Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Khóa luận thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng của cán bộ công chức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.09 KB, 43 trang )

MỞ ĐẦU
Cải cách hành chính nhà nước Việt Nam đang là một chủ đề thời sự được
nhiều người quan tâm và đặc biệt sau những vụ án làm sai nguyên tắc quản lý ,
nhận hối lộ, "rút ruột" các công trình xây dựng cơ bản, . . . của một bộ phận cán
bộ có chức, có quyền thoái hóa, biến chất được phanh phui trước ánh sáng của
pháp luật. Những sự thật đau lòng đó đang "gióng lên những hồi chuông cảnh
tỉnh" cho nhà nước ta, đã đến lúc chúng ta cần phải nhìn nhận lại vấn đề chất
lượng cán bộ, công chức trong điều kiện hiện nay, từ đó tìm ra những giải pháp
hạn chế những điểm yếu và nâng cao những điểm mạnh của họ để cho nền hành
chính của nước ta thực sự trong sạch và vững mạnh hơn, để nhà nước thực sự là
nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đề án này ra đời nhằm mục đích giúp cho
chúng ta có một cái nhìn sơ lược về cán bộ, công chức của Việt Nam. Ngoài
phần mở đầu và kết luận Đề án được chia làm 3 chương
Chương 1 Cơ sở lý luận
Chương 2 Thực trạng chất lượng cán bộ, công chức Việt Nam và bài học
kinh nghiệm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức của các nước
Chương 3 Một số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ công chức.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
Đến nay đã có khá nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu đưa ra các khái
niệm , định nghĩa về nguồn nhân lực của một quốc gia. Tuy không hoàn toàn
giống nhau, nhưng có thể hiểu một cách nôm na là nguồn nhân lực chính là
nguồn lao động. Tuỳ thuộc vào môi trường kinh tế xã hội, nguồn lao động sẽ
được phân bổ khác nhau trong bốn lĩnh vực hoạt động sau:
-Hoạt động trong lĩnh vực quản lý hành chính công bao gồm từ nhân viên
đến nhà lãnh đạo.
-Hoạt động trong lĩnh vực quản lý doanh nghiệp từ sơ cấp, trung cấp đến
cao cấp.
-Hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ ở công tác nghiên cứu lẫn
triển khai ứng dụng.
-Lao động trong các nghành nghề khác nhau như sản xuất kinh doanh và
dịch vụ.


Thực tế cho thấy: sự hưng thịnh hay suy vong của một quốc gia, một lãnh
thổ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của nguồn nhân lực này.Vì vậy nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực là vấn của mọi thời đại và đặc biệt cần thiết với tình
hình của nước ta hiện nay.
1.1 Hành chính và cải cách hành chính
1.1.1 Khái niệm về hành chính
Là hệ thống tổ chức của nhà nước bao gồm bộ máy nhân sự và thể chế
nhà nước về tổ chức và cơ chế hoạt động, có chức năng thực thi quyền hành
pháp bằng hoạt động quản lý hành chính nhà nước, tức là quản lý công việc
hàng ngày của Nhà nước còn gọi là hành chính công hay hành chính công
quyền.
1.1.2 Tính tất yếu của việc cải cách hành chính
Cải cách hành chính – Vấn đề của mọi chế độ nhà nước. Hành chính, xét
từ giác độ thể chế trong nhà nước pháp quyền là một cơ cấu của quyền hành
pháp. Khi nói hành pháp là để đặt bộ máy quản lý bên cạnh các quyền lập pháp
và quyền tư pháp. Như ở nước ta đó là mối quan hệ giữa Chính phủ
2
- Cơ quan thực thi pháp luật , Quốc hội - cơ quan lập pháp và toà án - cơ
quan tư pháp. Nhưng hành pháp với nghĩa là cơ quan ở trung ương muốn thực
hiện được vai trò quản lý các quá trình của đời sống xã hội thì cần có một hệ
thống tổ chức theo chiều ngang và chiều dọc. Chiều ngang như các cơ quan
cùng vị thế nhưng khác nhau về chức năng và đối tượng (như các bộ ở trung -
ương và các cơ quan trong cùng một cấp ở địa phương) và chiều dọc như các
cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương ở nước ta. Thực chất quyền hành
pháp và quyền hành chính chỉ là một: một bộ máy, một đội ngũ, một hệ thống
điều hành, hệ thống chính sách. Có khác chỉ là đặt nó trong quan hệ khác nhau
mà thôi.
Vậy xét từ giác độ thể chế, bộ máy hành chính nước ta từ chỗ tư duy
thành lập các bộ chuyên ngành sâu (thành lập các bộ bám sát các ngành kinh tế
kỹ thuật), được cải cách theo hướng thành các bộ theo hướng đa ngành; từ giai

đoạn nhập tỉnh đến chỗ chia lại dân cư, đơn vị và lãnh thổ hành chính; từ chỗ
xoá bỏ chức vụ trưởng thôn (hình như xem nó giống như mô hình lý trưởng, xã
trưởng ngày xưa chăng), lấy bộ máy hợp tác xã vốn là thể chế kinh tế làm luôn
chức năng quản lý xã hội (chủ nhiệm hợp tác thu tiền làm đường, sửa chùa,
dựng đội văn nghệ vì không có bộ máy tự quản hành chính ở thôn (làng, ấp,
bản) đến chỗ các đơn vị cộng đồng thôn làng cần có cơ chế tự quản hành chính
phân biệt với bộ máy điều hành sản xuất.
Công việc vì vậy cần có sự phân định rõ: hợp tác là bộ máy điều hành sản
xuất, trưởng thôn là cơ cấu tự quản hành chính ở nông thôn. ở đó có sự cải cách
thể chế.
Cũng không mấy ngạc nhiên khi mà, hiện nay vấn đề cấp hành chính
đãđược hiến pháp qui định, nhưng hẳn sự bất cập về tầng nấc các cấp chính
quyền ở đô thị vẫn còn không ít sự tranh luận. Mấu chốt pháp lý xuất phát từ
hiến pháp. Nhưng hiến pháp là sản phẩm tư duy có tính ổn định tương đối, còn
sự vận động, nhất là trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế của xã hội có khi diễn ra
hàng ngày, hàng tháng, hàng năm. Hiến pháp năm 1992 ban hành vào thời điểm
bản lề của sự thay đổi cơ chế (có thể nói giai đoạn bản lề bắt đầu từ năm 1986
3
cho đến hiện nay). Vì vậy trong khi hiến pháp qui định một số cấp ở nông thôn
và thành thị có vị thế pháp lý tương đương thì ở nông thôn sự vận động thay đổi
chậm hơn nhiều so với các hoạt động đô thị.
Giữa thành thị và nông thôn còn chứa đựng sự khác biệt giữa hai loại cơ
cấu hành chính tổng thể và các yếu tố bên trong của các cấp đó. ít nhất ta nhìn
thấy những đặc trưng về đối tượng quản lý khác hẳn: qui mô lãnh thổ, đặc điểm
dân cư, phương thức cư trú và lao động sản xuất giữa nông thôn và thành thị.
Nếu ở nông thôn mỗi gia đình có một giếng nước thì ở thành thị cả thành phố
chỉ có "một giếng nước" ? Nếu ở nông thôn người ở địa phương này không thể
có quyền sử dụng ruộng đất sản xuất ở địa phương khác thì ở đô thị gần như
hoàn toàn ngược lại: người ta ở chỗ này nhưng đi làm, kiếm sống, công tác lại ở
nơi khác.v.v. . . Vậy nên yếu tố tầng nấc hành chính phiền hà do thiết kế cấp

hành chính trùng khớp về cấp như thế đã bộc lộ sự phiền hà. (Tất nhiên sự phiền
hà rất đa dạng chứ không phải chỉ ở việc cấu trúc đô thị)
Hành chính là cơ quan quản lý xã hội nên thiên chức của nó gắn với thực
tiễn sinh động của xã hội. Xã hội luôn là một thực thể vận động (vì xã hội là xã
hội của những con người với những hoài bão, ý tưởng, nguyện vọng luôn thay
đổi theo hướng căn bản tích cực). Vì thế hành chính với tính cách là bộ máy
điều hành các hoạt động xã hội không thể nhất thành bất biến, nghĩa là nó phải
thay đổi, bám sát đời sống. Thời bao cấp và quản lý theo kiểu tập trung quan
liêu thì bộ máy cũng được hình thành theo phương thức nhấn mạnh (thậm chí
quá mạnh) vai trò của các quyết định tập thể, các cơ quan ra quyết định; coi nhẹ
các quyết định cá nhân và các chức vụ của những người đứng đầu. Nhưng
chuyển sang cơ chế thị trường và đời sống dân sự ngày càng phát triển, các mối
quan hệ, dao gạch dân sự liên quan đến lợi ích, quyền và trách nhiệm của công
dân ngày càng tăng thì quyền và trách nhiệm cá nhân phải được xác lập. Công
việc điều hành hành chính hàng ngày liên quan đến công dân và tổ chức dứt
khoát liên quan đến vị trí, chức vụ của một người nhiều hơn là một tổ chức (chủ
tịch, phó chủ tịch UBND; chứ không phải uỷ ban; trưởng phó phòng chứ không
4
phải phòng, cán bộ thuế, địa chính chứ không phải phòng thuế, phòng địa chính,
trưởng phó công an chứ không phải phường, đồn công an ).
Khi xã hội đã vận động ờ trình độ cao hơn của nền kinh tế, văn minh hơn
về nhu cầu văn hoá, hiện đại hơn về sử dụng và hưởng thụ các tiện nghi thì quản
lý theo kiểu cũ chắc chắn sẽ không thể chấp nhận được. Thời của xe đạp thì
thường người ta đi kiểu gì cũng ít rủi ro, va chạm, vậy nên ai chen lên đi trước,
đi bên nào của con đường cũng chẳng quan trọng lắm. Nhưng tâm lý đó của thời
nay ở người dân thì rất nguy hiểm đến tính mạng.
Nếu tâm lý đó có ở người thực thi công quyền như người công an hay
thanh tra giao thông thì không thể duy trì được trật tự xã hội và không thể giải
quyết được khi xuất hiện tranh chấp. Mấy chục năm trước đây khi phương tiện
còn ít và nghèo nàn, cơ sở hạ tầng thấp kém số lượng và qui mô các phương tiện

giao thông gia tăng thì những máy bắn tốc độ, giấy phép lái xe máy cũng như là
vật thừa; nạn mãi lộ trên đường liên quan đến vi phạm luật giao thông không có
môi trường phát sinh; số người tai nạn và tử vong lên tới mấy chục người mỗi
ngày cũng không có trong các số liệu thống kê. Nhưng bây giờ thì mọi sự hình
như quay ngược 180 độ? Nói cách khác xã hội thay đổi thì quản lý hành chính
phải thích ứng. Cái gì trì trệ nhất thiết phải đổi mới; đổi mới một cách tự phát
chưa đáp ứng thì nhất thiết nó phải là động lực của ý chí trong nhận thức nói
chung và tư duy của người quản lý nói riêng của người công chức. Vì thế cải
cách hành chính phải được coi là quyết sách của Nhà nước nói chung và Chính
phủ nói riêng.
Cải cách hành chính cần tới cải sự đồng bộ của hệ thống pháp luật thực
định Với vị trí là cơ quan thực thi pháp luật, hành chính tự đặt nó vào mối quan
hệ với lập pháp. Nghĩa là, muốn thực thi hiệu quả pháp luật trong xã hội thì phải
có những đạo luật chặt chẽ, cụ thể, dễ hiểu và có tính khả thi cao (nếu là điều
ngược lại, như qui định trừu tượng, khó hiểu thì đương nhiên ảnh hưởng đến
hoạt động quản lý điều hành của quản lý hành chính).
Hành chính cũng tự đặt nó vào nhiệm vụ cụ thể của chính nó thông qua
năng lực trình độ và bản lĩnh của đội ngũ đông đảo nguồn nhân của chính mình.
5
Nói cách khác, giả thiết như chúng ta có hệ thống pháp luật thực định có tính
khả thi cao nhưng trao cho những cán bộ thiếu năng lực, thiếu mẫn cán hoặc
tham Ô trục lợi thì tính khả thi của luật pháp cũng trở thành “bất khả thi".
Hành chính phiền hà mất thời gian và vật chất của người dân do qua nhiều
tầng nấc mới nẩy ra tư tưởng cải cách một cửa" (theo tôi, bản chất của một cửa
là làm mọi thủ tục nhanh hơn, chất lượng hơn, tín nhiệm hơn với người dân chứ
không phải nó hơn ở con số một hay là hơn một. Thí như nếu "một cửa!' mà mất
ba ngày và một triệu đồng trong khi ba cửa mất một buổi sáng và 500 nghìn
đồng thì con số một cửa chẳng có ích gì). Và muốn một cửa cũng hợp pháp thì
hệ thống văn bản liên quan đến con dấu hợp pháp từ chỗ của nhiều bộ phận nay
chỉ còn một cũng phải qui định rõ, nghĩa là cũng cần tới ban hành văn bản.

Cải cách về tổ chức, thể chê' có liên quan đến con người từ các giác độ:
kỹ năng, bản lĩnh, kiến thức Khi thay đổi phương thức quản lý ắt sẽ dẫn đến
thay đổi đối tượng, phạm vi, qui trình của quản lý. Vì thế việc từ bỏ cơ chế chủ
quản được chấp nhận và thực hiện, chắc chắn sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản
trong rèn luyện và thực hành chuyên môn, trong phong cách, lề lối thậm chí
tính cách của người công chức: thay lối làm việc kiểu quan liêu, quan hệ xin
cho, sự trì trệ về nghiệp vụ (vốn không phải sở trường và chức năng của người ở
vị trí hoạch định chính sách) bằng việc giúp cho các chính trị gia cho những
người điều hành ở bên trên trong hoạch định chính sách, tăng cường công tác và
nghiệp vụ thanh tra.
Xét theo bản chất cố hữu nhà nước là công cụ giai cấp, mà còn giai cấp có
nghĩa là còn có người no kẻ đói. Vậy nên tham nhũng là căn bệnh của nhà nước
nói chung, không phải chỉ của nhà nước bóc lột. Nhà nước không có tham nhũng
hiện chỉ có trong lý luận và sách vở mà thôi. Nhưng xuất phát từ bản chất của
nhà nước và tính đại diện giai cấp của nó thì trong nhà nước của người lao động
bệnh tham nhũng phải là thói xấu và rất khó nảy sinh mới đúng về nguồn gốc và
bản chất, mới phải trong lẽ sống và văn hoá văn minh của chế độ. Tiếc thay thực
trạng hiện nay tham nhũng như một mặt trận mà ngày nào cũng có “ súng nổ”; ít
nhất là nổ trên báo chí và công luận, trong các hoạt động thanh tra, toà án kiểm
6
tra kiểm soát trong hệ thống điều hành. Vì vậy chống tham nhũng chắc chắn
phải là một nội dung quan trọng trong xây dựng thể chế rèn luyện con người của
cải cách hành chính hiện nay.
Lãng phí trong công vụ là một khái niệm có vẻ không “nguy hại” mấy
nhưng những số liệu khổng lồ về thất thoát, kém hiệu quả trong quản lý do lãng
phí cho thấy sự nguy hại của lãng phí ở chỗ nó góp phần làm nghèo đất nước,
làm hư cán bộ (coi thường công sản mà coi trọng của riêng; thiếu trách nhiệm
trong hoạch định chính sách trong hạch toán các công trình kế hoạch liên quan
đến chi tiêu tài sản công quĩ; tạo ra thói vô trách nhiệm, vô cảm trong tiêu xài
hoang phí của công ).

Vì vậy vấn đề nâng cao chất lượng cán bộ công chức là một vấn đề then
chốt trong công cuộc cải cách hành chính nước ta hiện nay.
1.2 Cán bộ, công chức
1.2.1 Các khái niêm cơ bản
1
Khái niệm cán bộ
-Khái niệm cán bộ xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta vào những năm 30
của thế kỷ XX, để chỉ một lớp người, những chiến sĩ cách mạng đã hy sinh, gian
khổ đấu tranh giành độc lập dân tộc, và sau này, trong thời kỳ kháng chiến
chống pháp, được dùng phổ biến để chỉ tất cả những người thoát ly tham gia
hoạt động kháng chiến, để phân biệt với nhân dân. Theo cách hiểu thông
thường, cán bộ được coi là tất cả những người thoát ly, làm việc trong bộ máy
chính quyền, Đảng, đoàn thể, quân đội; Dưới góc độ hành chính, cán bộ được
coi là những người có mức lương từ cán sự trở lên, để phân biệt với nhân viên
có mức lương thấp hơn cán sự. Hiện nay, ở nước ta khái niệm cán bộ được dùng
với nhiều nghĩa khác nhau:
Trong tổ chức Đảng và đoàn thể thường được dùng với hai nghĩa: một là,
chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở đến trung ư-
ơng( cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên thường, đoàn viên, hôi viên;
1
TS. Thang Văn Phúc, TS. Nguyễn Minh Phương, Cơ sở lý luận v thà ực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức, NXB Chính Trị Quốc Gia.
7
hai là, những người làm công tác chuyên trách hưởng lương trong các tổ chức
Đảng, đoàn thể. Trong quân đội là những người giữ cương vị chỉ huy từ tiểu đội
trưởng trở lên ( cán bộ tiểu đội, trung đội, đại đội, cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn,
sư đoàn, . . .) hoặc sĩ quan từ cấp úy trở lên. Trong bộ máy nhà nước, khái niệm
cán bộ về cơ bản được hiểu với nghĩa trùng với nghĩa trùng với khái niệm công
chức, chỉ những người làm việc trong cơ quan nhà nước thuộc ngạch hành
chính, tư pháp, lập pháp, kinh tế, văn hóa xã hội. Đồng thời, cán bộ cũng được

hiểu là những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo.
Khái niệm công chức.
Công chức là một khái niệm chung được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc
gia trên thế giới để chỉ những công dân được tuyển dụng vào làm việc thường
xuyên trong cơ quan nhà nước, do ngân sách nhà nước trả lương.
Khái niệm công chức mang tính lịch sử, nội dung của nó phụ thuộc vào
tính chất đặc thù của mỗi quốc gia cũng như từng từng giai đoạn lịch sử cụ thể
của từng nước. Do đó, trong thực tế rất khó có một khái niệm chung về công
chức cho tất cả các quốc gia. Ở Việt nam, khái niệm công chức được hình thành,
phát triển và ngày càng hoàn thiện gắn với sự phát triển của nền hành chính nhà
nước. Điểm khởi đầu của sự hình thành khái niệm công chức ở Việt nam là việc
ban hành sắc lệnh số 76/SL, ngày 20-5-1950 của chủ tịch nước Việt nam dân
chủ cộng hòa về quy chế công chức. Theo quy chế này, phạm vi công chức là rất
hẹp, chỉ những người được tuyển dụng giữ một chức vụ thường xuyên trong các
cơ quan Chính phủ, tức là đội ngũ công chức hành chính nhà nước, theo cách
nói hiện nay.
Sau đó, suốt một thời gian khá dài (từ đầu những năm 1960 đến cuối
những năm 1980), khái niệm công chức ít được sử dụng, thay vào đó là khái
niệm cán bộ công nhân viên chức nhà nước, không phân biệt công chức, viên
chức với công nhân. Khi thực hiện công cuộc đổi mới, trước những yêu cầu
khách quan của tiến trình cải cách nền hành chính nhà nước và đòi hỏi phải
chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, thuật ngữ công chức được sử
dụng trở lại. Nghị định 1 69/HĐBT ngày 25 -5 - 1 99 1 quy định như sau: "Công
8
dân Việt nam được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên
trong một công sở của nhà nước ở Trung ương hay địa phương, ở trong nước
hay nước ngoài đã được xếp vào một ngạch, hưởng lương do ngân sách nhà
nước cấp gọi là công chức".
Khái niệm trên đã nêu khá dầy đủ các dấu hiệu cơ bản về công chức trong
nền hành chính hiện đại, phù hợp với quan niệm chung của các quốc gia trên thế

giới. Đây là một bước chuyển quan trọng để tiến tới xây dựng chế độ công chức
trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên khi quy định những đối tượng là công chức và
không phải là công chức ( tại điều 2 của nghị định này) thì lại bộc lộ một số hạn
chế sau:
Một số đối tượng như cảnh sát, những người làm công tác nghiên cứu
khoa học, giáo viên, nhà báo, nghệ sĩ. . . chưa được xếp vào loại nào. Ở điều 2
của Nghị định này đã qui định "tất cả những người làm việc trong các cơ quan,
tổ chức nhà nước" là công chức nhà nước, nhưng trên thực tế không thể đồng
nhất khái niệm "cơ quan nhà nước" với "công sở nhà nước" vì không phải mọi
cơ quan, tổ chức nhà nước đều là công sở nhà nước ( ví dụ: Quốc hội là cơ quan
nhà nước nhưng không phải là công sở nhà nước).
Khái niệm viên chức. Theo nghị định 1 1 6/2003/NĐ-CP ngày 1 0- 1 0-
2003, Viên chức là công dân Việt Nam, trong biên chế, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên
trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã
hội, hưởng lương từ ngân sách nhà nước và nguồn thu sự nghiệp theo quy định
của pháp luật. Như vậy, Viên chức là những nhân viên làm việc trong các cơ
quan y tế, giáo dục, khoa học- công nghệ, văn hóa thông tin, thể dục thể thao,
. . . của Đảng, nhà nước và của các đoàn thể nhân dân, các hội nghề nghiệp, mà
lâu nay vẫn được gọi là công chức sự nghiệp.
- Công chức dự bị. Theo pháp lệnh công chức sửa đổi, bổ sung năm 2003
và nghị định số 1 1 5/2003/NĐ-CP ngày 1 0- 10-2003 của chính phủ về chế độ
công chức dự bị, " công chức dự bị là công dân Việt Nam, trong biên chế, hưởng
lương từ ngân sách nhà nước, được tuyển dụng để bổ sung cho đội ngũ cán bộ,
9
công chức quy định tại điểm b, điểm c khoản 1 điều 1 của Pháp lệnh sửa đổi bổ
sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức ngày 29-4-2003"
Công chức dự bị được phân công làm việc có thời hạn tại các cơ quan, tổ
chức sau:
+ Văn phòng Quốc Hội; .

+ Văn phong Chủ tịch nước;
+ Toàn án nhân dân các cấp;
+ Viện kiểm soát nhân dân các cấp;
+ Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ;
+ Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, ủy ban nhân dân quận, huyện,
thành phố thuộc tỉnh.
+ Bộ máy giúp việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội. Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
1.2.2. Phân loại cán bộ, công chức.
a. Theo đặc thù và tính chất công việc
Theo cách phân loại này ta có thể dễ dàng hình dung được công việc của
từng loại cán bộ, công chức. Cách phân loại này rất tết cho việc quy hoạch công
chức, vì dễ dàng trong việc sắp xếp, tổ chức, đào tạo, và có thể đáp ứng yêu cầu
của từng loại công việc khác nhau. Có thể chia công chức hành chính nhà nước
thành các loại chính như sau:
- Công chức lãnh đạo. Đây là những công chức giữ những cương vị chỉ
huy trong điều hành công việc, họ là những người được quyền ra các quyết định
quản lý, tổ chức và điều hành những người dưới quyền thực hiện công việc
- Công chức chuyên gia. Họ là những người có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao, có khả năng nghiên cứu, đề xuất những phương hướng, quan điểm và
thực thi công việc chuyên môn phức tạp.
Công chức thi hành công việc. Đây là những người thực thi công việc thi
hành công vụ, thừa hành công việc, nhân danh quyền lực của nhà nước. Họ
không có thẩm quyền ra quyết định như các cán bộ, công chức lãnh đạo, họ
10
cũng được trao những thẩm quyền nhất định trong phạm vi công tác của mình
khi thực thi công việc.
- Nhân viên hành chính. Họ là những người thừa hành nhiệm vụ do các
công chức lãnh đạo giao phó, phục vụ trong bộ máy nhà nước. Trình độ chuyên
môn kỹ thuật của nhân viên hành chính ở mức thấp, nên họ phải tuân thủ sự

hướng dẫn, chỉ bảo của cấp trên.
b. Theo trình độ đào tạo.
Đây là căn cứ cơ bản để xét mức lương, phân công sắp xếp các vị trí công
việc cho cán bộ, công chức. Theo điều 4 nghị định 1 17/2003/ NĐ-CP ngày
10/10/2003 của chính phủ, công chức được chia thành các loại A, B, C Công
chức loại A là những người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo
chuyên môn giáo dục đại học và sau đại học; công chức loại B là những người
được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo chuyên môn giáo dục nghề
nghiệp; công chức loại C là những người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu
trình độ đào tạo chuyên môn dưới giáo dục nghề nghiệp.
c. Theo ngạch bậc.
Ngạch công chức dùng để chỉ trình độ, năng lực, khả năng chuyên môn
và ngành nghề của công chức. Mỗi ngạch thể hiện một trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và có những tiêu chuẩn riêng . Theo quyết định 414/TCCP ngày
29/5/1993 của Bộ trưởng, trưởng ban Tổ chức-cán bộ chính phủ, công chức
hành chính có 11 ngạch:
1 . Chuyên viên cao cấp
2. Chuyên viên chính
3 . Chuyên viên
4. Cán sự
5 . Kỹ thuật viên đánh máy
6. Nhân viên đánh máy
7 . Nhân viên kỹ thuật
8. Nhân viên văn th
9. Nhân viên phục vụ
11
1 0 . Lái xe cơ quan
1 1 Nhân viên bảo vệ
1.3 Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng và nâng cao chất
lượng cán bộ, công chức

1.3.1 Vị trí vai trò của cán bộ, công chức.
a. Vị trí.
V I Lênin đã từng viết: "Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành
được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra trong hàng ngũ của mình những
người lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và
lãnh đạo phong trào". Như vậy, cán bộ là nhân tố quan trọng quyết định sự thành
công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng. Cán bộ là những người đại diện cho
nhân dân hay một nhóm người có cùng lợi ích, họ có khả năng tổ chức, lãnh
đạo, thống nhất các ý kiến và giải quyết các mục tiêu chung của người dân. Họ
là những người tiên phong đi đầu để khơi dậy sức mạnh của mỗi cá nhân tổng
hợp thành sức mạnh to lớn của một tập thể.
Quan hệ giữa đường lối, nhiệm vụ chính trị với cán bộ, công chức là mối
quan hệ nhân quả. Đờng lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng giai
đoạn, trong từng thời kỳ do những cán bộ, công chức đề ra và cũng là những
người chỉ đạo để thực thi những đường lối và nhiệm vụ đó, do vậy chỉ có đội
ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất tốt và đủ năng lực mới có thể đề ra được
đường lối đúng, mới có thể cụ thể hóa, bổ sung, hoàn chỉnh đường lối và thực
hiện tốt đường lối. Không có đội ngũ cán bộ, công chức vững mạnh thì cho dù
đường lối và nhiệm vụ chính trị đúng đắn đến đâu cũng khó có thể trở thành
hiện thực.
Cán bộ, công chức là cầu nối giữa Đảng, chính phủ và quần chúng nhân
dân. Họ là những người mang các chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước
tuyên truyền và giải thích cho nhân dân hiểu rõ và thi hành. Do Việt Nam vẫn là
một quốc gia nghèo, nền kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp, nông dân lạc
hậu, trình độ học vấn chưa cao, dẫn đến sự hiểu biết và ý thức chấp hành pháp
luật còn rất thấp, vai trò của người cán bộ, công chức lúc này là hết sức quan
12
trọng. Không chỉ đơn thuần là truyền đạt những đường lối, chủ trương của Đảng
và nhà nước, cán bộ, công chức còn là hệ thống phản hồi thông tin, nắm bắt tình
hình triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp

luật của nhà nước, những yêu cầu, kiến nghị của nhân dân, phản ánh lại cho
Đảng và nhà nước để có thể điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho đúng và phù hợp
với tình hình thực tế.
b. Vai trò (thể hiện qua 4 mối quan hệ).
- Quan hệ với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước.
- Quan hệ với bộ máy(các cơ quan tổ chức lãnh đạo quản lý).
- Với công việc. . .
- Với quần chúng nhân dân.
1.3.2 Sự cần thiết phải xây dựng, nâng cao chất lượng cán bộ, công chức.
Vai trò của nhà nước có sự thay đổi căn bản trong điều kiện chuyển đổi
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý
của nhà nước. Chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước phải được chuyển đổi cho
phù hợp với những thay đổi của nền kinh tế - xã hội. Cần phải tách công việc
hành chính nhà nước với phục vụ, cung cấp dịch vụ cho xã hội; tách chức năng
hoạch định chính sách với tổ chức thực thi cụ thể; tách quản lý hành chính nhà
nước với sản xuất, kinh doanh; tách hành chính với sự nghiệp dịch vụ. Nhà nước
cần tập trung sức vào các hoạt động công cộng cốt lõi, có tầm quan trọng then
chết đối với sự phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động .
- Sự phân cấp, phân quyền trong quá trình quản lý là một điều không thể
thiếu khi quản lý một tổ chức. Nhà nước là một tổ chức lớn, có rất nhiều mảng
công việc, để thực hiện những công việc này thì nhất thiết chia ra cho các tổ
chức, cá nhân đảm nhiệm. Nhà nước sẽ chuyển giao một số cho các cơ quan
hành chính địa phương và các tổ chức xã hội dưới các hình thức da dạng như ủy
quyền, phân cấp, xã hội hóa, . . . Sự phân cấp và ủy quyền này sẽ làm quá trình
thực hiện các công việc nhanh hơn, tránh được hiện tượng trùng lặp, chồng chéo
công việc.
13
- Sự thay đổi chức năng, nhiệm vụ của nhà nước nói chung, phân công,
phân cấp quản lý của nền hành chính nói riêng đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có
những thay đổi tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có đủ trình

độ, năng lực, phẩm chất cũng như thẩm quyền để thực thi việc quản lý hành
chính nhà nước.
- Sự phát triển của khoa học kỹ thuật ảnh hưởng đến hệ thống kỹ thuật trong tổ
chức hành chính cần phải hiện đại hóa tổ chức hành chính, hoàn thiện cơ cấu
pháp lý, cải cách bộ máy hành chính, phát triển đội ngũ cán bộ. Với sự phát triển
mạnh mẽ của lĩnh vực công nghệ thông tin và đặc biệt là những ứng dụng trong
công tác quản lý, với sự ra đời của chính phủ điện tử đòi hỏi đội ngũ cán bộ,
công chức ngày càng phải được hoàn thiện nâng cao hơn nữa về chất lượng, có
như vậy mới đáp ứng được các yêu cầu mới trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc
tế.
Đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước đang trở thành một bộ phận
quan trọng trong đường lối đổi mới của Đảng, với bốn nội dung quan trọng. Thứ
nhất phải đổi mới cơ chế về cơ bản và vận hành thông suốt, có hiệuquả thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới cơ chế và thủ tục hành
chính, tập trung trước hết vào xóa bỏ những quy định mang nặng tính hành
chính quan liêu, bao cấp, gây phiền hà, sách nhiễu doanh nghiệp và nhân dân,
kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất. Xây dựng và thực hiện chơng trình
đổi mới thể chế trong từng năm. Bảo đảm các văn bản pháp quy có nội dung
đúng đắn, nhất quán, khả thi. Chỉ đạo sát từ khâu soạn thảo, thông qua đến phổ
biến, thực hiện và tổng kết.
Đổi mới phương thức và quy trình xây dựng thể chế, cải tiến sự phối hợp
giữa các ngành, các cấp có liên quan, coi trọng sử dụng các chuyên gia liên
ngành và dành vai trò rất quan trọng cho tiếng nói của nhân dân, của doanh
nghiệp. Đặc biệt tăng cường việc chỉ đạo, kiểm tra, nâng cao kỷ luật và hiệu lực
thi hành pháp luật trong bộ máy nhà nước và trong xã hội. Thứ hai, phải kiện
toàn tổ chức bộ máy nhà nước trên cơ sở tách chức năng quản lý nhà nước với
hoạt động kinh doanh, xúc tiến việc đổi mới tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động
14
và quy chế làm việc của các cơ quan nhà nước. Thực hiện mạnh mẽ việc phân
cấp trong hệ thống hành chính đi đôi với nâng cao tính tập trung, thống nhất

trong việc ban hành thể chế. Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng cấp,
từng tổ chức, từng cá nhân.
Đề cao trách nhiệm cá nhân, khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh. Khắc
phục tình trạng trùng chéo, đùn đẩy trách nhiệm, gây khó khăn, chậm trễ trong
công việc và giải quyết khiếu kiện của dân. Nâng cao vai trò của tòa hành chính
trong việc giải quyết khiếu kiện hành chính. Tách cơ quan hành chính công
quyền với tổ chức sự nghiệp. Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt động
không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân; tạo điều kiện thuận
lợi cho các tổ chức thực hiện một số dịch vụ công với sự giám sát của cộng đồng
như vệ sinh môi trường, tham gia giữ gìn trật tự trị an xóm, phường . . .
Xúc tiến nhanh và có hiệu quả việc hiện đại hóa công tác hành chính, dặc
biệt là ứng dụng công nghệ thông tin. Kiện toàn bộ máy và tinh giản biên chế
một cách cơ bản. Có chính sách giải quyết thỏa đáng số người dôi ra.
Thứ ba, Nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức.
Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức với chơng trình, nội dung sát
hợp; chú trọng đội ngũ cán bộ xã, phường. Đổi mới và đa vào nền nếp việc thực
hiện quy chế tuyển chọn, đề bạt, khen thởng, kỷ luật, nghỉ hưu.
Thực hiện nguyên tắc người phụ trách công việc có quyền hạn và trách
nhiệm trong việc tuyển chọn, sử dụng cán bộ, công chức dưới quyền. Thanh lọc
những kẻ tham nhũng, vô trách nhiệm; chuyển đổi công tác những người không
đủ năng lực.
Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở,
bảođảm cho dân tiếp xúc dễ dàng các cơ quan công quyền, có điều kiện kiểm tra
cán bộ, công chức, nhất là những người trực tiếp làm việc với dân.Thứ tư, ngăn
chặn và đẩy lùi tham nhũng, quan liêu. Nghiêm trị những kẻ tham nhũng, vô
trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; người lãnh đạo cơ quan để xảy ra tham
nhũng cũng phải bị xử lý về trách nhiệm. Bảo vệ những người kiên quyết đấu
15
tranh chống tham nhũng; khen thởng người phát hiện đúng những vụ tham
nhũng. Thực hiện các biện pháp ngăn chặn tham nhũng, quan liêu:

+ Đổi mới và hoàn thiện thể chế, thủ tục hành chính, kiên quyết chống tệ
cửa quyền, sách nhiễu, “xin - cho" và sự lắc trách, vô kỷ luật trong công việc
Thực hiện nghiêm những điều cấm đối với cán bộ, công chức đã quy định trong
pháp luật.
+ Tăng cường quản lý, kiểm tra, ngăn chặn lãng phí, tham nhũng tiền và
tài sản công, nhất là trong khu vực doanh nghiệp nhà nước.
+ Thực hiện quy chế dân chủ và công khai tài chính ở cơ sở và các cấp
chính quyền; thực hiện chế độ kê khai tài sản đối với cán bộ lãnh đạo các cấp,
các ngành. Phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân và phương tiện thông tin
đại chúng.
+ Cải cách tiền lương đi đôi với tăng cường giáo dục và kiểm tra việc
thực hiện công vụ của cán bộ, công chức
Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là đội ngũ công
chức hành chính là một nội dung quan trọng của cải cách nền hành chính nhà
nước. Việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ công chức không chỉ nhằm đáp
ứng yêu cầu, đòi hỏi bức xúc nội tại của nguồn nhân lực nhà nước, mà còn là
nhân tố có tính quyết định trong việc thực hiện chương trình tổng thể cải cách
nền hành chính nhà nước. Các mục tiêu, phương hướng, giải pháp xây dựng,
phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, cũng như các kết quả đạt được phải đảm
bảo tính đồng bộ và phù hợp với mục tiêu chung của cải cách nền hành chính,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước. Đất nước ta đã thoát khỏi chiến
tranh hơn 30 năm, nhưng các thế lực thù địch, chống phá vẫn còn rất nhiều,
chúng vẫn đang thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình" nhằm thủ tiêu vai trò
lãnh đạo của Đảng, làm tha hóa, biến chất đội ngũ cán bộ, từ đó thực hiện mưu
đồ chuyển hóa chính trị, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng muốn lợi
dụng sự đổi mới, sự chuyển tiếp giữa các thế hệ cán bộ của ta, thông qua các
quan hệ kinh tế, văn hóa, ngoại giao, để làm đội ngũ cán bộ của ta "tự diễn
biến" đi lệch quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh đó đòi hỏi cán phải
16
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, có tinh thần yêu

nước, sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
1.3.3 Những khó khăn và thách thức.
- Những vấn đề có tính lý luận trong việc tổ chức bộ máy nhà nước và
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức vẫn chưa được làm rõ.
- Tình trạng thấp kém của nền kinh tế và ngân sách nhà nước còn rất hạn
hẹp. Đây là thách thức lớn nhất của đối với việc xây dựng và phát triển đội ngũ
cán bộ, công chức hiện nay.Tình trạng kém phát triển kinh tế của đất nước là
nguồn gốc và là cơ sở cho việc duy trì tình trạng bảo thủ, trì trệ, kém năng động,
thiếu tinh thần hợp tác trong công việc, chính những điều đó là những nhân tố
ảnh hưởng không nhỏ tới việc xây dựng, quản lý, phát triển và nâng cao chất
lượng cán bộ, công chức. Trình độ thấp kém về năng xuất lao động xã hội và
chậm phát triển của nền kinh tế không cho phép có một ngân sách, tài chính dồi
dào để có thể thực hiện triệt để các biện pháp như: tăng mức tiền lương để có thể
đáp ứng được những nhu cầu cơ bản, giảm biên chế, đào tạo lại, tuyển mới để
nhanh chóng đổi mới đội ngũ cán bộ, công chức, cũng như thực hiện các chế độ
đãi ngộ thỏa đáng hay việc dùng các biện pháp kinh tế để khuyến khích cán bộ,
công chức nâng cao trình độ, tận tâm với công việc và thu hút nhân tài trong xã
hội cho nền công vụ.
Điều 8 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
quy định: " Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng
nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý
kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền". Điều 2 pháp lệnh
cán bộ công chức sửa đổi bổ sung năm 2003 quy định: " Cán bộ, công chức là
công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, phải không ngừng rèn
luyện phẩm chất đạo đức, học tập nâng cao trình độ và năng lực công tác để thực
hiện tết nhiệm vụ, công vụ được giao". Trong khi đó Cán bộ, công chức không
được hưởng bất cứ một đặc quyền, đặc lợi nào. Để tạo điều kiện tết nhất cho cán
bộ làm việc và cống hiến, chúng ta thường có những chính sách ưu đãi nhất định
17

với cán bộ, song những chính sách này phần lớn do những người đứng đầu cơ
quan, đơn vị hay đội ngũ cán bộ chủ chốt đề ra, cho nên trong thực tế chính sách
đối với cán bộ thường bị lợi dụng để biến cán bộ từ " công bộc", “đầy tớ” trung
thành của nhân dân trở thành "ông chủ” của nhân dân, thành những người được
hưởng những đặc quyền, đặc lợi hợp pháp. Vì vậy nhiều người mơ ước được
làm cán bộ, công chức không phải để công hiến mà vì lợi ích cá nhân. Hơn nữa,
nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, hội
nhập kinh tế quốc tế, những yếu tố mới của thị trường đang hình thành và biến
đổi nhanh chóng, đòi hỏi người cán bộ, công chức phải thích ứng được. Đây là
đòi hỏi không dễ có thể thỏa mãn được, nhất là trong điều kiện vẫn còn tồn tại
nhiều tàn dư của tư tưởng cũ thời kỳ bao cấp.
- Sự thách thức do chuyển đổi cơ chế, sự tồn tại dai dẳng những thói quen
của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Những thói quen đó đã ăn sâu vào nếp
nghĩ, phong cách làm việc của cán bộ, công chức, nhất là những bộ phận công
chức có lợi ích gắn liền với cơ chế đó, từ đó làm cho nền hành chính nói chung
và việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng khó thoát ra khỏi sự chi
phối, ràng buộc của cơ chế cũ để phù hợp với cơ chế mới, đáp ứng được các yêu
cáu của thời kỳ mới. Hơn nữa, chúng ta tiến hành cải cách hành chính, xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức trong điều kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản
lý, chưa có tiền lệ trong quản lý phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; nhiều việc vừa làm, vừa học, vừa rút kinh nghiệm. Đó là một
thách thức lớn trong việc xây dựng và nâng cao chất lượng cán bộ công chức
trong điều kiện hiện nay.
Sự cạnh tranh thu hút nhân tài của các khu vực kinh tế tư nhân và các
công ty nước ngoài. Sự kiện ngày 7/1 1/2006 Việt Nam được gia nhập vào tổ
chức thương mại quốc tế WTO, Sự kiện Việt Nam là nơi tổ chức cuộc họp của
diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á thái bình dương APEC từ ngày 13 đến 19/1
1/2006 và sự kiện tập đoàn Intel nâng vốn đầu tư vào nhà máy sản xuất Chíp
máy tính tại khu công nghiệp kỹ thuật cao thành phố Hồ Chí Minh lên 1 tỷ USD.
Với những sự kiện tiêu biểu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt

18
Nam năm 2006 đã cho thấy Việt Nam là một điểm đến của các nhà đầu tư trong
tương lai. Khi đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được mở rộng thì số người làm
việc trong các dự án, các cơ sở liên doanh, hoặc các xí nghiệp nước ngoài tăng
lên đã tạo ra một đội ngũ làm công ăn lương mới có trình độ, phong cách mới và
có điều kiện, mức thu nhập cao hơn nhiều so với khu vực hành chính. Năm 1999
nhà nước đã quy định mức lương tối thiểu từ 487.000 đồng/tháng đến 626.000
đồng/tháng áp dụng đối với các doanh nghiệp hoạt động theo luật đầu tư nước
ngoài, trong khi mức lương tối thiểu chung là 180.000 đồng/tháng và sau đó
tăng lên 210.000 đồng/tháng rồi 290.000 đồng/tháng, từ tháng 10/2005 là
350.000 đồng/tháng
2
. Trên thực tế, những chuyên gia, người lao động có trình
độ cao làm việc trong các khu vực tư nhân và các khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài có mức thu nhập cao hơn nhiều so với cán bộ, công chức nhà nước. Từ
chênh lệch về thu nhập, dẫn đến tình trạng " Chảy máu chất xám" của nguồn
nhân lực khu vực nhà nước.
1.3.4 Những yêu cầu về chất lượng cán bộ, công chức trong công cuộc
cải cách hành chính ở Việt Nam
a. Các đặc trưng cơ bản của cán bộ, công chức Việt nam.
Cán bộ, công chức là chủ thể của nền công vụ, lao động của họ là một dạng của
lao động quyền lực, lao động thực thi pháp luật. Họ có quyền giải quyết mọi
công việc theo đúng cương vị, quyền hạn theo luật định, đồng thời có nghĩa vụ
thực thi mọi nhiệm vụ theo đúng chức trách được giao trong cơ quan, tổ chức
nhà nước nhất định. Xét dưới góc độ xã hội -chính trị, người cán bộ, công chức
nhà nước có vai trò to lớn trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Còn xét dưới góc độ xã
hội - dân sự thì người cán bộ, công chức đảm nhận vai trò lao động sáng tạo
trong một lĩnh vực lao động đặcthù là lao động quyền lực, khác với lao động sản
xuất, kinh doanh và các dạng lao động xã hội khác, sản phẩm lao động của họ là

các quyết định quản lý, các đạo luật, các bản án, . . .Quyền lực của nhà nước suy
2
Nguồn : ng y 26/9/2005à
19
cho cùng cũng là quyền lực của nhân dân, vì quyền lực ấy do nhân dân tạo ra,
nhân
dân là nguồn cội của quyền lực nhà nước. Song bản chất nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đòi hỏi rất cao ở sự thống nhất giữa hai
phương diện ấy, cho nên người cán bộ, công chức nhà nước là " công bộc" của
dân chứ không phải là "quan dân", "quan cách mạng" như chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật trở thành sức mạnh quyền
lực, pháp luật ngự trị trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Cán bộ, công chức là
những người thực thi pháp luật, thực thi quyền lực của nhà nước do vậy họ phải
là những người tinh thông, am hiểu pháp luật, thực hiện đúng pháp luật. Đồng
thời qua quá trình thực tiễn thực thi pháp luật, chính họ là người sáng tạo pháp
luật, là lực lượng tham muư đề xuất ý kiến để tạo nên một hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh của nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Cán bộ, công chức là công bộc của nhân dân. Trong nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, nhân dân là cội nguồn của quyền lực
nhà nước, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Nhân
dân là cái gốc của một xã hội, nhà nước ra đời để phục vụ cho lợi ích của một
giai cấp( hoặc một nhóm người có chung lợi ích), nhưng để tồn tại được thì nhà
nước đó phải hài hòa lợi ích của mọi người dân, tức là phục vụ nhân dân. Vai trò
to lớn của nhân dân đã được bác Hồ khẳng định rất rõ qua câu nói của người:
"dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Cán bộ,
công chức là những người được dân giao quyền để thực thi công vụ, họ được h-
ởng lơng từ ngân sách nhà nước, mà ngân sách nhà nước chính là do nhân dân
đóng góp, vì vậy về mặtđạo lý và cả pháp lý phải có bổn phận phục vụ nhân dân,
phải là công bộc của dân.
- Cán bộ, công chức phải có đầy đủ chuẩn mực đạo đức của một nền công vụ

chính qui hiện đại. Để thực hiện và hoàn thành tết công việc của mình và để
thực sự trở thành công bộc của dân, cán bộ, công chức, ngoài tài năng và trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ cần phải có đầy đủ các chuẩn mực đạo đức " cần
kiệm, liêm chính, chí công vô tư”. - Trung thành với Đảng, chính phủ, với tổ
20
quốc và nhân dân. Trong bối cảnh mới của nền kinh tế đòi hỏi đội ngũ cán bộ,
công chức phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với Đảng, Chính
phủ, Tổ quốc và nhân dân, phải có kiến thức và năng lực thực tiễn quản lý kinh
tế xã hội, có phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh, tận tụy, tận trí phục vụ
sự nghiệp
chung của đất nước.
Cán bộ, công chức là nòng cốt, tiên phong trong việc bảo vệ kỷ cương
phép nước và các quyền tự do, quyền con người. Yêu cầu của nhà nước pháp
quyền là đặt con người vào vị trí trung tâm, là mục tiêu, là giá trị cao nhất, vì thế
đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức trong thực thi công vụ phải đề cao trách
nhiệm pháp lý trong bảo vệ quyền tự do, lợi ích chính đáng của công dân, không
được vi phạm đến tự do và bất cứ quyền lợi và lợi ích hợp pháp nào của công
dân; phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, không được quan liêu, cửa
quyền và vô trách nhiệm.
- Đội ngũ cán bộ, công chức là lực lượng đi đầu trong đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác của bộ máy nhà nước.Với
địa vị pháp lý và bổn phận của mình, đội ngũ cán bộ, công chức phải gương mẫu
trong công cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và các tiêu cực khác
trong bộ máy nhà nước. Nếu đội ngũ cán bộ, công chức không phải là lực lượng
tiên phong trong cuộc đấu tranh này thì khó có thể có được bộ máy nhà nước
trong sạch và vững mạnh.
b. Yêu cầu về chất lượng của cán bộ, công chức Việt nam trong thời
kỳ mới.
- Yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức. Yêu cầu về phẩm chất chính trị
là yêu cầu cơ bản của người cán bộ, công chức. Đó là sự trung thành và bản lĩnh

chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu và con đường mà Đảng đã lựa chọn.
Yêu cầu về phẩm chất chính trị còn được thể hiện qua sự gương mẫu, lòng nhiệt
tình, tận tụy có tinh thần và ý thức trách nhiệm cao với công việc, tận tâm và tận
trí phục vụ nhân dân. Đạo đức của người cán bộ, công chức được thể hiện ở ý
thức, niềm tin vào định hướng xã hội chủ nghĩa, biết tôn trọng, giữ gìn kỷ luật,
21
kỷ cương, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có lối sống lành mạnh,
không tham ô, lãng phí và có trách nhiệm cao trong thực thi công vụ, có lòng
nhân ái, vị tha, biết cách cư xử đúng đắn trong các mối quan hệ. Đó là những
phẩm chất đạo đức cá nhân không thể thiếu ở mỗi người cán bộ, công chức. Bên
cạnh những phẩm chất đạo đức cá nhân người cán bộ, công chức còn phải có
đạo đức nghề nghiệp, đó là ý thức và trách nhiệm pháp lý đối với nghề nghiệp
mà họ theo đuổi. Đạo đức nghề nghiệp của người cán bộ, công chức được thể
hiện ở tinh thần trách nhiệm và đề cao kỷ luật trong thi hành công vụ. Đó là ý
thức luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao, kể cả khi gặp khó khăn, bất
lợi. Đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi những người cán bộ, công chức không những
phải biết tiết kiệm cho mình, mà quan trọng hơn nữa là phải biết tiết kiệm cho
nhà nước, cho nhân dân, có nh vậy mới hạn chế và chống được bệnh lãng phí
thường xảy ra trong các cơ quan nhà nước. Đạo đức nghề nghiệp của người cán
bộ, công chức còn thể hiện ở sự ngay thẳng, công bằng trong thực thi công vụ
theo pháp luật. Phải có những con người ngay thẳng trong bộ máy nhà nước,
giám nói ra những điều sai trái, phê bình thẳng thắn những cá nhân thiếu tinh
thần trách nhiệm, vạch trần bộ mặt thật của những cá nhân thoái hóa biến chất
để nhà nước và xã hội xử lý, có như vậy công cuộc cải cách hành chính mới đạt
được hiệu quả, bộ máy nhà nước mới trong sạch và gọn nhẹ.
- Yêu cầu về văn hóa. Văn hóa là cơ sở để hình thành tác phong, phong
cách và lối sống của con người, là nền tảng tạo nên phẩm chất, cốt cách của
người cán bộ, công chức. Vai trò của văn hóa ngày càng được coi trọng không
chỉ trong đời sống xã hội. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay văn hóa được
coi nh một giá trị nội sinh, nó làm cho giá trị kinh tế tăng lên. Văn hóa doanh

nghiệp mạnh sẽ làm cho thơng hiệu và uy tín của doanh nghiệp tăng lên từ đó
nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. Ngày nay người
tiêu dùng khi mua một sản phẩm họ không chỉ coi trọng chất lượng sản phẩm
mà họ còn quan tâm đến bao bì của sản phẩm, chất lượng và dịch vụ của nhà
cung c.ấp sản phẩm. Các giá trị đó chính là văn hóa của doanh nghiệp, ai thực
hiện được các yêu cầu đó một cách tốt nhất thì người đó sẽ dành chiến thắng
22
trên thị trường. Yêu cầu về văn hóa đòi hỏi người cán bộ, công chức phải có
kiến thức liên ngành cần thiết, có kiến thức sâu rộng về các vấn đề kinh tế chính
trị, có hiểu biết sâu sắc về lịch sử và truyền thống văn hóa của dân tộc để giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Yêu cầu về trí tuệ. Ngày nay với sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế
đời sống con người trong xã hội được cải thiện và đặc biệt mặt bằng dân trí được
tăng lên cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đòi hỏi người
cán bộ, công chức phải có trình độ kiến thức và năng lực tư duy khoa học sáng
tạo.
Trong một số ngành, lĩnh vực và đối với ngạch chuyên viên trở lên thì
trình độ đại học là bắt buộc và tối thiểu. Một số ngành và lĩnh vực khác phải là
trên đại học. Yêu cầu trí tuệ hóa đội ngũ cán bộ, công chức buộc người cán bộ,
công chức phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ kiến thức và năng lực
trí tuệ của mình, đồng thời nhà nước cần phải có chính sách, chế độ và tạo điều
kiện để cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng và bổ xung kiến thức để
phục vụ công tác thực thi đạt hiệu quả cao nhất.
- Cán bộ, công chức phải có ý thức pháp luật, am hiểu, tôn trọng luật pháp
và thông lệ quốc tế. ý thức pháp luật của cán bộ, công chức có những đặc thù so
với ý thức pháp luật của các đối tượng khác trong xã hội, thể hiện ở chỗ ý thức
pháp luật của cán bộ, công chức trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng và
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, áp dụng
pháp luật, kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật ý thức pháp luật của cán bộ,
công chức ảnh hởng đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, đời

sống nhà nước, xã hội và công dân. Hành vi của cán bộ, công chức có thể làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một hay nhiều quan hệ pháp luật, có thể mang
lại lợi ích hoặc thiệt hại về vật chất, tinh thần cho các đối tượng khác trong hoặc
ngoài cơ quan hành chính nhà nước; nó có thể làm phát sinh, chi phối tư tưởng,
tình cảm pháp luật và cả hành vi pháp luật của rất nhiều đối tượng trong xã hội.
Vì vậy mỗi cán bộ đều phải am hiểu về pháp luật và biết áp dụng pháp
luật
23
vào hoạt động công vụ để giải quyết các vấn đề thuộc chức trách, nhiệm vụ của
mình. Nếu cán bộ, công chức có trình độ hiểu biết pháp luật toàn diện, sâu sắc
có thái độ tôn trọng pháp luật, có hành vi tích cực chấp hành pháp luật thì hiệu
quả hoạt động sẽ cao. Ngược lại, nếu ý thức pháp luật kém, nhiều cán bộ, công
chức có hành vi vi phạm pháp luật thì sẽ có tác động rất xấu, thậm chí không thể
duy trì trật tự, kỷ cương trong Nhà nước và xã hội.
Vì lẽ đó vấn đề hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật của nhóm
này có ý nghĩa rất quan trọng. Một thực tế đang diễn ra trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế của nước ta đó là vấn đề am hiểu về luật pháp quốc tế của các
doanh nghiệp cũng như cán bộ, công chức còn rất hạn chế, đây là một cản trở
lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, điển hình là các vụ kiện bán phá giá
tôm và cá Ba sa vào thị trường Mỹ, giầy da ở thị trường ấn Độ cà phê ờ thị
trường Brazil . . . Để có thể hội nhập với thế giới và không bị thiệt thòi đòi hỏi
đội ngũ cán bộ, công chức phải nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của vấn đề này
để có định hướng và giải pháp để nâng cao sự hiểu biết về pháp luật và thông lệ
quốc tế để đáp ứng được các điều kiện và yêu cầu mới trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
- Yêu cầu về chuyên môn hóa hiện đại hóa cán bô, công chức Ngoài
những đặc điểm cơ bản trên đối với từng nhóm, từng bộ phận cán bộ, công chức
lại có những yêu cầu đặc biệt, cụ thể riêng.
24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CỦA CÁC NƯỚC
2.1 Thực trạng chất lượng cán bộ, công chức Việt Nam hiện nay.
2.1.1 Thực trạng qua các số liệu thống kê.
Nhìn gần hai mươi năm qua khi đất nước ta ở thời kỳ đầu đổi mới, chuyển
đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, công tác cán bộ
nói chung, đội ngũ cán bộ, công chức nước ta nói riêng, đứng trước nhiều thử
thách trong đó có những thử thách trực tiếp đặt ra cho công tác đào tạo, bồi dư-
ỡng đó là: Mặt bằng trình độ, kiến thức của cán bộ, công chức thấp, lại không
đồng đều, bất cập với những yêu cầu của công cuộc đổi mới. Do được đào tạo
và hoạt động trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp nên rất lúng túng và bỡ
ngỡ trước bước chuyển đổi cơ chế quản lý và hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực
Khi xếp vào các ngạch bậc công chức đại bộ phận cán bộ, công chức thiếu, nợ
các tiêu chuẩn về trình độ (lý luận chính trị, quản lý nhà nước, chuyên môn,
ngoại ngữ và sau này là tin học). Có những cán bộ, công chức khi xếp vào
ngạch, hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ thiếu tới 3 đến 4 tiêu chuẩn về trình độ
và từ đó vấn đề trả nợ về tiêu chuẩn trình độ được đặt ra bồi dưỡng cán bộ, công
chức. Thấy rõ sự bất cập ấy, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đã
được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và xác định là nhiệm vụ quan trọng
trong công tác cán bộ, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và cải cách hành
chính nhà nước. Nghị quyết Trung ương 3 khóa 8 về Chiến lược cán bộ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã xác định đào tạo, bồi d-
ưỡng cán bộ là một trong những giải pháp lớn xây dựng đội ngũ cán bộ và công
tác cán bộ. Ngày 20/1 1/1996 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số
874/TTG về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Tại quyết định này
mục tiêu, đối tượng, nội dung công tác đào tạo, bồi dỡng cán bộ, công chức
được xác định rõ ràng. Hai hệ thống cơ quan quản lý nhà nước và hệ thống cơ sở
tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đã được xác định từ Trung ơng
đến địa phương. Tiếp theo là quyết định 74/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
25

×