Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

Định hướng chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (513.29 KB, 78 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
***
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại
ĐỊNH HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG
XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
Họ và tên sinh viên : Lê Thị Nhẫn
Mã sinh viên : 0851010655
Lớp : Anh 15 - Khối 7 KT
Khóa : 47
Người hướng dẫn khoa học : TS. Nguyễn Xuân Nữ
Hà Nội, tháng 5 năm 2012
2
MỤC LỤC
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Tên tiếng Anh Giải nghĩa tiếng Việt
APEC
Asia Pacific Economic
Co-operation
Tổ chức diễn đàn hợp tác kinh tế
châu Á-Thái Bình Dương
ASEAN
Association of South-East Asia
Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông NamÁ
ASEM Asia-Europe Meeting
Diễn đàn hợp tác kinh tế Á-Âu
Benilux


Liên minh kinh tế giữa các nước
Bỉ, Hà Lan, Lucxambua
CEPT
Common Effective
Preferential Tariff
Danh mục ưu đãi thuế quan có hiệu
lực chung
EU European Union Liên minh châu Âu
EFTA
European Free Trade
Association
Khu vực mậu dịch tự do châu Âu
EMU
European Monetary Union Liên minh tiền tệ châu Âu
FTA Free Trade Area Khu vực tự do hóa thương mại
GDP Gross Domestic Production
Tổng sản phẩm quốc dân
GSP
Generalized System of
Preferences
Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập
KNXK
Kim ngạch xuất khẩu
NAFTA
North American Free Trade
Association
Hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ
TNCs Trans National Corporations Công ty xuyên quốc gia
WTO
World Trade Organisation

Tổ chức thương mại quốc tế
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG
4
LỜI NÓI ĐẦU
1.Lý do lựa chọn đề tài
Nền kinh tế thế giới bước sang thế kỷ XXI cùng với tốc độ tăng trưởng
mạnh mẽ và không ngừng biến đổi theo xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hóa.
Các nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới ngày càng phụ thuộc chặt chẽ với
nhau. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ chủ trương chủ
động hội nhập nền kinh tế quốc tế, chủ động và tích cực thâm nhập vào thị
trường quốc tế, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; củng cố và mở rộng thị phần
hàng hóa Việt Nam tại thị trường truyền thống; tạo bước đột phá mở rộng các
thị trường xuất khẩu mới có tiềm năng, đề ra mục tiêu phấn đầu đạt tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa đến năm 2020 tăng gấp trên 3 lần năm 2010, bình
quân đầu người đạt trên 2.000 USD, cán cân thương mại được cân bằng (Theo
Quyết định số 2471/QĐ-TTg Phê duyệt chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa
thời kì 2010-2020, định hướng đến năm 2030 của Thủ tướng chính phủ).
Trong những năm vừa qua, cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã
được chuyển dịch theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa. Tuy vậy, cơ cấu thị
trường hiện tại vẫn tồn tại nhiều yếu tố bất ổn, có khả năng ảnh hưởng tới mục
tiêu tăng trưởng kinh tế của nước ta trong những năm sắp tới. Đối với một nền
kinh tế khi phát triển theo chiến lược hướng về xuất khẩu, ngoài việc tập trung
phát triển sản xuất hàng xuất khẩu thì vấn đề thị trường tiêu thụ đầu ra cho sản
phẩm là rất bức thiết và quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành công
hay thất bại của việc thực hiện chiến lược. Trong bối cảnh Việt Nam tham gia
thị trường thế giới muộn khi thị trường thế giới về cơ bản đã có sự phân chia và
cạnh tranh gay gắt, muốn vươn ra thị trường thế giới, phát triển thị trường và
mở rộng thị phần, Việt Nam phải xây dựng được chiến lược phát triển thị
trường xuất khẩu trong một tầm nhìn dài hạn. Đây cũng là vấn đề nhận được rất

nhiều sự quan tâm trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ tình hình trên, em đã chọn đề tài “Định hướng chuyển dịch cơ
cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2020” làm đề tài khoá luận
tốt nghiệp của mình.
5
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận, phân tích tình hình kinh tế trong nước,
các quan điểm của Nhà nước về đa dạng thị trường cũng như các xu hướng
phát triển của thương mại quốc tế, từ đó đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu
thị trường xuất khẩu và đề xuất phương hướng, giải pháp chuyển dịch cơ cấu
thị trường xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn của quá
trình chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong
thời gian qua. Chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu bao gồm rất nhiều yếu
tố cấu thành cần phải nghiên cứu, nhưng trong phạm vi của khóa luận này, tác
giả chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề liên quan tới cơ cấu thị trường xuất khẩu
xét theo khu vực địa lý, trong đó đặc biệt quan tâm đến dự báo cơ cấu thị
trường và định hướng chính sách phát triển một số thị trường xuất khẩu
chính của Việt Nam trong giai đoạn tới bởi vì vấn đề thị trường là một trong
những căn cứ quan trọng để thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu của
Nhà nước.
Về mặt thời gian, khóa luận giới hạn phạm vi nghiên cứu cơ cấu thị trường
xuất khẩu của Việt Nam kể từ sau đổi mới (năm 1986) đến nay và đưa ra dự
báo và đề xuất giải pháp điều chỉnh cơ cấu thị trường xuất khẩu đến năm 2020.
4.Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp chung được sử dụng trong quá trình nghiên cứu là phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Những phương pháp cụ thể được áp dụng
là phân tích và tổng hợp, hệ thống lịch sử, so sánh, tư duy logic kinh tế nhằm
làm rõ những vấn đề đưa ra.

5. Bố cục của khóa luận.
Ngoài mục lục, lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
nghiên cứu của khóa luận được kết cấu gồm 3 chương:
6
Chương 1 : Lý luận chung về cơ cấu thị trường xuất khẩu.
Chương 2 : Thực trạng cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam
trong những năm gần đây.
Chương 3 : Định hướng và một số biện pháp để đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam.
Hàng hoá và thị trường là những lĩnh vực đầy biến động, đồng thời các vấn
đề lý luận và thực tiễn liên quan đến cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu là một
vấn đề phức tạp. Do hạn chế về mặt thời gian và vốn kiến thức hạn hẹp nên
mặc dù đã rất cố gắng, khoá luận khó tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự chỉ bảo của các thầy cô để khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Qua khoá luận tốt nghiệp này, em xin được bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy
cô giáo trường Đại học Ngoại thương, những người đã trang bị cho em những
kiến thức quý báu về kinh tế, xã hội trong suốt hơn bốn năm học tập tại Nhà
trường. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo TS. Nguyễn Xuân
Nữ, người đã trực tiếp tận tình hướng dẫn, cung cấp tài liệu và nhiều kinh
nghiệm quí báu.
Hà Nội, tháng 05 năm 2012
Sinh viên
Lê Thị Nhẫn
7
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
1.1 Khái niệm và đặc điểm của thị trường xuất khẩu
1.1.1 Khái niệm thị trường xuất khẩu
Việc mua bán, trao đổi hàng hóa được thực hiện thông qua thị trường. Khái
niệm thị trường gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa.

Khái niệm thị trường đã được nghiên cứu trong khá nhiều các lĩnh vực khác
nhau. Nói đến thị trường là ta hình dung ra đó là nơi xảy ra các hoạt động kinh
doanh. "Thị trường " chính là một phạm trù của kinh tế hàng hoá. Thuật ngữ
"thị trường" được rất nhiều nhà nghiên cứu kinh tế định nghĩa. Song cho đến
nay vẫn chưa có một khái niệm nào mang tính khái quát thống nhất và trọn vẹn.
Vì trong mỗi thời kì phát triển, trên mỗi khía cạnh, lĩnh vực thị trường lại được
định nghĩa một cách khác nhau. Theo trường phái Cổ điển thì: “Thị trường là
nơi diễn ra các trao đổi, mua bán hàng hoá”. Theo định nghĩa này thì thị
trường được ví như “một cái chợ”, có đầy đủ không gian và thời gian, dung
lượng cụ thể, xong nó chỉ phù hợp với thời kì sản xuất chưa phát triển các hình
thức mua bán trao đổi còn đơn giản. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển tới
trình độ cao, các hình thức mua bán trao đổi trở lên phức tạp đa dạng phong
phú thì khái niệm này không còn phù hợp. Theo khái niệm hiện đại (P.A
SAMUELSON ) thì : "Thị trường là một quá trình mà trong đó người mua và
người bán một thứ hàng hoá tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và số
lượng hàng hoá" (Paul Samuelson, 2001). Như vậy, thị trường là tổng thể các
quan hệ về lưu thông hàng hoá, lưu thông tiền tệ, các giao dịch mua bán và các
dịch vụ. Khái niệm này đã " lột tả" được bản chất của thị trường trong thời kỳ
phát triển này, song khái niệm này mới chỉ đứng trên khía cạnh của nhà phân
tích kinh tế nói về thị trường chưa giúp cho doanh nghiệp xác định được mục
tiêu của mình. Theo MC CARTHY: “Thị trường có thể hiểu là một nhóm
khách hàng tiềm năng với những nhu cầu tương tự (giống nhau) và những
người bán đưa ra sản phẩm khác nhau với cách thức khác nhau để thoả mãn
nhu cầu đó”. Khái niệm này không những nói lên được bản chất của thị trường
8
mà còn giúp cho doanh nghiệp xác định được mục tiêu, phương hướng kinh
doanh của mình: Đó là hướng tới khách hàng, mục tiêu tìm mọi cách thoả mãn
nhu cầu của khách hàng để đạt được lợi nhuận tối đa.
Theo quan điểm của Kinh tế học thì thị trường là tổng thể cung và cầu của
một loại hàng hóa nhất định trong một thời gian và không gian cụ thể. Đứng

trên giác độ quản lý của một doanh nghiệp thì khái niệm thị trường phải được
gắn liền với các nhân tố kinh tế tham gia vào thị trường như : người mua, người
bán, người phân phối… và những hành vi cụ thể của họ. Hành vi cụ thể của
người mua, người bán đối với một sản phẩm cụ thể còn chịu sự tác động của
nhiều yếu tố tâm lý và điều kiện giao dịch.
Thị trường có nhiều vai trò khác nhau. Thứ nhất, thị trường là điều kiện và
môi trường của sản xuất. Các chủ thể kinh tế thông qua thị trường để mua bán
hàng hóa, dịch vụ. Không có thị trường thì việc trao đổi, mua bán hàng hóa
không thể tiến hành được. Thứ hai, thị trường là nơi kiểm tra chất lượng,
chủng loại, số lượng của hàng hóa. Nói cách khác, thị trường chính là nơi điều
tiết quá trình sản xuất và kinh doanh. Cuối cùng, thị trường là nơi diễn ra sự
cạnh tranh giữa các chủ thể của nền kinh tế để xác định giá cả và sản lượng
hàng hóa.
Như vậy, có thể thấy rằng, dù theo quan điểm nào thì mỗi khái niệm về thị
trường cũng đều phản ảnh mặt này hay mặt khác của bản chất kinh tế thị
trường. Một cách khái quát nhất, chúng ta có thể hiểu rằng : “Thị trường là tập
hợp tất cả người mua thực sự và tiềm năng (bao gồm doanh nghiệp và cá
nhân) có tác động qua lại với người bán để quyết định giá cả và số lượng
hàng hóa”. Thị trường là phạm trù của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa,
phản ánh mối quan hệ cung cầu và các mối quan hệ, thông tin kinh tế kỹ thuật
gắn với mối quan hệ đó. Thị trường chính là cầu nối giữa sản xuất và tiêu thụ
và là nơi để các doanh nghiệp, các nhà sản xuất nhìn nhận, đánh giá hoạt động
kinh doanh của mình.
Xuất khẩu hàng hóa, theo Luật Thương mại năm 2005, là việc hàng hóa
được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên
lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp
luật. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động buôn bán hàng hóa, dịch vụ cho người
9
hoặc tổ chức nước ngoài nhằm thu ngoại tệ, có thể là ngoài tệ của một hoặc cả
hai quốc gia. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động cơ bản trong ngoại thương. Nó

đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử phát triển của xã hội và ngày càng phát triển
mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Hình thức sơ khai của xuất khẩu chỉ là
hoạt động trao đổi hàng hóa nhưng cho đến nay nó đã phát triển rất mạnh và
được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Theo quy ước của Liên hợp quốc và Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), hàng hóa xuất khẩu là những sản phẩm hàng hóa hữu hình được sản
xuất hoặc gia công tại các cơ sở sản xuất, gia công và các khu chế xuất với
mục đích để xuất khẩu (tiêu thụ tại thị trường ngoài nước). Điểm khác nhau
giữa hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa tiêu dùng trong nước là ở chỗ hàng hóa
xuất khẩu phải đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng nước nhập khẩu
và những quy định về nhập khẩu của nước nhập khẩu. Do đó, chất lượng của
hàng hóa xuất khẩu phải cao và có tính cạnh tranh ở nước nhập khẩu.
Nếu căn cứ vào quốc tịch của người mua và người bán, thị trường có thể
được phân chia thành thị trường nội địa và thị trường nước ngoài. Thị trường
nội địa là thị trường mà người mua và người bán có cùng quốc tịch. Thị trường
nước ngoài, hay còn gọi là thị trường xuất khẩu, là thị trường mà người mua
và người bán có quốc tịch khác nhau.
Thị trường xuất khẩu được định nghĩa khái quát như sau : “Thị trường
xuất khẩu là thị trường trong đó người mua và người bán có quốc tịch khác
nhau, hoạt động với nhau để xác định giá cả, số lượng hàng hóa theo tiêu
chuyển quốc tế, mua bán theo hợp đồng với khối lượng lớn, thanh toán chủ yếu
bằng ngoại tệ mạnh và phải làm thủ tục hải quan qua biên giới. Xuất khẩu hàng
hóa bao gồm xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián tiếp ( Đào Ngọc Tiến, 2009).
Thị trường xuất khẩu bao gồm tất cả các khách hàng tiềm năng nằm ngoài biên
giới quốc gia có cùng nhu cầu và mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng
tham gia trao đổi để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn đó.
10
1.1.2 Đặc điểm của thị trường xuất khẩu
Trước hết, thị trường xuất khẩu mang đầy đủ đặc điểm của một thị trường.
Nói đến thị trường là nói đến các yếu tố cung, cầu, người bán, người mua và các

mối quan hệ giữa các yếu tố đó. Thị trường có những đặc điểm sau:
_ Thị trường bao gồm cung và cầu của một loại mặt hàng hoặc một nhóm mặt
hàng nào đó.
_ Thị trường gắn với quá trình lưu thông và là một khâu quan trọng của quá trình
tái sản xuất xã hội.
_ Thị trường là nơi diễn ra hoạt động mua bán hàng hóa, đồng thời cũng là nơi
thể hiện mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
Nền sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại dựa trên việc phân công lao động xã
hội và sự khác nhau về kinh tế giữa những người sản xuất với nhau do sự khác
biệt giữa tư liệu sản xuất. Nhờ sự phân công lao động xã hội cùng với sự chuyên
môn hóa cao trong sản xuất mà nền kinh tế hàng hóa đã trở thành nền kinh tế thị
trường. Nền kinh tế thị trường chịu tác động của nhiều quy luật khách quan, tiêu
biểu là :
_ Quy luât cung, cầu cho thấy mối quan hệ mật thiết và tác động qua lại giữa hai
lực lượng cơ bản của thị trường (cung và cầu). Thị trường luôn tồn tại những
nhu cầu hiện hữu và tiềm năng mà các doanh nghiệp cần phải xuất phát từ
những nhu cầu đó để tổ chức sản xuất, kinh doanh hiệu quả.
_ Quy luật giá trị thể hiện sự vận động của giá cả trên thị trường : giá cả vận động
xung quanh trục giá trị trung bình của nền sản xuất xã hội. Quy luật này chỉ ra
rằng các nhà sản xuất kinh doanh phải sản xuất và giao đổi một cách bình đẳng
và ngang giá.
_ Quy luật canh tranh chính là quy luật lợi ích trong nền kinh tế thị trường. Quy
luật này chỉ ra sự cạnh tranh gay gắt của các chủ thể trong nền kinh tế khi tham
gia thị trường. Họ luôn tìm cách giành giật những điều kiện tốt nhất về sản xuất
hoặc tiêu thụ. Cạnh tranh diễn ra giữa những người mua hoặc những người bán
với nhau, hoặc giữa người mua và người bán về phương diện chất lượng và giá
cả của sản phẩm và dịch vụ mang ra mua bán, trao đổi.
_ Quy luật lưu thông tiền tệ chỉ ra rằng : khối lượng tiền tệ lưu thông và tổng giá trị
hàng hóa lưu thông trên thị trường phải phù hợp với nhau, nếu không thì quá
trình lưu thông sẽ bị ách tắc khiến nền kinh tế mất ổn định.

11
Ngoài những đặc điểm chung của thị trường nêu trên, thị trường xuất khẩu
còn mang những đặc điểm riêng, đó là :
_ Thị trường xuất khẩu thường có quy mô lớn hơn thị trường nội địa. Nếu như thị
trường nội địa bị giới hạn bởi dân số của quốc gia đó thì thị trường xuất khẩu có
thể bao gồm hầu hết các quốc gia còn lại trên thế giới. Do đó, quy mô của thị
trường xuất khẩu lớn hơn nhiều so với năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
_ Thị trường xuất khẩu phức tạp hơn thị trường nội địa. Không giống như thị
trường nội địa, thị trường xuất khẩu bao gồm rất nhiều yếu tố nằm ngoài biên
giới nước xuất khẩu nên mức độ phức tạp của thị trường này cũng lớn hơn
nhiều so với thị trường nội địa. Không chỉ thể hiện ở sự khác biệt trong văn hóa,
dẫn đến sự khác nhau trong tập quán tiêu dùng, tính phức tạp của thị trường
xuất khẩu còn thể hiện ở việc hàng hóa xuất khẩu phải chịu sự điều chỉnh của
các quy định của quốc tế, những rào cản thuế quan và phi thuế quan do chính
phủ các nước nhập khẩu đề ra. Mặc dù hiện nay, các quốc gia trên thế giới đều
cam kết cắt giảm thuế quan, loại bỏ dần các rào cản phi thuế quan nhưng do nhu
cầu bảo vệ nền sản xuất trong nước nên các quốc gia vẫn duy trì những rào cản
thương mại này. Điều này gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp khi
muốn thâm nhập vào thị trường nước ngoài.
_ Thị trường xuất khẩu có khoảng cách địa lý xa hơn nhiều so với thị trường nội
địa. Do đó, chi phí vận tải và bảo hiểm từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu
cũng là một vấn đề mà các doanh nghiệp xuất khẩu cần phải quan tâm khi xuất
khẩu hàng hóa ra nước ngoài. Hiện nay, nhờ sự tiến bộ và phát triển của khoa
học công nghệ, chi phí vận chuyển hàng hóa xuất khẩu bằng đường biển, đường
hàng không đã giảm đi đáng kể. Tuy nhiên, không thể loại bỏ hoàn toàn
những chi phí này.
1.1.3 Phân loại thị trường xuất khẩu
Để có thể xác định được chiến lược xuất khẩu hàng hóa phù hợp, việc tìm
được khu vực thị trường xuất khẩu thích hợp là hết sức quan trọng. Việc phân
loại thị trường xuất khẩu giúp các doanh nghiệp có thể lựa chọn các phương

thức kinh doanh phù hợp đối với từng thị trường cụ thể. Do đó việc phân loại
12
thị trường xuất khẩu là rất cần thiết. Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại
thị trường xuất khẩu:
• Căn cứ vào mối quan hệ trực tiếp hay gián tiếp với khách hàng:
+ Thị trường xuất khẩu trực tiếp là thị trường mà các doanh nghiệp trực tiếp
tiến hành hoạt động kinh doanh xuất khẩu vào thị trường mà không thông qua
trung gian xuất nhập khẩu.
+ Thị trường xuất khẩu gián tiếp xuất hiện khi doanh nghiệp không có
quyền hoặc không có điều kiện xuất khẩu trực tiếp mà phải thông qua các trung
gian như đại lý xuất nhập khẩu, hãng xuất khẩu trong nước hay nước ngoài…
• Căn cứ vào vị trí địa lý : có thể phân chia thị trường xuất khẩu thành các thị
trường có quy mô lớn nhỏ khác nhau
+ Thị trường châu lục : gồm những nước nằm trong cùng một châu lục với
quốc gia xuất khẩu. Thị trường này có đặc điểm là khoảng cách địa lý không
quá xa với nước xuất khẩu. Bên cạnh đó, cơ cấu kinh tế của thị trường này
thường mang tính chất bổ sung, do đó rất dễ dàng thâm nhập thị trường này.
+ Thị trường khu vực : gồm các nước nằm trong một khu vực với quốc gia
xuất khẩu. Thị trường này có vị trí địa lý tương đối gần và có thói quen tiêu
dùng tương tự nhau.
+ Thị trường ngoài châu lục : gồm các nước ở châu lục khác, có vị trí địa lý
xa, khác biệt lớn về hành vi tiêu dùng và tập quán văn hóa.
• Căn cứ vào mức độ quan tâm và tính ưu tiên trong chính sách phát triển thị
trường của nước xuất khẩu với các thị trường xuất khẩu:
+ Thị trường xuất khẩu tương hỗ : là thị trường mà trong đó nước xuất khẩu
và nước nhập khẩu sẽ dành cho nhau những ưu đãi trong hoạt động xuất nhập
khẩu hàng hóa.
+ Thị trường xuất khẩu trọng điểm : là thị trường mà nước xuất khẩu sẽ chú
trọng đến để khai thác chủ yếu và lâu dài.
• Căn cứ vào mức độ mở cửa thị trường, mức độ bảo hộ của chính phủ mỗi nước

đối với hàng hóa nhập khẩu, khả năng xâm nhập thị trường của hàng hóa nhập
khẩu :
+Thị trường khó tính : mức độ bảo hộ của chính phủ nước nhập khẩu tương
đối cao, khả năng xâm nhập vào thị trường này tương đối khó.
+Thị trường dễ tính : mức độ bảo hộ của chính phủ nước nhập khẩu tương
đối thấp, khả năng xâm nhập vào thị trường này tương đối dễ dàng, không quá
khó khăn.
13
• Căn cứ vào mặt hàng xuất khẩu: có thể phân chia thị trường xuất khẩu thành rất
nhiều thị trường khác nhau, ví dụ như:
+Thị trường xuất khẩu hàng may măc
+Thị trường xuất khẩu hàng nông sản
+Thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
+Thị trường xuất khẩu hàng thủy sản
• Căn cứ vào các thỏa thuận thương mại cấp chính phủ giữa các quốc gia về xuất
nhập khẩu hàng hóa và các yêu cầu của các đối tác thương mại về việc có hạn
chế hay không về nhập khẩu hàng hóa:
+Thị trường xuất khẩu theo hạn ngạch : doanh nghiệp cần xin hoặc mua hạn
ngạch, xuất khẩu hàng hóa theo hạn ngạch được cấp.
+Thị trường xuất khẩu không theo hạn ngạch : doanh nghiệp không bị giới
hạn về số lượng hàng hóa được phép xuất khẩu, doanh nghiệp có thể xuất khẩu
hàng hóa với số lượng tùy theo khả năng của mình và nhu cầu của người mua.
• Căn cứ vào lịch sử quan hệ ngoại thương giữa các quốc gia:
+ Thị trường truyền thống là thị trường mà doanh nghiệp có quan hệ làm ăn
lâu dài và khá ổn định.
+ Thị trường mới là thị trường mà doanh nghiệp mới thiết lập quan hệ làm
ăn và có tiềm năng phát triển trong tương lai.
• Căn cứ vào tỷ trọng sức mua của thị trường :
+ Thị trường xuất khẩu chính : là thị trường mà tại đó, số lượng hàng hóa
bán ra chiếm đại đa số so với tổng khối lượng hàng hóa đưa ra thị trường để

tiêu thụ của doanh nghiệp.
+ Thị trường xuất khẩu phụ : là thị trường có khối lượng hàng hóa bán ra
thấp so với tổng khối lượng hàng hóa tiêu thụ. Thị trường này có tính chất bổ
sung, giới thiệu và quảng bá sản phẩm cho doanh nghiệp.
• Căn cứ vào trình độ phát triển và nhu cầu của thị trường:
+ Thị trường phát triển cao : gồm những nước có trình độ phát triển cao.
Một số nước tiêu biểu cho khu vực này như Mỹ, EU, Đông Bắc Á. Đây là các
quốc gia đi đầu trong việc nghiên cứu và ứng dụng thành tựu và tiến bộ về kỹ
thuật công nghệ, đồng thời có vị trí áp đảo nhờ lợi thế cạnh tranh xuất phát từ
yếu tố công nghệ. Hàng hóa muốn xâm nhập vào thị trường này cần có chất
lượng cao, được sản xuất trên công nghệ tiên tiến, đồng thời đáp ứng được
những yêu cầu khắt khe về mặt kỹ thuật của khu vực thị trường này.
14
+ Thị trường các nước đang phát triển : tiêu biểu như các nước trong khối
ASEAN. Nhu cầu của thị trường này bao gồm những sản phẩm đáp ứng nhu
cầu cá nhân, gia đình và sản xuất với hàm lượng công nghệ ở mức trung bình.
+ Thị trường các nước kém phát triển : tiêu biểu như một số quốc gia ở châu
Phi như Uganda, Tanzania, Zambia…Hàng hóa tiêu thụ được ở những quốc gia
này thường có giá cả tương đối thấp và yêu cầu về công nghệ và chất lượng sản
phẩm không quá cao.
1.1.4 Vai trò của thị trường xuất khẩu hàng hóa
Thị trường gắn liền với quá trình lưu thông và là một khâu tất yếu trong quá
trình tái sản xuất xã hội. Do đó, nó có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát
triển của nền kinh tế vì nếu không có thị trường thì cũng có nghĩa là không có sự
lưu thông hàng hóa. Thị trường luôn là mục tiêu mà mỗi doanh nghiệp muốn
thâm nhập và chiếm lĩnh lấy. Đối với một doanh nghiệp xuất nhập khẩu, việc mở
rộng thị trường xuất khẩu giữ vai trò chủ đạo, thể hiện qua những điểm sau:
Thứ nhất, việc mở rộng thị trường xuất khẩu giúp doanh nghiệp phân tán rủi
ro. Thị trường nước ngoài tiềm ẩn rất nhiều yếu tố rủi ro mà doanh nghiệp không
thể lường trước được. Các yếu tố rủi ro này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác

nhau như sự thay đổi chính sách nhập khẩu, biến động kinh tế, chính trị, thiên tai,
khủng bố…ở quốc gia nhập khẩu. Do vậy, để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động
kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải tích cực tìm kiếm và mở rộng thị trường
xuất khẩu.
Thứ hai, thị trường xuất khẩu giúp doanh nghiệp mở rộng khả năng tiêu thụ
sản phẩm. Khi mới bắt đầu kinh doanh, các doanh nghiệp chỉ tiến hành các hoạt
động kinh doanh ở thị trường trong nước. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp đạt đến
một quy mô đủ lớn, thị trường nội địa sẽ trở nên nhỏ bé. Điều này dẫn đến một
nhu cầu tất yếu là phải vươn ra các thị trường nước ngoài. Mục đích của việc này
là mở rộng được thị trường tiêu thụ hàng hóa sang các quốc gia khác chứ không
chỉ phụ thuộc vào thị trường nhỏ bé ở trong nước. Xuất khẩu là một trong những
con đường quen thuộc để doanh nghiệp đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hóa, nhờ đó
mà doanh nghiệp có điều kiện mở rộng quy mô, phát triển sản xuất ( lợi thế theo
15
quy mô sẽ làm chi phí sản xuất giảm). Do vậy, đối với doanh nghiệp xuất khẩu
hàng hóa thì việc thâm nhập và mở rộng thị trường xuất khẩu là điều kiện tiên
quyết dẫn tới thành công của doanh nghiệp.
Thứ ba, thị trường xuất khẩu trực tiếp điều tiết việc sản xuất kinh doanh các
mặt hàng xuất khẩu. Nói cách khác, thị trường xuất khẩu giúp doanh nghiệp đa
dạng hóa mặt hàng xuất khẩu do các thị trường khác nhau có nhu cầu về hàng
hóa nhập khẩu khác nhau. Để đạt được mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận, doanh
nghiệp cần phải thõa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, từ đó tăng khả năng
tiêu thụ sản phẩm. Việc quyết định cung ứng sản phẩm gì, bằng phương thức
nào, cho ai là do nhu cầu của thị trường quyết định. Chính sách khách hàng sẽ
định hướng cho chính sách về sản phẩm xuất khẩu, chính sách giá cả cho phù
hợp với từng thị trường xuất khẩu.
Ngày nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của các xu hướng vận động của nền
kinh tế thế giới, đặc biệt là sự tác động ngày càng tăng của xu hướng khu vực
hóa và toàn cầu hóa, đối với nền kinh tế của từng quốc gia và thế giới, việc tham
gia vào thị trường nước ngoài là hết sức quan trọng. Đối với các quốc gia, tham

gia vào thị trường nước ngoài có tác động tích cực trong việc tham gia sâu rộng
vào quá trình liên kết kinh tế, phân công lao động xã hội, hội nhập vào thị trường
toàn cầu. Bên cạnh đó, việc tham gia vào thị trường nước ngoài giúp các nước
kém phát triển có cơ hội cải tiến lại cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tạo cơ hội cho việc phân phối lại các nguồn lực trong nước và thu
hút các nguồn lực bên ngoài cho việc phát triển các lĩnh vực, các ngành của nền
kinh tế quốc dân một cách hiệu quả.
Như vậy, việc tham gia vào thị trường nước ngoài và mở rộng thị trường
trở thành một nhu cầu tất yếu và phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Mặc dù vậy, khi thâm nhập thị trường nước ngoài, các doanh nghiệp xuất khẩu
phải hết sức thận trọng trong việc nghiên cứu kỹ thị trường mới có thể tránh khỏi
những tổn thất có thể xảy ra khi tham gia thị trường quốc tế đầy yếu tố rủi ro và
cạnh tranh ngày nay.
16
1.2 Cơ cấu thị trường xuất khẩu
1.2.1 Khái niệm cơ cấu thị trường xuất khẩu
Trong triết học duy vật biện chứng, cơ cấu là khái niệm dùng để chỉ cách
thức tổ chức bên trong của một hệ thống, biểu hiện sự thống nhất của các mối
quan hệ qua lại, vững chắc giữa các bộ phận của nó. Trong khi chỉ rõ mối quan
hệ biện chứng giữa bộ phận và toàn thể, nó biểu hiện như là một thuộc tính của
sự vật hiện tượng và biến đổi cùng sự vật, hiện tượng.
Cũng như vậy, đối với một nền kinh tế, khi xem xét nó là một hệ thống
phức tạp thì có thể thấy rất nhiều bộ phận và các kiểu cơ cấu hợp thành, tùy
theo các tiếp cận khi nghiên cứu hệ thống đó. Sự vận động và phát triển của
nền kinh tế theo thời gian bao hàm sự thay đổi của các bộ phận bên trong. Do
vậy, cơ cấu kinh tế chính là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị
trí, tỷ trọng tương ứng và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành.
Xuất phát từ khái niệm cơ cấu, chúng ta có thể hiểu : “Cơ cấu thị trường
xuất khẩu là một tổng thể hệ thống thị trường xuất khẩu bao gồm nhiều yếu tố
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong một khoảng

không gian và thời gian nhất định, và những điều kiện kinh tế xã hội nhất định,
được biểu hiện cả mặt định tính và định lượng, cả về số lượng lẫn chất lượng,
phù hợp với mục tiêu được xây dựng của nền kinh tế” ( Đào Ngọc Tiến, 2009)
Hiểu một cách đơn giản, cơ cấu thị trường xuất khẩu là tổng thể các khu
vực, các thị trường xuất khẩu trong kim ngạch xuất khẩu với vị trí, tỷ trọng
tương ứng và mối liên hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành.
Cùng với sự phát triển hoạt động xuất khẩu, cơ cấu thị trường luôn thay đổi.
Chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu chính là sự thay đổi tỷ trọng và tương
quan giữa các thị trường xuất khẩu. Điều chỉnh cơ cấu thị trường xuất khẩu là
sự tác động của chính phủ nhằm thay đổi tỷ trọng và tương quan giữa các thị
trường xuất khẩu phù hợp với các mục tiêu phát triển xuất khẩu ( Đào Ngọc
Tiến, 2009).
Hai yếu tố xác định phạm vi của một thị trường là thị trường địa lý và thị
trường sản phẩm. Do vậy, khi phân tích cơ cấu thị trường xuất khẩu, chúng ta
17
cần phải chú ý tới cơ cấu thị trường xuất khẩu theo khu vực địa lý và cơ cấu thị
trường xuất khẩu theo mặt hàng. Tuy nhiên, trong phạm vi của khóa luận này,
cơ cấu thị trường xuất khẩu được nghiên cứu theo khu vực địa lý.
1.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến cơ cấu thị trường xuất khẩu
1.2.2.1 Yếu tố ảnh hưởng đến cung
Sự chênh lệch trong luồng xuất khẩu sang các thị trường khác nhau tạo nên
cơ cấu thị trường xuất khẩu, do đó các yếu tố ảnh hưởng tới luồng xuất khẩu
cũng là các yếu tố ảnh hưởng tới cơ cấu thị trường xuất khẩu. Một yếu tố ảnh
hưởng khác nhau tới luồng xuất khẩu sang các thị trường khác nhau thì yếu tố
này sẽ trở thành một yếu tố tác động đến cơ cấu thị trường xuất khẩu.
Nhóm yếu tố ảnh hưởng tới cung không ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu thị
trường xuất khẩu. Ví dụ, nếu GDP của nước xuất khẩu tăng sẽ tạo điều kiện đẩy
mạnh xuất khẩu sang tất cả các nước còn lại mà không gây tác động đặc biệt đối
với bất kỳ thị trường nào. Mặc dù vậy, nếu xét một cách gián tiếp thì sự tương
đồng về cơ cấu kinh tế sẽ có thể ảnh hưởng tới cơ cấu thị trường xuất khẩu. Ví

dụ như GDP của một nông nghiệp tăng lên chủ yếu do sản lượng hàng nông sản
tăng lên sẽ có thể làm tăng khả năng xuất khẩu sang những nước đang có nhu
cầu nhập khẩu hàng nông sản mà khó có khả năng xuất khẩu sang các nước có
cơ cấu kinh tế tương tự (tức là các nước nông nghiệp).
1.2.2.2 Yếu tố ảnh hưởng tới cầu
Khi thu nhập của người dân tăng lên thì nhu cầu tiêu dùng sản phẩm cũng có
xu hướng tăng lên, kéo theo nhu cầu về hàng hóa nhập khẩu. Vì lý do này mà
các doanh nghiệp xuất khẩu thường hướng sản phẩm của mình tới các quốc gia
có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, sức mua lớn. Mặc dù vậy, thu nhập không
phải là yếu tố duy nhất quyết định đến cầu của đối tác. Bên cạnh yếu tố thu
nhập, yếu tố thị hiếu của người dân nước nhập khẩu tới hàng hóa của nước xuất
khẩu có vai trò quan trọng không kém. Các yếu tố về cầu của thị trường nước
ngoài vượt ra khỏi phạm vi tác động của nước xuất khẩu.
1.2.2.3 Các yếu tố thuận lợi, khó khăn
 Yếu tố khoảng cách địa lý giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu
18
Do chi phí bảo hiểm và vận tải là một bộ phận không nhỏ cấu thành nên giá
bán của sản phẩm tại thị trường nhập khẩu nên yếu tố khoảng cách có ảnh
hưởng không nhỏ tới việc xác định cơ cấu thị trường xuất khẩu. Nếu khoảng
cách giữa quốc gia xuất khẩu và quốc gia nhập khẩu càng gần thì chi phí vận
tải và bảo hiểm càng giảm đi. Điều này sẽ khiến giá cả hàng hóa xuất khẩu thấp
hơn so với trường hợp khoảng cách giữa hai quốc gia quá xa nhau, làm tăng
khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Do vậy, cơ cấu thị trường xuất khẩu thường
có xu hướng thiên về các thị trường gần, các thị trường trong khu vực.
 Chính sách của nước xuất khẩu cũng tác động tới cơ cấu thị trường xuất khẩu
của quốc gia đó. Các quốc gia thường áp dụng một số chính sách khuyến khích
xuất khẩu như :
+ Chính sách xúc tiến xuất khẩu : gồm quảng cáo, tổ chức Hội chợ, triển lãm,
xây dựng thương hiệu quốc gia…
+ Chính sách tạo nguồn hàng : gồm xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực,

gia công xuất khẩu, đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu Đây là những biện
pháp thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, dẫn tới thay đổi cơ cấu thị trường
xuất khẩu.
+ Chính sách tài chính - tiền tệ : gồm trợ cấp xuất khẩu, ưu đãi thuế cho hoạt
động xuất khẩu, chính sách tỷ giá hối đoái. Đây là những biện pháp tác động
trực tiếp đến kim ngạch xuất khẩu.
 Chính sách của nước nhập khẩu cũng là một yếu tố cần phải xem xét khi xác
định cơ cấu thị trường xuất khẩu. Thông thường, nếu các yếu tố khác như nhau,
các quốc gia xuất khẩu sẽ hướng tới các thị trường nhập khẩu có rào cản thương
mại thấp.
1.2.2.4 Khả năng cạnh tranh trên thị trường
Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, đặc
biệt là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa, cạnh tranh
trở thành một vấn đề tất yếu và không thể tránh khỏi. Trên thị trường xuất
khẩu, quy luật cạnh tranh được thể hiện rõ nét hơn bất kì thị trường nào khác.
Sự cạnh tranh thể hiện ở nhiều yếu tố như chất lượng, giá cả, mẫu mã, hình
thức bán hàng…
19
Cơ cấu kinh tế thay đổi kéo theo sự thay đổi của lợi thế cạnh tranh. Có
những lợi thế cạnh tranh ở giai đoạn đầu phát triển trở thành điểm bất lợi ở
những giai đoạn tiếp theo. Trước đây, lợi thế so sánh tĩnh (bao gồm lợi thế về
nguồn lao động dồi dào, giá rẻ; nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí
địa lý thuận lợi…) có ảnh hưởng tích cực đến khả năng cạnh tranh của một
quốc gia xuất khẩu. Tuy nhiên, ngày nay những lợi thế này đã mất dần tính sắc
bén trong cạnh tranh. Các quốc gia muốn cạnh tranh hiệu quả phải dựa vào lợi
thế so sánh động (lợi thế về trình độ kỹ thuật và phát triển công nghệ dựa vào
tri thức).
Cơ cấu thị trường xuất khẩu chịu tác động của yếu tố cạnh tranh ở chỗ : nếu
một doanh nghiệp không thường xuyên nâng cao năng lực cạnh tranh, không có
khả năng cạnh tranh, cũng như không thay đổi lợi thế so sánh cho phù hợp với

sự thay đổi của cơ cấu kinh tế thì sẽ không thể đứng vững trên thị trường hiện
hữu, không thể đẩy mạnh được xuất khẩu vào thị trường trọng điểm. Nếu khả
năng cạnh tranh của một quốc gia trong một thị trường nào đó thấp thì một kết
quả tất yếu là KNXK sẽ giảm, dẫn đến tỷ trọng của thị trường đó trong cơ cấu
thị trường xuất khẩu có xu hướng giảm xuống.
1.2.4.5 Tự do hóa thương mại và vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế
“Tự do hóa thương mại được hiểu là quá trình dỡ bỏ những cản trở đối với
hoạt động thương mại, bao gồm việc cắt giảm, tiến tới xóa bỏ thuế quan và hàng
rào phi thuế quan, xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử, tạo lập môi trường thông
thoáng, thuận lợi nhằm thúc đẩy sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế”
(Nguyễn Hồng Nhung, 2003).
Trên cơ sở lý thuyết lợi thế so sánh, lợi ích lớn nhất của tự do hóa thương mại
là thúc đẩy ngày càng nhiều nước tham gia buôn bán, trao đổi hàng hoá, từ đó
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với người tiêu dùng, hàng hoá lưu thông dễ dàng
hơn đem lại cho họ cơ hội lựa chọn hàng hoá tốt hơn với giá rẻ hơn (người tiêu
dùng ở đây có thể hiểu là cả những nhà sản xuất nhập khẩu nguyên vật liệu để
sản xuất ra những hàng hoá khác).
20
Tự do hóa thương mại có nhiều hình thức khác nhau, mỗi hình thức lại tác
động đến cơ cấu thị trường xuất khẩu theo một cách khác nhau :
 Tự do hóa thương mại đơn phương là việc các quốc gia chủ động cắt giảm và
xóa bỏ các rào cản thương mại của mình mà không cần quốc gia đối tác có hành
động tương tự đáp lại. Mặc dù không phải là hình thức phổ biến của tự do hóa
thương mại nhưng nó đã góp phần mở rộng và đẩy nhanh tiến trình tự do hóa
thương mại trên thế giới. Hình thức này có tác động gián tiếp đến cơ cấu thị
trường xuất khẩu .
 Tự do hóa thương mại đa phương trong khuôn khổ của WTO cũng có tác dụng
gián tiếp tới cơ cấu thị trường xuất khẩu. Đây là hình thức tự do hóa thương mại
quan trọng nhất hiện nay và có tác động mang tính quyết định đến quá trình tự
do hóa thương mại toàn cầu. Hiện nay, hình thức tự do hóa này được hầu hết

các quốc gia thành viên tham gia thực hiện.
 Tự do hóa thương mại song phương là hình thức hai quốc gia cùng nhau ký kết
hiệp định hợp tác, cam kết dành cho nhau những ưu đãi về tiếp cận thị trường
và mở rộng hợp tác kinh tế giữa hai quốc gia. Khác với hai hình thức trên, tự do
hóa thương mại song phương có tác động trực tiếp đến cơ cấu thị trường xuất
khẩu.
 Tự do hóa thương mại thông qua hội nhập khu vực là việc các quốc gia trong
một khu vực cùng nhau ký kết hiệp định hợp tác chung, trong đó cam kết sẽ
dành cho nhau những ưu đãi trong việc tiếp cận các thị trường quốc gia trong
cùng khu vực thương mại tự do đó. Cũng như hình thức tự do hóa thương mại
song phương, hình thức này có tác động trực tiếp tới cơ cấu thị trường xuất
khẩu.
Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một xu thế vận động tất yếu
của các nền kinh tế trên thế giới. Dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ, quá trình khu vực hóa, quốc tế hóa và toàn cầu
hóa càng diễn ra nhanh chóng hơn. Hội nhập kinh tế là sự gắn kết nền kinh tế
21
của một quốc gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó
có mối quan hệ giữa các quốc gia thành viên có sự giằng buộc theo những quy
định chung của khối. Một cách khái quát, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình
các quốc gia thực hiện quy mô kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế
kinh tế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hóa và tự do hóa thương mại,
đầu tư và các hoạt động kinh tế đối ngoại.
Hội nhập kinh tế quốc tế tác động tới cơ cấu thị trường xuất khẩu ở những
điểm sau:
_ Thứ nhất, xét theo yếu tố đầu vào của sản xuất thì các nền kinh tế trong quá trình
hội nhập sẽ phụ thuộc một cách tương đối vào nhau. Dù một quốc gia giàu có
hay phát triển đến đâu cũng không thể nào tự mình tự đáp ứng được nhu cầu
của chính mình. Các nước đang phát triển có ưu thế hơn trong việc xuất khẩu
các sản phẩm thâm dụng lao động, tài nguyên thiên nhiên lại có nhu cầu nhập

khẩu các sản phẩm công nghệ cao, kinh nghiệm quản lý từ các nước phát triển
và ngược lại. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia sẽ có tác động đến cơ
cấu thị trường xuất khẩu.
_ Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế giúp các nước mở rộng thị trường xuất khẩu.
Hội nhập kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc hội nhập nền kinh tế toàn cầu.
Thông qua quá trình hội nhập, các quốc gia được hưởng những ưu đãi về mậu
dịch, tận dụng thời cơ để khai thác và mở rộng thị trường. Điều này có tác động
không nhỏ tới việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường nước ngoài, thâm nhập
vào thị trường mới, thực hiện đa phương hóa thị trường xuất khẩu, góp phần
chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu.
1.2.2.6 Các yếu tố khác
Ngoài những yếu tố kể trên, những yếu tố khác như sự va chạm thương mại,
những biến cố bất ngờ xảy ra mà chúng ta không lường trước được cũng có ảnh
hưởng không nhỏ tới cơ cấu thị trường xuất khẩu. Khi doanh nghiệp tham gia
vào thị trường quốc tế thì những yếu tố này là không thể tránh khỏi. Một ví dụ
22
điển hình là vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa của Mỹ đối với các doanh nghiệp
xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong năm 2008. Mức thuế chống bán phá giá mà
Bộ Thương mại Hoa Kỳ đưa ra đối với cá tra, cá basa nhập khẩu từ Việt Nam đã
tăng lên hơn 20 % ( từ 37,86% đến 63,88% ). Sự kiện này đã làm thay đổi đáng
kể cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.
Những nhân tố bất lợi khác, ví dụ như khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu
vực, chiến tranh, khủng bố, thiên tai, bão lụt… cũng ít nhiều ảnh hưởng tới tình
hình cung cầu, sản lượng khai thác các mặt hàng xuất khẩu, từ đó tác động gián
tiếp đến cơ cấu thị trường xuất khẩu.
Cuối cùng, cơ cấu thị trường xuất khẩu cũng phải chịu tác động của các nhân
tố chủ quan. Đó là những chủ trương, chính sách phát triển thị trường của mỗi
quốc gia. Các quốc gia luôn phải đưa ra những chiến lược, định hướng thị trường
phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế của quốc gia mình.
Nói tóm lại, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới cơ cấu thị trường xuất khẩu, cả

tác động tiêu cực lẫn tác động tích cực. Các yếu tố này được chia thành những
nhân tố chủ quan và khách quan, tất yếu và ngẫu nhiên, cùng nhau tạo nên một
bức tranh tổng thể về cơ cấu thị xuất khẩu của một quốc gia.
1.3 Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu
Mỗi thị trường xuất khẩu đều có một đặc điểm riêng, vì vậy tác động của nó
tới hoạt động xuất khẩu và tăng trưởng của nền kinh tế cũng thể hiện ở các mức
độ khác nhau, bao gồm cả mặt tích cực và tiêu cực.
Tác động tích cực gồm :
_ Thị trường xuất khẩu là nơi tiêu thụ phần lớn hàng hóa xuất khẩu.
_ Thị trường xuất khẩu là bàn đạp để hàng hóa xuất khẩu vươn ra thị trường
thế giới và khu vực.
_ Thị trường xuất khẩu chứa đựng những tiềm năng có thể khai thác.
Những tác động tích cực này góp phần hỗ trợ tăng trưởng xuất khẩu và tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nếu một thị trường xuất khẩu nào đó chiếm tỷ trọng
quá cao trong cơ cấu thị trường xuất khẩu có sự biến động mạnh thì chắc chắn
23
sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu của một quốc gia, gây
mất ổn định trong nền kinh tế.
Một cơ cấu thị trường xuất khẩu hợp lý là một cơ cấu phát huy được những
mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực kể trên. Nếu cơ cấu thị trường bất
hợp lý, ví dụ như tỷ trọng của một thị trường nào đó quá cao trong khi tỷ trọng
của những thị trường khác là quá thấp, thì sẽ dẫn tới những rủi ro khó lường, có
tác động xấu tới hoạt động xuất khẩu.
Trong xu thế tự do hóa thương mại, việc có một cơ cấu thị trường hợp lý vô
cùng quan trọng. Nó sẽ :
_ Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển
_ Góp phần khai thác và phát huy lợi thế của nền kinh tế
_ Là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại
_ Giúp tăng thu ngân sách, tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

_ Tác động tích cực đến việc giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân
_ Phân tán rủi ro, nâng cao độ ổn định của nền kinh tế
Cơ cấu thị trường xuất khẩu luôn luôn biến đổi qua từng giai đoạn, phụ
thuộc vào tình hình kinh tế xã hội của từng giai đoạn. Hiện nay, cơ cấu thị
trường xuất khẩu của Việt Nam cần phải được chuyển dịch theo hướng đa
phương hóa và phải ưu tiên nâng cao tỷ trọng của khu vực thị trường các nước
phát triển. Việc chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu phù hợp với tình hình
kinh tế xã hội có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Mục đích của việc chuyển dịch
cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn tới chính là đạt được
mức tăng trưởng xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế bền vững, nâng cao được
năng lực cạnh tranh, vai trò và vị thế của quốc gia trên trường quốc tế.
Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã bước đầu chuyển dịch cơ cấu thị
trường theo xu hướng đa dạng hóa trên cơ sở chú trọng phát triển một số thị
trường trọng điểm. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều yếu tố cản trở tới sự phát
triển bền vững của Việt Nam trong tương lai. Trong bối cảnh nền kinh tế toàn
cầu có những biến đổi mới ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu của
nước ta, việc điều chỉnh thị trường xuất khẩu trở nên vô cùng cấp thiết và có ý
24
nghĩa quan trọng trong việc đẩy mạnh xuất khẩu, tăng trưởng kinh tế bền vững
và nâng cao vị thế cạnh tranh của Việt Nam trên trường khu vực và quốc tế.
25
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA
VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
2.1 Tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua
2.1.1 Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2000
Sau năm 1986, Nghị quyết Đại hội VI được quán triệt đến các ngành, các
cấp, các cơ sở sản xuất kinh doanh. Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đã bước đầu giải phóng được lực lượng sản xuất, đồng thời tạo ra động lực phát

triển mới, phát huy khả năng sáng tạo và nguồn lực trong các tầng lớp nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Cùng với chương trình mục
tiêu về hàng lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, chương trình mục tiêu về
hàng xuất khẩu là một trong ba chương trình kinh tế trọng điểm của Việt Nam
mà Đại hội VI của Đảng đã đề ra.
Trong giai đoạn này, nhờ việc nới lỏng cơ chế quản lý ngoại thương và sự
phủ nhận hoàn toàn quan điểm kinh tế khép kín, nền kinh tế nói chung và hoạt
động xuất khẩu nói riêng đã có bước tăng trưởng vượt bậc. Nếu như tốc độ tăng
trưởng bình quân hằng năm của xuất khẩu giai đoạn 1976-1980 là 11%, giai
đoạn 1981-1985 là 15,6% thì trong hai năm đầu đổi mới (1986-1987) đã đạt
mức 27%. Riêng năm 1989, mức tăng trưởng là 73,3% so với năm 1988, gần
bằng mức tăng của cả giai đoạn 1960-1975. Năm 1990, lần đầu tiên kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam vượt mức 2 tỷ Rúp- Đô la, tăng 21,6% so với năm
1989 và gấp 2 lần so với năm 1988.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn này tương đối ổn
định. Ba nhóm hàng xuất khẩu chủ lực là nông - lâm - thủy sản; công nghiệp
nặng và khoáng sản; công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp. Trong nhóm hàng
nông sản, một số mặt hàng xuất khẩu chiếm giá trị và số lượng đáng kể như
gạo, thủy sản, chè, cao su, cà phê
Mặc dù vậy, bước vào những năm 1989-1991, sự tan rã của Liên Xô và các
nước XHCN Đông Âu đã khiến nền kinh tế thế giới phải chịu một cú sốc. Việt

×