Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

PHÂN TÍCH SWOT NGÂN HÀNG TMCP sài gòn THƯƠNG tín

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.78 KB, 11 trang )

PHÂN TÍCH SWOT NGÂN HÀNG TMCP SÀI
GÒN THƯƠNG TÍN- SACOMBANK

S W
1. Qui mô lớn, tiềm lực tài chính mạnh
2. Hệ thống phân phối rộng
3. Sản phẩm dịch vụ đa dạng
4. Ưu thế về dịch vụ thanh toán quốc tế,
kinh doanh ngoại hối và dịch vụ thẻ
5. Công nghệ, chất lượng dịch vụ cao
6. Tỉ lệ nợ xấu thấp
7. Nguồn nhân lực trẻ và dồi dào

1. Qui mô vốn, khả năng quản lý còn khá
khiêm tốn so với yêu cầu hội nhập
2. Công nghệ hiện đại chưa được áp dụng
đồng bộ trên toàn hệ thống
3. Công tác marketing về sản phẩm dịch
vụ chưa thật sự hiệu quả, chưa tạo được
điểm khác biệt
4. Có định hướng đúng đắn đầu tư cho
hoạt động dịch vụ nhưng hiệu quả chưa cao
O T
1. Hội nhập làm tăng uy tín và vị thế của
các NH Việt Nam trên thị trường thế giới
2. Tạo điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác,
liên doanh, liên kết với các NH nước ngoài
3. Hoạt động xuất nhập khẩu Việt Nam
phát triển tạo cơ hội thu hút nguồn vốn mới
4. Tiềm năng của ngành trong vòng 5
năm tới vẫn ở mức cao



1. Cạnh tranh thị trường với các ngân
hàng nước ngoài
2. Xu hướng phát triển các mảng dịch vụ
phi tín dụng nhằm hướng đến nguồn thu ít
rủi ro hơn
3. Tỷ giá hối đoái biến động mạnh
4. Chính sách thắt chặt tiền tệ dự báo sẽ
tiếp tục gây khó khăn cho ngành ngân hàng
I. Điểm mạnh (S- strengths)
1. Qui mô lớn, tiềm lực tài chính mạnh
Vốn điều lệ tăng làm tăng uy tín của ngân hàng đối
với khách hàng và giúp ngân hàng tăng quy mô, hoạt
động kinh doanh hiệu quả, vốn chủ sở hữu lớn tạo
tính an toàn vốn.
+ Năm 2010 vốn điều lệ tăng từ 6.700 tỉ đồng lên
9.179 tỉ đồng, tăng 37% so với năm 2009; mức tăng
bình quân giai đoạn 2001- 2010 là 53,7%: từ 190 tỉ
đồng năm 2001 tăng lên 9.179 tỉ đồng năm 2010, tăng
gấp 48 lần (trong khi toàn ngành chỉ tăng 15 lần)
+ Tổng tài sản cuối năm 2010 đạt 141.799 tỷ đồng,
gấp hơn 45 lần so với năm 2001 (3.134 tỷ đồng) với
mức tăng bình quân 54,7%/năm (toàn ngành chỉ tăng
17 lần)
+ Giai đoạn 2001- 2010 tốc độ tăng trưởng huy động
vốn bình quân là 54,4%/năm, tăng nhanh gấp hơn 2
lần so với tốc độ tăng trưởng của ngành là 24%/năm
+ Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay bình quân của
Sacombank trong giai đoạn 2001-2010 là 53,1%, gấp
gần 2 lần so với tốc độ tăng trưởng bình quân của

ngành (27%/năm). Đồng thời, Sacombank luôn kiểm
soát chất lượng tín dụng hiệu quả và có tỉ lệ nợ
xấu thấp nhất trong nhóm NHCP ở mức dưới 1%. Trong
khi tỉ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam
tính đến cuối năm 2010 vào khoảng 2.5%.
Xét về phạm vi hoạt động, Sacombank vẫn luôn nỗ lực
đa dạng hóa mô hình hoạt động của mình không chỉ
giới hạn trong lĩnh vực tài chính ngân hàng mà còn
sang các lĩnh vực tài chính khác. Ngày 16/05/2008,
Sacombank đã có đủ điều kiện chính thức để công bố
thành lập tập đoàn tài chính- ngân hàng Sacombank.
Tính đến cuối năm 2010, tập đoàn có 5 công ti con
bao gồm: công ty chứng khoán- SBS, công ty cho thuê
tài chính- SBL, công ty kiều hối- SBR, công ty quản
lý và khai thác tài sản- SBA, công ty vàng bạc đá
quí- SBJ cùng 6 công ti thành viên hợp tác chiến
lược: công ti đầu tư Sài Gòn Thương Tín-STI, công
ty xuất nhập khẩu Tân Định- Tadimex, công ti đầu tư
xây dựng Toàn Thịnh Phát, công ty địa ốc Sài Gòn
Thương Tín-Sacomreal, công ty liên doanh quản lý
quĩ đầu tư chứng khoán Việt Nam- VFM và Trường đại
học Yersin Đà Lạt, công ty thẻ Sacombank & ANZ.
2. Hệ thống phân phối rộng
Tính đến cuối năm 2010, Sacombank là ngân hàng TMCP
có mạng lưới rộng nhất: phủ kín miền Tây, miền Đông
Nam Bộ- Tây Nguyên và miền trung với hơn 380 điểm
tại 45/63 tỉnh, thành Việt Nam là lợi thế trong
việc phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ.
- Trong năm 2010 đã phát triển thêm 56 PGD (trong
đó có 1 PGD tại Campuchia), tiến hành thủ tục

chuyển đổi CN Phnômpênh thành NH trực thuộc với
100% vốn Sacombank. Tính đến 2010, Sacombank có
quan hệ đại lý với 10.339 đại lý của 305 ngân hàng
tại 81 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
- Năm 2010 Sacombank đã lắp đặt thêm 124 máy ATM,
nâng tổng số lên 657 máy. Tổng số thẻ phát hành
trong năm khoảng 280 ngàn thẻ tăng 94% so với năm
2009, nâng tổng số lên 590 ngàn thẻ, tăng 42% so
với cùng kì năm trước. Tổng doanh số thanh toán qua
thẻ đạt 11.471 tỷ đồng, tăng 73% so với năm 2009.
Hiện nay hệ thống đã được online và kết nối thành
công với hai liên minh thẻ lớn nhất Việt Nam hiện
nay là công ty cổ phần chuyển mạch tài chính quốc
gia Việt Nam (Banknetvn) và công ty cổ phần dịch vụ
thẻ Smartlink, mang lại nhiều tiện ích hơn cho
khách hàng.
3. Sản phẩm dịch vụ đa dạng
-Dịch vụ Phone Banking Sacombank có chức năng truy
vấn thông tin, các dịch vụ mới thanh toán qua thẻ
giúp thỏa mãn nhu cầu khách hàng sử dụng thẻ.
- Ngoài ra Sacombank đã phối hợp với ngân hàng ANZ
phát hành thẻ vừa có thể rút tiền tại máy tự động
ATM, vừa có thể dùng ngay thẻ để thanh toán giao
dịch tại các cửa hàng mua sắm dịch vụ đang là đại
lý chấp nhận thanh toán thẻ cho hai ngân hàng này.
-Sacombank là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam chính
thức giới thiệu sản phẩm thẻ trả trước quốc tế -
Sacombank Lucky Gift Card - cung cấp cho khách hàng
một lựa chọn độc đáo về quà tặng mà người mua thẻ
có thể ấn định giá trị của món quà từ 100.000 đồng

đến 14.000.000 đồng. Ngoài ra, người sử dụng có thể
thực hiện các giao dịch như rút tiền tại máy ATM,
thanh toán qua internet và tại các điểm chấp nhận
của tổ chức thẻ quốc tế Visa ở Việt Nam và nước
ngoài… đồng thời, nhận được nhiều ưu đãi từ Visa và
các điểm mua sắm có liên kết với Sacombank.
-Sacombank đặc biệt nâng cao chất lượng dịch vụ thẻ
nhằm mở rộng phạm vi sử dụng và gia tăng tiện ích
cho chủ thẻ Sacombank trong và ngoài nước. Theo đó,
các tính năng của thẻ ghi nợ nội địa PassportPlus
và thẻ Viễn Thông A Club Card của Sacombank được mở
rộng từ việc chỉ có thể sử dụng để rút tiền mặt tại
máy ATM của Sacombank, nay chủ thẻ có thể thực hiện
các giao dịch: thanh toán hàng hóa, tra cứu số dư,
rút tiền mặt, sao kê tài khoản, chuyển khoản tới
thẻ Sacombank.
4. Ưu thế về dịch vụ thanh toán quốc tế, kinh
doanh ngoại hối và dịch vụ thẻ
-Thanh toán quốc tế không phải là một lĩnh vực kinh
doanh đối ngoại truyền thống nhưng lại là một trong
những dịch vụ sinh lời rất lớn của Sacombank. Trong
những năm gần đây, doanh số về thanh toán quốc tế
của Sacombank không ngừng tăng lên. Đặc biệt, trong
năm 2008 mặc dù phải đối mặt với cuộc khủng hoảng
tài chính nhưng Sacombank vẫn tăng được doanh số
lên 3728.57 triệu USD (tăng 22,32% so với năm
2007), năm 2009 doanh số tăng lên 4176 triệu USD
(tăng 12% so với năm 2008)
Sacombank đã nhiều lần được trao giải thưởng trong
lĩnh vực thanh toán quốc tế từ các ngân hàng uy tín

như: Standard Chartered (ngân hàng có chất lượng
cao trong định dạng lệnh thanh toán và tỉ lệ thanh
toán quốc tế 2005), HSBC (ngân hàng thực hiện xuất
sắc nghiệp vụ thanh toán quốc tế 2006), Wachovia
(ngân hàng có hoạt động thanh toán quốc tế tốt nhất
2007).
-Kinh doanh ngoại hối:
Bằng việc đa dạng hóa, nhân rộng các sản phẩm giao
ngay phục vụ nhu cầu trao đổi, thanh toán ngoại tệ,
vàng; đáp ứng kịp thời công cụ bảo hiểm rủi ro tỷ
giá cho khách hàng bằng các hợp đồng kì hạn, hợp
đồng quyền chọn cấp cao và giao dịch hoán đổi.
Sacombank được đánh giá là một trong những ngân
hàng có hoạt động ngoại hối tương đối tốt, trong
nhiều năm liên tiếp được Global Finance- tạp chí
tài chính ngân hàng toàn cầu của Mĩ- trao tặng giải
thưởng “ngân hàng có hoạt động ngoại hối tốt nhất
Việt Nam”.
-Dịch vụ thẻ: Sacombank là một trong những ngân
hàng có hoạt động thẻ phát triển mạnh, số lượng thẻ
tăng liên tục và mạnh qua các năm, năm 2006 tăng
44,39% so với năm 2005; năm 2007 tăng 55,11% so với
năm 2006, năm 2008 tăng 44,28% so với năm 2007, năm
2009 tăng 8,5 % so với năm 2008, năm 2010 tăng nổi
bật 94% so với năm 2009.
Sacombank cũng được bình chọn là một trong 5 ngân
hàng có doanh số giao dịch thẻ VISA lớn nhất tại
Việt Nam từ 2005- 2009. Năm 2010, Sacombank được tổ
chức thẻ quốc tế VISA bình chọn là “ngân hàng nỗ
lực đi đầu trong việc phát triển những dịch vụ mới

thanh toán qua thẻ VISA tại thị trường Việt Nam”.
Sản phẩm thẻ của Sacombank với nhiều chủng loại đã
cung cấp cho người dùng thẻ nhiều tiện ích và lựa
chọn như: thẻ nội địa Passpor plus, thẻ nội địa
SacomVisaDebit, thẻ Ladiesfirst, thẻ
ParsonPrivilege… trong đó thẻ tín dụng là một lợi
thế của Sacombank.
5. Công nghệ, chất lượng dịch vụ cao
Sacombank là một trong những ngân hàng đầu tiên
triển khai hệ thống Ngân hàng lõi T24, và trong năm
2009 đã nâng cấp từ phiên bản R5 lên R8 (hiện đang
được nhiều ngân hàng trên thế giới sử dụng), xây
dựng trung tâm dữ liệu (datar center-DC) hiện đại
và trung tâm dịch vụ khách hàng (Contact center-CC)
để phục vụ khách hàng những sản phẩm tiện ích nhất.
Trên cơ sở phần mềm hiện đại này, Sacombank đã có
những sáng tạo, cải tiến đột phá về mặt đa dạng hóa
sản phẩm, quản trị dữ liệu ngân hàng, quản trị rủi
ro, phát triển thị trường.
Từ nền tảng trên, Sacombank đã và đang triển khai
các ứng dụng mới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
và năng lực quản trị để phục vụ ngân hàng ngày một
tốt hơn, bao gồm các dự án: Ngân hàng điện tử (E-
banking), khai thác dữ liệu (Data Waterhouse), quản
trị quan hệ khách hàng (CRM), hệ thống thông tin
quản trị (MIS), kinh doanh tiền tệ (Treasury), Quản
trị rủi ro (Risk management), Quản trị nguồn nhân
lực (Human Resource Management)…
Với cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại, với
những đối tác công nghệ uy tín, cùng đội ngũ cán bộ

IT chất lượng cao và nhiều kinh nghiệm, Sacombank
đã sẵn sang bứt phá trong hành trình áp dụng công
nghệ hiện đại vào các lĩnh vực ngân hàng bán lẻ để
đáp ứng nhu cầu tối đa của khách hàng cá nhân cũng
như doanh nghiệp.
6. Tỉ lệ nợ xấu thấp
Trong giai đoạn 2001-2010, mặc dù tốc độ tăng
trưởng tín dụng của Sacombank luôn ở mức cao và
luôn cao hơn mức bình quân ngành. Nhưng với hệ
thống kiểm soát tín dụng hiệu quả (thành lập ủy ban
quản lý tài sản nợ- có) Sacombank luôn duy trì tỷ
lệ nợ xấu dưới 1%, mức bình quân ngành là 2,5%, tạo
mức độ an toàn vốn cao.
Các chỉ tiêu về an toàn hoạt động cuối năm 2010
theo thông tư 13 như sau:
- Tỉ lệ an toàn vốn (CAR ): 9,97%
- Tỉ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn:
23,54%
- Tỉ lệ cho vay/ tổng nguồn vốn huy động: 72,26%
- Tỉ lệ nợ quá hạn: 0,56%
7. Nguồn nhân lực trẻ và dồi dào
Như ta đã biết, các nguồn lực quan trọng để phát
triển một tổ chức là: vật lực, tín lực và nhân lực,
trong đó nhân lực luôn là tài sản quí báu nhất đối
với ngân hàng. Do tính đặc thù của sản phẩm ngân
hàng là vô hình, chất lượng sản phẩm bao gồm cả
chất lượng phục vụ và chủ yếu là bán hàng trực tiếp
nên trình độ nghiệp vụ và thái độ nhân viên phục vụ
có ảnh hưởng quyết định đến doanh số bán hàng và uy
tín của ngân hàng.

Sacombank đã có một chiến lược thu hút và đào tạo
nguồn nhân lực cho mình. Với mục tiêu định hướng
cho cán bộ nhân viên phát triển sự nghiệp vững bền,
Sacombank đã xây dựng một môi trường làm việc thân
thiện và chuyên nghiệp, trong đó mọi cán bộ nhân
viên được tạo điều kiện để tối đa hóa giá trị và
năng lực. Theo báo cáo thường niên năm 2009, trình
độ đội ngũ nhân viên của Sacombank là: 1,9% trên
đại học, 68,2% đại học, 20,4% cao đẳng, 9,5% là
trình độ khác.
II. Điểm yếu (W- weaknesses)
1. Qui mô vốn, khả năng quản lý còn khá khiêm
tốn so với yêu cầu hội nhập
Hội nhập đang đặt ra những áp lực đòi hỏi ngân hàng
Việt Nam phải đẩy mạnh cải cách nhằm đạt tới những
chuẩn mực, thông lệ quốc tế về hoạt động tiền tệ,
ngân hàng. Tuy nhiên, đứng trước những áp lực này,
các ngân hàng Việt Nam đã bộc lộ không ít điểm yếu
như năng lực tài chính kém, mức độ rủi ro cao và
năng lực cạnh tranh thấp so với ngân hàng các nước
trong khu vực. Bên cạnh đó, quy trình quản trị
trong các tổ chức tín dụng nói chung và của các
NHTM nói riêng còn chưa phù hợp với các nguyên tắc
và chuẩn mực quốc tế; tính minh bạch thấp, hệ thống
thông tin điều hành và quản lý rủi ro chưa thực sự
hiệu quả.
2. Công nghệ hiện đại chưa được áp dụng đồng bộ
trên toàn hệ thống
Năng lực công nghệ được đánh giá là một thế mạnh
của Sacombank, tuy nhiên vẫn chưa được áp dụng một

cách đồng bộ trên toàn hệ thống. Ở một số chi nhánh
vẫn còn sử dụng hệ thống Smartbank thay vì hệ thống
mới Corebanking, do đó thời gian giao dịch với
khách hàng còn chậm, thường xuyên bị rớt mạng.
Hệ thống máy ATM, máy POS không hiện đại bằng các
ngân hàng khác như ở Đông Á hay ACB thì máy ATM còn
được trang bị chức năng thu tiền… do đó làm hạn chế
lượng tiền gửi thanh toán vào ngân hàng theo phương
thức này.
3. Công tác marketing về sản phẩm dịch vụ chưa
thật sự hiệu quả, chưa tạo được điểm khác biệt
Mặc dù có nhiều nỗ lực để đa dạng hóa sản phẩm dịch
vụ, là một trong những đơn vị tiên phong trong việc
cải tiến công nghệ hiện đại, mở rộng mạng lưới…
nhưng doanh thu chủ yếu vẫn từ hoạt động tín dụng,
chứng tỏ các sản phẩm cung ứng thì nhiều nhưng
Sacombank chưa có công tác marketing hiệu quả để
thu hút khách hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ có
tính liên kết chưa cao. Điều này cũng làm hạn chế
về năng lực hoạt động và làm cho ngân hàng mất thị
phần.
Chưa tạo được điểm khác biệt trong sản phẩm, sự
khác biệt trong sản phẩm thường đi kèm với thỏa mãn
một nhu cầu xuyên suốt của khách hàng, sẽ tạo một
điểm nhấn đặc biệt đối với họ, đồng thời giúp ngân
hàng tạo dựng được hình ảnh tốt.
4. Có định hướng đúng đắn đầu tư cho hoạt động
dịch vụ nhưng hiệu quả chưa cao
Thời gian qua Sacombank đã đa dạng hóa hoạt động
kinh doanh và hoạt động theo hình thức tập đoàn,

tuy nhiên thu nhập chính của Sacombank vẫn từ hoạt
động tín dụng mà tập trung chủ yếu vào tín dụng cá
nhân giao động quanh mức 79%, một lĩnh vực có mức
rủi ro cao.
Sản phẩm dịch vụ của Sacombank cũng không đa dạng
bằng một số ngân hàng khác, đặc biệt là ngân hàng
nước ngoài.
Trong hoạt động ngoại hối, do chưa dự báo chính xác
diễn biến của thị trường tài chính cũng như không
thể lường hết diễn biến bất thường của thị trường
tài chính, dẫn đến tỉ giá ngoại tệ niêm yết chưa
linh hoạt, tỉ giá mua lại ngoại tệ thường thấp hơn
các NHTM cổ phần trên địa bàn khiến cho các khách
hàng chuyển sang ngân hàng khác mở tài khoản; các
nghiệp vụ phái sinh chưa ứng dụng nhiều ở các chi
nhánh do kiến thức về nghiệp vụ này còn hạn chế.
III. Cơ hội (O- opportunities)
1. Hội nhập làm tăng uy tín và vị thế của các
NHTM Việt Nam trên thị trường thế giới, trong đó
Sacombank không là ngoại lệ.
Việc Việt Nam là thành viên của WTO đã tạo điều
kiện cho nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng
nói riêng có những bước phát triển nhanh chóng. Các
NHTM Việt Nam có nhiều cơ hội tăng cường các mối
quan hệ với các NH nước ngoài tạo uy tín, xây dựng
thương hiệu, mở rộng thị trường kinh doanh đến
nhiều quốc gia trên thế giới.
2. Mở cửa nền kinh tế giúp các NHTM Việt Nam mở
rộng quan hệ hợp tác, liên doanh, liên kết với các
NH nước ngoài, mở chi nhánh ở nước ngoài.

Hiện Sacombank có 03 đối tác chiến lược nước ngoài
uy tín đang nắm gần 30% vốn cổ phần, đó là: Dragon
Financial Holdings thuộc Anh Quốc, International
Financial Company (IFC) trực thuộc World Bank, Tập
đoàn Ngân hàng Australia và Newzealand (ANZ).
Bên cạnh việc hợp tác hiệu quả với các tổ chức kinh
tế trong nước như Hoàng Anh Gia Lai, Trường Hải
Auto, COMECO, Prudential Việt Nam, Liên minh Hợp
tác xã Việt Nam, EVN, SJC, Bảo Minh, Habubank,
Military Bank Sacombank còn hợp tác với Baruch
Education Group Ltd BVI (BEG) – đại diện của City
University of New York (CUNY)
Và mới đây nhất, vào tháng 9/2010 Standard Chartered hợp
tác với Sacombank quản lý tiền mặt nhằm cung cấp những
dịch vụ quản lý tiền mặt cho các khách hàng trong nước và
các khách hàng đa quốc gia tại Việt Nam.
3. Hoạt động xuất nhập khẩu Việt Nam phát triển
mạnh mẽ, cơ hội cho việc thúc đẩy các nguồn vốn
mới.
4. Về dài hạn ngành ngân hàng vẫn được dự báo là
ngành có tiềm năng tăng trưởng tốt với tốc độ tăng
trưởng bình quân đến 16% trong vòng 5 năm tới.
Thị trường tài chính ngày càng phát triển kéo theo
đó là nhu cầu sử dụng các dịch vụ của ngân hàng gia
tăng. Tuy nhiên theo thực tế cho thấy, mức độ người
dân sử dụng dịch vụ ngân hàng còn khá thấp và chủ
yếu là các dịch vụ cơ bản như gửi tiết kiệm hay vay
vốn. Với thực tế như vậy, các sản phẩm ngân hàng
hiện đại đang là một thị trường đây tiềm năng nhưng
chưa được phát triển, đây chính là cơ hội phát

triển cho các ngân hàng.
Theo đánh giá của Bộ phận phân tích và tư vấn đầu
tư CTCP Chứng khoán Bảo Việt, ngành ngân hàng vẫn
còn nhiều tiềm năng tăng trưởng đặc biệt đối với
mảng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ và bán lẻ.
Như vậy, cho dù tình hình vĩ mô đầu năm 2011 không
mấy tươi sáng đối với ngành ngân hàng, nhưng với
chính sách kiềm chế lạm phát của chính phủ thì hứa
hẹn từ quý 2/2011 tình hình thị trường sẽ ổn định
trở lại và lãi suất sẽ giảm tương ứng khi tỷ lệ lạm
phát được kiềm chế. Như vậy, kỳ vọng vào sự khôi
phục thị trường sẽ làm cho thị trường tín dụng khôi
phục và tăng trưởng.
IV. Thách thức (T- threats)
1. Cạnh tranh thị trường với các ngân hàng nước
ngoài
Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng số lượng
các ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài chính, công
nghệ, trình độ quản lý. Các ngân hàng TMCP theo lộ
trình sẽ dần dần được nới lỏng hoạt động và đối xử
bình đẳng trong kinh doanh, không thể chỉ tập trung
vào các nghiệp vụ ngân hàng truyền thống với những
khách hàng truyền thống mà phải hướng vào phát
triển các sản phẩm dịch vụ mới để trở thành những
ngân hàng đa năng, hiện đại.
Với việc gia nhập thị trường của các ngân hàng nước
ngoài và tình hình thị trường tín dụng khó khăn, áp
lực cạnh tranh các dịch vụ ngân hàng bán lẻ đã trở
nên gay gắt hơn. Đó là thách thức lớn đối với
Sacombank trong việc giữ vững và phát triển thị

phần. Nếu không muốn bị tụt hậu, cần có những bước
phát triển sản phẩm hợp lý đi kèm với những dịch vụ
và tiện ích tốt, từng bước đa dạng hóa đi đôi với
nâng cao chất lượng sản phẩm.
2. Xu hướng phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ
tiện ích và hiện đại, hướng tới việc phát triển các
mảng dịch vụ phi tín dụng nhằm thu về cho ngân hàng
các nguồn lợi nhuận ít rủi ro hơn.
Đây cũng là xu hướng chung của ngành ngân hàng,
mảng hoạt động huy động vốn và cho vay là nghiệp vụ
truyền thống của ngân hàng với rủi ro tín dụng cao.
Khi phát triển mảng hoạt động dịch vụ có thể giảm
thiểu rủi ro này xuống, hơn nữa hầu như ngân hàng
sẽ không tốn chi phí. Chẳng hạn như khi ngân hàng
cung ứng dịch vụ chuyển tiền cho khách hàng chỉ cần
cuối ngày đã có thể tính toán được lợi nhuận thu
được từ hoạt động này trong khi vay vốn và cấp tín
dụng thì phải chờ tới khi khách hàng trả gốc và lãi
mới thu được lợi nhuận.
Xu hướng đó đặt ra cho hệ thống ngân hàng nhu cầu
phải cải tiến công nghệ đồng thời phải đồng bộ hóa
các qui trình cung ứng trọn gói để phát triển các
sản phẩm dịch vụ đa dạng thật sự tiện lợi và hiệu
quả cho khách hàng.
3. Tỷ giá hối đoái biến động mạnh
Do tình hình kinh tế trong nước và thế giới có
những diễn biến bất thường nên tỷ giá của VND và
các đồng tiền khác liên tục thay đổi. Thị trường
ngoại tệ tiền mặt Việt Nam phát triển khá mạnh. Thị
trường ngầm tiền mặt ngoại tệ phục vụ cho bộ phận

nhập khẩu lậu qua đường biên giới cộng với nhu cầu
thích sử dụng ngoại tệ tiền mặt của dân chúng nên
thị trường này rất sôi động.
4. Chính sách thắt chặt tiền tệ dự báo sẽ tiếp
tục gây khó khăn cho ngành ngân hàng
Năm 2011 là một năm hứa hẹn là một năm đầy khó khăn
đối với hoạt động ngân hàng khi lãi suất luôn ở mức
cao mặc dù đã được nhà nước khống chế. Điều này tạo
ra áp lực trả lãi và chi phí tăng cao trong khi
lượng cho vay đang có xu hướng giảm, chính phủ lại
áp dụng chính sách thắt chặt tín dụng làm cho thu
nhập từ hoạt động cho vay không tăng tương ứng tạo
ra rủi ro trong hoạt động huy động vốn của ngân
hàng.
Hiện nay, với mục tiêu của chính sách tiền tệ thắt
chặt để hạn chế tốc độ tăng tổng cầu bằng cách giảm
tốc độ tăng trưởng tín dụng (giữ ở mức dưới 20%),
tổng phương tiện thanh toán, thắt chặt chi tiêu
công để từng bước giảm sức ép lạm phát, duy trì ổn
định tỷ giá, kiểm soát thị trường ngoại tệ và thị
trường vàng. Đối với các lĩnh vực phi sản xuất, đặc
biệt là bất động sản và chứng khoán, chủ trương
chung là giảm tốc độ và tỷ trọng vay vốn tín dụng.
Điều này đã gây không ít khó khăn cho các ngân
hàng, kể cả Sacombank.

×