Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Vai trò của gia đình và sự phát triển của trẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (813.21 KB, 15 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
KHOA SƯ PHẠM

VAI TRỊ CỦA GIA ĐÌNH VÀ BẠN BÈ CÙNG LỨA
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN CỦA TRẺ EM
GIAI ĐOẠN TỪ 3 ĐẾN 6 TUỔI

Học phần: Tâm lí học trẻ em 1
GV: Vũ Mộng Đóa
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Ánh Kim Khuyên
MSSV: 2113323

ĐÀ LẠT - THÁNG 01/2022


Table of Contents
Table of Contents ............................................................................................................ 0
CHƯƠNG I. PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................ 3

1. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ ......................................................................................... 3
1.1 Vai trị gia đình đối với người Việt Nam ....................................................... 3
1.2 Giáo dục truyền thống gia đình của người Việt ............................................ 3
1.3 Gia đình là nền tảng của xã hội ...................................................................... 3
2. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN ................................................................................ 4
2.1 Gia đình ............................................................................................................. 4
2.2 Tình bạn ............................................................................................................ 4
2.3 Ngơn ngữ ........................................................................................................... 5
2.4 Tư duy ............................................................................................................... 5
2.5 Phát triển bản thân .......................................................................................... 6
CHƯƠNG II. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÍ TRẺ TỪ 3 – 6 TUỔI ...................... 6



1. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÍ TRẺ 3 – 4 TUỔI ............................................................... 6
1. 1 Sự thay đổi hoạt động chủ đạo....................................................................... 6
1. 2 Sự hình thành ý thức về bản thân ................................................................. 7
1. 3 Một bước ngoặt của tư duy ............................................................................ 7
2. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÍ CỦA TRẺ 4 – 5 TUỔI ..................................................... 8
2.1 Hoàn thiện hoạt động vui chơi và hình thành “xã hội trẻ em” ................... 8
2.2 Giai đoạn phát triển mạnh tư duy trực quan hình tượng............................ 8
2.3 Sự phát triển đời sống tình cảm...................................................................... 8
2.4 Sự phát triển động cơ hành vi ......................................................................... 9
3. TÂM LÍ CỦA TRẺ 5 – 6 TUỔI ........................................................................... 9
3.1 Sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hàng ngày ...................... 9
3.2 Ý thức bản ngã và tính chủ định trong hoạt động tâm lý ............................ 9
3. 3 Xuất hiện kiểu tư duy trực quan hình tượng mới ..................................... 10
CHƯƠNG III. VAI TRỊ CỦA GIA ĐÌNH VÀ BÈ BẠN ĐỐI VỚI TRẺ ..................... 10

1. VAI TRÒ GIÁO DỤC CỦA GIA ĐÌNH........................................................... 10
1.1 Gia đình là mơi trường giáo dục đầu tiên của mỗi con người. .................. 11


1.2 Gia đình chuẩn bị hành trang cho trẻ bước vào cuộc sống ....................... 11
1.3 Gia đình là nhịp cầu nối với nhà trường ..................................................... 11
1.4 Gia đình cần thiết lập mối quan hệ mật thiết với xã hội ............................ 11
2. VAI TRÒ CỦA BÈ BẠN TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TRẺ ................. 12
2. 1 Trẻ luôn chịu ảnh hưởng từ môi trường bạn bè ........................................ 12
2.2 Bạn bè cùng lứa tuổi là mối quan hệ cộng đồng của trẻ ............................ 12
2.3 Bạn bè chiếm vị trí đáng kể trong đời sống tinh thần của trẻ ................... 13
2.4 Quan hệ với bạn bè cùng tuổi là quan hệ riêng của trẻ ............................. 13
CHƯƠNG IV. KẾT LUẬN ........................................................................................... 13


1. Thực hiện lời dạy của Bác về vai trị của gia đình ........................................... 13
2. Khuyến khích trẻ xây dựng quan hệ bạn bè..................................................... 14


ĐỀ CƯƠNG
VAI TRỊ CỦA GIA ĐÌNH VÀ BẠN BÈ CÙNG LỨA
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN CỦA TRẺ TỪ 3 – 6 TUỔI
CHƯƠNG I. PHẦN MỞ ĐẦU

1. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ
1.1 Vai trị gia đình đối với người Việt Nam

Ðối với phần lớn người Việt Nam chúng ta, gia đình là tổ ấm của mỗi người,
là nơi chúng ta được yêu thương và chia sẻ tình yêu thương. Xây dựng hạnh phúc
gia đình cũng chính là xây dựng tổ ấm gia đình, vun đắp và lan tỏa tình yêu thương
cho tất cả mọi người. Gia đình mang tính liên kết chặt chẽ, gắn bó, quan hệ máu
thịt giữa các thành viên trong gia đình.
Gia đình là một tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế
văn hóa – xã hội đặc thù được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan
hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng giáo dục giữa các thành
viên.
1.2 Giáo dục truyền thống gia đình của người Việt

Giáo dục truyền thống gia đình tạo cho các em niềm tự hào về gia đình và
dịng họ: gia đình có nhiều người thành đạt, trong gia đình có nề nếp, gia phong,
gia đạo và cách sống đẹp. Chính truyền thống gia đình và dịng họ sẽ là tấm gương
cho các em học theo, rèn luyện và phát huy truyền thống tốt đẹp đó. Biện pháp
này có tác dụng cao vì uy tín của gia đình, dịng họ là nơi mà các em được sinh
ra và lớn lên.
Giáo dục bằng cách thông qua những tấm gương sáng trong gia đình của

ơng bà, cha mẹ, anh em …, trẻ em lớn lên và được tiếp nhận cách sống, ứng xử
của những người xung quanh, trẻ em sẽ bắt chước học theo từ đó hình thành nhân
cách tốt qua trải nghiệm thực tế. Phong trào: “ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu
thảo hiền” cũng là nhằm nêu gương tốt để giáo dục trẻ em. Cách giáo dục này
mang lại cho trẻ em cách sống, làm việc theo gương tốt của gia đình và chuẩn
mực của xã hội.
1.3 Gia đình là nền tảng của xã hội

Gia đình là nền tảng của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng, là môi trường quan
trọng hình thành và giáo dục nhân cách của trẻ em. Xây dựng gia đình no ấm,


bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc là trách nhiệm của nhiều ban ngành, nhiều tổ
chức xã hội và cũng là trách nhiệm của mỗi cơng dân.
Việc “Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu
cao vai trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hóa.
Xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội” là nhiệm
vụ quan trọng và thường xuyên được quan tâm.
2. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
2.1 Gia đình

"Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau bởi các
mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ ni
dưỡng và quan hệ giáo dục. Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua một quá
trình phát triển lâu dài. Thực tế, gia đình có những ảnh hưởng và tác động mạnh
mẽ đến xã hội.
Thực tế, gia đình là một khái niệm phức hợp bao gồm các yếu tố sinh học,
tâm lý, văn hóa, kinh tế,... khiến cho nó khơng giống với bất kỳ một nhóm xã hội
nào. Từ mỗi một góc độ nghiên cứu hay mỗi một khoa học khi xem xét về gia đình
đều có thể đưa ra một khái niệm gia đình cụ thể, phù hợp với nội dung nghiên

cứu phù hợp và chỉ có như vậy mới có cách tiếp cận phù hợp đến với gia đình.
Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội. Vì vậy,
có thể xem xét gia đình như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như một thiết chế xã
hội mà có vai trị đặc biệt quan trọng trong q trình xã hội hóa con người. Gia
đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của
nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con
ni, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp
ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng như để thực hiện tính tất yếu
của xã hội về tái sản xuất con người."
(theo Bách khoa tồn thư mở Wikipedia />2.2 Tình bạn

"Tình bạn là mối quan hệ tình cảm hai chiều giữa con người với nhau. Tình
bạn có đặc điểm chung bao gồm tình cảm; lịng tốt, tình u, đức hạnh, sự cảm
thơng, sự đồng cảm, trung thực, lòng vị tha, lòng trung thành, sự rộng lượng, sự
tha thứ, sự hiểu biết lẫn nhau và lịng trắc ẩn, thích thú sự có mặt của nhau, tin
tưởng và khả năng là chính mình, thể hiện tình cảm của mình với người khác mà
khơng phải sợ phán xét từ người đó. Tình bạn là một khía cạnh thiết yếu của kỹ
năng xây dựng mối quan hệ.


Đối với trè, những tình bạn này mang đến cơ hội chơi đùa và khả năng thực
hành việc tự điều chỉnh tâm lý. Hầu hết trẻ em có xu hướng mơ tả tình bạn theo
những điều như chia sẻ, và trẻ em có nhiều khả năng chia sẻ với người mà chúng
coi là bạn. Khi trẻ trưởng thành, chúng trở nên ít cá tính hơn và nhận thức rõ hơn
về người khác. Trẻ em có khả năng đồng cảm với bạn bè và thích chơi theo nhóm.
Chúng cũng trải qua sự từ chối của bạn bè cùng trang lứa khi trải qua những
năm tháng tuổi thơ. Thiết lập mối quan hệ bạn bè tốt ngay từ nhỏ giúp một đứa
trẻ được làm quen tốt hơn trong xã hội sau này trong cuộc sống của chúng."
(theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia />2.3 Ngôn ngữ


"Ngôn ngữ là một hệ thống phức tạp, được con người hay động vật sử dụng
để liên lạc hay giao tiếp với nhau, cũng như chỉ chính năng lực của con người có
khả năng sử dụng một hệ thống như vậy. Là hệ thống thông tin liên lạc được sử
dụng bởi một cộng đồng hoặc quốc gia cụ thể, cách thức hoặc phong cách của
một đoạn văn bản hoặc lời nói. Ngành khoa học nghiên cứu về ngôn ngữ được
gọi là ngôn ngữ học.
Ngôn ngữ tự nhiên được nói hoặc ghi lại, nhưng bất kỳ ngơn ngữ nào cũng
có thể được mã hóa thành phương tiện truyền thơng sử dụng các giác quan thính
giác, thị giác, xúc giác hoặc kích thích (ví dụ: văn bản, đồ họa, chữ nổi hoặc huýt
sáo). Điều này là do ngôn ngữ của con người độc lập với phương thức biểu đạt.
Khi được sử dụng như là một khái niệm chung, ngôn ngữ có thể nói đến các khả
năng nhận thức để học hỏi và sử dụng hệ thống thông tin liên lạc phức tạp hoặc
để mô tả các bộ quy tắc tạo nên các hệ thống này hay tập hợp các lời phát biểu
có thể được tạo thành từ những quy tắc.
(theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia />2.4 Tư duy

"Tư duy là phạm trù triết học dùng để chỉ những hoạt động của tinh thần,
đem những cảm giác của người ta sửa đổi và cải tạo thế giới thông qua hoạt động
vật chất, làm cho người ta có nhận thức đúng đắn về sự vật và ứng xử tích cực
với nó.
Theo Từ điển Bách khoa tồn thư Việt Nam, tập 4 (Nhà xuất bản Từ điển
bách khoa. Hà Nội. 2005); Tư duy là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ
chức một cách đặc biệt – bộ não con người. Tư duy phản ánh tích cực hiện thực
khách quan dưới dạng các khái niệm, sự phán đoán, lý luận.v.v...
Theo triết học duy tâm khách quan, tư duy là sản phẩm của "ý niệm tuyệt
đối" với tư cách là bản năng siêu tự nhiên, độc lập, không phụ thuộc vào vật chất.


Theo George Wilhemer Fridrick Heghen: "Ý niệm tuyệt đối là bản nguyên của
hoạt động và nó chỉ có thể biểu hiện trong tư duy, trong nhận thức tư biện mà

thôi". Karl Marx nhận xét: "Đối với Heghen, vận động của tư duy được ơng nhân
cách hóa dưới tên gọi "ý niệm" là chúa sáng tạo ra hiện thực; hiện thực chỉ là
hình thức bề ngồi của ý niệm".
Theo triết học duy vật biện chứng, tư duy là một trong các đặc tính của vật
chất phát triển đến trình độ tổ chức cao. Về lý thuyết, Karl Marx cho rằng: "Vận
động kiểu tư duy chỉ là sự vận động của hiện thực khách quan được di chuyển
vào và được cải tạo/tái tạo trong đầu óc con người dưới dạng một sự phản ánh".
Những luận cứ này còn dựa trên những nghiên cứu thực nghiệm của Ivan
Petrovich Pavlov, nhà sinh lý học, nhà tư tưởng người Nga. Bằng các thí nghiệm
tâm-sinh lý áp dụng trên động vật và con người, ông đi đến kết luận: "Hoạt động
tâm lý là kết quả của hoạt động sinh lý của một bộ phận nhất định của bộ óc".
2.5 Phát triển bản thân

"Phát triển bản thân là hoạt động nhằm nâng cao kiến thức và hình ảnh
bản thân, phát triển tài năng và khả năng, tích lũy tài sản và sự nghiệp, nâng cao
chất lượng cuộc sống và làm sáng tỏ những ước mơ và hoài bão. Khái niệm này
không chỉ dừng lại ở phát triển bản thân mà nó cịn bao gồm các hoạt động chính
thức và khơng chính thức để phát triển người khác trong những vai trò như thầy
giáo, hướng dẫn viên, tư vấn viên, quản lý, huấn luyện viên. Nói cho cung, phát
triển bản thân diễn ra trong bối cảnh thể chế, nó liên quan tới phương pháp,
chương trình, cơng cụ, kỹ thuật và hệ thống đánh giá nhằm hỗ trợ con người phát
triển ở mức độ cá nhân trong các tổ chức.
CHƯƠNG II. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÍ TRẺ TỪ 3 – 6 TUỔI

1. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÍ CỦA TRẺ 3 – 4 TUỔI
1. 1 Sự thay đổi hoạt động chủ đạo

Tuổi lên 3, trẻ xuất hiện một mâu thuẫn đó là mâu thuẫn là muốn tự mình
làm tất cả mọi việc như người lớn, nhưng khả năng thì cịn quá non yếu của trẻ,
không thể làm nổi những việc đó. Trong trường hợp này, cha mẹ, người lớn khơng

thể dùng biện pháp cấm đốn, vì như vậy là ngăn chặn bước đường phát triển của
trẻ.
Trong độ tuổi này, tình trạng trẻ em ln ln địi hỏi "để con làm lấy?" đã
dẫn đến hiện tượng khủng hoảng. Để giải quyết mâu thuẫn này, trẻ phải tìm đến
một hoạt động mới: khơng làm thật được mọi việc như người lớn thì làm giả vờ
(tức là làm chơi) vậy. Ở đó trị chơi đóng vai theo chủ đề đã xuất hiện. Trẻ không
làm thế nào tiêm thuốc cho người bệnh được, nhưng đóng vai bác sĩ để giả vờ


tiêm cho người bệnh thì lại được. Trẻ khơng lẽ lên lớp giảng bài như cơ giáo thật,
nhưng đóng vai cơ giáo giả vờ giảng bài cho học sinh thì lại được?
1. 2 Sự hình thành ý thức về bản thân

Ý thức về bản thân (còn gọi là ý thức bản ngã hay cái "tôi" của một người)
đã chớm được nảy sinh từ cuối tuổi ấu nhi khi trẻ biết tách mình ra khỏi mọi người
xung quanh để thận ra chính mình, biết mình có một sức mạnh và một thẩm quyền
nào đó trong cuộc sống. Nhưng ý thức về bản thân của trẻ cuối tuổi ấu nhi còn
hết sức mờ nhạt và bị pha trộn thêm tính chất mơ hồ, do đó trẻ cịn chưa phân biệt
được một cách rõ rệt đâu là mình và đâu là người khác. Nhiều đứa trẻ vào tuổi ấy
vẫn chưa biết mình lên mấy tuổi, con cái nhà ai, thậm chí khơng biết cả mình là
con trai hay con gái nữa.
Quan trọng hơn cả là trẻ bắt đầu tìm hiểu thế giới của chính con người và
dần dần khám phá ra được rằng xung quanh nó có biết bao nhiêu mối quan hệ
chằng chịt giữa người với người. Đó chính là những mối quan hệ xã hội mà trẻ
thấy khó hiểu, chúng khơng như cái bát để cầm hay bông hoa để ngửi, bức tranh
để nhìn hay bài hát để nghe. Và ở đâu thì trẻ cũng bắt gặp những mối quan hệ ấy.
Trong gia đình thì có quan hệ giữa ơng bà, cha mẹ và con cái; ở trường mẫu giáo
thì có quan hệ giữa cô giáo với các cháu, giữa các cháu và cô cấp dưỡng hay bác
bảo vệ; trong bệnh viện thì có quan hệ giữa bác sĩ và người bệnh v.v... Đến tuổi
mẫu giáo, trẻ rất muốn phát hiện ra những mối quan hệ ấy, nhập vào đó để học

làm người lớn.
1. 3 Một bước ngoặt của tư duy

Đến tuổi 3 - 4, tư duy của trẻ có một bước ngoặt rất cơ bản. Đó là q trình
tư duy của trẻ đã bắt đầu dựa vào những hình ảnh của sự vật và hiện tượng đã có
trong đầu, cũng có nghĩa là chuyển từ kiểu tư duy trực quan - hành động sang
kiểu tư duy trực quan hình tượng. Việc chuyển từ tư duy trực quan - hành động
sang tư duy trực quan - hình tượng là nhờ vào: thứ nhất là trẻ tích cực hoạt động
với đồ vật, hoạt động đó được lặp đi lặp lại nhiều lần, lâu dần được nhập tâm:
thành hình ảnh, thành biểu tượng trong óc. Đó là cơ sở để cho hoạt động tư duy
được diễn ra ở bình diện bên trong, thứ hai là do hoạt động vui chơi. Hoạt động
vui chơi giúp trẻ hình thành chức năng ký hiệu tượng trưng của ý thức. Chức năng
này được thể hiện ở khả năng dùng một vật này thay thế cho một vật khác và hành
động với vật thay thế như là hành động với vật thật.


2. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÍ CỦA TRẺ 4 – 5 TUỔI
2.1 Hồn thiện hoạt động vui chơi và hình thành “xã hội trẻ em”

Ở tuổi 4 – 5 tuổi , hoạt động vui chơi đã phát triển mạnh, đặc biệt là sự phát
triển của trị chơi đóng vai theo chủ đề. Tuy nhiên phải đến tuổi mẫu giáo nhỡ thì
trị chơi đó mới đạt tới dạng chính thức.
Suốt cả cuộc đời, từ bé đến già, ở độ tuổi nào con người cũng đều tham
gia vào hoạt động vui chơi, nhưng chỉ ở tuổi mẫu giáo mà ở chính giữa cái tuổi
ấy (tức là tuổi 4 – 5 tuổi) thì hoạt động vui chơi mới mang đầy đủ ý nghĩa của nó
nhất, cũng tức là nó đạt tới dạng chính thức và biểu hiện đầy đủ nhất đặc điểm
của hoạt động vui chơi, nhiều hơn cả là trị chơi đóng vai theo chủ đề. Có thể nói
rằng hoạt động vui chơi ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ đang phát triển tới mức hoàn
thiện.
2.2 Giai đoạn phát triển mạnh tư duy trực quan hình tượng


Đầu tuổi mẫu giáo, trẻ đã biết tư duy bằng những hình ảnh trong đầu, nhưng
do biểu tượng còn nghèo nàn và tư duy mới được chuyển từ bình diện bên ngồi
vào bình diện bên trong nên trẻ mới chỉ giải được một số bài toán hết sức đơn
giản theo kiểu tư duy trực quan - hình tượng. Cùng với sự hoàn thiện hoạt động
vui chơi và sự phát triển các hoạt động khác (như vẽ, nặn, kể chuyện, xây dựng,
đi chơi đi dạo...) vốn biểu tượng của trẻ mẫu giáo nhỡ được giàu lên thêm nhiều,
chức năng ký hiệu phát triển mạnh, lòng ham hiểu biết và hứng thú nhận thức
tăng lên rõ rệt. Đó là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tư duy trực quan - hình
tượng, và đây cũng là thời điểm kiểu tư duy đó phát triển mạnh mẽ nhất.
2.3 Sự phát triển đời sống tình cảm

Trong lứa tuổi ấu nhi cũng như lứa tuổi mẫu giáo thì tình cảm thống trị tất
cả các mặt trong hoạt động tâm lý của đứa trẻ; nhưng đặc biệt ở độ tuổi 4 – 5 tuổi
thì đời sống tình cảm của trẻ có một bước chuyển biến mạnh mẽ, vừa phong phú
vừa sâu sắc hơn so với lứa tuổi trước đó.
Tình cảm của con người chỉ nảy sinh trong những mối quan hệ giữa người
với người. Ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ quan hệ của trẻ với những người xung quanh
được mở rộng ra một cách đáng kể, do đó tình cảm của trẻ cũng được phát triển
về nhiều phía đối với những người trong xã hội. Có thể coi đây là nguồn xúc cảm
mạnh mẽ nhất và quan trọng nhất trong đời sống tinh thần của trẻ 4 – 5 tuổi.
Nhu cầu được yêu thương của trẻ 4 – 5 tuổi là rất lớn, nhưng điều đáng
lưu ý hơn là sự bộc lộ tình cảm của chúng rất mạnh mẽ đối với những người xung
quanh, trước hết là với bố mẹ, anh chị, cô giáo... Trẻ thường thể hiện sự quan tâm
thông cảm với họ.


2.4 Sự phát triển động cơ hành vi

Đến tuổi 4 – 5 tuổi, các động cơ đã xuất hiện trước đây như muốn tự khẳng

định, muốn được sống và làm việc giống như người lớn, muốn nhận thức sự vật
và hiện tượng xung quanh v.v... đều được phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt những
động cơ đạo đức, thể hiện thái độ của trẻ đối với những người khác có một ý nghĩa
hết sức quan trọng trong sự phát triển các động cơ hành vi. Những động cơ này
gắn liền với việc lĩnh hội có ý thức những chuẩn mực về những quy tắc đạo đức
hành vi trong xã hội.
Ở tuổi này, những động cơ xã hội muốn làm một cái gì đó cho người khác,
mang lại niềm vui cho người khác bắt đầu chiếm vị trí ngày càng lớn trong số các
động cơ đạo đức. Trong thời kỳ này trẻ đã hiểu rằng những hành vi của chúng có
thể mang lại lợi ích cho những người khác và chúng bắt đầu thực hiện những cơng
việc vì người khác theo sáng kiến riêng của mình.
3. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÍ CỦA TRẺ 5 – 6 TUỔI
3.1 Sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hàng ngày

Tiếng mẹ đẻ là phương tiện quan trọng nhất để lĩnh hội nền văn hoá dân
tộc, để giao lưu với những người xung quanh, để tư duy, để tiếp thu khoa học, để
bồi bổ tâm hồn... Ganzalốp - một nhà thơ nổi tiếng của Đaghextan đã nói: "Khi
chết, người cha để lại cho con cái của mình nhà cửa, ruộng vườn, thanh kiếm và
cây đàn pandua. Nhưng một thế hệ khi mất đi thì để lại cho thế hệ tiếp theo tiếng
nói. Ai có tiếng nói người ấy sẽ xây dựng nhà mình, sẽ cày được ruộng, đúc được
kiếm, lên được dây gàn pandua và gẩy được nó".
Nếu một đứa trẻ 5-6 tuổi mà nói năng ấp úng, phát âm ngọng líu ngọng lơ,
vốn từ nghèo nàn tới mức không đủ để diễn đạt những điều mình cần nói, khơng
sử dụng được ngữ pháp để nói mạch lạc cho mọi người hiểu mình và hiểu được
lời người khác nói, thì có thể liệt em bé đó vào loại chậm phát triển.
Lứa tuổi mẫu giáo là thời kỳ bộc lộ tính nhạy cảm cao nhất đối với các
hiện tượng ngơn ngữ, điều đó khiến cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ đạt tốc độ
khá nhanh, và đến cuối tuổi mẫu giáo thì hầu hết trẻ em đều biết sử dụng tiếng
mẹ đẻ một cách thành thục trong sinh hoạt hằng ngày.
3.2 Ý thức bản ngã và tính chủ định trong hoạt động tâm lý


Trẻ em 5 – 6 tuổi thường lĩnh hội những chuẩn mực và quy tắc hành vi như
là những thước đo để đánh giá người khác và đánh giá bản thân. Nhưng do tình
cảm cịn chi phối mạnh nên khơng cho phép nó dùng thước đo ấy để đánh giá
hành vi của những người khác cũng như của chính mình một cách khách quan.
Đến tuổi mẫu giáo lớn, trẻ mới nắm được kỹ năng so sánh mình với người khác,


điều này là cơ sở để tự đánh giá một cách đúng đắn hơn và cũng là cơ sở để trẻ
noi gương những người tốt, việc tốt.
Ở tuổi 5 – 6 tuổi, sự tự ý thức còn được biểu hiện rõ trong sự phát triển giới
tính của trẻ. Ở tuổi này trẻ khơng những nhận ra mình là trai hay gái mà cịn biết
rõ ràng nếu mình là trai hay gái thì hành vi phải thể hiện như thế nào cho phù hợp
với giới tính của mình. Ở đây tấm gương của người lớn tác động rất mạnh đến
trẻ. Những em trai thường bắt chước những hành vi, cử chỉ của đàn ơng, cịn
những em gái thì bắt chước dáng điệu của phụ nữ. Hiện tượng này phản ánh vào
trò chơi rất rõ: Con trai thường đóng vai bộ đội, cơng an bảo vệ, con gái thì đóng
vai người nội trợ, bán hàng... Trong khi nhận xét nhau, trẻ cũng chú ý đến khía
cạnh giới tính. Trẻ thường nói: "Con trai mà lại khóc à?" hay "Con gái mà lại
đánh nhau à?". Cần nhớ rằng trẻ em ở đầu tuổi mẫu giáo hãy cịn rất mơ hồ về
giới tính. Có cháu trịn ba tuổi đã nói: "Khi lớn lên nếu cháu là chú thì cháu làm
lái xe, nếu cháu là cơ thì cháu làm bác sĩ".
Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng giúp trẻ điều khiển và điều chỉnh
hành vi của mình cho phù hợp với những chuẩn mực, những quy tắc xã hội, từ đó
mà hành vi của trẻ mang tính xã hội, tính nhân cách đậm nét hơn trước.
Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng còn cho phép trẻ thực hiện các hành
động một cách chủ tâm hơn, nhờ đó các q trình tâm lý mang tính chủ định rõ
rệt.
3. 3 Xuất hiện kiểu tư duy trực quan hình tượng mới


Đó là kiểu tư duy trực quan - sơ đồ. Kiểu tư duy này tạo ra cho trẻ 5 - 6
tuổi một khả năng phản ánh những mối liên hệ tồn tại khách quan, không bị phụ
thuộc vào hành động hay ý muốn chủ quan của bản thân đứa trẻ. Sự phản ánh
những mối liên hệ khách quan là điều kiện cần thiết để lĩnh hội những tri thức
vượt ra ngồi khn khổ của việc tìm hiểu từng sự vật riêng lẻ với những thuộc
tính sinh động của chúng để đạt tới tri thức khái quát. Tuy tư duy trực quan - sơ
đồ vẫn giữ tính chất hình tượng song bản thân hình tượng cũng trở nên khác trước:
hình tượng đã bị mất đi những chi tiết rườm rà mà chỉ còn giữ lại những yếu tố
chủ yếu giúp trẻ phản ánh một cách khái quát sự vật chứ không phải là từng sự
vật riêng lẻ.
CHƯƠNG III. VAI TRỊ CỦA GIA ĐÌNH VÀ BÈ BẠN ĐỐI VỚI TRẺ

1. VAI TRÒ GIÁO DỤC CỦA GIA ĐÌNH

Mỗi người sinh ra và lớn lên đều có một gia đình và đồng thời chịu ảnh
hưởng của ba mơi trường giáo dục chính là: Gia đình, nhà trường và xã hội. Có
thể xem ba mơi trường ấy là cái nơi ni dưỡng, tác động rất lớn đến việc hình
thành nhân cách của trẻ em, trong đó gia đình là cơ sở, là nền tảng quan trọng có


tính chất quyết định nhân cách của các em trong q trình trưởng thành. Vì vậy
vai trị giáo dục của gia đình là vơ cùng quan trọng.
1.1 Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên của mỗi con người.

Khi đứa trẻ sinh ra ánh mắt đầu tiên là cái nhìn về cha mẹ, âm thanh đầu
tiên tiếp nhận là âm thanh từ cha mẹ, ông bà, anh chị... là âm thanh của gia đình.
Sự chăm sóc của gia đình giúp các em lớn dần lên, tập đi những bước đầu tiên,
học câu nói đầu tiên, qua lời ru của mẹ, của bà... cùng với sự chỉ bảo của gia đình
các em được tiếp xúc và thẩm thấu truyền thống văn hóa gia đình và nền văn hóa
xã hội. Gia đình là nhân tố đầu tiên chỉ bảo, dạy dỗ cho các em hành vi ứng xử

theo chuẩn mực và các giá trị tốt đẹp của xã hội : “Học ăn, học nói, học gói, học
mở .. Ăn trơng nồi, ngồi trơng hướng.. Trên kính duới nhường.. ” Chính vì vậy
hành vi đầu đời của các em có dấu ấn sâu sắc của gia đình. Trẻ em có hành vi tốt
hay xấu trước hết và chủ yếu là do môi trường giáo dục của gia đình tạo nên.
1.2 Gia đình chuẩn bị hành trang cho trẻ bước vào cuộc sống

Trong vịng tay của cha mẹ và gia đình, các em được nuôi dưỡng bằng
những giá trị vật chất và tinh thần. Theo năm tháng, các em dần lớn lên hoàn thiện
về nhân cách. Trên những bước đường trưởng thành những ký ức của tuổi thơ
luôn đọng lại theo chân các em trên mỗi hành trình mà ở đó có thể là ký ức buồn
khổ hoặc ký ức êm đềm ngọt ngào trong vịng tay u thương của gia đình… tất
cả đều trở thành hành trang, động lực giúp các em vươn lên, quyết tâm hơn trên
mỗi bước đi của cuộc đời mình.
1.3 Gia đình là nhịp cầu nối với nhà trường

Gia đình là cái nơi giáo dục đầu tiên, giai đoạn sau các em tiếp tục
được sự giáo dục của nhà trường. Đó là mơi trường rộng lớn hơn, bạn bè nhiều
hơn, kiến thức được mở mang, thể chất ngày càng phát triển, theo đó nhận thức
và nhân cách được phát triển rất mạnh ở thời kỳ này. Để định hướng, uốn nắn và
điều chỉnh về nhân cách của các em gia đình phải ln liên hệ với nhà trường, với
Thầy cô giáo, để nắm bắt những ưu điểm và hạn chế của các em để tác động giúp
các biết khắc phục mặt yếu, phát huy mặt mạnh. Sự hợp tác này sẽ đạt hiệu quả
rất cao vì nhà trường chính là mơi trường thuận lợi nhất, tốt nhất để các em học
tập và rèn luyện.
1.4 Gia đình cần thiết lập mối quan hệ mật thiết với xã hội

Gia đình là tế bào của xã hội, nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội,
xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Đây là mối quan hệ
biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Xã hội tốt sẽ là cơ sở để xây dựng gia đình
hạnh phúc tiến bộ. Mặt khác, gia đình là nơi truyền thụ các giá trị văn hóa của

dân tộc và nhân loại từ thế hệ này đến thế hệ khác, vì vậy chỉ có thơng qua gia


đình mới là con đường nhanh nhất, chắc chắn nhất để giáo dục các em theo những
chuẩn mực tốt đẹp của xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước đang hội nhập và phát triển, do ảnh
hưởng từ phương Tây nên các hệ giá trị đang có những thay đổi nhất định, mặt
trái của nền kinh tế thị trường tạo nên nhiều tiêu cực, cám dỗ đã ảnh hưởng tới sự
phát triển nhân cách của các em. Điều ấy đòi hỏi gia đình cần có định hướng và
các biện pháp đúng đắn để khẳng định vai trị vị trí, tác dụng quan trọng khơng gì
thay thế được trong việc giáo dục nhân cách cho các em.
2. VAI TRÒ CỦA BÈ BẠN TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TRẺ

Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại ngày nay, gia đình khơng phải là mơi
trường duy nhất giáo dục trẻ em. Ngồi gia đình, trẻ em cịn chịu ảnh hưởng của
các mơi trường giáo dục khác như nhà trường, nhóm bạn bè.
2. 1 Trẻ luôn chịu ảnh hưởng từ môi trường bạn bè

Trong cuộc sống hàng ngày, con người tham gia hoạt động. Thông qua
những hoạt động với đồ vật, hoạt động người với người mà bản thân con người
hình thành nên nhận thức – tình cảm về thế giới xung quanh. Từ đó, con người có
tác động trở lại để cải tạo thế giới. Đây là quá trình hình thành và phát triển tâm
lý.
Chúng ta cần hiểu rằng giao lưu bè bạn là một trong những hoạt động sống
rất cơ bản của trẻ. Vì thế, hãy đồng hành cùng con trong việc định hướng hình
mẫu người bạn trẻ muốn kết giao, hỗ trợ con trong việc hình thành các năng lực
giao tiếp và hướng dẫn con xử lý các diễn biến xấu trong mối quan hệ bạn bè. Và
đừng quên, chính cha mẹ, đồng thời cũng là một người bạn lớn của con mình.
2.2 Bạn bè cùng lứa tuổi là mối quan hệ cộng đồng của trẻ


Ở độ tuổi 3 – 6 tuổi, trí não của trẻ bắt đầu phát triển và trẻ có thể học hỏi
những điều mới rất nhanh. Khi đi học, trẻ sẽ được tiếp xúc, gặp gỡ với các bạn
cùng độ tuổi, từ đó tạo tiền đề cho trẻ phát triển khả năng giao tiếp cũng như biết
cách diễn đạt rõ ràng về ý kiến, mong muốn của bản thân. Được chơi đùa cùng
bạn bè ở trường mầm non sẽ giúp trẻ trở nên nhanh nhẹn, hoạt bát và đem lại rất
nhiều niềm vui cho bé.
Ngồi ra, khi có bạn bè sẽ giúp trẻ thêm tự tin thể hiện bản thân trước đám
đông cũng như biết cách diễn đạt ý kiến, mong muốn của trẻ trước mọi người. Có
bạn bè cũng giúp trẻ tránh được căn bệnh tự kỷ đang dần trở nên phổ biến hiện
nay.


Trong độ tuổi 3 – 6 tuổi, thầy cô và bạn bè ở trường rất quan trọng với trẻ.
Chính thầy cô và bạn bè là những nhân tố giúp trẻ phát triển toàn diện nên cha
mẹ cần chú ý tạo điều kiện để con yêu luôn khỏe mạnh và phát triển tốt nhất.
2.3 Bạn bè chiếm vị trí đáng kể trong đời sống tinh thần của trẻ

Giao tiếp là điều kiện tất yếu của mọi hình thức hoạt động xã hội và cá
nhân của con người. Giao tiếp bạn bè chiếm vị trí đáng kể trong đời sống tinh
thần của trẻ. Vị trí bình đẳng trong giao tiếp của trẻ làm cho các quan hệ của trẻ
đặc biệt hấp dẫn, nó phù hợp với cảm giác về sự trưởng thành của trẻ. Sự liên hệ
với bạn cùng giới và khác giới của trẻ mở đầu cho cuộc sống trưởng thành ngồi
xã hội.
Chính sự giao tiếp với bạn đã đem lại cho trẻ sự thoả mãn nhiều hơn, trở
nên cần thiết hơn và có thể giữ vai trị chủ đạo trong sự hình thành, phát triển
nhân cách sau này. Ở trẻ, giao tiếp với người lớn khơng thể hồn tồn thay thế
giao tiếp với bạn cùng tuổi, đặc biệt với các bạn trong cùng lớp học, cùng trường.
2.4 Quan hệ với bạn bè cùng tuổi là quan hệ riêng của trẻ

Quan hệ với bạn bè cùng tuổi được xem như là quan hệ riêng của cá nhân,

qua đó trẻ có được những hành động độc lập, có tiếng nói của mình, các em được
bạn bè thừa nhận và tôn trọng. Đây là một quan hệ quan trọng vì vậy nếu bị phá
vỡ, các em sẽ có những xúc cảm tiêu cực. Nhu cầu kết bạn ở trẻ phát triển theo
độ tuổi.
Một mặt, giao tiếp là nhu cầu thiết yếu của con người, với trẻ nhu cầu kết
bạn trở nên thiết yếu vì các em muốn được đối xử bình đẳng thân ái, muốn có
người bạn tin cậy để chia sẻ riêng mà trong quan hệ với người lớn khơng có được
CHƯƠNG IV. KẾT LUẬN

1. Thực hiện lời dạy của Bác về vai trị của gia đình

Từ xưa đến nay, nhất là giai đoạn hiện nay – khi xã hội phát triển và hội
nhập thì vai trị giáo dục của gia đình trong việc hình thành nhân cách của trẻ em
càng trở lên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết.
Bác Hồ từng dạy: Mười năm là chuyện trồng cây. Trăm năm là chuyện khéo
tay trồng người.
Để giúp trẻ em trưởng thành, có nhân cách tốt, trở thành cơng dân có ích
cho xã hội, yêu tổ quốc, yêu đồng bào.. là một việc khó khăn khơng phải một sớm
một chiều, cần có thời gian và phải được gia đình cần quan tâm đặc biệt. Vì sự
trưởng thành của các em mỗi gia đình cần có định hướng rõ rệt, cụ thể, một
phương pháp giáo dục khoa học và điều thiết yếu cần phải kết hợp hài hịa ba mơi
trường: Gia đình – nhà trường và xã hội mới có thể đạt hiệu quả như mong muốn.


2. Khuyến khích trẻ xây dựng quan hệ bạn bè

Hãy để trẻ được thực hiện điều này càng sớm càng tốt. Cuộc sống luôn diễn
ra với những bối cảnh sinh động: họp mặt họ hàng, các buổi tiệc của người lớn,
sinh hoạt cộng đồng, khu phố,… Hãy để trẻ tự do kết nối với mọi người trong
những dịp gặp gỡ như thế. Trẻ có thể nói chuyện với người cùng trang lứa hoặc

những người lớn tuổi hơn. Khi để trẻ tự do trong những lúc này, bạn sẽ cảm thấy
trẻ khơng cịn là một “cái đi” bám dính lấy mình – đây khơng phải là sự giải
thốt cho cả hai bên sao? Tuy nhiên, để thực hiện được điều này, bạn cần lưu ý:
phải nói trước với trẻ về sự kiện sắp diễn ra với một thái độ hào hứng và cung cấp
cho trẻ những điều cần làm và những điều nên tránh. Khi sự kiện diễn ra hãy để
trẻ tham gia với tư cách là một thành viên độc lập, việc bạn cần làm lúc này là
quan sát từ xa để đảm bảo an toàn cho trẻ và ghi nhận lại tất cả những điều trẻ
làm để hiểu thêm về năng lực giao tiếp của con mình mà thơi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non - Nguyễn Ánh Tuyết (Chủ biên) – Nhà xuất bản
Đại học Sư phạm
2. Giáo Trình Tâm Lí Học Giáo Dục – Tác giả: Nguyễn Đức Sơn – Lê Minh Nguyệt –
Nguyễn Thị Huệ (Nhà xuất bản Đại học Sư phạm)
3. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia />4. Một số bài viết trên mạng iternet:
- Tình bạn với trẻ nhỏ trang (Vietnam Canada Preschool)
- Trang web tin tức về nuôi dạy con
- Trang web tham vấn trị liệu tâm lý
(Thiên Ân – ThS Tâm lí học Nguyễn Viết Thanh)
- Vai trị của gia đình với việc giáo dục nhân cách trẻ em trong giai đoạn hiện nay




×