Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Chế độ thuế đối với doanh nghiệp nước ngoài có thu nhập phát sinh tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.32 MB, 83 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 3
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ......................................................... 3
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài ................................................... 4
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu đề tài ........................................ 6
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ....................................................... 7
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của cơng trình nghiên cứu ..................................... 7
7. Kết cấu của luận văn ........................................................................................ 8
Chương 1................................................................................................................. 9
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ VÀ CHẾ ĐỘ THUẾ ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP NƯỚC NGỒI CĨ THU NHẬP PHÁT SINH TẠI VIỆT NAM ............. 9
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu
nhập phát sinh...................................................................................................... 9
1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp nước ngoài .................................................. 9
1.1.2. Khái quát về thu nhập phát sinh của doanh nghiệp nước ngoài............ 13
1.1.3. Khái niệm, vai trò của thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu
nhập phát sinh tại Việt Nam ........................................................................... 19
1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về chế độ thuế đối với doanh nghiệp nước
ngồi có thu nhập phát sinh tại Việt Nam........................................................... 24
1.2.1. Khái niệm chế độ thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập
phát sinh tại Việt Nam ................................................................................... 24
1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi
có thu nhập phát sinh tại Việt Nam ................................................................ 27
1.2.3. Nội dung chế độ thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập phát
sinh tại Việt Nam ........................................................................................... 29
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chế độ thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi
có thu nhập phát sinh tại Việt Nam ................................................................ 32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 34
Chương 2............................................................................................................... 36
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ


THỰC TIỄN THI HÀNH CHẾ
ĐỘ THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NƯỚC NGỒI CĨ THU NHẬP PHÁT
SINH TẠI VIỆT NAM .......................................................................................... 36

1


2.1. Thực trạng pháp luật quy định về thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có
thu nhập phát sinh tại Việt Nam ......................................................................... 36
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển chế độ thuế đối với doanh nghiệp
nước ngồi có thu nhập phát sinh tại Việt Nam.............................................. 36
2.1.2. Thực trạng pháp luật quy định về chủ thể nộp thuế .............................. 38
2.1.3. Thực trạng pháp luật quy định về thu nhập chịu thuế ........................... 45
2.1.4. Thực trạng pháp luật quy định về phương pháp tính thuế..................... 48
2.1.5. Thực trạng quy định về khai thuế, quyết toán thuế ............................... 53
2.1.6. Thực trạng quy định về miễn thuế thu nhập theo Hiệp định tránh đánh
thuế hai lần .................................................................................................... 54
2.2. Thực tiễn thi hành chế độ thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập
phát sinh tại Việt Nam ....................................................................................... 55
2.2.1. Những thành tựu đạt được ................................................................... 56
2.2.2. Những hạn chế còn tồn tại trong việc áp dụng chế độ thuế đối với doanh
nghiệp nước ngồi có thu nhập phát sinh tại Việt Nam .................................. 58
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 65
Chương 3............................................................................................................... 66
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ ĐẢM BẢO
THI HÀNH CHẾ ĐỘ THUẾ
ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM ............. 66
3.1. Định hướng hoàn thiện chế độ thuế đối với doanh nghiệp nước ngoài tại Việt
Nam................................................................................................................... 66

3.2. Những giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật
về thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập phát sinh tại Việt Nam.... 68
3.2.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về thuế đối với doanh nghiệp
nước ngồi có thu nhập phát sinh tại Việt Nam.............................................. 68
3.2.2. Một số giải pháp góp phần thực hiện hiệu quả pháp luật về thuế đối với
doanh nghiệp nước ngoài có thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam ........ 72
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 76
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 80

2


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hội nhập quốc tế đã đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội phát triển kinh tế.
Một trong những tác động dễ nhận thấy nhất là sự gia tăng của dịng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngồi (Foreign Direct Investment - FDI), đầu tư gián tiếp nước ngoài
(Foreign Indirect Investment - FII) và vốn viện trợ nước ngoài vào Việt Nam. Gắn
liền với những dòng vốn này là sự xuất hiện các hoạt động kinh doanh của các tổ
chức, cá nhân nước ngồi tại Việt Nam. Thêm vào đó, quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế sâu rộng cũng địi hỏi các quốc gia, trong đó có Việt Nam phải tự gỡ bỏ các
rào cản ngăn các nhà đầu tư, các tổ chức, cá nhân nước ngoài gia nhập và kinh
doanh trên thị trường. Cùng với thực tế này, các quốc gia phải cân nhắc và suy tính
việc quản lý các hoạt động đầu tư, kinh doanh của những chủ thể nước ngồi để góp
phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước và tạo nên sự công bằng, minh bạch
trong quản lý đối với nhóm chủ thể này so với tổ chức, cá nhân trong nước.
Công cụ quản lý hữu hiệu nhất của các quốc gia với các tổ chức, cá nhân
nước ngoài kinh doanh, phát sinh thu nhập trên lãnh thổ quốc gia là chính sách thuế.
Trong các điều ước quốc tế, hiệp định song phương và đa phương, thuế là một nội

dung rất quan trọng và được đàm phán rất kỹ càng. Bởi nếu một quốc gia nới lỏng
hàng rào thuế quan của mình, các nhà đầu tư ngoại sẽ dễ dàng và có hứng thú hơn
khi đầu tư vào, hoặc các tổ chức, cá nhân nước ngồi sẽ tích cực kinh doanh để tạo
ra thu nhập, giá trị thặng dư ở quốc gia đó. Tuy nhiên, ngân sách Nhà nước có thể
thất thu và đặc biệt hơn, việc hạ dần các hàng rào thuế quan có thể gây ảnh hưởng
xấu đến thị trường trong nước. Bởi ở các nước đang phát triển, nơi mà các doanh
nghiệp nội có năng lực cạnh tranh khơng đủ mạnh, hàng rào thuế quan chính là một
cơng cụ để nước đó bảo vệ vị thế của mình. Do đó, thuế luôn được quan tâm đầy đủ.
Ở Việt Nam, thuế áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt
Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam được gọi chung là thuế nhà thầu.

3


Mặt khác, khi nói tới các chủ thể nước ngồi có hoạt động kinh doanh hoặc
có thu nhập tại Việt Nam, có thể thấy nhóm chủ thể là tổ chức nước ngoài được kỳ
vọng và đánh giá cao hơn trong việc thực hiện các hoạt động kinh doanh chuyên
nghiệp, quy mô lớn và tạo ra những khoản thu nhập đáng kể tại Việt Nam. Vì vậy,
việc quản lý thuế đối với hoạt động của nhóm chủ thể này và những khoản thu nhập
do chủ thể này tạo ra là một trong những nội dung quan trọng trong việc hoàn thiện
pháp luật về thuế nhà thầu nói riêng và hệ thống pháp luật thuế Việt Nam nói chung,
đảm bảo tạo nên sự cơng bằng, bình đẳng giữa các nhóm tổ chức (nước ngoài và
trong nước) phát sinh thu nhập, đồng thời góp phần tạo nguồn thu ngân sách nhà
nước. Với ý nghĩa đó, học viên lựa chọn đề tài “Chế độ thuế đối với doanh nghiệp
nước ngồi có thu nhập phát sinh tại Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Cho đến thời điểm hiện nay, chưa có cơng trình nghiên cứu nào ở cấp độ
thạc sỹ luật học nghiên cứu và tìm hiểu sâu về chế độ thuế áp dụng đối với doanh
nghiệp nước ngồi có thu nhập phát sinh tại Việt Nam. Các cơng trình nghiên cứu

có liên quan chủ yếu phân tích, bình luận về thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN),
pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhà thầu.
Đối với nội dung thuế thu nhập doanh nghiệp và pháp luật thuế thu nhập
doanh nghiệp, một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như: Luận văn thạc sĩ luật học
năm 2010 với đề tài: “Pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp và giải pháp chống
chuyển giá ở Việt Nam” của tác giả Lê Văn Hải: Luận văn đã phân tích khá bao quát
các quy định của pháp luật về thuế TNDN, từ đó chỉ ra và tìm giải pháp cho những
“lỗ hổng” của pháp luật thuế TNDN dẫn đến hành vi chuyển giá; Luận án tiến sĩ
kinh tế năm 2015 của tác giả Dương Ngọc Quang với đề tài “Hoàn thiện thuế thu
nhập doanh nghiệp nhằm thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam”: Luận án đã đi
sâu đánh giá, phân tích thuế thu nhập doanh nghiệp từ đó chỉ ra những thành công
cũng như hạn chế của thuế này đến hoạt động tái cơ cấu nền kinh tế, từ đó đề xuất
giải pháp hoàn thiện thuế TNDN đến năm 2020 nhằm tái cơ cấu nền kinh tế Việt

4


Nam; Bài nghiên cứu “Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật đối với thuế lợi nhuận
doanh nghiệp ở Ucraina” của học giả Trương Thị Kim Dung năm 2006 chỉ ra
những quy định của Ucraina về thuế lợi nhuận doanh nghiệp đồng thời rút ra những
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong q trình hồn thiện pháp luật thuế TNDN.
Ngồi ra cịn có một số cơng trình nghiên cứu khác như: Luận văn thạc sĩ luật học
“So sánh pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam và Nhật Bản” của tác
giả Bùi Thị Thuỳ Linh năm 2014; Khoá luận tốt nghiệp với đề tài “Luật Thuế thu
nhập doanh nghiệp của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” của tác giả
Trần Thị Hoà năm 2010…
Đối với nội dung thuế nhà thầu và pháp luật về thuế nhà thầu, có một số
cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như: Luận văn thạc sĩ kinh tế với đề tài “Thuế nhà
thầu ở Việt Nam trong bối cảnh hộp nhập” của tác giả Phạm Quang Huy năm 2009:
Luận văn đã tổng hợp, nghiên cứu khá chi tiết và cụ thể các chính sách thuế nhà

thầu của các quốc gia trên thế giới có ảnh hưởng đến chính sách chung của Việt
Nam; bản chất của thuế nhà thầu, phân tích những ưu điểm và hạn chế của chính
sách thuế nhà thầy hiện hành của Việt Nam, từ đó đề xuất những giải pháp phù hợp
với khuôn khổ chung của Đảng và Nhà nước; Đề tài “Hồn thiện chính sách thuế
đối với nhà thầu nước ngoài tại Việt Nam” - luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Trần
Hiệp Hưng năm 2011: Luận văn đã phân tích thực trạng thuế nhà thầu nước ngoài
tại Việt Nam, dựa trên kinh nghiệm của một số nước trên thế giới để đưa ra những
giải pháp hồn thiện chính sách thuế nhà thầu nước ngồi của Việt Nam. Ngồi ra
cịn có một số cơng trình nghiên cứu như khóa luận tốt nghiệp “Một số vấn đề về
thuế nhà thầu ở Việt Nam đối với nhà thầu là tổ chức nước ngoài” của tác giả
Nguyễn Thu Trang năm 2012; cuốn sách “Cẩm nang pháp luật về thuế nhà thầu
nước ngoài và Hiệp định tránh đánh thuế hai lần” do tác giả Nguyễn Thanh Huyền
chủ biên xuất bản năm 2014; bài báo “Nhận diện tổ chức nước ngoài là đối tượng
nộp thuế nhà thầu tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hoài Thu được đăng trên
tạp chí Khoa học pháp lý số 2/2015…

5


Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập ở những mức độ
và góc độ khác nhau về chế độ thuế áp dụng đối với doanh nghiệp nước ngồi có
thu nhập phát sinh ở Việt Nam. Tuy nhiên, những cơng trình nghiên cứu này chưa
cho thấy cái nhìn bao qt và phân tích sâu, tồn diện về các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành về thuế áp dụng đối với những tổ chức, doanh nghiệp nước
ngồi phát sinh thu nhập ở Việt Nam. Do đó, đề tài “Chế độ thuế áp dụng đối với
doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập phát sinh ở Việt Nam” sẽ đảm bảo sự
khơng trùng lặp và thể hiện tính mới trong các nội dung nghiên cứu, phân tích.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu đề tài
Với đề tài “Chế độ thuế áp dụng đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu
nhập phát sinh ở Việt Nam”, tác giả tập trung nghiên cứu những quy định hiện hành

của Nhà nước về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp nước ngồi, từ
đó phân tích những quy định của pháp luật, tìm hiểu thực tiễn thi hành những quy
định này. Ngồi ra, tác giả cịn tiến hành tìm hiểu quy định về loại thuế này ở một số
quốc gia trên thế giới nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm để hoàn thiện pháp
luật thuế TNDN đối với doanh nghiệp nước ngồi có phát sinh thu nhập ở Việt
Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
cơ bản sau đây:
(i) Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin;
(ii) Một số phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Phương pháp phân tích, bình luận, diễn giải, phương pháp so sánh, phương
pháp lịch sử… được sử dụng trong chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề lý luận
về chế độ thuế đối với doanh nghiệp nước ngoài có thu nhập phát sinh tại Việt Nam.
Phương pháp so sánh luật học, phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá
được sử dụng trong chương 2 và chương 3 khi tìm hiểu thực trạng pháp luật và thực

6


tiễn thi hành pháp luật về thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập phát
sinh tại Việt Nam nhằm (i) làm rõ những quy định của pháp luật về vấn đề này; (ii)
chỉ ra những điểm đạt được và chưa đạt được của pháp luật để từ đó đưa ra những
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về chế độ
thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập phát sinh tại Việt Nam, từ đó
phân tích thực trạng pháp luật hiện hành điều chỉnh thuế đối với doanh nghiệp nước
ngoài tại Việt Nam để có thể đề xuất những giải pháp hồn thiện pháp luật điều

chỉnh nội dung này.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ
nghiên cứu cơ bản sau:
Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận về chế độ thuế đối với doanh nghiệp
nước ngồi có thu nhập phát sinh tại Việt Nam như: khái niệm, vai trị của doanh
nghiệp nước ngồi, khái niệm, nội dung chế độ thuế đối với doanh nghiệp nước
ngoài có thu nhập phát sinh tại Việt Nam…
Hai là, trên cơ sở nghiên cứu các quy phạm pháp luật và thực tiễn thi hành
pháp luật về chế độ thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có phát sinh thu nhập tại
Việt Nam, luận văn tìm ra những tồn tại, vướng mắc để làm cơ sở cho việc hoàn
thiện pháp luật về vấn đề này.
Ba là, chỉ ra, phân tích những định hướng cho việc hoàn thiện chế độ thuế
đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập phát sinh tại Việt Nam, qua đó đưa ra
những kiến nghị trước mắt và lâu dài cho việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh vấn
đề này.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của cơng trình nghiên cứu
Về mặt lý luận, luận văn sẽ làm rõ những nguyên tắc, yêu cầu trong việc
ban hành và thực hiện pháp luật thuế thu nhập đối với doanh nghiệp nước ngoài tại

7


Việt Nam để làm cơ sở đánh giá, hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành sao
cho có hiệu quả hơn.
Về mặt thực tiễn, luận văn sẽ tổng kết quá trình thực hiện pháp luật, đánh
giá những bất cập đã phát sinh trên thực tế để làm cơ sở hoàn thiện pháp luật thuế
thu nhập đối với doanh nghiệp nước ngồi có phát sinh thu nhập tại Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được kết cấu thành 03 chương
với các nội dung cụ thể như sau:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận về chế độ thuế đối với doanh nghiệp
nước ngồi có thu nhập phát sinh tại Việt Nam
Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về chế độ
thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập phát sinh tại Việt Nam
Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ thuế đối với
doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập phát sinh tại Việt Nam.

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ VÀ CHẾ ĐỘ
THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NƯỚC NGỒI CĨ
THU NHẬP PHÁT SINH TẠI VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có
thu nhập phát sinh
1.1.1. Khái qt về doanh nghiệp nước ngồi
Khái niệm doanh nghiệp nước ngồi khơng phải là một khái niệm được xây
dựng chính thức và được cơng nhận rộng rãi. Nhắc đến doanh nghiệp nước ngoài,
người ta thường nghĩ ngay đến yếu tố quốc tịch. Điều này thể hiện ở yếu tố nước
ngồi của doanh nghiệp đó. Yếu tố nước ngồi khơng chỉ được xác định về mặt lãnh
thổ, mà quan trọng hơn, chính là sự cơng nhận về mặt pháp lý của một quốc gia đối
với doanh nghiệp đó. Việc xác định khái niệm doanh nghiệp nước ngoài rất quan
trọng, bởi lẽ, sự đối xử của mỗi quốc gia đối với doanh nghiệp nước ngoài và doanh
nghiệp trong nước là khác nhau. Do đó, tùy thuộc vào quan điểm của mỗi quốc gia
mà khái niệm về doanh nghiệp nước ngoài cũng được xây dựng khác nhau.
Theo hệ thống pháp luật Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, một cơng ty nước ngồi
(foreign corporation) được sử dụng để chỉ một công ty đang tồn tại mà được đăng
ký để thực hiện hoạt động kinh doanh tại một nước hoặc lãnh thổ ngồi nơi nó được
đăng ký ban đầu. Một cơng ty nước ngồi cũng được coi là một cơng ty được thành

lập như là một công ty của một bang của Mỹ, được ủy quyền để kinh doanh tại các
bang khác; hoặc là một công ty được thành lập bên ngoài Hoa Kỳ mà được ủy
quyền để kinh doanh tại một hoặc nhiều bang của Hoa Kỳ [30]. Do đặc thù trong hệ
thống pháp luật từng bang của Hoa Kỳ dẫn tới việc một công ty được thành lập theo
pháp luật của bang này được coi là công ty nước ngoài theo hệ thống pháp luật của
bang khác. Tuy nhiên, nguyên tắc để xác định một công ty nước ngoài theo hệ thống

9


pháp luật Hoa Kỳ, về bản chất, vẫn chính là yếu tố quốc tịch. Chỉ cần một công ty
hoạt động kinh doanh tại nơi có hệ thống pháp luật khác với hệ thống pháp luật nó
đăng ký ban đầu thì đều được coi là cơng ty nước ngồi.
Theo Đạo luật Cơng ty 2013 do Nghị viện nước Cộng hịa Ấn Độ ban hành,
cơng ty nước ngồi (foreign company) được định nghĩa là công ty hoặc pháp nhân
bất kỳ được thành lập bên ngồi Ấn Độ mà (a) có một địa điểm kinh doanh tại Ấn
Độ dù là của công ty đó hoặc thơng qua một đại diện, có cơ sở vật chất hoặc thông
qua phương tiện điện tử; và (b) thực hiện hoạt động kinh doanh tại Ấn Độ bằng bất
cứ phương thức nào khác [31, 3.20]. Trong Đạo luật này không tồn tại khái niệm
doanh nghiệp (enterprise) mà chỉ có khái niệm cơng ty (company/ corporation).
Theo đó, cơng ty được định nghĩa là một công ty được thành lập theo Đạo luật này
hoặc theo bất cứ pháp luật công ty nào trước đó. Như vậy, theo pháp luật Ấn Độ thì
một cơng ty nước ngồi phải đáp ứng bốn điều kiện: (i) là cơng ty hoặc có tư cách
pháp nhân công ty; (ii) thành lập không theo pháp luật Ấn Độ; (iii) có địa điểm kinh
doanh tại Ấn Độ; (iv) thực hiện hoạt động kinh doanh tại Ấn Độ. Hay nói cách khác,
cơng ty nước ngồi là cơng ty không được thành lập theo pháp luật Ấn Độ và thực
hiện hoạt động kinh doanh tại Án Độ.
Theo Luật Xúc tiến Đầu tư nước ngồi của nước Cộng hịa Dân chủ nhân
dân Lào, doanh nghiệp nước ngoài (foreign enterprise) được định nghĩa là doanh
nghiệp được nước ngoài sở hữu 100%, một liên doanh và một doanh nghiệp được

thành lập theo một hợp đồng hợp tác kinh doanh được thành lập tại nước Cộng hòa
Dân chủ nhân dân Lào. Như vậy, khác với pháp luật Ấn Độ, pháp luật Lào coi
doanh nghiệp nước ngoài là doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật Lào nhưng
có sự tham gia đầu tư của bên nước ngồi, thể hiện dưới hình thức 100% vốn góp
thành lập, liên doanh, hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh. Khái niệm này cho thấy
sự tương tự với khái niệm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, liên doanh trong
hệ thống pháp luật Việt Nam.
Ngoài ra, một số định nghĩa pháp lý nước ngồi về doanh nghiệp/ cơng ty
nước ngồi cịn được xây dựng dựa trên yếu tố quốc tịch. Theo từ điển Legalcrystal

10


thì doanh nghiệp nước ngồi (foreign enterprise) được định nghĩa là một doanh
nghiệp đặt tại nước ngoài được đăng ký hoặc thành lập tuân theo pháp luật của nước
đó [34]. Hay theo Đại học Luật Cornell, một công ty nước ngồi (foreign
corporation) là cơng ty được thành lập theo pháp luật của một bang hoặc quốc gia
khác. Bên cạnh đó cơng ty nước ngồi đó phải gửi một thơng báo về việc thực hiện
kinh doanh tại bất kỳ bang nào mà nó có hoạt động kinh doanh chính [30].
Tóm lại, hầu hết quan điểm pháp lý trên thế giới đều cho rằng doanh nghiệp
nước ngồi (hoặc cơng ty nước ngồi như ở một số nước) được xác định dựa trên
yếu tố quốc tịch; và do đó, nó được phân biệt rất rõ với doanh nghiệp nội địa. Yếu tố
quốc tịch ở đây khơng bắt buộc là doanh nghiệp đó được thành lập theo pháp luật
của một nước ngồi, mà nó cịn mang nghĩa rộng hơn là doanh nghiệp đó khơng
được thành lập theo pháp luật của nước mà doanh nghiệp đó có hoạt động đầu tư,
kinh doanh. Một doanh nghiệp không được thành lập theo pháp luật của một quốc
gia cụ thể, nhưng trong mối quan hệ pháp lý vẫn tồn tại tư cách pháp nhân kinh
doanh được công nhận, khi đầu tư kinh doanh vào một quốc gia vẫn có thể được coi
là doanh nghiệp nước ngồi của quốc gia đó.
Tại Việt Nam, kể từ những năm 90 trở lại đây không tồn tại bất kỳ khái

niệm pháp lý chính thức nào về “doanh nghiệp nước ngồi”. Ngun nhân là bởi
doanh nghiệp nước ngoài, khi được quy định trong pháp luật Việt Nam, thường xuất
hiện dưới vai trò là nhà đầu tư nước ngoài hoặc thương nhân nước ngoài hoặc tổ
chức nước ngoài. Mà những khái niệm trên đều đã được quy định trong pháp luật
Việt Nam và về cơ bản, có bản chất khá giống với khái niệm doanh nghiệp nước
ngoài. Chẳng hạn, theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, thương nhân
nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt Nam là thương nhân được thành lập, đăng
ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nước ngồi hoặc được pháp luật nước
ngồi cơng nhận [9, Điều 16]. Hay như trong quy định của Luật Đầu tư năm 2014,
nhà đầu tư nước ngồi là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo
pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam [12,
Khoản 14 Điều 3].

11


Doanh nghiệp, theo pháp luật Việt Nam, là thương nhân. Bởi theo Khoản 1
Điều 6 Luật Thương mại, thương nhân bao gồm “tổ chức kinh tế được thành lập
hợp pháp… hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký
kinh doanh”. Như vậy, có ba yếu tố để xác định một tổ chức là thương nhân: (i) là tổ
chức kinh tế thành lập hợp pháp (thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam);
(ii) có hoạt động thương mại độc lập và thường xuyên (hoạt động thương mại là
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi theo Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại); và (iii)
có đăng ký kinh doanh. Trong khi đó, tại Khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp, doanh
nghiệp là tổ chức “có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”. “Kinh doanh là việc thực
hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích
sinh lợi” [13, Khoản 16 Điều 4]. Như vậy, doanh nghiệp được coi là thương nhân vì
đáp ứng được tất cả các tiêu chí là một thương nhân.

Do đó, nếu dựa theo khái niệm “thương nhân nước ngồi” thì khái niệm
“doanh nghiệp nước ngồi” có thể được xác định như sau: doanh nghiệp nước ngoài
là doanh nghiệp được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nước ngồi hoặc được pháp luật nước ngồi cơng nhận. Nếu tham khảo thêm khái
niệm về “nhà đầu tư nước ngoài” theo Khoản 14 Điều 3 Luật Đầu tư thì khái niệm
“doanh nghiệp nước ngồi” được xây dựng trên đây cũng là một khái niệm phù hợp.
Như vậy, theo quan điểm của pháp luật Việt Nam, để xem xét một tổ chức
kinh tế là doanh nghiệp nước ngoài cần hai yếu tố cơ bản: (i) là doanh nghiệp; và (ii)
tổ chức này không mang quốc tịch Việt Nam. Không mang quốc tịch Việt Nam ở
đây mang nghĩa là doanh nghiệp này không được cấp phép hiện diện tại Việt Nam
[37]. Hai yếu tố này giúp phân biệt với các doanh nghiệp trong nước và các tổ chức
nước ngoài khác. Yếu tố doanh nghiệp giúp xác định rõ tư cách pháp lý của thể
nhân khi xác lập giao dịch bất kỳ; và yếu tố nước ngoài xác định rõ thể nhân này
khơng mang quốc tịch của quốc gia mà nó tham gia đầu tư, kinh doanh. Quan điểm
này của pháp luật Việt Nam cũng cho thấy sự phù hợp với quan điểm lý luận trên

12


thế giới.
Một điểm dễ nhận thấy là gần đây, phương thức ứng xử của Việt Nam đối
với các doanh nghiệp nước ngoài đã dần thay đổi. Nếu như trước đây, các doanh
nghiệp nội được Nhà nước ưu ái và tạo điều kiện thơng qua các chính sách ưu đãi và
bảo vệ hơn so với các doanh nghiệp nước ngồi, thì giờ đây, sự hội nhập quốc tế đã
buộc nước ta phải có những chính sách phù hợp để tạo sự cạnh tranh cơng bằng giữa
các doanh nghiệp nước ngồi và doanh nghiệp trong nước. Các ưu đãi về thuế đối
với doanh nghiệp nước ngoài cũng dần được hoàn thiện và áp dụng. Hành lang pháp
lý cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nước ngoài cũng
dần được hồn thiện và tương thích với các cam kết, điều ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia. Chính những sự thay đổi này đã tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng

giữa các doanh nghiệp, tạo sự an tâm cho các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư
vào Việt Nam.
Tại Việt Nam, doanh nghiệp nước ngoài được phân làm hai nhóm: nhóm
doanh nghiệp nước ngồi có hiện diện pháp nhân tại Việt Nam và nhóm khơng có
hiện diện pháp nhân tại Việt Nam. Hiện diện pháp nhân tại Việt Nam của doanh
nghiệp nước ngồi là hình thức đầu tư của doanh nghiệp nước ngồi theo các hình
thức tại Luật Đầu tư và Luật Thương mại, chẳng hạn như doanh nghiệp 100% vốn
đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập từ hoạt
động sản xuất, kinh doanh của hiện diện pháp nhân tại Việt Nam, chính hiện diện
pháp nhân này thay vì doanh nghiệp nước ngồi là người nộp thuế. Do đó, đối với
doanh nghiệp nước ngồi có hiện diện pháp nhân tại Việt Nam thì nghĩa vụ thuế của
các doanh nghiệp này đối với Nhà nước Việt Nam không phát sinh. Trong phạm vi
luận văn này, học viên chỉ phân tích việc nộp thuế của doanh nghiệp nước ngồi
khơng có hiện diện pháp nhân tại Việt Nam, hoặc doanh nghiệp nước ngồi có hiện
diện pháp nhân nhưng tự mình đầu tư, sản xuất, kinh doanh.
1.1.2. Khái quát về thu nhập phát sinh của doanh nghiệp nước ngoài
Về khái niệm thu nhập và thu nhập phát sinh trong lãnh thổ quốc gia, hiện
nay trên thế giới tồn tại nhiều quan điểm về việc xác định nội hàm những thuật ngữ

13


này. Chẳng hạn, có những quốc gia cho rằng, thu nhập hoàn toàn là giá trị vật chất
mà một người nhận được; trong khi, có quốc gia cho rằng thu nhập cịn có thể bao
gồm cả những giá trị tinh thần. Hoặc có những quốc gia quan điểm một khoản thu
nhập phát sinh từ một quốc gia không chỉ mang ý nghĩa địa lý thuần túy, mà cần xét
đến nguồn gốc của khoản thu nhập này phát sinh từ chính quốc gia đó. Dưới đây là
một số quan điểm được xây dựng xoay quanh khái niệm trên.
Theo từ điển Black’s Law, thu nhập là giá trị bằng tiền mà một người nhận
được từ việc kinh doanh, lao động, hoặc đầu tư vốn. Tuy nhiên, thu nhập cần được

phân biệt với lợi nhuận. Bởi lẽ, sau khi trừ đi các chi phí thì thu nhập mới bằng lợi
nhuận. Hay nói cách khác, thu nhập lớn hơn lợi nhuận. Ngoài ra, thu nhập, để phân
biệt với lợi nhuận, cịn có nghĩa là khoản giá trị thu được hoặc được nhận từ hoạt
động kinh doanh hoặc đầu tư vốn bất kỳ mà chưa tính đến các khoản chi tiêu bên
ngồi. Trong khi đó, lợi nhuận thông thường được hiểu là phần thu được ngay sau
khi kinh doanh hoặc đầu tư và đã tính đến các chi phí thanh tốn. Thu nhập, khi áp
dụng đối với các vấn đề của cá nhân, còn mang nghĩa tương tự với doanh thu khi áp
dụng đối với các vấn đề của một bang hoặc quốc gia [36].
Ở góc độ khác, trong một bản án quan trọng của Tòa tối cao Hoa Kỳ về
thuế thu nhập, thu nhập (income) được Tòa xác định là “bất kỳ sự tiếp cận khơng thể
phủ nhận tới sự giàu có, mà được công nhận một cách rõ ràng bởi người nộp thuế,
đối với phần mà người nộp thuế có ảnh hưởng tuyệt đối” [28]. Theo đó, có ba u
cầu để cơng nhận một giá trị vật chất là một khoản thu nhập, bao gồm:
Thứ nhất, “một sự tiếp cận tới sự giàu có”. Sự tiếp cận giàu có này khơng
nhất thiết phải được thể hiện dưới hình thức là tiền, có thể hình thành từ các hành vi
trao đổi, mua bán. Chẳng hạn, nếu một người nghệ sĩ trao đổi mười giờ làm việc
thiết kế lấy một chiếc xe đã qua sử dụng, chiếc xe là một sự tiếp cận tới sự giàu có
của người nghệ sĩ. Chiếc xe được coi là thu nhập, và giá trị của nó cho các mục đích
thuế được coi là “giá trị thị trường cơng bằng” tại thời điểm chuyển nhượng [29,
p.232]. Vấn đề cốt lõi ở đây là việc bất kỳ hạng mục nào được báo cáo là thu nhập
đều phải có một “giá trị thị trường công bằng” tại địa điểm đầu tiên để yêu cầu rằng

14


nó phải được báo cáo. Và nếu khơng có giá trị thị trường nào có thể xác định được
cho một sự làm giàu rõ ràng (ví như trải nghiệm vui vẻ về chiến thắng 1500 USD
trong trò chơi cờ tỷ phú từ một người bạn có khách sạn tại Park Place) thì khơng có
bất kỳ thu nhập nào có thể báo cáo, dẫu cho các nỗ lực của người có thu nhập (chơi
cờ tỷ phú có kỹ thuật) đã mang lại một khoản hồn trả trong vui vẻ mà có thể, mặc

dù còn tranh cãi, được coi là một sự tiếp cận tới sự giàu có.
Thứ hai, sự “cơng nhận” được xác lập trong một phạm trù hành chính, hay
nói cách khác, chính là tính hợp pháp của khoản thu nhập. Tính hợp pháp của việc
thực hiện các dịch vụ diễn ra khi dịch vụ được thanh toán dẫn tới phát sinh thu nhập.
Cịn tính hợp pháp của thu nhập từ tài sản (trong phạm vi này là bất cứ thứ gì được
sở hữu) sẽ xảy ra theo hai cách. Cách thứ nhất là thu nhập được tạo ra khi tài sản
được sở hữu (chẳng hạn như phí thuê nhà, cổ tức nhận được từ cổ phần) mà được
công nhận khi nó được thanh tốn. Cách thứ hai là thơng qua việc bán tài sản, là thu
nhập được công nhận khi tài sản được trao đổi dù bằng tiền mặt hoặc bằng tài sản
khác về chất liệu.
Thứ ba, “ảnh hưởng” xảy ra khi một người khẳng định một quyền pháp lý
để kiểm soát một loại thu nhập. Điều này được thể hiện ở chỗ, trong phạm vi bán
một hạng mục hàng hố hoặc dịch vụ, nó xảy ra khi người bán nhận được khoản
thanh toán và yêu cầu quyền pháp lý để từ bỏ khoản thanh toán này khi anh ấy hoặc
cô ấy thấy phù hợp. Một điểm đáng để lưu ý trong bối cảnh này đó là thu nhập nhận
được từ các hoạt động bất hợp pháp được coi là thu nhập dù cho các quyền của
người nộp thuế đối với khoản thu nhập này hợp lệ hay không [29, p.232].
Theo quan điểm của John R. Brooks trong tác phẩm The definition of
income, thu nhập là một khái niệm rất khó để định nghĩa. Theo ơng, mỗi thu nhập
cho các mục đích khác nhau sẽ có một định nghĩa khác nhau. Chẳng hạn như định
nghĩa thu nhập cho mục đích thuế, chuyển nhượng, đo lường sản phẩm quốc gia, đo
lường nguồn lực nội địa, đo lường chỉ số hạnh phúc cá nhân, trợ cấp chăm sóc sức
khỏe, các gói trợ cấp và cho vay tài chính cho sinh viên... sẽ rất khác nhau. Trong
báo cáo nghiên cứu của mình, John R. Brooks cũng đưa ra rất nhiều các quan điểm

15


của các nhà nghiên cứu khác nhau về thu nhập, chẳng hạn như:
Trong nghiên cứu của Mirrlees (1971), nhà hoạch định xã hội thường được

miêu tả là muốn đánh thuế khả năng để kiếm thu nhập hơn là chính thu nhập đó, từ
đó sẽ tránh được sự suy diễn từ những người nộp thuế thay thế lao động (labor)
bằng giải trí (leisure). Tuy nhiên, nhà hoạch định xã hội chỉ có thể giám sát và đánh
thuế trên thu nhập thực tế, sự bất đối xứng về thông tin xảy ra có thể dẫn tới sự suy
diễn về lao động (labor) hoặc giải trí (leisure) và mất mát [33, p.6].
Trong nghiên cứu của Kleinwachter (1898), ông bắt đầu bằng một logic
đơn giản cho câu hỏi tại sao “thu nhập” phải bao gồm các thu nhập cố định hoặc thu
nhập tinh thần. Ông bắt đầu bằng việc nói rằng thu nhập đơn giản khơng thể chỉ là
thu nhập tiền mặt, vì một người có thể giàu lên nhờ hàng hóa và các tài sản và lợi
ích khơng phải tiền mặt khác, như là phòng và tàu cho một người phụ việc gia đình.
Và, nếu như vậy, thì “thu nhập” phải bao gồm cả những thứ vơ hình, như quyền tài
sản hoặc quyền hợp đồng. Và nếu những hàng hóa và các quyền này nhận được bên
ngồi có thể là thu nhập, thì các hàng hóa và các quyền được sản xuất trong một gia
đình, như một người nơng dân tự sản xuất thức ăn cũng vậy [33, p.8].
Tại Việt Nam, khái niệm về thu nhập phát sinh tại Việt Nam của doanh
nghiệp nước ngoài được quy định cụ thể trong văn bản pháp luật. Tuy nhiên, khác
với lý luận của một số quốc gia nêu trên, khái niệm về thu nhập tại Việt Nam chưa
được phân tích và xây dựng rõ ràng.
Theo Khoản 3 Điều 7 Thông tư 103/2014/TT-BTC ngày 06 tháng 8 năm
2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn nghĩa vụ thuế áp dụng đối với tổ chức, cá nhân
nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam thì thu nhập
phát sinh tại Việt Nam là các khoản thu nhập nhận được dưới bất kỳ hình thức nào
trên cơ sở hợp đồng nhà thầu, hợp đồng nhà thầu phụ mà không phụ thuộc vào địa
điểm tiến hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nước ngoài. Khái niệm này
có thể được phân tích theo một số khía cạnh như sau:

16


Một là, thế nào là “thu nhập”. Lý luận trong nước không hề đề cập đến định

nghĩa “thu nhập”. Thực tế, trong nền kinh tế thị trường, các khoản thu nhập của tổ
chức, cá nhân rất đa dạng, dưới những góc độ khác nhau người ta có thể gọi tên
được những khoản thu nhập khác biệt. Vì vậy, khó có thể đưa ra định nghĩa tổng
quát về thu nhập. Thông thường các nhà nghiên cứu kinh tế, pháp lý chỉ liệt kê các
khoản thu nhập mà tổ chức, cá nhân có thể có được.
Thu nhập, về cơ bản, có thể được hiểu là giá trị vật chất thường được thể
hiện bằng tiền hoặc tài sản trả cho người nhận đổi lại cho việc thực hiện một công
việc, dịch vụ hoặc hoạt động trong một khoảng thời gian nhất định [23]. Mặc dù,
đây là một khái niệm khơng chính thức nhưng đã phần nào thể hiện được bản chất
của thu nhập chính là phần giá trị vật chất nhận được thơng qua việc thực hiện một
hoạt động nào đó. Giá trị vật chất ở đây không nhất thiết phải là tiền, mà còn thể là
các tài sản khác như vật, quyền tài sản quy đổi được giá trị.
Về các loại thu nhập, nếu dựa theo yếu tố thời gian, thu nhập bao gồm thu
nhập thường xuyên và thu nhập không thường xun. Hoặc nếu dựa theo tính chất
cơng việc, dịch vụ hoặc hoạt động làm phát sinh thu nhập thì có thể chia thành các
loại thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, thu nhập từ lao động, thu nhập từ
tài sản, tiền vốn; thu nhập từ thừa kế, biếu, tặng, cho; thu nhập từ bản quyền, nhuận
bút; thu nhập từ chuyển giao công nghệ, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, nhãn hiệu hàng
hóa; thu nhập do được bồi thường; thu nhập do trúng xổ số, khuyến mại; thu nhập
do xã hội dành cho như học bổng, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp cho các đối tượng
chính sách, ưu đãi xã hội và các khoản thu nhập khác...
Ngoài ra, thu nhập cũng có thể được chia thành thu nhập thực tế đã phát
sinh và thu nhập tiềm năng; thu nhập có tính phổ biến và thu nhập khơng có tính
phổ biến; thu nhập mà nhà nước có thể kiểm sốt và thu nhập mà nhà nước chưa thể
kiểm soát; thu nhập của tổ chức và thu nhập cá nhân; thu nhập trong nước (thu nhập
phát sinh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia) và thu nhập ở nước ngoài (thu nhập
ngoài phạm vi lãnh thổ)... Trong số những cách phân loại trên, cách phân chia thu
nhập từ các hoạt động phát sinh thu nhập được áp dụng phổ biến hơn. Các nhà làm

17



luật cũng thường xây dựng chế độ thuế dựa trên các loại thu nhập phát sinh như chế
độ thuế đối với thu nhập từ kinh doanh; chế độ thuế đối với tiền lương, tiền công;
chế độ thuế đối với thu nhập từ bản quyền…
Tuy nhiên, một điểm lưu ý ở đây, là khi Nhà nước đánh thuế đối với những
khoản thu nhập, Nhà nước sẽ không đánh với tất cả các khoản thu nhập mà tổ chức,
cá nhân có được, mà chỉ đánh với một số khoản thu nhập. Dưới góc độ pháp luật
thuế, những khoản thu nhập Nhà nước đánh thuế được gọi là thu nhập chịu thuế.
Thông thường các khoản thu nhập chịu thuế phải là những khoản thu nhập hợp
pháp, đã thực tế phát sinh, có tính phổ biến và Nhà nước phải kiểm soát được [14,
tr.178].
Hai là, cơ sở phát sinh thu nhập là dựa trên hợp đồng nhà thầu, nhà thầu
phụ. Hợp đồng nhà thầu là hợp đồng, thỏa thuận hoặc cam kết giữa Nhà thầu nước
ngồi và Bên Việt Nam. Cịn hợp đồng nhà thầu phụ là hợp đồng, thỏa thuận hoặc
cam kết giữa Nhà thầu phụ và Nhà thầu nước ngoài.
Nhà thầu nước ngoài ở đây là các tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài kinh
doanh hoặc tạo ra thu nhập phát sinh tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng hoặc thỏa
thuận giữa họ với bên Việt Nam. Bên Việt Nam bao gồm tổ chức được đăng ký để
kinh doanh tại Việt Nam. Nhà thầu phụ nước ngồi có thể là tổ chức hoặc cá nhân
nước ngoài mà cung cấp các dịch vụ cho nhà thầu nước ngoài hoặc thực hiện một
phần cơng việc thay cho nhà thầu nước ngồi.
Một lưu ý là đầu tư sản xuất, kinh doanh của nhà thầu nước ngồi khác với
các hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp của tổ chức nước ngoài tại Việt
Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay
cơng ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh…
Cá nhân hay công ty nước ngồi đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh
này. Còn đầu tư gián tiếp nước ngồi (FII) là hình thức đầu tư vốn của cá nhân hay
công ty nước này vào nước khác mà nhà đầu tư không trực tiếp điều hành cơ sở sản
xuất kinh doanh, thường là qua thị trường tài chính như thị trường trái phiếu, thị

trường chứng khốn. Cịn nhà thầu nước ngoài chỉ hoạt động theo các hợp đồng đã

18


ký với bên ký hợp đồng của nước sở tại. Sau khi kết thúc hợp đồng, hoạt động của
nhà thầu nước ngoài cũng chấm dứt.
Ba là, khoản thu nhập này không phụ thuộc vào địa điểm tiến hành hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp nước ngoài. Chỉ cần khoản thu nhập này có
nguồn gốc hợp pháp từ Việt Nam, hay nói cách khác, là phát sinh hợp pháp tại Việt
Nam, thì đều là thu nhập chịu thuế. Cũng cần lưu ý thêm, thu nhập được xem là phát
sinh tại Việt Nam khi nó có nguồn gốc từ hoạt động kinh doanh được thực hiện tại
Việt Nam không phân biệt nơi thực tế chi trả thu nhập. Bởi lẽ, thực tế cho thấy
nhiều khoản thu nhập được thanh tốn ngồi lãnh thổ Việt Nam nhưng có liên quan
hoặc phát sinh từ hoạt động kinh doanh của tổ chức tại Việt Nam. Hay nói cách
khác, nhờ có hoạt động kinh doanh tại Việt Nam mà doanh nghiệp nước ngoài mới
nhận được khoản thu nhập, nên họ phải nộp thuế đối với khoản thu nhập đó cho Nhà
nước Việt Nam. Ngồi ra, biên giới quốc gia dùng để xác định nơi khoản thu nhập
phát sinh là biên giới hành chính lãnh thổ.
1.1.3. Khái niệm, vai trò của thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập
phát sinh tại Việt Nam
1.1.3.1. Khái niệm thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập phát sinh tại
Việt Nam
Sự ra đời và phát triển của thuế là một tất yếu khách quan của lịch sử, gắn
liền với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước và pháp luật. Sự xuất hiện Nhà nước đòi
hỏi cần phải có của cải vật chất cần thiết chi cho hoạt động thường xuyên của bộ
máy Nhà nước nhằm bảo đảm cho Nhà nước tồn tại, duy trì quyền lực và thực hiện
chức năng quản lý xã hội của mình. Lúc này, để duy trì sự tồn tại, cần thiết Nhà
nước phải có những nguồn tài chính để chi tiêu, do đó, thuế ra đời.
Mặt khác, do ảnh hưởng của tồn cầu hố, nền kinh tế thế giới hiện nay

đang chuyển thành một hệ thống liên kết ngày càng chặt chẽ, sự chuyển dịch hàng
hoá, dịch vụ và các nguồn vốn đầu tư giữa các nước ngày càng gia tăng. Không chỉ
thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp ở quốc gia khác, các chủ thể kinh

19


doanh cịn tìm kiếm nguồn lợi nhuận từ việc thực hiện hoạt động kinh doanh thường
xuyên hoặc không thường xuyên ở quốc gia khác. Điều này đặt ra việc các quốc gia
thực hiện quá trình quản lý các hoạt động kinh doanh của những chủ thể nước ngoài
bằng cách đưa ra các quy định về thuế đối với các chủ thể này khi đến nước mình
kinh doanh. Một mặt, việc đánh thuế sẽ đem lại nguồn thu ngân sách cho quốc gia
đó, mặt khác sẽ đảm bảo cạnh tranh cơng bằng giữa các doanh nghiệp nước ngoài và
doanh nghiệp trong nước. Đây cũng là việc thực hiện quyền đánh thuế theo yếu tố
lãnh thổ: trong phạm vi chủ quyền của mình, mỗi quốc gia sẽ có quyền đánh thuế
đối với các sự kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ thuế xảy ra trên lãnh thổ đó, ví
dụ như sự kiện phát sinh thu nhập, sự kiện toạ lạc tài sản hay chuyển dịch tài sản,
việc tiến hành các hoạt động kinh doanh thương mại… Thuế đối với những doanh
nghiệp nước ngồi có thu nhập phát sinh tại quốc gia khác thường được gọi là thuế
đối với nhà thầu nước ngoài.
Trong pháp luật thuế của các quốc gia, thuế nhà thầu nước ngoài thường
được gọi là Foreign Contractor Tax (FCT), Foreign Contractor Withholding Tax
(FCWT). Loại thuế này cịn có tên khác là thuế khấu trừ tại nguồn (withholding
tax), do cách thu chủ yếu là được bên ký hợp đồng khấu trừ tiền thuế phải nộp của
nhà thầu nước ngoài trước khi trả tiền cho nhà thầu. Từ điển Oxford đưa ra định
nghĩa về thuế nhà thầu nước ngoài như sau: “Thuế nhà thầu nước ngoài là loại thuế
được khấu trừ tại nguồn, do các quốc gia đánh trên tiền lãi vay hoặc cổ tức của
người cư trú bên ngoài nước đó” [32]. Thơng thường, các quốc gia khơng có định
nghĩa riêng về thuế đối với nhà thầu nước ngoài, mà quy định chung trong pháp luật
về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuộc phần khấu trừ tại nguồn. Chẳng hạn, Luật

Thuế của Malaysia định nghĩa thuế nhà thầu nước ngoài là một khoản tiền được bên
chi trả khấu trừ lại đối với thu nhập của người được trả tiền không cư trú và nộp cho
Cục thu nội địa Malaysia. Bên trả tiền là cá nhân/tổ chức hoạt động kinh doanh tại
Malaysia. Bên trả tiền phải giữ lại thuế nhà thầu nước ngoài đối với các khoản chi
trả cho dịch vụ, tư vấn kỹ thuật, tiền thuê hoặc các khoản chi trả khác thực hiện dưới
bất kỳ hình thức thoả thuận nào đối với việc sử dụng bất kỳ động sản nào trả cho

20


người nhận tiền không cư trú. Người nhận tiền là cá nhân/tổ chức không cư trú tại
Malaysia nhận các khoản chi trả trên [35, Section 4A, paragraph 6(1)(e), section
15A, subsection 24 (8), paragraph 39(1)(j), section 109B, section 109H]. Hoặc theo
Luật Quản lý thuế của Australia năm 2004, thuế nhà thầu là loại thuế đánh vào các
khoản chi trả cho các tổ chức nước ngoài thường trú tại nước này được hình thành
từ các hợp đồng thầu xây dựng [27].
Ở Việt Nam, mặc dù pháp luật có quy định về thuế nhà thầu - thuế áp dụng
đối với tổ chức, cá nhân nước ngồi kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại
Việt Nam, nhưng pháp luật không đưa ra định nghĩa về loại thuế này. Dựa theo đối
tượng áp dụng và phạm vi áp dụng, có thể hiểu, thuế nhà thầu là loại thuế đánh đối
với các khoản thu nhập phát sinh từ cung ứng dịch vụ hoặc dịch vụ gắn với hàng
hoá tại Việt Nam của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Thuế nhà thầu bao gồm
nhiều loại thuế khác nhau. Tổ chức nước ngoài sẽ thực hiện nghĩa vụ thuế giá trị gia
tăng nếu kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng;
thực hiện nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp khi có thu nhập chịu thuế phát sinh.
Cá nhân nước ngoài sẽ thực hiện nghĩa vụ thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá
nhân.
Như vậy, một cách khái quát, có thể hiểu, thuế đối với doanh nghiệp nước
ngồi có thu nhập phát sinh tại Việt Nam là thuế thu nhập doanh nghiệp đánh đối
với các khoản thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp phát sinh trên lãnh thổ

Việt Nam của doanh nghiệp nước ngồi, hình thành trên cơ sở hợp đồng, thoả thuận
hoặc cam kết giữa doanh nghiệp nước ngoài với tổ chức, cá nhân Việt Nam để thực
hiện một phần công việc của hợp đồng, thoả thuận hoặc cam kết.
1.1.3.2. Đặc điểm của thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập phát sinh
tại Việt Nam
Thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập phát sinh tại Việt Nam
có một số đặc điểm cơ bản như:
Thứ nhất, về phạm vi, thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập
phát sinh tại Việt Nam được đánh trên các khoản thu nhập chịu thuế thu nhập doanh

21


nghiệp phát sinh từ hoạt động cung cấp, phân phối hàng hoá, cung cấp dịch vụ, dịch
vụ gắn với hàng hoá tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng nhà thầu, hợp đồng nhà thầu
phụ. Hay nói cách khác, hợp đồng nhà thầu, hợp đồng nhà thầu phụ được ký kết
giữa doanh nghiệp nước ngoài và tổ chức, cá nhân Việt Nam là căn cứ quan trọng để
xác định nghĩa vụ thuế đối với doanh nghiệp nước ngoài, xác định tư cách người
nộp thuế đối với bên tổ chức, cá nhân Việt Nam, từ đó xác định các nội dung pháp
luật điều chỉnh đối với việc thực hiện các nghĩa vụ này.
Thứ hai, về cách thức thu thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu
nhập phát sinh tại Việt Nam, thuế được thu chủ yếu tại bên ký hợp đồng của Việt
Nam. Đặc điểm này xuất phát từ việc hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài ở
Việt Nam là ngắn hạn, có thể khơng hiện diện tại Việt Nam. Cách thu này sẽ giúp
đơn giản hoá thủ tục hành chính thuế, hiệu quả, tiết kiệm chi phí thu thuế. Tuy
nhiên, cách thu này cũng có nhược điểm là ràng buộc nghĩa vụ kê khai và nộp thuế
của chủ thể nộp thuế - các doanh nghiệp nước ngoài - sang bên ký hợp đồng. Các
chế tài về thuế như phạt vi phạm kê khai, khai sai, khai thiếu, nộp chậm tờ khai
thuế… sẽ được chuyển qua bên ký hợp đồng.
Thứ ba, thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập phát sinh tại

Việt Nam có mối quan hệ gắn bó với các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, thể hiện
ở chỗ:
Một là, về nghĩa vụ nộp thuế. Trong các quy định về thuế đối với doanh
nghiệp nước ngồi có thu nhập phát sinh đều khẳng định việc áp dụng Hiệp định
tránh đánh thuế hai lần đối với hoạt động của doanh nghiệp. Trường hợp doanh
nghiệp nước ngoài hoạt động tại nước ký kết hợp đồng hình thành một cơ sở thường
trú theo định nghĩa tại từng Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (Permanent
Establishment - PE), các doanh nghiệp nước ngoài sẽ nộp thuế như các doanh
nghiệp trong nước. Ngược lại, các doanh nghiệp nước ngồi có thể chỉ phải nộp thuế
tại nước đăng ký kinh doanh mà không phải nộp thuế tại nước ký hợp đồng.
Hai là, về loại thuế áp dụng. Thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh
nghiệp nước ngồi cũng chính là loại thuế được các Hiệp định tránh đánh thuế hai

22


lần quan tâm. Các loại thu nhập được kể ra như thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh
doanh, thu nhập từ vận tải quốc tế, thu nhập từ tiền lãi cổ phần, thu nhập từ tiền cho
vay, từ bản quyền…
Ba là, về thứ tự áp dụng các quy định thuế. Trường hợp có sự khác nhau
giữa các quy định của Hiệp định và quy định của pháp luật thuế trong nước, nghĩa
vụ thuế đối với doanh nghiệp nước ngoài phát sinh thu nhập sẽ được áp dụng theo
các quy định của Hiệp định.
1.1.3.3. Vai trò của thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập phát sinh tại
Việt Nam
Việc đánh thuế trên thu nhập phát sinh tại Việt Nam của doanh nghiệp nước
ngồi đem lại nhiều vai trị, ý nghĩa tích cực đối với nền kinh tế trong nước, cụ thể:
Thứ nhất, việc đánh thuế trên thu nhập của doanh nghiệp nước ngoài phát
sinh tại Việt Nam đem lại nguồn thu chính đáng cho ngân sách Nhà nước Việt Nam.
Trong bối cảnh ngày càng có nhiều doanh nghiệp nước ngồi tham gia sản xuất,

kinh doanh, thậm chí bỏ vốn đầu tư trực tiếp tại Việt Nam và thu được khoản lợi
nhuận khổng lồ từ việc này, các khoản thuế thu được sẽ đóng góp rất lớn vào ngân
sách nhà nước.
Thứ hai, giống như các loại thuế khác, việc đánh thuế các doanh nghiệp
nước ngoài cũng là một cách để Nhà nước Việt Nam điều tiết, định hướng các loại
hình đầu tư, sản xuất, kinh doanh trong xã hội. Thông qua các cơ chế về thuế suất,
ưu đãi thuế, hồn thuế, cách tính thuế… mà Nhà nước có thể hạn chế hoặc mở rộng
phạm vi hoạt động kinh doanh, tạo thu nhập của các doanh nghiệp nước ngoài. Bên
cạnh đó, đánh thuế trên thu nhập có nguồn gốc từ Việt Nam của các doanh nghiệp
nước ngoài đem lại sự cơng bằng giữa doanh nghiệp nước ngồi và doanh nghiệp
trong nước, đồng thời tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng trong nền kinh tế nói chung.
Thứ ba, việc đánh thuế trên thu nhập phát sinh tại Việt Nam sẽ giúp Nhà
nước Việt Nam tự nâng cao năng lực quản lý của mình. Xuất phát từ các hình thức
đầu tư, sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nước ngồi ln phong phú và
hiện đại, cơ quan thuế có thể từ thực tiễn hoạt động thu thuế mà rút ra được những

23


kinh nghiệm, bài học về quản lý thuế, đồng thời kịp thời đổi mới, cải tiến nghiệp vụ
để theo kịp xu thế chung của thế giới.
Thứ tư, việc đánh thuế các khoản thu nhập phát sinh từ Việt Nam của các
doanh nghiệp nước ngồi là để đảm bảo sự bình đẳng trong kinh doanh giữa các
doanh nghiệp nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước. Bởi lẽ, khi doanh nghiệp
trong nước trực tiếp bỏ vốn đầu tư, sản xuất, kinh doanh và thu được lợi nhuận, họ
đều phải nộp thuế trên khoản lợi nhuận đó. Vì thế mà khơng có lí do nào doanh
nghiệp nước ngồi lại khơng phải chịu thuế đối với khoản thu nhập mà họ nhận
được từ Việt Nam.
Bên cạnh đó, việc đánh thuế này cũng đem lại một số tác động tiêu cực.
Chẳng hạn như đánh thuế trên thu nhập sẽ làm hạn chế các nguồn lực tài chính nước

ngồi đầu tư vào Việt Nam. Các doanh nghiệp nước ngồi khi xem xét cung ứng
hàng hóa, dịch vụ tại thị trường Việt Nam hoặc sở hữu các khoản thu nhập tại Việt
Nam nếu thấy khoản thuế phải nộp quá cao, hoặc cơ chế nộp thiếu hợp lý, minh
bạch, sẽ không muốn đầu tư vào Việt Nam. Hoặc nếu có thì họ cũng sẽ tìm cách
lách thuế thông qua các hoạt động giả mạo, chuyển giá, gây khó khăn cho việc thu
thuế vào ngân sách nhà nước.
1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về chế độ thuế đối với doanh nghiệp nước
ngồi có thu nhập phát sinh tại Việt Nam
1.2.1. Khái niệm chế độ thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập phát
sinh tại Việt Nam
Sự ra đời và tồn tại của thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập
phát sinh tại Việt Nam là điều tất yếu trong quá trình tồn cầu hố ngày một sâu
rộng. Để bảo đảm sự cơng bằng giữa doanh nghiệp nước ngồi và doanh nghiệp
trong nước, góp phần quản lý hoạt động của doanh nghiệp nước ngoài và tăng thu
cho ngân sách nhà nước, trong những chừng mực nhất định, pháp luật của các quốc
gia, trong đó có Việt Nam ln tìm kiếm cách quản lý thu thuế một cách hữu hiệu
nhất đối với nhóm chủ thể này. Do đó, việc nghiên cứu, đánh giá các quy định pháp

24


luật về nội dung này là điều cần thiết và khơng thể thiếu trong tiến trình xây dựng và
hồn thiện chính sách thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập phát sinh
tại Việt Nam.
Dưới góc độ pháp luật, chế độ được hiểu là hệ thống các quy định của pháp
luật cần phải được tuân thủ trong một quan hệ xã hội nhất định nhằm đạt được
những mục đích nhất định [24]. Bao giờ cũng vậy, pháp luật được xây dựng phải
hướng tới, phải tác động tới một nhóm quan hệ xã hội đặc trưng của nội dung pháp
luật ấy. Từ đó, có thể hiểu, chế độ thuế là tổng hợp các quy phạm do Nhà nước ban
hành hoặc tham gia ký kết (các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương…)

nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa người nộp thuế với Nhà nước
trong những lĩnh vực thuế cụ thể [15].
Tương tự như vậy, chế độ thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu
nhập phát sinh tại Việt Nam là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành hoặc tham gia, ký kết nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa
doanh nghiệp nước ngồi khi có thu nhập tại Việt Nam với Nhà nước Việt Nam.
Đồng thời, các quy phạm pháp luật này sẽ xác định rõ các quyền và nghĩa vụ của
doanh nghiệp nước ngoài đối với Nhà nước Việt Nam khi có thu nhập chịu thuế
phát sinh tại Việt Nam từ các hợp đồng ký kết với tổ chức, cá nhân Việt Nam.
Chế độ thuế đối với doanh nghiệp nước ngồi có thu nhập phát sinh tại Việt
Nam có một số điểm lưu ý như sau:
Thứ nhất, về đối tượng chịu thuế. Về bản chất, chế độ thuế đối với doanh
nghiệp nước ngồi có thu nhập phát sinh tại Việt Nam được thể hiện thông qua các
quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp. Do đó, đối tượng chịu thuế ở
đây bao gồm những khoản thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp và vì thế, nó
có điểm giống với chế độ thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp
trong nước. Tuy nhiên, do tính chất đặc trưng của chủ thể có được khoản thu nhập
mang tư cách là doanh nghiệp nước ngồi, do đó việc xác định thu nhập chịu thuế
phát sinh để thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước Việt Nam cũng sẽ có những
điểm khác biệt riêng.

25


×