Tải bản đầy đủ (.pdf) (214 trang)

Môi Trường Thẩm Mỹ Trong Cơ Quan Hành Chính Thành Phố Hà Nội.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 214 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHI MINH

LA ĐỨC ĐẠI

MƠI TRƯỜNG THẨM MỸ TRONG
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH THUỘC THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: MỸ HỌC

\

HÀ NỘI - 2021


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHI MINH

LA ĐỨC ĐẠI

MƠI TRƯỜNG THẨM MỸ TRONG
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH THUỘC THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: MỸ HỌC
Mã số: 9 22 90 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS,TS. VĂN ĐỨC THANH
2. TS. LÊ TRUNG KIÊN

\



HÀ NỘI - 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình nghiên cứu này là của
riêng tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực. Những
kết luận trong luận án chưa từng được cơng bố ở bất cứ
cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

La Đức Đại


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI

6

1.1. Tình hình nghiên cứu về mơi trường và mơi trường thẩm mỹ

6

1.2. Tình hình nghiên cứu về môi trường và môi trường thẩm mỹ ở Thủ đô

Hà Nội

20

1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

24

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MÔI TRƯỜNG THẨM MỸ
TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH THUỘC THÀNH PHỐ HÀ NỘI

27

2.1. Lý luận về môi trường

27

2.2. Lý luận về môi trường thẩm mỹ

39

2.3. Lý luận về môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính

50

2.4. Các yếu tố tác động đến môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính

62

Chương 3: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ MƠI TRƯỜNG THẨM MỸ

TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH THUỘC THÀNH PHỐ HÀ NỘI

68

3.1. Khái quát về môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính nhà nước
hiện nay

68

3.2. Nhận diện mơi trường thẩm mỹ trong các cơ quan hành chính thuộc
thành phố Hà Nội

74

3.3. Đánh giá chung

109

Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
MÔI TRƯỜNG THẨM MỸ TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH THUỘC
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

116

4.1. Phương hướng xây dựng mơi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính

116

4.2. Các giải pháp mang tính định hướng


117

4.3. Các nhóm giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả của việc xây dựng mơi trường
thẩm mỹ trong cơ quan hành chính thuộc thành phố Hà Nội

122

4.4. Khuyến nghị

147

KẾT LUẬN

151

DANH MỤC CƠNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN

153

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

154

PHỤ LỤC

162


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong những năm qua cơng tác cải cách hành chính được Chính phủ
điều hành đã được triển khai trên diện rộng, đội ngũ cán bộ công chức được đào tạo,
bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để hồn thành cơng việc được giao. Mơi trường
để đội ngũ cán bộ công chức làm việc là một yếu tố đang được quan tâm, nhất là
môi trường thẩm mỹ. Đặc thù của cơng việc hành chính là giải quyết các thủ tục
mang tính pháp lý, giúp cho hoạt động hành chính nhà nước hoạt động hiệu quả và
vận hành thông suốt, đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Việc tạo ra môi trường
làm việc cho cán bộ công chức hiện nay cần được hiểu theo những tiêu chí đánh giá
như: nội dung cơng việc, hình thức thể hiện, sự thân thiện của con người với môi
trường xung quanh, cảm hứng sáng tạo, cảm hứng thẩm mỹ. Để đội ngũ cán bộ
cơng chức hồn thành tốt nhiệm vụ của mình, ngồi những yếu tố về trình độ
chun mơn được đào tạo, có yếu tố rất quan trọng đó là vấn đề văn hóa trong đó
bao hàm cả yếu tố văn hóa thẩm mỹ. Đại hội lần thứ XII của Đảng đã chủ trương:
Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện,
hướng đến chân- thiện- mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân
chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc
của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền
vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh [30, tr.126].
1.2. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, xu thế hội nhập
quốc tế đang diễn ra một cách mạnh mẽ và sôi động. Điều này địi hỏi mỗi cơng dân
nói chung và mỗi cán bộ cơng chức hành chính nói riêng cần phải nỗ lực khơng
ngừng rèn luyện để phát triển tồn diện về trí lực, nhân cách, đạo đức đáp ứng yêu
cầu của thời đại. Tại Đại hội Đảng lần thứ XI đã chỉ rõ: “Tập trung xây dựng đời
sống, lối sống và mơi trường văn hóa lành mạnh, coi trọng văn hóa trong lãnh đạo,
quản lý và văn hóa trong ứng xử” [29, tr.126]. Vấn đề đặt ra trong quá trình xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay là phải xây dựng con
người mới mang các yếu tố văn minh hiện đại, tiếp cận được khoa học cơng nghệ

của thế giới, tiếp thu có chọn lọc và chuyển hóa những tinh hoa của nhân loại phù


2
hợp với văn hóa truyền thống của dân tộc. Xây dựng lối sống, xây dựng văn hóa
cộng đồng thể hiện tình cảm, đạo đức trong sáng, tình nghĩa giữa người với người
tạo nên sự đoàn kết, thống nhất giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng tạo nên
những giá trị cao đẹp chân - thiện - mỹ. Tuy nhiên, q trình tồn cầu hóa và sự vận
hành của nền kinh tế thị trường, nhiều yếu tố tiêu cực từ bên ngồi cũng thâm nhập,
tác động khơng nhỏ đến tư tưởng, quan điểm, lối sống, đạo đức, nhân cách của con
người nói chung và của mỗi cá nhân cán bộ hành chính nói riêng.
Với những giá trị của cái đẹp, mơi trường thẩm mỹ nói chung và mơi trường
thẩm mỹ trong cơ quan hành chính nói riêng sẽ tác động tới con người một cách tự
nhiên, hình thành nên những phẩm chất thẩm mỹ mới, điều chỉnh hành vi của con
người. Môi trường thẩm mỹ đánh thức con người không chỉ năng lực thẩm mỹ mà
cịn tồn bộ năng lực sáng tạo tiềm ẩn trong hoạt động sản xuất vật chất và tinh
thần. Nhờ đó, mơi trường thẩm mỹ tác động đến thế giới tinh thần, tình cảm của con
người, góp phần hình thành và phát triển nhân cách của con người.
1.3. Trong q trình hiện đại hóa đất nước, Thủ đô Hà Nội - trái tim của đất
nước đang được xây dựng và phát triển một cách toàn diện để có được một diện
mạo mới của văn hóa thủ đô hướng tới “năm 2020, Hà Nội phải trở thành một đô
thị văn minh, hiện đại, thành phố du lịch hấp dẫn của khu vực, phát huy tốt vai trò là
trung tâm lớn về văn hóa, khoa học - cơng nghệ, giáo dục - đào tạo, kinh tế và giao
dịch quốc tế của cả nước” [88, tr.59]. Với chủ đề công tác năm 2017 của thủ đô là
“Năm kỷ cương hành chính”, trong phiên khai mạc kỳ họp thứ 3, khóa XV (nhiệm
kỳ 2016 - 2020) của Hội đồng nhân dân Hà Nội, Bí thư Thành ủy Hà Nội Hồng
Trung Hải nhấn mạnh: “Thành phố quyết tâm tăng cường trật tự, kỷ cương hành
chính, nâng cao vai trị nêu gương, đạo đức công vụ, tinh thần, thái độ, ý thức, văn
hóa ứng xử của đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức các cấp tại công sở, nơi cư trú
và nơi công cộng” [78]. Để làm được điều này, việc xây dựng mơi trường thẩm mỹ

nói chung và mơi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính nói riêng lại quan
trọng hơn bao giờ hết. Xây dựng môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính ở
Hà Nội khơng chỉ làm cho diện mạo của thủ đô văn minh - thanh lịch - hiện đại mà
cịn góp phần vào cơng tác giáo dục thẩm mỹ, tác động một cách trực tiếp đến quá
trình hình thành nhân cách cho cán bộ công chức, đảm bảo sự phát triển bền vững


3
của Thủ đô, tạo nguồn lực nội sinh quan trọng thể hiện lịng tự hào của người dân
thủ đơ trước nhân dân cả nước và bè bạn năm châu.
Với những kiến giải trên, chúng tôi chọn đề tài Môi trường thẩm mỹ trong
các cơ quan hành chính nhà nước thuộc thành phố Hà Nội làm đề tài luận án
tiến sĩ chuyên ngành Mỹ học với mong muốn góp phần vào việc xây dựng môi
trường thẩm mỹ cho sự vận hành có hiệu quả của các cơ quan hành chính nhà nước,
đảm bảo cho sự phát triển bền vững của Thủ đơ trong q trình đổi mới và hội nhập
quốc tế hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về môi trường thẩm mỹ trong cơ
quan hành chính, luận án nghiên cứu đánh giá thực trạng môi trường thẩm mỹ trong
các cơ quan hành chính thuộc thành phố Hà Nội, đề xuất phương hướng và giải
pháp góp phần nâng cao chất lượng mơi trường thẩm mỹ ở cơ quan hành chính nhà
nước thuộc thành phố Hà Nội hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là, góp phần làm rõ cơ sở lý luận về môi trường thẩm mỹ và môi trường
thẩm mỹ trong cơ quan hành chính thuộc thành phố Hà Nội.
Hai là, nhận diện về thực trạng môi trường thẩm mỹ tại một số cơ quan
hành chính thuộc thành phố Hà Nội, chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế của mơi
trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính thuộc thành phố Hà Nội.

Ba là, những vấn đề đặt ra đối với nâng cao chất lượng môi trường thẩm mỹ
tại cơ quan hành chính nhà nước thuộc thành phố Hà Nội.
3. Đối tượng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là môi trường thẩm mỹ trong cơ quan
hành chính thuộc thành phố Hà Nội, các yếu tố tác động đến môi trường thẩm mỹ,
thực trạng môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính, các quan hệ thẩm mỹ
được biểu hiện thơng qua chủ thể thẩm mỹ, khách thể thẩm mỹ và được gắn với các
giá trị chân - thiện - mỹ.


4
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những cơ quan hành chính nhà nước thuộc
Thành phố Hà Nội bao gồm: các Sở thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. Qua
khảo sát thực tế tại Sở Xây dựng, Sở Tài chính, Sở Thơng tin và truyền thơng, Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Văn hóa - Thể thao. Đây là những Sở được
lựa chọn ngẫu nhiên theo phương pháp khảo sát xã hội học. Thời gian tiến hành
khảo sát các Sở từ tháng 6/2017 đến tháng 8/2017.
Mơi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính thuộc thành phố Hà Nội là
một khái niệm rộng, bao hàm trong đó tồn bộ hoạt động thực thi cơng vụ trên cơ
sở quản lý và phục vụ xã hội. Luận án tập trung nghiên cứu môi trường thẩm mỹ
trong phạm vi cơ quan hành chính, các hoạt động hành chính, kết quả của hoạt động
hành chính thơng qua lăng kính thẩm mỹ.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Về cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về giáo dục và phát triển con người;
Nguyên lý Mỹ học Mác - Lênin.
4.2. Về phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trên cơ sở phương pháp luận chung đó, luận án sử

dụng các phương pháp cụ thể như:
Phương pháp lịch sử và logic như một phương pháp xuyên suốt của quá trình
thực hiện, giải quyết các nhiệm vụ mà luận án cần giải quyết.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: làm rõ các quan điểm có liên quan đến
mơi trường thẩm mỹ trong lịch sử, dùng các thao tác phân tích, tổng hợp thành hệ
thống để làm sáng tỏ vấn đề một cách toàn diện.
Phương pháp so sánh: nhận diện sự giống nhau và khác nhau giữa mơi
trường thẩm mỹ nói chung và môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính.
Phương pháp liên ngành: luận án vận dụng những thành tựu của triết học, mỹ
học, văn hóa học và lịch sử để đạt được mục đích đề ra.
Phương pháp gắn lý luận với thực tiễn: Trên cơ sở lý luận về môi trường
thẩm mỹ, luận án tập trung vào môi trường thẩm mỹ trong các cơ quan hành
chính nhà nước thuộc thành phố Hà Nội, từ đó luận án phân tích thực trạng về


5
mơi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính để hoàn thành những nhiệm vụ
nghiên cứu.
Phương pháp điều tra xã hội học: nội dung các câu hỏi tập trung phát hiện
nhận thức, thái độ, hành vi của cán bộ công chức trong thực thi cơng vụ hành chính.
Tiến hành điều tra, khảo sát ngẫu nhiên có chủ đích phù hợp với đối tượng khảo sát.
Sử dụng phần mềm Spss 20.0 để sử lý số liệu.
5. Đóng góp mới của luận án
- Tổng hợp những vấn đề về môi trường thẩm mỹ theo quan điểm mỹ
học mácxít;
- Làm rõ nội dung về mơi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính nhà
nước và vai trị của nó đối với giáo dục thẩm mỹ trong việc hình thành và phát triển
nhân cách, làm hình thành năng lực hành vi, hành động cao đẹp của mỗi cán bộ
công chức trong cơ quan hành chính;
- Khái qt thực trạng về mơi trường thẩm mỹ trong các cơ quan hành chính

nhà nước thuộc thành phố Hà Nội, từ đó bàn luận và khuyến nghị một số giải pháp
xây dựng môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính nhà nước thuộc thành phố
Hà Nội hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án hệ thống hóa các vấn đề lý luận về môi trường thẩm mỹ, cơ cấu, vai
trị của nó và đặc trưng mơi trường thẩm mỹ tại cơ quan hành chính nhà nước.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng mơi trường thẩm mỹ
trong cơ quan hành chính trên địa bàn thành phố Hà Nội, đề xuất một số giải pháp
góp phần nâng cao chất lượng, xây dựng mơi trường thẩm mỹ trong hoạt động hành
chính trong q trình cải cách hành chính.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng
dạy mơn mỹ học, hành chính học và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức; đồng
thời cung cấp cho các cơ quan hành chính những tài liệu tham khảo về lĩnh vực đã
nêu trên.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung luận án được kết cấu gồm
4 chương, 14 tiết.


6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ MƠI TRƯỜNG VÀ MƠI TRƯỜNG
THẨM MỸ

1.1.1. Những nghiên cứu về mơi trường xã hội, mơi trường văn hóa
Con người tồn tại khơng thể tách rời mối quan hệ với môi trường sinh thái và
môi trường xã hội. Đây là vấn đề không chỉ mang tính lý thuyết thuần túy, mà cịn

có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình nhận thức và tác động đến thực tiễn phát
triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay. Trong một thời gian rất dài, con người đã
quan tâm đến khai thác tài nguyên tự nhiên đến sự phát triển kinh tế. Vào những
năm 80 của thế kỷ XX, nhận thức rằng sự phát triển kinh tế khơng đi liền với phát
triển văn hóa thì đó vẫn là sự phát triển một chiều, cho nên UNESCO đã phát động
thập kỷ phát triển văn hóa để cho kinh tế và văn hóa có sự tương tác. Vào thập niên
đầu của những năm 90, con người nhận thức rằng, thế hệ trước muốn thỏa mãn nhu
cầu của mình thì phải chuẩn bị cho thế hệ sau cùng thỏa mãn tốt nhu cầu của mình,
cho nên, UNESCO đã đề xuất khái niệm phát triển bền vững. Khái niệm này gắn
liền với toàn bộ sự phát triển của con người đến môi trường. Hội nghị Thượng đỉnh
đầu tiên của thế giới về môi trường và phát triển diễn ra ở Rio De Janeiro, Braxin
(từ 3/6- 14/6/1992) đã đề cập toàn diện đến quan điểm chủ yếu, những vấn đề chủ
yếu, các chính sách và giải pháp chủ yếu về mối quan hệ của môi trường với sự
phát triển của hành tinh chúng ta. Các vấn đề này đã được Lê Quý An trình bày cụ
thể trên các tạp chí Thơng tin mơi trường số 3 năm 1992 và Tạp chí Hoạt động khoa
học số 3 và số 8 năm 1992. Bên cạnh việc Lê Quý An thông tin về những vấn đề
tồn cầu của mơi trường, ở nước ta trước đó và tiếp sau có rất nhiều học giả đã
nghiên cứu sâu về các khía cạnh của mơi trường. Trong các cơng trình nghiên cứu
về mơi trường nói chung, nhiều nhà nghiên cứu nhìn nhận theo hai khía cạnh: môi
trường sinh thái và môi trường xã hội.
Các công trình nghiên cứu về mơi trường sinh thái (mơi trường tự nhiên) cần
phải kể đến các cơng trình như: Mơi trường sinh thái, vấn đề và giải pháp của Phạm


7
Thị Ngọc Trầm [101]; Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển
xã hội của Hồ Sĩ Quý [80]; Môi trường và ô nhiễm của Lê Văn Khoa [59]; Sinh thái
và môi trường của Nguyễn Văn Tuyên [108];… Trong cuốn Mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên trong sự phát triển xã hội [80], Hồ Sĩ Quý cho rằng, trước tình
trạng ngày càng xấu đi của mơi trường thì vấn đề xây dựng mơi trường sinh thái

càng được thế giới đặc biệt coi trọng; hơn thế, cịn trở thành một tiêu chuẩn khơng
thể thiếu của chiến lược phát triển bền vững. Ở Việt Nam, vấn đề đạo đức môi
trường tới thời điểm hiện nay, vẫn chưa thật sự được quan tâm như một vấn đề bức
xúc. Từ đó, ơng nhận định: đạo đức mơi trường đang dần trở thành một tiêu chuẩn
không thể thiếu đối với các xã hội đi theo xu hướng phát triển bền vững.
Phạm Thị Ngọc Trầm với cơng trình Quản lý nhà nước đối với tài ngun
và mơi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội - nhân văn [102] đã
giải quyết những vấn đề cốt lõi nhất của vấn đề môi trường sinh thái ở Việt Nam
giai đoạn hiện nay. Cơng trình đã khai thác vấn đề thực trạng môi trường sinh thái
và những vấn đề bức xúc của mơi trường sinh thái dưới góc nhìn triết học - xã hội
gắn liền với sự phát triển bền vững. Tác giả cũng đưa ra những phân tích sâu sắc về
vai trò của nhà nước và thực trạng của quản lý nhà nước đối với môi trường sinh
thái ở nước ta hiện nay. Từ đó, tác giả đề xuất một số quan điểm lý luận - phướng
pháp luận về cơ sở xã hội - nhân văn trong quản lý Nhà nước đối với môi trường
sinh thái dựa trên nền tảng mối quan giữa phát triển kinh tế, phát triển con người, xã
hội với việc bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững ở Việt Nam.
Cuốn sách Văn hóa sinh thái - nhân văn của Trần Lê Bảo [8], trong đó đã đề
cập đến khái niệm, thực chất của vấn đề môi trường sinh thái - nhân văn, cơ sở triết
học - xã hội của mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên, tác động của con
người vào môi trường tự nhiên, truyền thống hòa hợp với thiên nhiên của người
Việt Nam; Trần Lê Bảo đã đề cập đến tác động của con người vào môi trường tự
nhiên, môi trường sinh thái - nhân văn và sự phát triển bền vững, đạo đức sinh thái,
truyền thống hòa hợp với thiên nhiên của người Việt Nam, thực trạng và thách thức
về môi trường sinh thái - nhân văn ở nước ta hiện nay.


8
Năm 2002, Cục Môi trường đã cho xuất bản cuốn Hành trình vì sự phát triển
bền vững 1972 - 1992 [21], cơng trình này đã trình bày các tun bố của thế giới về
môi trường và phát triển bền vững gắn liền với những giải pháp mang tính khả thi

đảm bảo cho sự hài hịa giữa mơi trường sinh thái với sự phát triển.
Các cơng trình nghiên cứu về mơi trường xã hội chủ yếu được các nhà khoa
học diễn giải trên các phương diện như môi trường lao động, môi trường nông thôn,
môi trường đô thị, môi trường văn hóa… trong đó, mơi trường văn hóa được các
nhà nghiên cứu đặc biệt chú trọng. Tiêu biểu có các cơng trình Văn hóa - một số
vấn đề lý luận của Trường Lưu [69], đã xem xét mơi trường văn hóa trong mối quan
hệ thống nhất hữu cơ với môi trường tự nhiên và mơi trường xã hội, từ đó đặt ra yêu
cầu trong hoạt động xây dựng môi trường văn hóa cần có sự kết hợp hài hịa, đồng
bộ với nhiệm vụ xây dựng môi trường tự nhiên và môi trường xã hội nhằm phát
triển toàn diện con người, qua đó tác động tới sự phát triển của văn hóa, xã hội.
Hoàng Vinh trong cuốn Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng mơi
trường văn hóa ở nước ta hiện nay [112] nhấn mạnh vai trò của việc tổ chức xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở - bước đi ban đầu của sự nghiệp xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc - đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống hàng
ngày của nhân dân.
Từ việc đi sâu nghiên cứu khái niệm, bản chất, chức năng của văn hóa, Trần
Văn Bính trong Đề cương bài giảng lý luận văn hóa cho hệ đào tạo cao học và
nghiên cứu sinh [9], xem môi trường văn hóa được hình thành bởi các giá trị mà
hoạt động của con người tạo ra.
Trong cơng trình nghiên cứu Xây dựng mơi trường văn hóa ở nước ta hiện
nay từ góc nhìn giá trị học [49], Đỗ Huy đã tiếp cận mơi trường văn hóa theo thước
đo giá trị lịch sử - xã hội, làm hiện diện bản chất của mơi trường văn hóa như một di
sản có nhiều năng lượng quý hiếm mà tất cả các thế hệ tiếp nối đều phải gìn giữ và
sáng tạo tiếp. Từ đó đề ra việc đánh giá mơi trường văn hóa phải được dựa vào một
hệ chuẩn nhất định. Ngồi chương mở đầu và kết luận, cơng trình đã trình bày một
cách cơ đọng mơi trường văn hóa Việt Nam vận động một cách logic từ quá khứ


9
đến hiện tại và xuyên suốt tương lai. Đó là các vấn đề về xây dựng mơi trường văn

hóa nơng thôn truyền thống và hiện đại; sự vận động của mơi trường văn hóa nơng
thơn trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; mơi trường văn hóa đơ thị ở
nước ta hiện nay; mơi trường văn hóa gia đình…
Tiếp cận văn hóa như một tổng thể chiều sâu, bề rộng, tầm cao của các giá trị
mang tính nhân văn, Văn Đức Thanh trong cuốn Về xây dựng môi trường văn hóa
cơ sở [87] đã đặt ra yêu cầu nhận thức và vận dụng đúng đắn những vấn đề phương
pháp luận trong q trình xây dựng mơi trường văn hóa cơ sở.
Cơng trình Con người, mơi trường và văn hóa là tập hợp các bài viết (có bổ
sung, sửa chữa) về chủ đề trên của Nguyễn Xn Kính đã cơng bố trong các hội
thảo, tạp chí từ năm 1991 đến nay [65]. Thơng qua cuốn sách, người đọc sẽ hình
dung về người Việt Nam trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên, mơi trường xã
hội và với chính mình. Con người Việt Nam với những kiểu dạng cụ thể: người
nông dân, người thành thị, người thợ thủ công, người bn bán, nhà nho, người trí
thức tân học… với các khía cạnh ẩm thực, trang phục, đi lại và làm lụng, với một số
biểu hiện của văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần, được tác giả đặt trong những thời
kì, giai đoạn lịch sử cụ thể. Bên cạnh những kiểu người thuộc tầng lớp dân chúng,
người đọc còn thấy thấp thoáng chân dung của vua chúa, quan chức thời quân chủ
độc lập qua những chính sách, việc làm, phát ngôn của họ; thấy cả hậu quả của chủ
nghĩa thực dân Pháp và vai trị của văn hóa Pháp đối với nước ta từ cuối thế kỷ XIX
đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Ngồi ra, nhiều tác giả khơng trực tiếp đề cập đến mơi trường văn hóa mà
đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về văn hóa như: Văn hóa và
đổi mới của Phạm Văn Đồng [33]; Vấn đề văn hóa và phát triển của tác giả
Hoàng Trinh [103]; Quản lý hoạt động văn hóa của Nguyễn Văn Hy, Phan Văn
Tú và Hồng Sơn Cường [56]; Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Nguyễn Khoa Điềm [31]; Những vấn đề
văn hóa Việt Nam đương đại của tác giả Bùi Khái Vinh [113]... Đây thực sự là
những cơng trình nghiên cứu có giá trị, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu toàn diện
về mơi trường văn hóa.



10
Một số tác giả cũng đã nghiên cứu về môi trường thẩm mỹ, môi trường nghệ
thuật như một biểu hiện đặc trưng của mơi trường văn hóa. Trong đó, phải kể đến
các cơng trình tiêu biểu của Đỗ Huy như: Xây dựng mơi trường văn hóa ở nước ta
hiện nay từ góc nhìn giá trị học [51]; Văn hóa Việt Nam trên con đường giải phóng,
đổi mới, hội nhập và phát triển vì chủ nghĩa xã hội [52]; Các giá trị văn hóa Việt
Nam chuyển từ truyền thống đến hiện đại [53]… Các cơng trình của Đỗ Huy đã
phân tích sâu giá trị của môi trường thẩm mỹ với tư cách là một bộ phận của mơi
trường văn hóa ở nước ta xoay quanh hệ giá trị của cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Tác
giả cho rằng, tiếp cận giá trị học về mơi trường văn hóa khơng thể tách rời khỏi cái
đẹp. Cái chân, cái thiện, cái mỹ trên mơi trường văn hóa có mối quan hệ khơng thể
tách rời. Cái đẹp làm cho mơi trường văn hóa ln ln sinh động và sống động.
Nhà nghiên cứu cịn nêu rõ, trong mọi hồn cảnh khó khăn, Đảng ta ln ln coi
cái đẹp có gốc rễ từ lao động, từ đấu tranh, từ xây dựng cuộc sống. Vì thế, cái đẹp
có ở ngay trong hoạt động lao động, trong đời sống hàng ngày. Vì vậy, để xây dựng
mơi trường văn hóa thì chúng ta cần phải tích cực xây dựng môi trường thẩm mỹ
trên cơ sở của cái đẹp bên cạnh cái đúng và cái tốt.
1.1.2. Những nghiên cứu về môi trường thẩm mỹ
Vào những năm 70 của thế kỷ XX, đất nước ta đang trong giai đoạn phát
triển kinh tế tập thể, ưu tiên phát triển công nghiệp, những vấn đề môi trường đặc
biệt là môi trường thẩm mỹ đã được nhiều cơ quan và các nhà nghiên cứu chú ý.
Trên tạp chí Thanh niên số 11 năm 1973 đã xuất hiện các bài viết về Cái đẹp và mơi
trường sáng tạo; số 12 năm 1973 có những bài viết về Nhân tố thẩm mỹ của sản
phẩm lao động; số 8 năm 1977 có bài viết về Đưa cái đẹp vào lao động sản xuất.
Trên tạp chí Triết học số 3 năm 1977 có bài viết Đưa cái đẹp vào cuộc sống hằng
ngày. Trên tạp chí Cơng đồn số 109, tháng 8 năm 1989 cũng đã đề cập đến vấn đề
văn hóa thẩm mỹ trong quản lý lao động. Ngồi ra, có rất nhiều cuốn sách của các
tác giả chuyên nghiên cứu về mỹ học, mỹ thuật công nghiệp đã đi sâu nghiên cứu
nhiều vấn đề phức tạp của mơi trường thẩm mỹ.

* Nhóm cơng trình nghiên cứu về thẩm mỹ
Trên phương diện khái niệm cũng như bản chất và biểu hiện của lĩnh vực
thẩm mỹ đã thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu mỹ học, nghệ thuật học trong và ngoài


11
nước. Các giáo trình, sách chun khảo nước ngồi có đề cập vấn đề chung về lý
luận và thực tiễn liên quan đến lĩnh vực thẩm mỹ phải kể đến những cơng trình
khoa học nghiên cứu như: Ngun lý mỹ học Mác - Lênin của IU. Lukin, V.C.
Xcacherơsiccốp [68] đã nghiên cứu bản chất của lĩnh vực thẩm mỹ, coi cái thẩm mỹ
là một phương diện quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nhân cách con
người. Ngoài ra cơng trình cịn trình bày về biểu hiện của cái thẩm mỹ thông qua ba
phương diện bao gồm khách thể thẩm mỹ với cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả
trong đó cái đẹp giữ vị trí trung tâm; chủ thể thẩm mỹ và nghệ thuật.
Đến những năm 80 - 90 của thế kỷ XX ở Liên Xô xuất hiện nhiều cơng trình:
Mỹ học Mác - Lênin và việc giáo dục bộ đội của Ax. Milôviđốp và B. Xaphrônốp
[73]; Mỹ học Mác - Lênin là một khoa học của P.S. Tơrôphimốp; Mỹ học - khoa học
diệu kỳ của B. A. Eren Grôx; Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người (1984) của
M.B. Khraptrenco; Mỹ học cơ bản và nâng cao (2001) của Ốpxiannhicốp… Những
cơng trình này đều bàn về các yếu tố, cung bậc ý thức thẩm mỹ của chủ thể như:
tình cảm thẩm mỹ, nhu cầu thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ, quan
điểm thẩm mỹ... được đề cập trong quan hệ với khách thể thẩm mỹ. Đồng thời, các
cơng trình cũng đề cập đến sự cải biến khách thể gắn với ý thức thẩm mỹ của chủ
thể trong lĩnh vực sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật.
Mỹ học cơ bản và nâng cao (Ốpxiannhicốp chủ biên, 2001) đã đề cập các
vấn đề cơ bản của mỹ học như đối tượng, nhiệm vụ của mỹ học; đặc trưng, bản chất
của nghệ thuật, các loại hình nghệ thuật và các khách thể thẩm mỹ như cái đẹp, cái
cao cả, cái bi, cái hài. Tác giả đưa ra định nghĩa và tính phổ biến của cái thẩm mỹ
trong đời sống xã hội và nghệ thuật.
Những cơng trình khoa học trong nước, nổi bật là cơng trình của Đỗ Huy

nghiên cứu về Cái đẹp - một giá trị, đã phân tích cơ chế đánh giá của chủ thể thẩm
mỹ và khẳng định: “Khơng có chủ thể thẩm mỹ, sẽ khơng có đánh giá, thưởng thức
và sáng tạo những giá trị thẩm mỹ. Khơng có chủ thể thẩm mỹ khơng có cái gì được
gọi là cái bi, cái hài, cái đẹp và cái giá trị” [43, tr.183]. Theo tác giả, các phạm trù
thẩm mỹ là sản phẩm tất yếu của sự đánh giá, thưởng thức và sáng tạo những giá trị
thẩm mỹ của chủ thể thẩm mỹ dựa trên trình độ, năng lực thẩm mỹ và những kinh


12
nghiệm thẩm mỹ trong hoạt động thực tiễn. Theo tác giả, cái thẩm mỹ mặc dù có
cội nguồn là thế giới hiện thực nhưng chỉ có thể xuất hiện với tư cách là sản phẩm
phức hợp của sự tương tác biện chứng trực tiếp giữa chủ thể thẩm mỹ với khách thể
thẩm mỹ.
Cơng trình nghiên cứu Thị hiếu thẩm mỹ trong đời sống của Nguyễn Chương
Nhiếp [74] đã đề cập đến phạm trù thẩm mỹ thông qua việc lý giải và phân tích về
thị hiếu thẩm mỹ trong cấu trúc của nhận thức thẩm mỹ. Trong khi luận giải vai trò
của thị hiếu thẩm mỹ đối với đời sống thẩm mỹ, tác giả đã chỉ ra: thị hiếu thẩm mỹ
với tư cách vừa là nhân tố chủ đạo trong thưởng thức thẩm mỹ, vừa là yếu tố quan
trọng trong hoạt động đánh giá của chủ thể, vừa là một yếu tố cấu thành năng lực
sáng tạo của chủ thể thẩm mỹ. Vì vậy, yếu tố thẩm mỹ rất cần thiết đối với mọi hoạt
động của con người.
Sách Quan hệ giữa cái thẩm mỹ và cái đạo đức trong cuộc sống và trong
nghệ thuật của Nguyễn Văn Phúc [77] đã phân tích tính đặc thù của cái thẩm mỹ,
đồng thời làm rõ sự khác biệt của chủ thể về mặt nhận thức thẩm mỹ (tình cảm
thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, quan điểm thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ) trong so sánh
với cái đạo đức và sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Điều này chứng tỏ rằng,
cái thẩm mỹ biểu hiện ở nhận thức thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ, ý chí thẩm mỹ,
quan điểm thẩm mỹ... khơng thể tách rời các khía cạnh khác của đời sống kinh tế,
chính trị - xã hội, đạo đức - pháp quyền, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo... của từng
thời đại, từng cộng đồng, từng tập đoàn xã hội nhất định, thêm vào đó là cả những

điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội cũng như điều kiện sống riêng của từng cá
nhân. Tiếp cận theo hướng này là rất cần thiết đối với luận án khi nghiên cứu về
mối quan hệ và biểu hiện của mối quan hệ giữa cái thẩm mỹ và cơ quan hành chính
nhà nước.
Bàn về Sự biến đổi của chuẩn mực đánh giá thẩm mỹ trong thời kỳ đổi mới ở
Việt Nam, Vũ Thị Kim Dung [24] đã luận giải đặc điểm cơ bản của chuẩn mực
đánh giá thẩm mỹ trong mơi trường văn hố thẩm mỹ là nằm trong cấu trúc chủ thể
thẩm mỹ, có sự tham gia tổng hợp của các yếu tố: xúc cảm, tình cảm, quan điểm, lý
tưởng thẩm mỹ... Tác giả đã đề cập đến trình độ phát triển của ý thức thẩm mỹ với


13
tư cách năng lực đánh giá thẩm mỹ. Từ đây, Vũ Kim Dung cũng phân tích về sự
chuyển đổi mang tính lệch pha của các chuẩn mực về đánh giá thẩm mỹ trong thời
kỳ đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Đây là một cơng trình có giá trị đánh giá về mơi
trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính nhà nước hiện nay ở nước ta.
+ Nhóm cơng trình nghiên cứu về văn hóa thẩm mỹ
Văn hóa thẩm mỹ là một vấn đề rất quan trọng trong đời sống con người.
Tuy nhiên, khái niệm văn hóa thẩm mỹ chỉ được đề cập và sử dụng phổ biến bắt
đầu từ những năm 60, 70 của thế kỷ XX trong giới nghiên cứu triết học, mỹ học và
văn hóa học ở Liên Xơ. Tiêu biểu là các cơng trình:
- Văn hóa thẩm mỹ của con người Xô viết của M.X.Cagan [12] đã trình bày
bản chất của văn hóa thẩm mỹ, xem giáo dục thẩm mỹ như là một phương diện
hình thành nhân cách và khẳng định vai trò to lớn của mơi trường văn hóa thẩm mỹ
trong việc phát triển con người tồn diện.
- Giáo trình Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin của A.I.Ácnơnđốp [2] đã
dành cả chương XV để trình bày về mơi trường văn hóa thẩm mỹ xã hội chủ nghĩa.
Trong chương này, tác giả đã trình bày những quan điểm chung nhất về mơi trường
văn hóa thẩm mỹ, chức năng và lĩnh vực biểu hiện của nó. Tác giả cho rằng, mơi
trường văn hóa thẩm mỹ có vai trị to lớn trong mọi hoạt động nhận thức, đánh giá,

sáng tạo của con người theo chuẩn mực Chân - Thiện - Mỹ.
- Cơng trình Văn hố thẩm mỹ và sự phát triển con người Việt Nam trong thế
kỷ mới của Nguyễn Văn Huyên đã đưa ra quan niệm:
Văn hoá thẩm mỹ là một thể thống nhất hữu cơ các giá trị thẩm mỹ và
hoạt động sáng tạo thẩm mỹ của con người đang hiện thực hoá những
năng lực thẩm mỹ của họ, đồng thời văn hoá thẩm mỹ còn là một hệ
thống độc đáo xuyên suốt tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã
hội từ kinh tế, chính trị, khoa học… đến các quan hệ, các giao tiếp của
con người [55, tr.52].
Trên cơ sở đó, các nhà nghiên cứu cũng xem xét ý thức thẩm mỹ cá nhân là
một phương diện, thành tố của mơi trường văn hố thẩm mỹ - mơi trường văn hoá
thẩm mỹ cá nhân, và được biểu hiện ở những cấp độ khác nhau: Cấp độ hoạt động


14
- thực tiễn; Cấp độ tâm lý - cảm xúc; Cấp độ lý tính... cơng trình cũng đề cập đến
sự thể hiện vai trị của mơi trường văn hố thẩm mỹ trong nhận thức, đánh giá và
sáng tạo của con người, những luận giải và cách tiếp cận đó gợi mở cho đề tài có
cách nhìn biện chứng về vai trị của mơi trường văn hố thẩm mỹ với văn hóa
thẩm mỹ cá nhân (mơ thức hiện thực hố và giá trị hố mơi trường văn hóa thẩm
mỹ chung ấy).
Nghiên cứu Văn hoá thẩm mỹ và nhân cách của Lương Quỳnh Khuê xác
định năng lực thẩm mỹ là một yếu tố cơ bản nằm trong cấu trúc nội tại của văn hố
thẩm mỹ, đó là một năng lực tinh thần - thực tiễn, là phẩm chất bậc cao của “những
lực lượng bản chất của con người” [60]. Lương Quỳnh Khuê đã trình bày và phân
tích sâu mối quan hệ giữa mơi trường văn hóa thẩm mỹ với sự phát triển nhân cách
thể hiện các những năng lực thẩm mỹ của con người bao gồm năng lực nhận thức đánh giá và sáng tạo.
Từ góc độ tiếp cận chung về mơi trường văn hố thẩm mỹ và vai trị của nó
đối với phát triển nhân cách, Lê Thị Thuỳ Dung đã vận dụng để phân tích Vai trị
của văn hố thẩm mỹ đối với sự phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay

[23]. Tuy nhiên, cơng trình này chỉ dừng lại ở hai phương diện lớn trong vai trò của
mơi trường văn hố thẩm mỹ đối với sự phát triển nhân cách là: định hướng giá trị,
bồi dưỡng năng lực cảm xúc, hoàn thiện năng lực tư duy và phát triển năng lực sáng
tạo. Trong khi đó, nói tới vai trị của mơi trường văn hố nói chung và mơi trường
văn hóa thẩm mỹ nói riêng đối với phát triển nhân cách là nói tới tiềm năng cung
cấp tri thức sống có văn hố, có thẩm mỹ của cộng đồng đến hình thành nhân cách,
cùng sức mạnh điều tiết bằng chân - thiện - mỹ của nó đối với q trình phát triển
nhân cách thơng qua hoạt động giảng dạy và học tập, hoạt động chính trị - xã hội và
hoạt động vui chơi giải trí... trong mơi trường nhà trường, đồng thời còn nhất thiết
phải đề cập tới những nét bản sắc độc đáo về lối hành xử thẩm mỹ.
Cơng trình nghiên cứu: Phát triển giá trị văn hoá trong nhân cách sĩ quan
trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay của Nguyễn Xuân Trường [104] đã đề
cập đến vai trị của văn hố và giáo dục giá trị văn hoá trong phát triển ý thức thẩm
mỹ sĩ quan trẻ, thông qua việc luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn và giải pháp phát


15
triển giá trị văn hoá trong nhân cách sĩ quan trẻ hiện nay. Điều đó liên quan đến giải
pháp xây dựng mơi trường văn hố thẩm mỹ, làm cơ sở cho phát triển ý thức thẩm
mỹ của đội ngũ sĩ quan trẻ trong tương lai.
+ Nhóm cơng trình nghiên cứu về giáo dục thẩm mỹ thông qua môi trường
lao động
Giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp giáo dục và
xây dựng con người mới. Vì vậy, nó đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu trên thế giới và ở nước ta. Các thành tựu nghiên cứu ở nước ngoài đã được dịch
sang tiếng Việt, tiêu biểu phải kể đến các cơng trình: Mỹ học Mác - Lênin với việc
giáo dục bộ đội của A.X. Milôviđốp, B.V. Xaphrônốp [73]; Nguyên lý mỹ học Mác
- Lênin của IU. Lukin, V.C. Xcacherơsiccốp [68] đã nghiên cứu bản chất của giáo
dục thẩm mỹ, coi giáo dục thẩm mỹ thông qua môi trường lao động là một phương
diện quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nhân cách con người. Các cơng

trình Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin của Acnơnđốp [2]; Ngun lý mỹ học Mác
- Lênin của đồng tác giả IU.Lukin, V.C. Xcacherơsiccốp [68] đã trình bày những
quan niệm về bản chất, nội dung cũng như nhiệm vụ của giáo dục thẩm mỹ trong
môi trường lao động.
A.X. Milôviđốp và B.V. Xaphrônốp về Mỹ học Mác - Lênin với việc giáo
dục bộ đội [73] đã đề cập khá toàn diện đến giáo dục thẩm mỹ thông qua môi
trường lao động như con đường trực tiếp, cơ bản và quan trọng bậc nhất nhằm phát
triển ý thức thẩm mỹ. Đặc biệt, cơng trình đã gắn trực tiếp đến lĩnh vực giáo dục
thẩm mỹ trong môi trường hoạt động quân sự bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
trong xây dựng tư cách và nếp sống của quân nhân Xô-viết. Đây là tiền đề quan
trọng để nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa, phát triển trong đề xuất giải pháp của
luận án.
Sách Tâm lý văn nghệ của Chu Quang Tiềm [95] tuy không phải là một cơng
trình nghiên cứu chun sâu về giáo dục thẩm mỹ nhưng đã nghiên cứu công phu
về giáo dục thẩm mỹ thơng qua mơi trường lao động từ góc độ tâm lý học. Nghiên
cứu giáo dục thẩm mỹ như là q trình hình thành thẩm mỹ, cơng trình đã cung cấp
cơ sở lý luận cho hoạt động giáo dục thẩm mỹ khi hướng dẫn mọi hoạt động đối với
chủ thể thẩm mỹ.


16
Các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu trong nước về giáo dục thẩm mỹ là rất
đa dạng và phong phú, trong đó cần nói tới các cơng trình sau: Giáo dục thẩm mỹ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Đỗ Huy [44]; Giáo dục lý tưởng thẩm mỹ cho
thanh niên thông qua hệ thống thiết chế nhà văn hoá của Trần Quốc Bảng [7]; Đưa
cái đẹp vào cuộc sống của Như Thiết [90]; Về giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay
của Vĩnh Quang Lê [66]; Giáo dục thẩm mỹ trong việc hình thành lối sống văn hố
cho thanh niên vùng đồng bằng sơng Cửu Long hiện nay của Lương Thanh Tân
[85]; Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ của Trần Tuý [107]; Vai trị
của truyền thơng đại chúng trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay của Trần
Ngọc Tăng [86]; Giáo dục thẩm mỹ - Món nợ lớn đối với thế hệ trẻ của Đỗ Xuân

Hà [38]; Một số hiểu biết cơ bản về văn hoá nghệ thuật và giáo dục thẩm mỹ của
Tổng cục Chính trị [99].
Trong cơng trình Giáo dục thẩm mỹ - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Đỗ
Huy quan niệm: “Giáo dục thẩm mỹ vừa là một thể thống nhất giữa các hình thức
hoạt động khác nhau của con người, chịu sự tác động của toàn bộ quan hệ xã hội lại
vừa có mục tiêu, phương tiện và nội dung riêng biệt” [44, tr.31] và trình bày bản
chất giáo dục thẩm mỹ thơng qua mơi trường lao động là bồi dưỡng lịng khao khát
đưa cái đẹp vào cuộc sống, tạo nên sự hài hoà giữa xã hội - con người - tự nhiên,
nâng cao năng lực thụ cảm và sáng tạo của con người, làm cho con người phát triển
hài hoà trong hoạt động lao động cũng như nghỉ ngơi, trong quan hệ gia đình cũng
như xã hội. Tuy nhiên, bản chất của giáo dục thẩm mỹ phải là sự thống nhất giữa
hoạt động định hướng, truyền thụ thẩm mỹ của chủ thể giáo dục từ bên ngồi với
vai trị tự định hướng của chủ thể thẩm mỹ trong lĩnh hội, lựa chọn, tiếp nhận giá trị
thẩm mỹ nhằm chuyển hoá nhân cách theo mơ hình xác định. Theo đó, giáo dục
thẩm mỹ vừa là quá trình giáo dục để hình thành, phát huy năng lực bản chất người
theo quy luật cái đẹp, vừa là q trình hoạt động tự giác, có chủ đích của các chủ thể
nhằm xây dựng và phát triển năng lực thẩm mỹ, ý thức thẩm mỹ, văn hoá thẩm mỹ
cho con người.
Sách Mấy vấn đề đạo đức và thẩm mỹ trong thời kỳ quá độ ở nước ta của
Viện Triết học [111] là một cơng trình chun khảo tập hợp các bài tham luận của


17
những nhà nghiên cứu về phương pháp tiếp cận giáo dục thẩm mỹ, bản chất của
giáo dục thẩm mỹ, những hình thức cơ bản của giáo dục thẩm mỹ trong đó giáo dục
thẩm mỹ thơng qua mơi trường lao động là một nội dung quan trọng mà các tác giả
tập trung đề cập.
Nhà nghiên cứu Như Thiết trong sách Đưa cái đẹp vào cuộc sống đã chỉ
ra: quy luật vận động tất yếu của cái đẹp ngày một phát triển gắn liền với đời
sống hạnh phúc, văn minh, tiến bộ của xã hội, của mỗi người và gắn chặt với quy

luật vận động tiến lên của chủ nghĩa xã hội, do đó phải đưa được cái đẹp vào các
lĩnh vực quan trọng của cuộc sống hiện nay như: lao động, chiến đấu, học tập,
quan hệ giao tiếp, nếp sống, lối sống, trang phục, nghệ thuật… để vạch trần
những cái xấu, những biến tướng của nó trong các lĩnh vực ấy. Từ đó, tác giả
cho rằng: để thực hiện nhiệm vụ “đưa cái đẹp vào cuộc sống hàng ngày” đòi hỏi
chủ thể thẩm mỹ phải có ý thức, năng lực thẩm mỹ và phát huy tính chủ động,
tích cực của mình [90, tr.38]. Vấn đề phát huy tính chủ động, tích cực của chủ
thể trong phát triển ý thức thẩm mỹ là một nội dung quan trọng sẽ được kế thừa,
phát triển trong nội dung của luận án.
Vĩnh Quang Lê khi nghiên cứu Về giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay
cũng có cách lý giải tương tự. Tác giả đã làm rõ bản chất giáo dục thẩm mỹ thông
qua mơi trường lao động là sự hình thành ở chủ thể năng lực đồng hoá thẩm mỹ đối
với hiện thực. Với cách luận giải dưới góc độ mục tiêu của giáo dục thẩm mỹ, tác
giả đã đề cập đến năng lực thẩm mỹ với tính cách là năng lực cải tạo, hoạt động sản
sinh cái mới chỉ có thể hình thành trong mơi trường lao động. Theo đó, tác giả đưa
ra các thành phần chính yếu của ý thức thẩm mỹ hay năng lực thẩm mỹ là tình cảm
- cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ để giúp cho chủ thể sống
và hoạt động theo quy luật của cái đẹp [66, tr.19].
Cơng trình Giáo dục thẩm mỹ trong việc hình thành lối sống văn hố cho
thanh niên vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay của Lương Thanh Tân [85] đã
phân tích ý nghĩa và giá trị của giáo dục thẩm mỹ thông qua môi trường lao động
đối với thanh niên cả nước nói chung, thanh niên vùng đồng bằng sơng Cửu Long
nói riêng trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay; khẳng định những giá trị văn


18
hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc; những mặt tiêu cực và hạn chế, ảnh hưởng của
hội nhập quốc tế đối với thanh niên nơi đây. Tác giả cũng đưa ra một số giải pháp
cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thẩm mỹ thông qua môi trường lao động
trong việc hình thành lối sống cho thanh niên vùng đồng bằng sông Cửu Long

mang đặc trưng lối sống vùng miền, nhưng không tách rời với thanh niên cả nước
nói chung.
Cơng trình Giáo dục lý tưởng thẩm mỹ cho thanh niên thơng qua hệ thống
thiết chế nhà văn hố của Trần Quốc Bảng [7] cũng đề cập đến vai trị của giáo dục
thẩm mỹ qua mơi trường nhà văn hóa đối với việc hình thành nhân cách xã hội chủ
nghĩa cho thanh niên. Tác giả đi sâu phân tích những tác động của các giá trị văn
hoá truyền thống và sự phát triển kinh tế - xã hội với việc giáo dục lý tưởng thẩm
mỹ ở hệ thống thiết chế nhà văn hoá, đồng thời đề xuất những giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục lý tưởng thẩm mỹ cho thanh niên trong hệ thống
thiết chế nhà văn hố.
Các cơng trình khoa học trên đã đề cập nhiều vấn đề quan trọng về giáo dục
thẩm mỹ thơng qua mơi trường lao động. Trong đó, liên quan đến vai trị, nội dung,
hình thức, phương tiện giáo dục thẩm mỹ thông qua môi trường lao động cho các
đối tượng khác nhau. Các cơ quan hành chính nhà nước với tư cách là một môi
trường lao động đặc thù thì sự luận giải của các cơng trình kể trên ở một số nội
dung khá sâu sắc là cơ sở quan trọng cho nghiên cứu sinh kế thừa, bổ sung, làm rõ
thêm theo hướng nghiên cứu của luận án.
+ Nhóm cơng trình nghiên cứu về khái niệm và giá trị của mơi trường
thẩm mỹ
Vào năm 1983, trên Tạp chí Triết học đăng tải bài viết Mấy vấn đề thẩm mỹ
hóa môi trường của Đỗ Huy [42]. Bài viết đã phân tích và đánh giá về vai trị của
việc thẩm mỹ hóa mơi trường trong đời sống xã hội. Tác giả cũng cho rằng, nếu
đứng trên lập trường, quan điểm thẩm mỹ của chủ nghĩa Mác - Lênin và hoàn thiện
toàn bộ mơi trường của chúng ta chắc chắn nó sẽ góp phần khơng nhỏ cả về mặt
kinh tế, chính trị lẫn xây dựng con người mới cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau.
Vào năm 1999, Viện Mỹ thuật thuộc trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội phối
hợp với Hội Mỹ thuật Việt Nam đã tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề Thẩm


19

mỹ môi trường. Tại hội thảo, các nhà khoa học với những cách nhìn khác nhau đã
đánh giá các khía cạnh, các phương diện về môi trường thẩm mỹ. Những bài tham
luận trong hội thảo đã bao quát rất nhiều vấn đề liên quan đến môi trường thẩm
mỹ như khái niệm môi trường thẩm mỹ, về hiện trạng và các biện pháp nhằm xây
dựng môi trường thẩm mỹ ở nước ta, trong đó có bài viết Sự lệch pha giữa ý niệm
thẩm mỹ môi trường và hiện trạng môi trường thẩm mỹ của nhà nghiên cứu Vũ
Ngọc Thư [110]; Phát huy không gian môi trường thẩm mỹ truyền thống trong
quy hoạch đơ thị của Đồn Bá Cử [110]… Các tác giả cho rằng, chúng ta đang có
sự khác biệt rất nhiều giữa lý luận (ý niệm thẩm mỹ) và thực tiễn (mơi trường
thẩm mỹ), từ đó các tác giả cũng đưa ra những nhận định sự thay đổi của môi
trường thẩm mỹ từ truyền thống đến hiện đại và dự báo về xu hướng biến đổi của
môi trường thẩm mỹ trong tương lai. Từ những vấn đề chung mang tính lý luận,
các tác giả cũng đã đưa ra những dẫn chứng cụ thể về biểu hiện, giá trị của môi
trường thẩm mỹ và đưa ra những giải pháp mang tính đột phá nhằm xây dựng môi
trường thẩm mỹ ở nước ta hiện nay.
Trong bài báo Tìm đến giá trị của môi trường thẩm mỹ, tác giả Thái Hanh
đã tiếp cận giá trị của mơi trường thẩm mỹ với tính cách là khơng gian sinh thái tự
nhiên và cảnh quan có quan hệ với cuộc sống của con người và do con người tạo
nên. Tác giả thể hiện điều đó bằng các thuật ngữ “không gian môi trường” và
“cảnh quan môi trường” [39, tr.8] thông qua mô tả các tác phẩm, cơng trình nghệ
thuật kiến trúc, điêu khắc của lồi người đã tạo nên cảnh quan đẹp mắt và bổ ích.
Tuy nhiên, giá trị của mơi trường thẩm mỹ cịn được “chiết xuất” từ hệ thống giá
trị văn hoá thẩm mỹ trong các mối quan hệ mang tính thẩm mỹ của mơi trường xã
hội. Để thẩm mỹ hố mơi trường phải tạo ra trường thẩm mỹ lành mạnh, tức là
phải xây dựng các mối quan hệ, ứng xử, giao tiếp và các thiết chế văn hố theo
tiêu chí cái đẹp.
Khi nghiên cứu về giá trị thẩm mỹ của môi trường, rất nhiều tác giả đã
quan tâm đến các hệ giải pháp xây dựng môi trường thẩm mỹ. Chương 6 trong
cuốn Xây dựng mơi trường văn hóa ở nước ta hiện nay từ góc nhìn giá trị học
của Đỗ Huy đã trình bày sự tương tác giữa các hệ chuẩn của cái đúng, cái tốt với



20
cái đẹp của môi trường [49]. Coi cái đẹp của môi trường gồm cảnh quan, tự
nhiên, các sản phẩm lao động do con người tạo ra, lối sống của con người và các
thiết chế xã hội, tác giả đã đề xuất các q trình thẩm mỹ hóa mơi trường gắn với
pháp luật và đạo đức.
Hà Huy Bính trong Mấy vấn đề về đạo đức và thẩm mỹ trong thời kỳ q độ
trình bày hệ giải pháp xây dựng mơi trường thẩm mỹ bằng giáo dục cái thẩm mỹ
[11]. Cũng trong tác phẩm này, tác giả Hồng Mai lại đề xuất vấn đề môi trường
thẩm mỹ từ quan điểm sống và sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Ngoài ra, cịn có
một số tác giả như Lê Trung Kiên, Hồng Đạo Kính, Nguyễn Trực Luyên đã đề
xuất việc thẩm mỹ hóa mơi trường nơng thơn và mơi trường đơ thị ở nước ta từ quy
hoạch kiến trúc.
Những bài viết và cơng trình nghiên cứu về mơi trường văn hóa, thẩm mỹ đã
nêu trên bước đầu cho thấy môi trường thẩm mỹ dưới các góc độ khác nhau được
các tác giả đã tiếp cận được môi trường thẩm mỹ và các giá trị của môi trường thẩm
mỹ trong đời sống xã hội.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ MƠI TRƯỜNG VÀ MƠI TRƯỜNG
THẨM MỸ Ở THỦ ĐƠ HÀ NỘI

Vấn đề mơi trường và môi trường thẩm mỹ ở Thủ đô Hà Nội đã được nhiều
nhà nghiên cứu mỹ học, nghệ thuật học, văn hóa học… quan tâm nghiên cứu từ rất
sớm. Trước thời kỳ đổi mới đã có một số cơng trình nghiên cứu liên quan đến môi
trường và môi trường thẩm mỹ ở thủ đơ trong đó chủ yếu nghiêng về văn hóa ứng
xử của người Hà Nội.
Cơng trình Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường tự nhiên do
Nguyễn Viết Chức và các cộng sự đã trình bày khái qt về mơi trường tự nhiên và
văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên truyền thống [19]. Trên cơ sở đó, các tác
giả cũng đưa ra thực trạng môi trường tự nhiên ở Hà Nội trước thách thức của tồn

cầu hịa trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa thủ đơ. Ngồi ra, cơng trình
cũng đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng văn hóa ứng xử với
mơi trường tự nhiên ở Thủ đơ Hà Nội. Các tác giả tập trung làm rõ mối quan hệ
giữa mơi trường thiên nhiên và văn hóa ứng xử đối với môi trường thiên nhiên ở


21
người Hà Nội, từ truyền thống đến hiện đại. Trước thách thức của tồn cầu hóa
trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa các tác giả đã đề xuất một
số phương hướng, quan điểm, giải pháp và điều kiện xây dựng văn hóa ứng xử của
người Hà Nội với mơi trường thiên nhiên. Nhìn chung, cho đến nay chưa có cơng
trình nào trực tiếp nghiên cứu chủ đề văn hóa ứng xử của người Hà Nội trong thời
kỳ đổi mới. Các cơng trình nêu ở trên là sự gợi ý và cung cấp một số cơ sở luận cứ,
luận chứng để hoàn thành việc nghiên cứu đề tài của luận án.
Sở Văn hố - Thơng tin Hà Nội vào năm 1974 đã xuất bản cơng trình Người
Hà Nội thanh lịch [83]. Cơng trình tập trung phân tích đánh giá những giá trị văn
hóa và biểu hiện chất thanh lịch ở người Hà Nội trong lịch sử và trong cuộc sống
hàng ngày. Các tác giả đặc biệt nhấn mạnh nét đẹp thanh lịch trong cuộc sống tập
thể, về những giá trị văn hóa truyền thống của người Hà Nội trong việc hình thành
và phát triển mơi trường thẩm mỹ của Hà Nội ở thời điểm hiện tại và tương lai.
Vũ Khiêu, Nguyễn Vĩnh Cát với cơng trình Văn hóa Thủ đơ hơm nay và
ngày mai [58] đã phân tích, đánh giá văn hóa Thủ đơ qua 45 năm xây dựng và phát
triển (1945 - 1990), nhất là mục “Bộ mặt Thủ đô qua nếp sống ngày nay”, các tác
giả đã làm rõ sự biến đổi của môi trường thẩm mỹ của người Hà Nội thông qua
cách thức ứng xử trong sinh hoạt vật chất, tinh thần và cuộc vận động xây dựng
Nếp sống văn minh - Gia đình văn hóa khi mới bước vào đổi mới. Các tác giả dự
báo xu hướng phát triển môi trường thẩm mỹ tiếp theo qua mối quan hệ ứng xử
trong gia đình, giao tiếp xã hội và sinh hoạt cá nhân; tức là những nội dung cơ bản
trong văn hóa ứng xử với mơi trường xã hội và với chính bản thân mình.
Từ năm 2000 trở lại đây, trong khn khổ nghiên cứu về mơi trường văn hóa

và mơi trường thẩm mỹ ở Hà Nội đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu, trong đó có
các cơng trình tiêu biểu là: Thăng Long - Hà Nội hội tụ và tỏa sáng của Trần Văn
Bính [10]. Tuy khơng trực tiếp bàn về môi trường thẩm mỹ, nhưng thông qua việc
làm sáng tỏ các giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội (văn học, kiến trúc, mỹ thuật,
giáo dục, lễ hội...), các tác giả đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về diễn trình lịch
sử, về đặc điểm chung của mơi trường thẩm mỹ và mối tương quan giữa văn hóa
Thăng Long - Hà Nội với môi trường thẩm mỹ các vùng, miền trên đất nước (Phú


×