Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Thực trạng cải cách thể chế hành chính nhà nước tại tỉnh nam định hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.22 KB, 32 trang )

TRƯỜNG
KHOA

LOGO

TIỂU LUẬN
MÔN: TR
Đề tài:
Thực trạng cải cách thể chế hành chính nhà nước tại tỉnh Nam Định hiện
nay
Họ và tên :
Lớp :
Khoá học :

HÀ NỘI - 2023


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................................1
NỘI DUNG.................................................................................................................................................2
CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG................................................................................2
1.1. Nhận thức chung về nền hành chính.....................................................................................................2
1.2. Khái niệm thể chế hành chính nhà nước...............................................................................................4
1.3. Cải cách thể chế hành chính nhà nước..................................................................................................8
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CẢI CÁCH THỂ CHẾ HÀNH CHÍNH TẠI TỈNH NAM ĐỊNH.............12
2.1. Một số kết quả đạt được.....................................................................................................................12
2.2. Một số hạn chế...................................................................................................................................14
2.3. Một số giải pháp.................................................................................................................................15
KẾT LUẬN...............................................................................................................................................23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................24



MỞ ĐẦU
Thực hiện quan điểm chỉ đạo nêu trên của Đảng, Nhà nước, việc cải cách thể
chế hành chính nhà nước thời gian vừa qua đã đạt những kết quả quan trọng, đóng
góp tích cực vào thành tựu chung của đất nước. Đó là, hệ thống pháp luật về tổ
chức bộ máy hành chính nhà nước tiếp tục được hồn thiện; bộ máy hành chính
nhà nước từng bước được kiện tồn; Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương và
chính quyền địa phương đã nỗ lực và quyết tâm thực hiện chủ trương cải cách tổ
chức bộ máy, đổi mới phương thức làm việc, cải cách thủ tục hành chính, đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt
động.
Ngày 15/7/2021, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 76/NQ-CP Ban hành
Chương trình tởng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2021-2030. Theo
Nghị quyết, giai đoạn này tập trung vào 6 nội dung, đó là: Cải cách thể chế; Cải
cách thủ tục hành chính; Cải cách tở chức bộ máy hành chính nhà nước; Cải cách
chế độ cơng vụ; Cải cách tài chính cơng và Xây dựng, phát triển Chính phủ điện
tử, Chính phủ số. Trọng tâm cải cách hành chính 10 năm tới là: Cải cách thể chế,
trong đó tập trung xây dựng, hồn thiện hệ thống thể chế của nền hành chính và
nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật; xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức chuyên nghiệp, có năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ và sự phát triển của đất nước, trong đó, chú trọng cải cách chính sách
tiền lương; xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số. Góp phần tìm
hiểu hoạt động cải cách thể chế hành chính nhà nước tại tỉnh Nam Định, tơi xin lựa
chọn đề tài: “Thực trạng cải cách thể chế hành chính nhà nước tại tỉnh Nam
Định hiện nay” làm đề tài nghiên cứu kết thúc mơn học của mình.

1


2



NỘI DUNG
CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Nhận thức chung về nền hành chính
1.1.1. Các yếu tố cấu thành nền hành chính
Có nhiều cách tiếp cận về nền hành chính nhà nước, nhưng phở biến hiện
nay cho rằng nền hành chính nhà nước là hệ thống các yếu tố hợp thành về tổ chức
(Bộ máy, con người, nguồn lực công) và cơ chế hoạt động để thực thi quyền hành
pháp.
Theo cách tiếp cận này, về cấu trúc của nền hành chính nhà nước bao gồm
các yếu tố:
- Thứ nhất, hệ thống thể chế hành chính bao gồm Hiến pháp, Luật pháp,
Pháp lệnh và các văn bản qui phạm về tở chức, hoạt động của hành chính nhà nước
và tài phán hành chính;
- Thứ hai, cơ cấu tở chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính nhà
nước các cấp, các ngành phù hợp với yêu cầu thực thi quyền hành pháp;
- Thứ ba, đội ngũ cán bộ, cơng chức hành chính được đảm bảo về số lượng
và chất lượng để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của hành chính nhà nước;
Thứ tư, nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật bảo đảm yêu cầu thực
thi công vụ của các cơ quan và cơng chức hành chính.

3


Giữa các yếu tố của nền hành chính có mối quan hệ hữu cơ và tác động lẫn
nhau trong một khuôn khổ thể chế. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả nền hành chính
nhà nước cần phải cải cách đồng bộ cả bốn yếu tố trên. Cấu trúc của nền hành
chính nhà nước có thể mơ tả bằng Sơ đồ 1.
Hoạt động của nền hành chính nhà nước được thực hiện dưới sự điều hành

thống nhất của Chính phủ nhằm phát triển hệ thống và đảm bảo sự ổn định, phát
triển kinh tế -xã hội theo định hướng. Trong quá trình đó, các chủ thể hành chính
cần thực hiện sự phân công, phân cấp cho các cơ quan trong hệ thống nhằm phát
huy tính chủ động, sáng tạo và thế mạnh riêng có của từng ngành, từng địa phương
vào việc thực hiện mục tiêu chung của cả nền hành chính.
1.1.2. Những đặc tính chủ yếu của nền hành chính Nhà nước Việt Nam
Để xây dựng một nền hành chính hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả
cần phải hiểu rõ những đặc tính chủ yếu của nền hành chính nhà nước. Những đặc
tính này vừa thể hiện đầy đủ bản chất của Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam,
vừa kết hợp được những đặc điểm chung của một nền hành chính phát triển theo
hướng hiện đại.
Như vậy nền hành chính Nhà nước Việt Nam có những đặc tính chủ yếu sau:
a) Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị
Nguồn gốc và bản chất của một nhà nước bắt nguồn từ bản chất chính trị của
chế độ xã hội dưới sự lãnh đạo của một chính đảng. Dưới chế độ tư bản, nhà nước
sẽ mang bản chất tư sản, còn dưới chế xã hội do Đảng cộng sản lãnh đạo thì nhà
4


nước mang bản chất của giai cấp vô sản. Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy,
Đảng nào cầm quyền sẽ đứng ra lập Chính phủ và đưa người của đảng mình vào
các vị trí trong Chính phủ. Các thành viên của Chính phủ là các nhà chính trị
(chính khách). Nền hành chính lại được tở chức và vận hành dưới sự lãnh đạo, điều
hành của Chính phủ, vì vậy dù muốn hay khơng, nền hành chính phải lệ thuộc vào
hệ thống chính trị, phải phục tùng sự lãnh đạo của đảng cầm quyền.
Mặc dù lệ thuộc vào chính trị, song nền hành chính cũng có tính độc lập
tương đối về hoạt động chuyên môn nghiệp vụ và kỹ thuật hành chính.
Nền hành chính nhà nước mang đầy đủ bản chất của một Nhà nước dân chủ
xã hội chủ nghĩa “của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân" dựa trên nền tảng của
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức do Đảng

cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước Cộng hồ XHCN Việt Nam nằm trong hệ
thống chính trị, có hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam, các tở chức
chính trị - xã hội giữ vai trò tham gia và giám sát hoạt động của Nhà nước, mà
trọng tâm là nền hành chính.
1.2. Khái niệm thể chế hành chính nhà nước
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước (hành chính cơng), bao gồm 4 yếu
tố cơ bản, đó là: hệ thống thể chế hành chính quy định hành lang pháp lý cho hoạt
động hành chính nhà nước; tổ chức bộ máy của các cơ quan hành chính nhà nước;
đội ngũ nhân viên thực thi hoạt động hành chính (tập trung vào đội ngũ cơng chức)
và nguồn lực vật chất cần thiết cho hoạt động hành chính. Khi nhà nước chuyển từ
vai trò người “chèo thuyền”, (tức là trực tiếp sản xuất, kinh doanh, trực tiếp tham
gia vào thị trường), sang vai trò “cầm lái”, (tức là chỉ gián tiếp thông qua hoạt động

5


điều tiết, hỡ trợ thị trường), thì vai trị của thể chế hành chính nhà nước được nâng
lên.
Ở Việt Nam hiện nay, thể chế hành chính nhà nước được hiểu theo 3 quan
điểm sau:
Theo quan điểm thứ nhất, thể chế hành chính nhà nước được định nghĩa là:
tồn bộ các yếu tố cấu thành hành chính nhà nước để hành chính nhà nước hoạt
động nhà nước một cách hiệu quả, đạt được mục tiêu quốc gia.
Quan điểm thứ hai, coi “thể chế là những quy tắc, quy định do con người đặt
ra nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, con người ở đây có thể là các thể nhân hoặc
các pháp nhân, các cơ quan nhà nước, nhà nước nói chung, các tở chức chính trị, tở
chức chính trị xã hội, tổ chức kinh tế”. Theo quan điểm này thì khơng đồng nhất
giữa “thể chế” với pháp luật mà thể chế bao gồm:
- Các quy tắc, quy định do Nhà nước đặt ra (pháp luật);
- Quy tắc, quy định do cơ quan, tổ chức ban hành có ý nghĩa nội bộ (quy

chế, nội quy);
- Hợp đồng giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tổ chức, tổ chức với tổ
chức,…
Như vậy, pháp luật là một bộ phận cơ bản của mọi thể chế.

6


Quan điểm thứ ba, quan niệm về thể chế hành chính nhà nước với nghĩa hẹp
hơn, chỉ bao gồm hệ thống gồm luật, các văn bản pháp quy dưới luật tạo khn
khở pháp lý cho các cơ quan hành chính nhà nước, một mặt là thực hiện chức năng
quản lý, điều hành mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cũng như cho mọi tổ chức và
cá nhân sống và làm việc theo pháp luật; mặt khác là các quy định các mối quan hệ
trong hoạt động kinh tế cũng như các mối quan hệ giữa các cơ quan và nội bộ bên
trong của các cơ quan hành chính nhà nước. Quan niệm về thể chế hành chính nhà
nước theo hệ thống quan điểm này được thể hiện rõ trong các văn bản quy phạm
pháp luật của Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, ngay cả trong các văn bản của Chính
phủ, thể chế hành chính nhà nước cũng được hiểu khác nhau theo từng thời điểm.
“Chương trình tởng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010” ban
hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001, của Thủ tướng
Chính phủ xác định 5 mục tiêu cơ bản để cải cách hành chính nhà nước bao gồm:
Cải cách thể chế; cải cách tở chức bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng và nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức; cải cách tài chính cơng và
hiện đại hóa hành chính. Theo Chương trình này, thể chế hành chính nhà nước
được hiểu là hệ thống quy phạm pháp luật, bao hàm cả quy phạm nội dung và quy
phạm thủ tục. “Chương trình tởng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011
- 2020” ban hành kèm theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính
phủ xác định 6 nhiệm vụ cơ bản để cải cách hành chính nhà nước giai đoạn này,
bao gồm: Cải cách thể chế; cải cách thủ tục hành chính; cải cách tở chức bộ máy
hành chính nhà nước; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,

viên chức; cải cách tài chính cơng; hiện đại hóa hành chính. Chương trình này lại
coi thể chế hành chính nhà nước chỉ là những quy phạm nội dung của pháp luật.
Như vậy, ở các văn bản này, thể chế hành chính nhà nước được xác định là một nội
dung của “tổng thể hành chính nhà nước”, thể chế hành chính nhà nước là một nội
dung độc lập với các nội dung khác như: tở chức bộ máy hành chính nhà nước, đội
7


ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Với những mục tiêu cụ thể của cải cách thể chế
hành chính nhà nước ở các văn bản này thì “cải cách thể chế hành chính nhà nước”
và “cải cách tư pháp” đang có sự chồng chéo.
Một số nhà nghiên cứu về cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam chỉ ra
chương trình nghị sự của Việt Nam về cải cách thể chế vừa quá rộng lại quá hẹp.
“Nó quá rộng bởi vì các vấn đề nêu ra nằm ngồi phạm vi hành chính của Chính
phủ; nó q hẹp bởi vì các vấn đề về cấu trúc và hệ thống phải được xem xét một
cách đồng thời với các chiều kích hành chính”. Cải cách thể chế ở Việt Nam địi
hỏi phải xem xét một số vấn đề quan trọng mang tính cơ cấu liên quan đến tồn bộ
hệ thống chính quyền, cũng như các cải cách đối với hệ thống của hành chính nhà
nước. Cải cách thể chế hành chính nhà nước không chỉ trùng lặp với cải cách pháp
lý, nó còn có mối tương thuộc với các cải cách cơ cấu, có nghĩa rằng nó liên quan
đến sự thay đổi mang tính pháp hiến và chính trị.
Với mục đích nghiên cứu về thể chế hành chính nhà nước, trong bài viết
này, thuật ngữ thể chế hành chính nhà nước được hiểu là hệ thống các quy định do
nhà nước xác lập trong các văn bản quy phạm pháp luật để thực thi quyền hành
pháp và các tở chức hành chính nhà nước đảm bảo thực hiện các quy định đó.
Thể chế hành chính nhà nước bao gồm 2 bộ phận lớn, đó là:
- Bộ phận thể chế hành chính thuần túy về hoạt động quản lý nhà nước bao
gồm các thể chế trong các lĩnh vực chính trị như quản lý quốc phòng, an ninh,
ngoại giao; về hoạt động quản lý nhà nước trong nội bộ hệ thống hành chính như
chế độ làm việc của các cơ quan hành chính nhà nước; về xây dựng chế độ quản lý

văn bản hành chính; về hiện đại hóa cơng sở; đào tạo kỹ năng hành chính cho cơng
8


chức hành chính, về chế độ bầu cử trong bộ máy chính quyền; quản lý lao động,
các hoạt động dịch vụ công, tổ chức hoạt động, phân công, phân cấp của hệ thống
bộ máy từ trung ương đến cơ sở; chế độ công vụ, phục vụ nhân dân, các tổ chức
hành chính.
- Bộ phận thể chế hành chính tác động trực tiếp tới hoạt động kinh
doanh bao gồm các thể chế về thủ tục đăng ký kinh doanh, cấp các loại giấy phép,
chứng thực, chứng nhận, công chứng cho các hoạt động kinh doanh; sự kiểm sốt
hành chính, các chế độ thuế, hải quan, quản lý đất đai,...
Có thể phân biệt thể chế nhà nước và thể chế hành chính nhà nước như sau:
- Thể chế nhà nước là toàn bộ các văn kiện pháp luật: Hiến pháp, Luật, Bộ
luật, văn bản dưới luật để tạo thành khuôn khổ pháp luật để bộ máy nhà nước thực
hiện chức năng quản lý nhà nước đối với toàn xã hội, để cá nhân, tổ chức sống và
làm việc theo pháp luật.
- Thể chế hành chính nhà nước là một hệ thống gồm: Luật, các văn bản pháp
quy dưới Luật tạo khuôn khổ pháp lý cho các cơ quan hành chính nhà nước, một
mặt là thực hiện chức năng quản lý, điều hành mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
cũng như cho mọi tổ chức và cá nhân sống và làm việc theo pháp luật; mặt khác là
các quy định các mối quan hệ trong hoạt động kinh tế cũng như các mối quan hệ
giữa các cơ quan và nội bộ bên trong các cơ quan hành chính nhà nước. Thể chế
hành chính nhà nước là tồn bộ các yếu tố cấu thành hành chính nhà nước để hành
chính nhà nước hoạt động quản lý nhà nước một cách hiệu quả, đạt được mục tiêu
của quốc gia.

9



Thể chế hành chính nhà nước và thể chế nhà nước có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau. Thể chế hành chính nhà nước là một bộ phận của thể chế Nhà nước. Thể
chế nhà nước bao trùm toàn bộ các loại thể chế hoạt động của các cơ quan quản lý
nhà nước. Chính vì vậy, thể chế hành chính nhà nước phải mang cái đặc trưng cơ
bản của thể chế nhà nước được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản của thể
chế nhà nước. Tuy có mối liên hệ mật thiết nhưng thể chế hành chính nhà nước có
những điểm khác biệt với thể chế nhà nước:
- Thể chế nhà nước: giới hạn trong hoạt động chấp hành và điều hành liên
quan đến các cơ quan thực thi quyền hành pháp. Số lượng ít hơn, nội dung, kém
phức tạp hơn.
- Thể chế hành chính nhà nước: Bao trùm hoạt động quản lý nhà nước liên
quan đến tất cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Số lượng lớn, nội dung phức
tạp.
Có thể thấy rằng, thể chế hành chính nhà nước có mối quan hệ đặc biệt chặt
chẽ với thể chế nhà nước. Thể chế hành chính nhà nước là bộ phận nằm trong thể
chế nhà nước. Đặc biệt, thể chế hành chính nhà nước ln phải mang đặc trưng của
thể chế nhà nước hiện hành, với nguyên tắc xây dựng nhất định và tạo sự thống
nhất cho bộ máy hành chính của nhà nước hiện nay.
Như vậy, tuy có nhiều quan điểm khác nhau về thể chế hành chính nhà
nước, nhưng theo tác giả: Thể chế hành chính nhà nước được hiểu là tồn bộ các
quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm thực hiện
chức năng quản lý hành chính nhà nước. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, việc tiến hành
10


cải cách hành chính được xem là một nhu cầu tất yếu, là biện pháp mang ý nghĩa
sống còn của nền hành chính nói riêng và các cơ quan nhà nước nói chung. Cải
cách thể chế hành chính được triển khai cũng là sự khẳng định của Việt Nam về sự
công khai, minh bạch, dân chủ trên mọi phương diện hoạt động của mình.

1.3. Cải cách thể chế hành chính nhà nước
Ở Việt Nam hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào, kể cả các
văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước chính thức định nghĩa khái niệm cải
cách thể chế hành chính. Từ những cơ sở lý luận đã phân tích, cải cách thể chế
hành chính có thể được hiểu:
- Là cải cách quy trình xây dựng và thông qua các VBQPPL liên quan đến
hoạt động quản lý hành chính, nhằm làm rõ trách nhiệm giữa cơ quan chủ trì soạn
thảo, cơ quan phối hợp và lấy ý kiến của người dân;
- Là biểu hiện sự kết hợp giữa cải cách hành chính và cải cách lập pháp
nhằm hoàn thiện các chế định pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động quản lý
hành chính phát sinh trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội;
- Là việc xây dựng và hoàn thiện thể chế về kinh tế, tổ chức và hoạt động
của hệ thống hành chính, xây dựng và hồn thiện các chế định pháp luật để điều
chỉnh các quan hệ pháp luật hành chính giữa các cơ quan nhà nước với cơng dân,
giữa các cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức, doanh nghiệp và giữa các
cơ quan, tổ chức với nhau[3].
Để thúc đẩy công cuộc cải cách hành chính nói chung và cải cách thể chế
hành chính nói riêng ở Việt Nam, việc học tập kinh nghiệm nước ngoài trong bối
11


cảnh hội nhập là hết sức cần thiết. Để công tác này đạt được hiệu quả, việc xây
dựng và hoàn thiện các chế định pháp luật cùng với việc cung cấp thông tin pháp
luật đầy đủ cho mọi tổ chức, cá nhân là một trong những yêu cầu tối cần thiết. Khái
niệm thể chế và cải cách thể chế hành chính rõ ràng rộng hơn khái niệm pháp luật
và cải cách hệ thống pháp luật. Vì là quy tắc của trị chơi nên ngồi những quy
định mang tính pháp luật, nó còn bao gồm những chuẩn mực, những quy tắc bất
thành văn, những quyết sách, những mối quan hệ không chính thức ẩn sâu bên
trong, điều đó làm cho vấn đề cải cách thể chế phải luôn kịp thời, linh hoạt và
khơng có một mơ hình chung cho tất cả.

Cải cách thể chế hành chính ở Việt Nam trong những năm qua có thể nói là
kết quả của tổng thể q trình cải cách hành chính gắn với u cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền theo thể chế khơng chính thức, tức là tiếp tục xây dựng và phát
triển nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Cải cách thể chế hành chính ở Việt Nam đã đạt được
nhiều thành tựu nhưng cũng bộc lộ một số hạn chế. Số lượng văn bản pháp luật
được ban hành nhiều nhưng chất lượng chưa cao, nội dung chồng chéo, trùng lặp,
thiếu tính tồn diện và ởn định. Một số thể chế cơ bản chậm được xây dựng, sửa
đởi, hồn thiện, tình trạng Luật chờ Nghị định, Nghị định chờ Thông tư vẫn khá
phổ biến. Cải cách thủ tục hành chính có nhiều tiến bộ nhưng vẫn cịn nhiều thủ tục
gây phiền hà, chưa thực hiện đúng hẹn khi giải quyết. Đặc biệt vẫn tồn tại xu
hướng cơ quan hành chính giành thuận lợi về mình, đẩy khó khăn cho người dân
và doanh nghiệp. Cơ chế một cửa, một cửa liên thơng cịn chưa đồng bộ, ý thức
phối kết hợp giữa các cơ quan có trách nhiệm giải quyết chưa cao, cịn tình trạng
đùn đẩy trách nhiệm, tinh thần trách nhiệm và sẵn sàng phục vụ nhân dân của cán
bộ, cơng chức trực tiếp giải quyết vụ việc cịn chưa cao,… Để xảy ra tình trạng trên
có nhiều nguyên nhân như: thiếu tính thống nhất, đồng bộ, tính chuẩn mực và áp
12


dụng chung trong việc tiếp nhận và giải quyết hồ sơ của các cơ quan, ban ngành có
liên quan; ý thức trách nhiệm và trình độ của cán bộ, cơng chức,… Trong đó,
nguyên nhân lớn nhất là chưa nhận thức đầy đủ và toàn diện về diện mạo, cơ cấu,
quy mô của hệ thống thể chế ở Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Điểm yếu nhất của chúng ta vẫn
là việc xác định mang tính lý luận cơ sở của việc cải cách thể chế, cũng như nội
dung, phương pháp và cách thức tiến hành.
Cải cách thể chế hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN hiện nay đòi hỏi phải có cơ sở lý luận chắc chắn. Thể chế hành chính với
quan niệm là các quy tắc của trò chơi trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi giữa các

bên, bao gồm Nhà nước và các tổ chức, doanh nghiệp, công dân có mối quan hệ
cung cầu bình đẳng. Cần phải cải cách thể chế theo hướng Nhà nước phải là chủ
thể cung cấp đầy đủ khung pháp lý, các thông tin pháp luật, dự báo, chính sách với
đối tượng khách hàng là người dân. Chỉ khi nào cung cấp thông tin đầy đủ, tồn
diện, chính xác và bảo đảm thực hiện một cách vững chắc mới tạo được niềm tin
và sự an tâm cho người dân trong sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh; bảo đảm xây
dựng một Nhà nước thực sự dân chủ, công bằng và xử lý nghiêm minh với mọi
hành vi vi phạm pháp luật. Việc tiếp cận thể chế khơng chính thức của Nhà nước
pháp quyền hiện nay là một xu hướng phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, phù
hợp với quốc gia có duy nhất một chính Đảng lãnh đạo, được người dân nhiệt tình
ủng hộ như ở Việt Nam. Tuy nhiên, để vấn đề cải cách thể chế hành chính thành
cơng, vai trị lãnh đạo của Đảng cần tiếp tục củng cố theo hướng nâng cao vai trị
tự chủ của hành chính, tránh sự can thiệp quá sâu, hay làm thay của các cá nhân, tổ
chức Đảng.

13


14


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CẢI CÁCH THỂ CHẾ HÀNH CHÍNH TẠI
TỈNH NAM ĐỊNH
2.1. Một số kết quả đạt được
Tỉnh ủy Nam Định đã kiên quyết thực hiện bồi dưỡng, học tập và triển khai
theo Nghị quyết của Đảng, Nhà nước về cơng tác cải cách hành chính. Bên cạnh
đó, tỉnh ủy Nam Định đã đặc biệt quan tâm tới công tác xây dựng, ban hành nhiều
Quyết định để đẩy mạnh cải cách hành chính tại địa phương như Nghị quyết số 04NQ/TU ngày 18-6-2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh và Kế hoạch số 79/KHUBND ngày 16-7-2021 của UBND tỉnh về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng
cao năng lực cạnh tranh, xúc tiến và thu hút đầu tư tỉnh Nam Định giai đoạn
2021-2025; Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước tỉnh Nam Định

giai đoạn 2021-2030 ban hành kèm theo Quyết định số 2084/QĐ-UBND ngày 289-2021 của UBND tỉnh; Kế hoạch số 111/KH-UBND ngày 29-9-2021 của UBND
tỉnh về cải cách hành chính tỉnh Nam Định giai đoạn 2021-2025... Đặc biệt, Nam
Định đã xây dựng trung tâm để giải quyết thủ tục hành chính theo phương châm
“Chuyên nghiệp, cơng tâm, tận tình, chính xác, đúng hẹn”, đi vào hoạt động từ
cuối năm 2019.
* Về ứng dụng công nghệ thơng tin vào cải cách hành chính
Nhận thấy vai trị then chốt của cơng nghệ thơng tin đối với cải cách hành
chính, tỉnh Nam Định đã tích cực đầu tư và ứng dụng các phần mềm công nghệ
hiện đại để phục vụ cho ban ngành các cấp: “Đến nay, 100% các sở, ngành, UBND
các huyện, thành phố và 226 xã, phường, thị trấn đã sử dụng phần mềm quản lý
văn bản và điều hành trong điều hành, giải quyết công việc. Trên 90% văn bản trao
đổi giữa các cơ quan hành chính Nhà nước được thực hiện dưới dạng điện tử và
15


được kết nối qua Trục liên thông văn bản của Tỉnh. Bình quân một tháng có gần 60
nghìn văn bản đến và hơn 11 nghìn văn bản đi được xử lý trên phần mềm (trong đó
có gần 30 nghìn văn bản đến và gần 10 nghìn văn bản đi được nhận, gửi qua Trục
liên thông văn bản). Việc thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” trong
giải quyết TTHC được cụ thể hóa bằng kiện toàn lại Bộ phận tiếp nhận và trả kết
quả giải quyết TTHC một cửa cấp huyện, cấp xã”[5].
* Về hiệu quả cung cấp các cổng dịch vụ công trực tuyến
Các dịch vụ công trực tuyến ở Nam Định được triển khai mang tính đột phá
cao và hiệu quả. Theo báo cáo của Trung tâm phục vụ hành chính cơng, xúc tiến
đầu tư và hỡ trợ doanh nghiệp tỉnh Nam Định, tính đến hết tháng 11/2021, Trung
tâm đã thực hiện trên 77.500 lượt giao dịch, tiếp nhận, trả kết quả, tư vấn, hướng
dẫn giải quyết thủ tục hành chính; trong đó, đã tiếp nhận hơn 44.750 hồ sơ, trả
30.166 kết quả giải quyết thủ tục hành chính và có 2.593 giao dịch khác (tư vấn,
hướng dẫn về thủ tục hành chính). Hồ sơ thủ tục hành chính giải quyết trước và
đúng hạn đạt tỷ lệ 99,9%[6]. Các quy trình giải quyết thủ tục hành chính được số

hóa hiện đại theo hướng đơn giản hóa các thủ tục, lưu giữ sử dụng chung các dữ
liệu. Kết quả những năm vừa qua, Nam Định là 01 trong 8 địa phương đầu tiên của
cả nước hoàn thành kết nối Cổng dịch vụ công trực tuyến của Tỉnh với Cổng cung
cấp dịch vụ công quốc gia; hiện đã cung cấp 100% dịch vụ công mức độ 4.
* Cải cách hành chính đem lại hiệu quả thu hút đầu tư
Cải cách hành chính là khâu quan trọng góp phần tạo mơi trường pháp lý
thơng thống, thuận lợi cho doanh nghiệp, do đó thu hút đầu tư mạnh mẽ. Tính
trong giai đoạn 2015-2020, toàn tỉnh thu hút được 525 dự án đầu tư cấp mới và
16


điều chỉnh tăng vốn (Trong đó có 118 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và
407 dự án đầu tư trong nước) với tổng giá trị đăng ký vốn đầu tư ước đạt 3,5 tỷ
USD vốn FDI (tăng 8 lần so với giai đoạn 2010-2015) và trên 32 nghìn tỷ đồng
vốn đầu tư trong nước (tăng 2,7 lần so với giai đoạn 2010-2015); trong đó vốn giải
ngân giai đoạn 2015-2020 gấp 4 lần so với giai đoạn 2010-2015. Nhiều dự án đầu
tư sản xuất kinh doanh quy mô lớn có tác động lan tỏa đã hoàn thành đi vào hoạt
động[5]. Có thể thấy, công tác cải cách hành chính đang góp phần thu hút đầu tư
về tỉnh, tạo ra nguồn ngân sách cho địa phương, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã
hội, nâng cao đời sống người dân.
* Cải cách bộ máy cán bộ công chức
Bộ máy cán bộ được tinh giản gọn nhẹ, phân công chuyên môn hóa theo
chức năng, nhiệm vụ sẽ góp phần thực hiện cải cách hành chính một cách quy củ,
có hệ thống, tránh chồng chéo làm ách tắc các khâu trong quá trình giải quyết thủ
tục cho người dân, doanh nghiệp. Đội ngũ cán bộ công chức các cấp đã chú trọng
bồi dưỡng về mặt chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức chính trị để dần
hồn thiện, xứng đáng là những con người mới xã hội chủ nghĩa, đủ năng lực và
phẩm chất đảm nhiệm công việc được giao.
2.2. Một số hạn chế
Thứ nhất, về công tác xây dựng và thực hiện có thể thấy, mặc dù được các

cấp lãnh đạo quan tâm nhưng công tác CCHC ở Nam Định hiện nay vẫn còn gặp
nhiều vướng mắc. Nguyên nhân là do cịn thiếu cơ chế, chính sách cụ thể hướng
dẫn thực hiện CCHC trong nhiều lĩnh vực. Cơ chế rà soát, bổ sung, điều chỉnh,
công bố công khai thủ tục hành chính ở một số cơ quan, đơn vị chưa đầy đủ... Do
vậy chưa đảm bảo tính thơng suốt trong giải quyết thủ tục hành chính ở một số lĩnh
17


vực. Còn thiếu cơ chế quy định thời gian thực hiện một số thủ tục hành chính nên
vẫn cịn những thủ tục rườm rà, chồng chéo.
Thứ hai, nhận thức của một bộ phận cán bộ và người dân: nhận thức về vai
trò của CCHC vẫn còn hạn chế; dẫn tới việc triển khai và phối hợp thực hiện theo
cơ chế chính sách đưa ra cịn chậm hoặc chưa đạt kết quả tốt. Nhất là tinh thần thái
độ làm việc và trách nhiệm công vụ của một số cán bộ, công chức chưa cao, vẫn
còn những hiện tượng tiêu cực như cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà, sách nhiễu
nhân dân. Công tác tiếp công dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công
dân ở một số ngành, địa phương, đơn vị còn hạn chế, có biểu hiện đùn đẩy, né
tránh trách nhiệm.
Thứ ba, ứng dụng công nghệ thông tin vào CCHC. Việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý ở một số cơ quan, đơn vị còn hạn chế, thiếu các hệ thống
phần mềm quản lý và giải quyết công việc, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển chung.
Các dịch vụ công trực tuyến phục vụ tổ chức, công dân phần lớn ở mức thấp.
Thứ tư, về công tác cán bộ. Cho thấy tổ chức cơ cấu đội ngũ cán bộ nhiều cơ
quan còn cồng kềnh, chồng chéo, chưa phát huy hết hiệu lực, hiệu quả, gây khó
khăn cho công tác CCHC. Việc phối hợp giữa một số ngành, địa phương trong giải
quyết thủ tục hành chính thiếu sự gắn kết, chưa chặt chẽ, kịp thời. Trình độ, năng
lực và ý thức chấp hành kỷ cương, kỷ luật của một số cán bộ, cơng chức cịn yếu
kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc được giao. Nội dung, chương trình
các b̉i đào tạo, tập huấn chun mơn cịn có phần trùng lặp, nặng về lý thuyết, ít
thực hành và kỹ năng làm việc thực tế nên chất lượng đội ngũ cán bộ cải thiện

không cao. Nhất là nguồn nhân lực công nghệ thông tin cịn thiếu, tính hiệu quả

18



×