa lý tự nhiên.
Về mặt chính trị – xã hội, mức độ hội nhập càng cao thì những đòi hỏi về sự đồng
nhất của hệ thống chính trị - xã hội giữa các nước cũng càng cao, bởi vì hội nhập ở mức cao
6
thì các thành viên phải phối hợp và thống nhất chính sách chung không chỉ trong lĩnh vực
kinh tế mà còn cả trong lỉnh vực chính trị – xã hội.
Trước khi kết thúc chiến tranh lạnh, những đòi hỏi về mặt kinh tế cũng như chính trị –
xã hội đối với các thành viên của một định chế hoặc TCKTQT nhìn chung là rất chặt chẽ.
Sự khác biệt về bản chất của hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội là yếu tố không thể
được chấp nhận
Tuy nhiên, gần đây, tiêu chí này ngày càng không còn là một đòi hỏi thực tiễn đối với
nhiều định chế và tổ chức khu vực và toàn cầu nữa.
2. Tiến trình và triển vọng phát triển của TCH & HNKTQT
a) Khái quát tiến trình phát triển của TCH & HNKTQT
Nghiên cứu lịch sử cho thấy: TCH & HNKTQT phát triển theo một con đường gấp
khúc, lúc nhanh lúc chậm, lúc nổi lên, lúc lắng xuống.
Có thể xem đây như là một quá trình có tính chu kỳ, tuy nhiên xu hướng cơ bản và
xuyên suốt của quá trình này là sự phát triển với trình độ cao ngày càng cao cả về quy mô,
hình thức, lẫn nội dung.
Trong lịch sử thế giới cận đại và hiện đại, cho đến nay đã diễn ra ba làn sóng
toàn cầu hoá, tương ứng với 3 thời kỳ phát triển của HNKTQT
Làn sóng thứ nhất
Diễn ra vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX (cho đến trước Thế chiến I),
Gắn liền với sự chuyển biến từ CNTB Cạnh tranh tự do thành CNTB Độc quyền, và
sự bành trướng thị trường của các nước TBCN thông qua việc xâm chiếm, giành giật thuộc
địa
Đặc điểm của quá trình TCH trong thời kỳ này là:
i) Sự hình hành các khối thị trường khá biệt lập gồm chính quốc và các nước thuộc
địa;
ii) Sự liên kết dọc giữa chính quốc và thuộc địa, mối liên kết ngang giữa các thành
viên của các khối khác nhau còn rất hạn chế;
iii) Quan hệ kinh tế quốc tế cũng chủ yếu là mối quan hệ bất bình đẳng, luật chơi
hoàn toàn do chính quốc đặt ra, phục vụ cho lợi ích của chính quốc
7
Trong thời kỳ giữa hai cuộc thế chiến I và II, xu thế TCH có sự suy giảm do tác động
nặng nề của hai cuộc chiến tranh thế giới và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933),
sau đó có sự bùng nổ trở lại từ thập niên 1950
Làn sóng thứ hai
Diễn ra từ những năm 1950 đến giữa những năm 1970, gắn liền với cuộc cách mạng
kỹ thuật lần thứ hai (cách mạng khoa học kỹ thuật)
Đặc điểm chính của làn sóng TCH trong giai đoạn này là:
i) Sự bùng nổ của các thể chế liên kết kinh tế trên phạm vi toàn cầu và khu vực;
ii) Sự phát triển mạnh mẽ cả về qui mô và tốc độ của các dòng thương mại, dịch vụ,
đầu tư, tài chính, công nghệ, nhân công … giữa các nước (đặc biệt là sự gia tăng của FDI
nhanh hơn nhiều so với thương mại quốc tế)
iii) Sự phát triển của các Công ty xuyên quốc gia TNCs – một nhân tố quan trọng của
TCH & HNKTQT.
iv) Sự hình thành hai mô hình liên kết chính trị - kinh tế mang tính độc lập (hệ quả
của sự tồn tại song song hai hệ thống chính trị – kinh tế thế giới đối địch nhau.
Thời kỳ từ cuối thập niên 1970 đến cuối thập niên 1980 xu thế TCH lại có phần lắng
xuống do tác động của cuộc khủng hoảng dầu lửa.
Làn sóng thứ ba
Bắt đầu bùng phát mạnh mẽ từ cuối thập niên 1980 trở lại đây, cùng với việc kết thúc
chiến tranh lạnh, sự tan rã của hệ thống XHCN thế giới và cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại
Làn sóng TCH trong thời kỳ này có những biến đổi to lớn cả về “lượng” và
“chất”, thể hiện ở những đặc điểm sau:
i) Sự gia tăng nhanh chóng và chưa từng có của các thể chế liên kết kinh tế toàn cầu và
khu vực với số lượng thành viên ngày càng nhiều và mức độ liên kết ngày càng cao, cả về
hình thức lẫn nội dung
ii) Sự gia tăng nhanh chóng của các luồng lưu chuyển khổng lồ về thương mại - hàng
hóa - dịch vụ - đầu tư - tài chính - tiền tệ - công nghệ … giữa các nước trên phạm vi khu vực
và toàn cầu, được hổ trợ bằng một hệ thống dày đặc các thiết chế quốc tế cùng với mạng
lưới khổng lồ của các công ty xuyên quốc gia,
8
iii) Quá trình TCH & HNKTQT đã bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên tin học -
với những thay đổi có tính cách mạng to lớn của công nghệ thông tin, và thế giới hầu như
không còn biên giới kinh tế giữa các quốc gia.
iv) Sự liên kết kinh tế giữa các quốc gia không còn dựa trên cơ sở ý thức hệ, hay tương
đồng về văn hóa, trình độ phát triển kinh tế, chế độ chính trị – xã hội …, tính “mở”đã trở
thành một khuynh hướng chung của sự liên kết.
(Một điều đặc biệt là mặc dù đã xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ với phạm
vi lan rộng ra nhiều khu vực khác nhau trên thế giới vào cuối thập kỷ 90, nhưng xu thế TCH
không bị chặn lại mà vẫn tiếp tục phát triển mạnh).
b) Triển vọng phát triển của TCH & HNKTQT
Mặc dù không phải lúc nào cũng theo con đường thẳng tắp, nhưng theo dự báo trong
một vài thập kỷ tới có nhiều nhân tố tác động “thuận” tới chiều hướng phát triển của tiến
trình TCH, trong đó có những nhân tố chủ yếu sau:
Thứ nhất: Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là cuộc cách mạng
trong lĩnh vực thông tin, tiếp tục phát triển mạnh mẽ và sẽ thúc đẩy sự phát triển một cách
rộng rãi và toàn diện của tiến trình toàn cầu hóa.
Sự giao lưu của các luồng vốn, tài nguyên, nhân lực, thông tin và công nghệ sẽ diễn ra
một cách sôi động, nhanh chóng hơn trên phạm vi toàn cầu. Hầu hết các nước đều sẽ bị lôi
cuốn và ràng buộc chặt chẽ vào hệ thống kinh tế thế giới.
Thứ hai: Xu thế quốc tế hóa các hoạt động sản xuất – kinh doanh, đặc biệt là với sự
hổ trợ to lớn của công nghệ thông tin và Internet, sẽ thúc đẩy các ngành dịch vụ của thế giới
phát triển và mở rộng một cách đáng kể.
Cùng với sự phát triển của khoa học - công nghệ, sự phát triển của hệ thống các công ty
xuyên quốc gia (TNCs) sẽ là những yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự tiếp tục phát triển
của toàn cầu hóa trong một vài thập kỷ tới.
Thứ ba: Xu thế hoà bình và phát triển sẽ tiếp tục tăng cường và là xu thế chính của
thời đại. Mặc dù còn những biến động, thậm chí xảy ra những xung đột cục bộ ở một số
nơi, nhưng nhìn chung tình hình quốc tế về cơ bản sẽ vẫn ổn định.
9
Các quốc gia trên thế giới sẽ tiếp tục dành ưu tiên cao cho sự phát triển kinh tế, tăng
cường hợp tác với nhau và cố gắng duy trì hoà bình quốc tế. Chính sách mở cửa và tự do hóa
vẫn sẽ được các nước tiếp tục thực hiện,
Thứ tư: Sự ra đời và phát triển của kinh tế tri thức đang ngày càng được khẳng định
như là một xu thế tất yếu của nền kinh tế “hậu công nghiệp”, góp phần quan trọng thúc đẩy
sự tăng trưởng kinh tế nói chung trên toàn thế giới, tăng cường tính toàn cầu của thị trường,
tính linh hoạt và rộng khắp của quá trình sản xuất kinh doanh…
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành bộ phận cấu thành chủ yếu của giá trị sản
phẩm, tỷ lệ của giá trị các yếu tố vật chất truyền thống ngày càng giảm. Các ngành kinh tế
dựa trên tri thức, đặc biệt là các ngành sử dụng công nghệ cao, chiếm lĩnh vị trí then chốt
trong toàn bộ nền kinh tế.
Đặc biệt, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết lập
nên mạng thông tin đa phương tiện bao phủ khắp nơi. Thương mại điện tử, thị trường ảo, xí
nghiệp ảo, tổ chức ảo, chính phủ ảo, làm việc từ xa…. được thiết lập, làm cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh trở nên rất nhanh nhạy, linh hoạt, khoảng cách và vị trí địa lý mất dần ý
nghĩa.
Thị trường của nền kinh tế tri thức cũng không còn giới hạn trong biên giới một quốc
gia mà mở rộng khắp thế giới, do tính thông quan và lan toả của thông tin và tri thức. Cách
thức tổ chức quản lý cũng thay đổi: quản lý theo mô hình mạng, phi tập trung, phi đẳng cấp,
phát huy quan hệ ngang …
Tóm lại, sự phát triển của kinh tế tri thức sẽ có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình
TCH & HNKTQT
Tuy nhiên, ngoài những yếu tố “thuận” trên, hiện nay và trong vài thập kỷ tới, xu thế
TCH & HNKTQT cũng chịu ảnh hưởng “nghịch” của nhiều nhân tố:
Một là: Mâu thuẫn và cuộc đấu tranh giành lợi ích diễn ra ngày càng gay gắt giữa
các nước, các nhóm nước và các nhóm xã hội trong từng nước trong quá trình toàn cầu
hoá.
Đặc biệt là sự xuất hiện của phong trào quốc tế phản đối toàn cầu hóa, tạo ra những lực
cản mạnh mẽ đối với tiến trình phát triển của TCH .
10
Hai là: Khủng hoảng kinh tế ở các nước lớn, các trung tâm kinh tế và các khu vực
quan trọng trên thế giới vẫn luôn là một nguy cơ tiềm tàng.
Những biến động kinh tế tại các nước và các trung tâm kinh tế lớn đều có ảnh hưởng
tiêu cực tới tiến trình phát triển của TCH&HNKTQT, không chỉ làm giảm khối lượng của
các dòng lưu chuyển kinh tế - tài chính, mà còn mở đường cho sự quay lại của chủ nghĩa bảo
hộ mậu dịch và tăng cường những nhân tố chống TCH & HNKTQT ở các nước.
Trong bối cảnh sự tương thuộc quốc tế ngày càng chặt chẽ, khủng hoảng ở một nước
luôn có khả năng lan truyền trở thành một cuộc khủng hoảng kinh tế - chính trị lớn trên thế
giới nếu không có một cơ chế quốc tế xử lý có hiệu quả.
Ba là: Những bất ổn về chính trị, những xung đột về tôn giáo, văn hóa, sắc tộc,
nhân quyền và chủ nghĩa khủng bố tiếp tục gia tăng ở nhiều nước và khu vực trên thế
giới, gây cản trở không nhỏ đối với quá trình thực hiện tự do hóa mậu dịch trên phạm vi toàn
cầu cũng như từng khu vực.
Bốn là: Sự thay đổi trong xu hướng tập hợp lực lượng quốc tế cũng như quá trình
đa cực hóa (với ít nhất ba trung tâm chính trị – kinh tế lớn trong tương lai là Bắc Mỹ, Liên
minh Châu Âu (EU) và Đông Á) có ảnh hưởng to lớn đối với cơ cấu địa – chính trị toàn cầu.
Cùng với nhiều nhân tố khác, sự phát triển nói trên của quá trình biến đổi trong quan hệ
quốc tế sẽ làm giảm vai trò chi phối và dẫn dắt của các nước phát triển trong quá trình toàn
cầu hóa hiện nay…
*Tất cả các nhân tố thuận và nghịch trên đồng thời tác động tới tiến trình TCH &
HNKTQT.
Khi nào các yếu tố thuận mạnh hơn hoặc áp đảo thì TCH & HNKTQT phát triển và
nổi lên thành cao trào, khi nào các yếu tố nghịch mạnh hoặc áp đảo thì tiến trình này chậm
lại hoặc thoái trào trong một thời gian.
Tuy nhiên, nhìn chung trong vòng vài ba thập kỷ tới, các yếu tố thuận xem ra vẫn còn
mạnh hơn, vì vậy TCH & HNKTQT sẽ vẫn tiếp tục phát triển và là xu thế quan trọng của
quan hệ quốc tế hiện đại
3. Những tác động và hệ quả chủ yếu của quá trình TCH & HNKTQT
Đặc biệt phát triển mạnh mẽ và trở thành một xu thế lớn trong quan hệ quốc tế hiện
đại trong thời điểm hiện nay, TCH & HNKTQT có những tác động hết sức sâu sắc tới hầu
11
hết mọi mặt của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội của từng nước và các mối quan hệ quốc
tế.
Tuy nhiên sự đánh giá tác động này là rất khác nhau giữa các nước, nhóm nước và các
nhóm xã hội trong mỗi nước, chủ yếu tùy thuộc vào nhận thức và lợi ích mà họ được hưởng
hoặc mất đi trong quá trình này.
Dựa trên những cơ sở khoa học và kết quả của các công trình nghiên cứu thực tiễn, có
thể khái quát những tác động và hệ quả chính của HNKTQT như sau:
a) Những tác động tích cực
Trước hết, TCH & HNKTQT tạo ra những cơ hội mà tất cả các nước có thể tận
dụng để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
TCH & HNKTQT là quá trình tự do hóa, làm cho các rào cản thương mại và đầu tư bị
loại bỏ dần, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để các nước tăng cường các hoạt động giao thương,
thu hút đầu tư, khai thác các nguồn lực bên ngoài, phát huy các nguồn lực bên trong, phát
triển sản xuất và nâng cao mức sống người dân.
TCH & HNKTQT còn thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi nước theo
hướng chuyên môn hóa sản xuất, giúp khai thác tối đa lợi thế so sánh của mỗi nước, thúc
đẩy giao lưu và trao đổi khoa học, công nghệ, kinh nghiệm quản lý … từ đó nâng cao năng
lực cạnh tranh của hàng hóa và của doanh nghiệp ở mỗi nước.
Thứ hai, TCH & HNKTQT luôn đặt các nước trước những thách thức của cạnh
tranh và yêu cầu của việc điều chỉnh, từ đó tạo động lực cho sự phát triển.
Xu thế TCH & HNKTQT đòi hỏi mỗi nước phải mở cửa nền kinh tế, thực hiện tự do
hóa thương mại - đầu tư, điều này cũng có nghĩa là đưa nền kinh tế và các DN trong nước
tham gia vào cuộc cạnh tranh quốc tế, đặt các nền kinh tế và DN trước những thách thức
ngày càng lớn
Dưới áp lực của xu thế TCH & HNKTQT, tất cả các nước đều phải tiến hành điều
chỉnh chính sách và các hoạt động thực tiễn theo hướng tự do hóa và mở cửa nhiều hơn, bảo
đảm thực hiện được các cam kết quốc tế và làm cho quá trình hội nhập đưa lại hiệu quả thiết
thực đối với sự phát triển đất nước.
Những điều chỉnh như vậy thực sự là những cải cách quan trọng và tạo động lực
mạnh mẽ đối với sự phát triển của mỗi nước.
12
Thứ ba, TCH & HNKTQT góp phần bảo đảm an ninh của các quốc gia, duy trì và
củng cố hoà bình - an ninh quốc tế
Quá trình TCH & HNKTQT làm ra đời và củng cố mạng lưới dày đặc các thiết chế
quốc tế, đặc biệt là các tổ chức quốc tế trong mọi lĩnh vực, góp phần hạn chế và giúp giải
quyết xung đột giữa các nước, duy trì và củng cố hoà bình, an ninh quốc tế .
Thông qua các thiết chế và tổ chức quốc tế này, các nước, đặc biệt là các nước vừa và
nhỏ, có khả năng bảo vệ tốt hơn lợi ích quốc gia cũng như an ninh của mình, và có vị thế ít
bất lợi hơn trong quan hệ với các nước lớn.
Quá trình TCH & HNKTQT còn thúc đẩy sự xích lại gần nhau của các dân tộc; tạo
khả năng thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển, về cơ cấu tổ chức, hệ thống luật pháp,
năng lực quản lý; kích thích các luồng và dạng giao lưu; làm cho con người ở mọi quốc
gia và châu lục ngày càng hiểu nhau hơn … từ đó cải thiện khả năng và tạo cơ sở bảo đảm
an ninh ở mỗi quốc gia.
b) Những khó khăn và thách thức
Bên cạnh những tác động tích cực, quá trình TCH & HNKTQT cũng đặt các nước
trước rất nhiều khó khăn, thách thức đe dọa sự tồn tại và phát triển nếu không kiểm soát và
xử lý tốt các môí quan hệ nảy sinh.
Những khó khăn - thách thức này rất đa dạng, liên quan đến nhiều lĩnh vực.
Về kinh tế: Thách thức lớn nhất là vấn đề cạnh tranh quốc tế. Làm thế nào để nâng
cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của các DN trong nước trước các đối
thủ nước ngoài trong điều kiện mở cửa và hội nhập là những bài toán khó đối với mọi nước,
đặc biệt là các nước đang phát triển.
Để thích ứng với xu thế TCH & HNKTQT, các nước đều phải tiến hành những sự
điều chỉnh và cải cách cần thiết để tạo môi trường kinh doanh và đầu tư thông thoáng - thuận
lợi, đồng thời phù hợp với luật chơi chung của thế giới . Đây là một quá trình đầy khó khăn
mà mỗi nước phải đối mặt. Sai lầm trong bước đi và phương thức tiến hành có thể dẫn đến
những hậu quả tai hại, thậm chí cả những đổ vỡ về kinh tế – xã hội .
Về chính trị: Quá trình TCH & HNKTQT đặt ra những vấn đề phải xử lý liên quan
đến độc lập, chủ quyền, đến hệ thống chính trị và các thiết chế xã hội.
13
Tính độc lập của mỗi quốc gia sẽ bị thách thức bởi sự gia tăng tính tùy thuộc lẫn nhau
giữa các quốc gia, sự hạn chế thẩm quyền và khả năng hành xử theo ý chí của riêng của mỗi
quốc gia.
Sự ổn định của hệ thống chính trị và các thiết chế xã hội sẽ luôn chịu áp lực của đòi
hỏi phải đổi mới để phù hợp với quá trình tự do hóa và mở cửa.
Sự lợi dụng, can thiệp của các thế lực bên ngoài vào các nước luôn là vấn đề có thể
xảy ra. Giải quyết vấn đề này cũng sẽ bao hàm việc giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa an
ninh quốc phòng và yêu cầu mở cửa để phát triển kinh tế, tăng cường hợp tác quốc tế .
Về mặt xã hội: Những thách thức của quá trình TCH & HNKTQT mà các nước phải
đối mặt thể hiện tính phức tạp, chứa đựng nhiều hiểm họa đối với sự ổn định cũ.
Có thể nêu ra những hiểm họa chính như:
Nguy cơ gia tăng thất nghiệp và xáo trộn công ăn việc làm của một bộ phận người
lao động trong xã hội do kết quả tất yếu của việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cạnh tranh;
Nguy cơ suy giảm nền văn hóa, tuyền thống đạo đức và bản sắc dân tộc;
Nguy cơ truyền bá – lây lan các nạn khủng bố, các tệ nạn xã hội như ma túy, mãi
dâm;
Nguy cơ gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất công trong xã hội v.v
**Trong bối cảnh hiện nay, để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, các quốc gia
và vùng lãnh thổ không có con đường nào khác là phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung của
khu vực và thế giới, hợp tác và cạnh tranh vì sự tồn tại và phát triển của mình.
TCH & HNKTQT thực chất chính là một cuộc đấu tranh quyết liệt để góp phần phát
triển kinh tế và củng cố an ninh chính trị, độc lập kinh tế và giữ gìn bản sắc dân tộc của mỗi
nước.
14