Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập quốc tế tại xã xuân lộc, huyện thanh thủy, tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.83 KB, 28 trang )

TRƯỜNG
KHOA

LOGO

TIỂU LUẬN
MÔN: TR
Đề tài:
Phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa –
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế tại xã Xuân Lộc, huyện Thanh Thủy, tỉnh
Phú Thọ
Họ và tên :
Lớp :
Khoá học :


HÀ NỘI - 2023


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................................1
NỘI DUNG......................................................................................................................................2
CHƯƠNG I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO TRONG THỜI KỲ CƠNG NGHIỆP HĨA – HIỆN ĐẠI HĨA VÀ HỘI NHẬP
QUỐC TẾ........................................................................................................................................2
1.1. Quan điểm coi giáo dục là quốc sách hàng đầu của Đảng........................................................2
1.2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác giáo dục đào tạo trong văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XIII.............................................................................................................................8
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRONG THỜI KỲ
CƠNG NGHIỆP HĨA – HIỆN ĐẠI HĨA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TẠI XÃ XUÂN LỘC,
HUYỆN THANH THỦY, TỈNH PHÚ THỌ................................................................................16


2.1. Một số kết quả đạt được.........................................................................................................16
2.2. Một số hạn chế........................................................................................................................16
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHUYẾN NGHỊ................................................................18
KẾT LUẬN...................................................................................................................................20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................21


MỞ ĐẦU
Sau thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khai sinh ra nền giáo dục mới tiến bộ. Người kêu gọi toàn dân ra sức thực
hiện đồng thời ba nhiệm vụ trọng đại và cấp bách là "Diệt giặc đói, diệt giặc dốt và
diệt giặc ngoại xâm". Ngay từ thời kỳ đầu của cuộc cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xác định mục tiêu trước mắt là đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu.
Người nói: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu", vì vậy nhiệm vụ đầu tiên đề ra
cho cách mạng Việt Nam là mở chiến dịch xố nạn mù chữ cho tồn dân. Tư tưởng
về giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành cơ sở tư tưởng và lý luận cho
các cuộc cải cách giáo dục đã và đang tiến hành ở nước ta, xây dựng nhà trường xã
hội chủ nghĩ a với phương châm giáo dục "Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp
với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội".
Trong những nǎm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có những định hướng đúng
đắn về sự nghiệp giáo dục và đã giành được những thắng lợi to lớn đưa nền giáo
dục nước nhà vươn lên tầm cao mới, góp phần tích cực đưa đất nước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Trong bối cảnh thế giới liên tục phát triển về kinh tế và công nghệ,
giáo dục và đào tạo trở thành một phần khơng thể thiếu trong q trình hội nhập
quốc tế. Xã Xuân Lộc, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ cũng khơng nằm ngồi xu
hướng này. Với thực tiễn cơng tác tại xã Xuân Lộc, đang còn một số vấn đề cần
bàn đến để có những giải pháp đề xuất cụ thể. Cho nên, tôi xin lựa chọn đề tài:
“Phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế tại xã Xuân Lộc, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ” làm đề tài
nghiên cứu kết thúc mơn học của mình.


1


2


NỘI DUNG
CHƯƠNG I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM PHÁT
TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CƠNG
NGHIỆP HĨA – HIỆN ĐẠI HĨA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1. Quan điểm coi giáo dục là quốc sách hàng đầu của Đảng
Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia khác trên thế giới đều coi
giáo dục là quốc sách hàng đầu, cho nên ở Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ hai
khóa VIII (tháng 12 năm 1996), Đảng ta đã khẳng định: “Thực sự coi giáo dục đào tạo, là quốc sách hàng đầu”. Mặc dù kinh tế đất nước cịn nhiều khó khăn,
song chúng ta vẫn quyết tâm thực hiện tốt quan điểm chỉ đạo trên. Giáo dục Việt
Nam những năm gần đây đã có sự khởi sắc nhất định. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn
chế, cần tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, để xã
hội hóa giáo dục, làm cho giáo dục trở thành “ quốc sách hàng đầu” một cách đúng
nghĩa và toàn vẹn nhất.
Trong thời đại hiện nay, khi khoa học và công nghệ đang phát triển như vũ
bão, tri thức đã trở thành thước đo sự phát triển và dự báo tương lai cho mỗi quốc
gia. Đối với một dân tộc có truyền thống hiếu học như Việt Nam thì đây vừa là cơ
hội giúp chúng ta nâng cao vị thế quốc gia, lại vừa là thách thức lớn đối với vận
mệnh tồn dân tộc.
Với tầm nhìn chiến lược sắc bén, ngay từ Hội nghị Trung ương Đảng lần
thứ hai khóa VIII (tháng 12 năm 1996), Đảng ta đã khẳng định: “Thực sự coi giáo
dục - đào tạo, là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục - đào tạo cùng
với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tǎng trưởng kinh tế và phát triển
xã hội, đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư phát triển. Thực hiện các chính

3


sách ưu tiên ưu đãi đối với giáo dục - đào tạo, đặc biệt là chính sách đầu tư và
chính sách tiền lương. Có các giải pháp mạnh mẽ để phát triển giáo dục” 1. Đầu tư
cho giáo dục là đầu tư phát triển, giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà
nước và của toàn dân, mục tiêu của giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội
và củng cố quốc phòng - an ninh.
Quốc sách hàng đầu: Là những chính sách trọng tâm có vai trị chính yếu
của đất nước, luôn dành được sự ưu tiên hàng đầu, quan tâm đặc biệt của Đảng,
của nhà nước, được thể hiện qua một loạt các chính sách, các biện pháp, phạm vi
thực hiện và nguồn ngân sách chi cho chính sách đó.
Khơng chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia khác trên thế giới đều coi
giáo dục là quốc sách hàng đầu, bởi vì:
- Giáo dục đào tạo là điều kiện tiên quyết góp phần phát triển kinh tế.
Như chúng ta đã biết, để tăng trưởng kinh tế, chúng ta cần 5 yếu tố cơ bản
đó là: Vốn, khoa học và công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và
quản lý nhà nước. Trong đó yếu tố con người là quan trọng nhất. Để phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của quá trình tăng trưởng kinh tế, ta phải
phát triển giáo dục và đào tạo.
- Giáo dục đào tạo góp phần ổn định chính trị xã hội.

1

Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về định hướng chiến lược phát triển
giáo dục - đào tạo trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000, webside:
dangcongsan.vn.

4



- Giáo dục đào tạo góp phần nâng cao chỉ số phát triển con người.
Chỉ số phát triển con người (Human Development Index- HDI) là một trong
những chỉ tiêu kinh tế- xã hội tổng hợp, là thước đo trình độ phát triển của một
quốc gia, được dùng làm căn cứ để đánh giá, so sánh trình độ phát triển với các
quốc gia khác.
HDI được đánh giá qua 3 tiêu chí: Sức khỏe (đo bằng tuổi thọ trung bình);
giáo dục (đo bằng tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các cấp giáo dục) và
thu nhập (mức sống đo bằng GDP bình quân đầu người).
Trong ba chỉ số thành phần của HDI, chỉ số giáo dục phản ánh năng lực phát
triển con người về mặt trí lực, nền tảng để con người có khả năng tiếp cận được cơ
hội việc làm có thu nhập tốt hơn, từ đó có thể thoả mãn những nhu cầu cơ bản của
con người. Như vậy rõ ràng, giáo dục là chỉ số cơ bản và tiên quyết giúp con người
đạt được các chỉ số còn lại, tiến tới nâng cao chỉ số phát triển con người
Từ 3 lý do đó, ta thấy rõ ràng tầm ảnh hưởng trực tiếp của giáo dục tới kinh
tế và chính trị- 2 lĩnh vực trọng tâm và then chốt của quá trình phát triển đất nước
trong giai đoạn hiện nay. Từ đó càng khẳng định sự đúng đắn trong quan điểm chỉ
đạo của Đảng ta.
Quan điểm chỉ đạo: “giáo dục là quốc sách hàng đầu” của Đảng ta được thể
hiện qua hai nội dung cơ bản, một là chính sách về giáo dục qua các kì Đại hội và
hai là nguồn chi ngân sách nhà nước cho giáo dục.

5


Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã ln khẳng định
giáo dục và đào tạo đóng vai trị then chốt, là những chính sách trọng tâm, có vai
trị chính yếu của Nhà nước, được ưu tiên trước nhất, thậm chí đi trước một bước
so với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội khác. Ngay từ khi mới thành lập,

Đảng ta đã có nhiều quan điểm chỉ đạo về phát triển giáo dục và đào tạo. Ngày
3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh
đã trình bày với các Bộ trưởng 6 nhiệm vụ cấp bách của đất nước lúc bấy giờ,
trong đó có nhiệm vụ về giáo dục: Diệt giặc dốt.
Nghị Quyết Trung ương Đảng lần thứ 3, khoá VII năm 1993 khẳng định:
“Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho
giáo dục là đầu tư cho phát triển”.
Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 2, khoá VIII, năm 1996 khẳng định:
“Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”.
Quan điểm này tiếp tục được khẳng định thông qua các chủ trương phát triển
và giải pháp cải thiện giáo dục trong các văn kiện của Đảng Công sản Việt Nam
sau này.
Tại đại hội Đảng lần VIII, Đảng ta đưa ra mục tiêu: “Nâng cao mặt bằng dân
trí, bảo đảm những tri thức cần thiết để mọi người gia nhập cuộc sống xã hội và
kinh tế theo kịp tiến trình đổi mới và phát triển đất nước. Đào tạo bồi dưỡng và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố... Phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, chú trọng các lĩnh
vực khoa học và cơng nghệ, văn hố - nghệ thuật, quản lý kinh tế, xã hội và quản
trị sản xuất kinh doanh”
6


Để đạt được mục tiêu đề ra, về cơ bản, chúng ta cần thực hiện:
Thanh toán nạn mù chữ cho những người lao động ở độ tuổi 15 - 35 và thu
hẹp diện mù chữ ở các độ tuổi khác. Tích cực xố mù chữ cho nhân dân ở vùng
cao, vùng sâu, vùng xa và những vùng cịn khó khăn.
Mở rộng và nâng cao chất lượng dạy ngoại ngữ, tin học từ cấp phổ thông.
Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, trang bị đủ kiến thức cần thiết đi
đôi với tạo ra năng lực tự học, sáng tạo của học sinh, khắc phục tình trạng phải dạy
thêm q nhiều ngồi giờ học chính khố.

Cụ thể hố và thể chế hố chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về
xã hội hoá sự nghiệp giáo dục đào tạo, trước hết là về đầu tư phát triển và bảo đảm
kinh phí hoạt động. Ngồi việc ngân sách dành một tỷ lệ thích đáng cho sự nghiệp
phát triển giáo dục đào tạo, cần thu hút thêm các nguồn đầu tư từ các cộng đồng,
các thành phần kinh tế, các giới kinh doanh trong và ngồi nước đi đơi với việc sử
dụng có hiệu quả nguồn đầu tư cho giáo dục đào tạo. Những doanh nghiệp sử dụng
người lao động được đào tạo có nghĩa vụ đóng góp vào ngân sách giáo dục, đào
tạo. Đổi mới chế độ học phí phù hợp với sự phân tầng thu nhập trong xã hội, loại
bỏ những đóng góp khơng hợp lý, nhằm bảo đảm tốt hơn kinh phí giáo dục, đồng
thời cải thiện điều kiện học tập cho học sinh nghèo.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan
điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” thông qua 1 loạt các chủ trương cụ thể như:
Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên các cấp.

7


Xây dựng hoàn chỉnh, phát triển các trường đại học và cao đẳng theo mạng
lưới hợp lý để hình thành một số trường đại học có chất lượng đào tạo ngang tầm
với những trường đại học có chất lượng cao trong khu vực.
Số học sinh tuyển mới vào đại học và cao đẳng tăng 5%/năm. Đặc biệt chú
trọng đào tạo chất lượng cao một số ngành công nghệ, kinh tế và quản lý nhà nước
để đáp ứng nhu cầu nhân lực và nhân tài của đất nước.
Tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy và phương
thức đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng cao, đặc biệt là trong các ngành kinh
tế, kỹ thuật mũi nhọn, cơng nghệ cao. Gắn việc hình thành các khu công nghiệp,
khu công nghệ cao với hệ thống các trường đào tạo nghề. Phát triển nhanh và phân
bố hợp lý hệ thống trường dạy nghề trên địa bàn cả nước; mở rộng các hình thức
đào tạo nghề đa dạng, linh hoạt, năng động.
Đổi mới cơ bản công tác quản lý và tổ chức giáo dục; xây dựng hệ thống

giáo dục nhằm tạo điều kiện cho mọi người có thể học tập suốt đời theo hướng
thiết thực, hiện đại, gắn chặt với yêu cầu của xã hội. Hoàn thiện cơ chế, chính sách
và luật pháp để bảo đảm sự nghiệp giáo dục phát triển ổn định, chất lượng, hiệu
quả đáp ứng nhu cầu về con người và nguồn nhân lực cho đất nước phát triển
nhanh và bền vững. Ngăn chặn và đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực trong ngành
giáo dục, xây dựng một nền giáo dục lành mạnh.
Nhà nước dành tỷ lệ ngân sách thích đáng, kết hợp đẩy mạnh xã hội hoá phát
triển giáo dục và đào tạo. Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho
giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về phát triển giáo dục và đào tạo.

8


Chủ động dành một lượng kinh phí thích đáng của ngân sách để tăng nhanh số học
sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh được đào tạo ở một số nước phát triển.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định: Giáo dục và đào tạo
cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực
thúc đẩy cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế
quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã
hội hoá", chấn hưng nền giáo dục Việt Nam.
Chuyển dần mơ hình giáo dục hiện nay sang mơ hình giáo dục mở - mơ hình
xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các
bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và
những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường
xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng
xã hội trong giáo dục.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) xác định rõ: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng
cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng

phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo
dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho
giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển”2.

2

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011,
trang 77

9


Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển xã
hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, dân chủ hoá và hội
nhập quốc tế. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, cơng nghệ, văn hố đầu đàn; đội
ngũ doanh nhân và lao động lành nghề. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giáo dục,
đào tạo trên tinh thần tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở
giáo dục, đào tạo.
Nội dung thứ 2 thể hiện quan điểm này là nguồn ngân sách chi cho giáo dục
đào tạo. Giáo dục là quốc sách hàng đầu, nên giáo dục luôn được ưu tiên đi trước
một bước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội… Nhà nước
ta đã chi một ngân khoản khơng nhỏ cho giáo dục, bình qn khoảng 10% đến
20% ngân sách, thuộc diện lớn nhất thế giới. Và con số này không ngừng tăng qua
các năm.
Tuy nhiên, do ngân sách còn hạn hẹp nên mặc dù phần trăm (%) đầu tư cho
giáo dục rất cao, nhưng số tiền chi cho giáo dục thực chất cịn rất ít, mức chi bình
qn cho một học sinh, sinh viên cịn rất thấp so với các nước trong khu vực và thế
giới. Mặc dù vậy, cũng đã thấy được sự nỗ lực, cố gắng của Đảng và Nhà nước ta
trong việc đầu tư cho giáo dục, minh chứng cụ thể cho quan điểm chỉ đạo: “giáo

dục là quốc sách hàng đầu” của Đảng ta.
1.2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác giáo dục đào tạo trong văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII
Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng xác định: “Phát triển toàn
diện con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát

10


triển kinh tế - xã hội”3. Điều này thể hiện nhận thức ngày càng sâu sắc hơn của
Đảng ta về vai trị, vị trí và ý nghĩa quan trọng của việc chăm lo, giáo dục, bồi
dưỡng nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, cân bằng giữa
cuộc sống vật chất và tinh thần, hài hòa giữa các nhu cầu kinh tế và đời sống đạo
đức, văn hóa; là giải pháp quan trọng để phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của con
người Việt Nam, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, trở thành nước phát
triển, có thu nhập cao vào năm 2045.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa” 4. Mục tiêu duy nhất,
cao cả nhất của Người là đấu tranh giải phóng dân tộc, đem lại cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc cho con người. Vì vậy, trong quá trình hoạt động cách mạng và trên
cương vị là người đứng đầu Nhà nước, Người luôn yêu cầu Đảng, Chính phủ phải
phục vụ Nhân dân, việc gì có lợi cho Nhân dân thì phải làm, việc gì có hại cho
Nhân dân thì phải tránh.
Trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa, kế thừa nội dung về xây dựng con người ở những kỳ Đại hội trước, Đại hội
ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng không chỉ đặt ra vấn đề “đúc kết, xây dựng hệ giá trị
văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam”, mà còn nhấn mạnh, làm rõ hơn yêu cầu:
“Xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với
giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới” 5. Trong giai
đoạn đất nước ngày càng phát triển, hội nhập ngày càng sâu rộng vào các tiến trình

của thế giới, việc chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng phát triển con người sẽ đánh thức,
3

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.65
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 11, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.66.
5
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.65,
tr.143.
4

11


khơi dậy thế mạnh đang còn ở dạng tiềm năng, chưa được phát huy ở mỗi con
người vào các hoạt động kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội khác nhau.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đặc biệt ở thời kỳ trị vì
đất nước của các triều đại phong kiến, tư tưởng về chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng
phát triển con người ln được chú trọng quan tâm để tạo sự đồn kết, ổn định,
phát triển đi lên trong toàn xã hội. Thời nhà Trần đã để lại những quan điểm, tư
tưởng bất hủ cho hậu thế, với câu nói nổi tiếng của Hưng Đạo vương Trần Quốc
Tuấn: “Thời bình, phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc. Đó là thượng
sách giữ nước”; thời nhà Lê với những quan điểm, tư tưởng hết sức sâu sắc về
chăm lo, bồi dưỡng sức dân của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi: “Khắp thơn cùng
xóm vắng khơng một tiếng hờn giận ốn sầu, bởi vì đó là cái gốc của lễ nhạc”, và
“Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho tồn Đảng, toàn dân và toàn quân ta di
sản lý luận, thực tiễn đồ sộ về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử,
Người chỉ rõ: “Trong bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân, trong thế giới
khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân. Khi sức dân được huy
động, được tổ chức, được tập hợp dưới sự lãnh đạo của Ðảng thì thành vơ

địch”6… Những quan điểm, tư tưởng trên không đề cập trực tiếp đến việc chăm lo,
giáo dục, bồi dưỡng phát triển con người, nhưng thông qua việc bồi dưỡng “sức
dân”, khẳng định vị trí, vai trị của Nhân dân trong tiến trình lịch sử đã cho thấy từ
các vương triều phong kiến đến thời đại Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc chăm
lo, giáo dục, bồi dưỡng phát triển con người toàn diện, nhất là những người “vừa
hồng”, “vừa chuyên”, phục vụ cho sự nghiệp dựng xây và kiến thiết đất nước.

6

Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 8, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.143.

12


Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn nhận thức đầy đủ và sâu sắc về tầm
quan trọng của nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
luôn quan tâm tạo điều kiện phát huy sức mạnh con người vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng ta xác định: con người vừa là
mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển, xây dựng và phát huy nhân tố con
người, đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế - xã hội. Chính những quan điểm, chính sách hợp lý, đúng đắn đó đã đáp ứng
được nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng đem lại những thắng lợi vẻ vang cho
sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc. Nhấn mạnh đến yếu tố con
người và coi con người là chủ thể của mọi hoạt động, sáng tạo, phát kiến thực hiện
thắng lợi những yêu cầu, nhiệm vụ mà đại hội đảng các cấp đã đề ra. Đó là xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
của đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Điều đó đã khẳng định, Đảng ta khơng chỉ quan tâm xây dựng chủ trương,
chính sách mà cịn bằng những hoạt động thực tiễn, có chiến lược, kế hoạch chăm
lo, bồi dưỡng phát triển con người cụ thể, sâu sắc để khơng ngừng hịa nhập với

nền kinh tế thế giới. Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng nêu rõ:
“Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình
độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc”7.
Tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo, yêu
cầu phải “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ
trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước” 8. Trước đây chỉ đề cập phương
7

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.65,
tr.217-218
8
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXb CTQGST, H. 2021, tr 136

13


hướng chung: “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Văn kiện lần này yêu cầu xác
định rõ mục tiêu của giáo dục và đào tạo trong giai đoạn tới, nhằm xây dựng con
người Việt Nam phát triển tồn diện, có sức khoẻ, năng lực, trình độ, có ý thức,
trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc và “Chú trọng giáo
dục phẩm chất, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần
yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc”9. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục
thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Nhấn mạnh, giáo dục và đào tạo thích ứng với Cuộc cách mạng cơng nghiệp
lần thứ tư và hội nhập quốc tế, do vậy phải đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực,
nhất là nhân lực chất lượng cao. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu
ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công

nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức
cuộc sống, chăm sóc con người. Trước đây chỉ đề cập:“ chú trọng phát hiện, bồi
dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức”, điểm
mới lần này nhấn mạnh đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài
trong quản lý, quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đặc
biệt, chú ý phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân tài cho phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời, đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo
hướng mở, linh hoạt; bảo đảm thống nhất với chủ trương đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển
dịch nhanh cơ cấu lao động, nhất là ở nông thôn; giảm tỉ lệ lao động khu vực phi
chính thức. Hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao động.
9

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXb CTQGST, H. 2021, tr 136

14


Cụ thể hóa u cầu hồn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, sắp xếp lại hệ
thống trường học, phát triển hài hồ giữa giáo dục cơng lập và ngồi công lập, giữa
các vùng, miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên
giới, hải đảo và các đối tượng chính sách. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Đặc
biệt chú trọng giáo dục mầm non, tiểu học trong điều kiện mới, tạo tiền đề và bảo
đảm điều kiện thuận lợi, để mỗi người dân đều được thụ hưởng một cách công
bằng thành quả của nền giáo dục. Thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt
đời. Củng cố và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục.
Thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc đại học phù hợp với xu thế
chung của thế giới. Có chính sách đột phá phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục
đại học. “Có cơ chế hỗ trợ xây dựng một số trường đại học lớn và đại học sư
phạm trở thành những trung tâm đào tạo có uy tín trong khu vực và thế giới” 10.

Thúc đẩy phát triển các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao. Xây dựng các
cơ chế, chính sách và giải pháp để đào tạo lại lực lượng lao động phải chuyển đổi
nghề nghiệp do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơng nghệ và tác
động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo, như: thực
hiện phổ cập giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học bắt buộc. Đưa vào chương
trình giáo dục phổ thơng nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu, chú trọng xây
dựng nền tảng kỹ năng nhận thức và hành vi cho học sinh phổ thông. Nâng cao
chất lượng, hiệu quả dạy và học ngoại ngữ, coi trọng dạy, học và sử dụng tiếng
Anh. Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung
học phổ thông. Giảm tỉ lệ mù chữ ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số.
Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo.
10

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXb CTQGST, H. 2021, tr 234.

15


Nghiên cứu để hoàn thiện, ổn định hệ thống sách giáo khoa và chế độ thi cử ở các
cấp học.
Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát
triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; từ học chủ yếu trên lớp sang tổ
chức hình thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực tuyến, qua Internet, truyền
hình, các hoạt động xã hội, ngoại khoá, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà trường
kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. ”Đào tạo con người theo hướng
có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng
sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng
tạo và hội nhập quốc tế”11.
Thứ sáu, xây dựng và hồn thiện thể chế, chính sách phát triển giáo dục Việt

Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, “Lấy chất lượng và
hiệu quả đầu ra làm thước đo. Xây dựng và triển khai thực hiện lộ trình tiến tới
miễn học phí đối với học sinh phổ thông, trước hết là đối với học sinh tiểu học và
trung học cơ sở”12. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển các cơ sở
đào tạo ngồi cơng lập phù hợp với xu thế của thế giới và điều kiện của Việt Nam
trên cơ sở bảo đảm công bằng xã hội và các giá trị cơ bản của định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhấn mạnh hơn u cầu thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội
trong giáo dục và đào tạo. Tiếp tục thực hiện cơ chế tự chủ một số trường phổ
thông tại các đơ thị lớn, các nơi có điều kiện; thí điểm cơ chế cho thuê một số cơ
sở giáo dục sẵn có theo nguyên tắc bảo đảm tất cả học sinh được đến trường.

11
12

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXb CTQGST, H. 2021, tr 233.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXb CTQGST, H. 2021, tr 138.

16


Tiếp tục hoàn thiện các khâu, các yếu tố của q trình đào tạo theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh đổi mới đồng bộ, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý và quản trị nghiệp vụ chuyên môn
trong giáo dục và đào tạo, từng bước thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ gắn với
trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục và đào tạo. Xây dựng môi trường
giáo dục lành mạnh, kiên quyết khắc phục bệnh thành tích, ngăn ngừa và xử lý
nghiêm các tiêu cực trong giáo dục và đào tạo. Hoàn thiện và thực hiện ổn định các
phương thức đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục và đào tạo, thi tốt nghiệp
trung học phổ thông và tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng và đào tạo
nghề. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược hợp tác và hội nhập quốc tế về

giáo dục và đào tạo.
Đặt ra mục tiêu Việt Nam tham gia thị trường đào tạo nhân lực quốc tế, vì
vậy u cầu hồn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng,
hiệu quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của các cơ sở giáo dục và
đào tạo. ‘Gắn kết chặt chẽ giáo dục và đào tạo với nghiên cứu, triển khai, ứng dụng
các thành tựu khoa học và công nghệ mới; hình thành các trung tâm nghiên cứu
xuất sắc, các nhóm đổi mới sáng tạo mạnh“ 13. Thực hiện đào tạo theo nhu cầu của
thị trường lao động. Cùng với đề cao vị trí, vai trị và trách nhiệm xã hội, cần đổi
mới mạnh mẽ chính sách đãi ngộ, chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục là khâu then chốt, sắp xếp, đổi mới căn bản hệ thống các cơ sở
đào tạo sư phạm, thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách và giải pháp để cải
thiện mức sống, nâng cao trình độ và chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến
trong khu vực.

13

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXb CTQGST, H. 2021, tr 138.

17



×