Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Bài tiểu luận lịch sử báo chí tờ Nam Phong Tạp Chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.67 KB, 43 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUN TRUYỀN
VIỆN BÁO CHÍ

TIỂU LUẬN
MƠN: LỊCH SỬ BÁO CHÍ
TÊN TIỂU LUẬN:
TÌM HIỂU SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA TỜ NAM PHONG TẠP CHÍ

Họ và tên: NGUYỄN ĐĂNG TOẢN.
Lớp: K42B.
Khóa: 2022 – 2024.
Chuyên ngành: Báo in.
Giáo viên hướng dẫn: PGS. TS. PHẠM THỊ THANH TỊNH.

Hà Nội, năm 2022


2

MỤC LỤC
STT
A.
B.
Chương 1
I.
1.
2.
II.
1.
2.


3.
4.
III.
1.
2.
Chương 2
Chương 3
1.
2.

NỘI DUNG
TRANG
MỞ ĐẦU…………………………………………….. 03 – 04
NỘI DUNG………………………………………….. 05 – 40
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA
05 – 31
TỜ NAM PHONG TẠP CHÍ…………….................
HỒN
CẢNH
RA
ĐỜI
CỦA
TỜ
05 - 17
BÁO…………….
Ngun nhân gần……………………………………. 05 – 15
Nguyên nhân sâu xa………………………………… 15 – 17
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA TỜ BÁO............ 17 – 26
Diện mạo thể loại……………………………………. 17 – 18
Du ký………………………………………………… 18 – 21

Truyện ngắn………………………………………… 21 – 24
Nghiên cứu, lý luận và phê bình văn học………….
24 – 26
ĐẶC ĐIỂM CỦA TỜ BÁO………………………… 26 – 31
Hình thức……………………………………………. 26 – 28
Nội dung……………………………………………... 28 – 31
NGƯỜI (NHÓM) SÁNG LẬP TỜ NAM PHONG
31 – 35
TẠP CHÍ…………......................................................
VAI TRỊ, Ý NGHĨA CỦA TỜ NAM PHONG
35 – 38
TẠP CHÍ……………………………………………..
Vai trị………………………………………………...
35
Ý nghĩa………………………………………………. 36 – 38
BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ SỰ RA

Chương 4

ĐỜI, PHÁT TRIỂN CỦA TỜ NAM PHONG TẠP

38 – 40

C

CHÍ…………………………………………………...
KẾT LUẬN..................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………...

41

42

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Năm 2017 đánh dấu tròn 100 năm tạp chí Nam Phong ra mắt quốc
dân. Số báo đầu tiên của Nam Phong được phát hành vào ngày 01/07/1917


3

và số cuối cùng vào ngày 16/12/1934, chấm dứt 210 số báo tiếng Việt, 210
phụ trương tiếng Pháp và 210 phụ trương tiếng Hán sau hơn 18 năm tồn tại.
Nam Phong tạp chí là một tờ nguyệt san xuất bản tại Việt Nam từ ngày 1
tháng 7 năm 1917 đến tháng 12 năm 1934 thì đình bản, tất cả được 17 năm và
210 số. Tạp chí Nam Phong do Phạm Quỳnh làm Chủ nhiệm và Chủ bút;
Phạm Quỳnh làm Chủ biên phần chữ quốc ngữ và Nguyễn Bá Trác làm Chủ
biên phần chữ nho. Nam Phong là một trong những tạp chí Việt Nam đầu tiên
đúng thể thức, bài bản và giá trị về tri thức, tư tưởng. Trụ sở tòa soạn ban đầu ở
nhà số 1 phố Hàng Trống, Hà Nội - cùng nhà Phạm Quỳnh lúc bấy giờ,
năm 1926 chuyển về nhà số 5 phố Hàng Da, Hà Nội.
Nam Phong thường đăng nhiều bài văn, thơ, truyện ngắn, phê bình văn
học, và tài liệu lịch sử bằng chữ Quốc ngữ. Được thực dân Pháp dùng để tuyên
truyền cho chế độ thực dân, cương lĩnh chính trị của tạp chí ít được chú ý. Tuy
nhiên, tạp chí đã góp phần vào việc truyền bá chữ Quốc ngữ tại Việt Nam và
bước đầu gây dựng nền quốc học bằng chữ Quốc ngữ. Đó là lý do, tơi chọn đề
tài “Lịch sử ra đời và phát triển của Nam Phong tạp chí”.
2. Nội dung nghiên cứu đề tài
Bài tiểu luận nghiên cứu về tờ báo Nam Phong tạp chí, kết cấu thành
các phần như sau: Quá trình phát triển và đặc điểm của tờ báo; Người
(nhóm) sáng lập tờ báo; Phân tích 01 tác phẩm (nhiều tác phẩm), một trang

của tờ báo; Ý nghĩa, vài trò của tờ báo; Bài học kinh nghiệm rút ra từ sự ra
đời, phát triển của tờ báo.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Tìm hiểu sự ra đời và phát triển của một tờ báo việt nam hoạt động
trước năm 1945, mà cụ thể là tờ báo Nam Phong tạp chí là chủ đề hết sức ý
nghĩa, đặc biệt đối với những người làm báo hiện nay, với nguồn tài liệu
tham khảo quý giá, lâu đời. Đây là vấn đề thiết thực với cuộc sống, vì thế
tơi đã tiến hành tìm hiểu nhằm phân tích, chứng minh những vấn đề đặt ra


4

sự ra đời và phát triển của tờ báo, vận dụng những bài học quý giá vào thực
tiễn làm báo hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Bài tiểu luận này tôi thực hiện chủ yếu bằng cách ứng dụng kiến thức đã
được học kết hợp với nghiên cứu sách báo và truy cập internet để tìm kiếm
thơng tin cho bài tiểu luận của mình. Ngồi ra có thể nói tới sự hướng dẫn về
cách làm một bài tiểu luận của quý thầy, cô và các bạn học.

NỘI DUNG
Chương 1


5

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ ĐẶC ĐIỂM
CỦA TỜ NAM PHONG TẠP CHÍ
I. HỒN CẢNH RA ĐỜI CỦA TỜ BÁO


Nam Phong tạp chí số ra đầu tiên
Ở Pháp, trong những năm tìm kiếm tư liệu cho dự án Tiến sĩ về Lịch
sử báo chí Việt Nam, tác giả may mắn tìm được vài tài liệu của Pháp nói
đến tờ Nam Phong. Căn cứ vào những tài liệu này, ta có thể hiểu được lý
do tại sao tạp chí này ra đời, do ai chủ xướng và với mục đích gì. Tất cả
những tài liệu này đều là tài liệu mật, trên có ghi “Secret et Confidentiel”,
những bản báo cáo và tường trình của viên Tồn quyền Pháp ở Đơng
Dương gởi cho Tổng trưởng Bộ Thuộc địa Pháp ở Paris. Đó là những tài
liệu chắc chắn và đáng tin cậy.
Căn cứ vào những tài liệu trên thì người chủ xướng ra tờ Nam Phong
là viên Tồn quyền Pháp ở Đơng Dương lúc ấy là ông Albert Sarraut và


6

người điều khiển trực tiếp tờ báo là Louis Marty, Trưởng phịng Chánh trị
và An ninh của Chính phủ Đơng Pháp.
“Một tờ báo!Một cây viết!Quả là một sức mạnh phi thường”[1]. Đó là
lời nói của Albert Sarraut trong một bài diễn văn khai mạc buổi họp của
Nghiệp đồn Báo chí thuộc địa tại Sài Gòn ngày 8.9.1917. Là một người
rất thơng minh, quỷ quyệt và có tài mỵ dân, A.Sarraut (trước khi bước vào
con đường chính trị ơng ta đã là một nhà báo) đã từng là biên tập viên
thường trực cho tờ La Dépêche du Midi ở tỉnh Toulouse. Do đó, biết lợi
dụng báo chí cho mục tiêu chính trị quả khơng cịn ai hơn viên Tồn quyền
này. Có lẽ trong những viên Tồn quyền Pháp ở Đơng Dương, ông này là
một nhà chính trị khôn khéo nhất và có tài mỵ dân giỏi đến nỗi một số trí
thức Việt Nam lúc bấy giờ đã tin tưởng một cách thành thật về cái “sứ
mạng cao cả của đại Pháp ở Đơng Dương”. Ở đây, tác giả khơng muốn nói
nhiều về Albert Sarraut mà chỉ muốn trả lời câu hỏi tại sao Albert Sarraut
cho ra đời tạp chí Nam Phong. Chính điều này mới quan trọng vì nó cho

biết cái dụng ý của người Pháp trong việc xuất bản tờ tạp chí lớn nhất và
quan trọng nhất ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.
Có hai nguyên nhân khiến Albert Sarraut cho ra đời tạp chí Nam
Phong: Nguyên nhân gần: đánh bại ảnh hưởng của Đức ở Đông Dương;
Nguyên nhân xa: tách rời các giới sĩ phu Việt Nam ra khỏi ảnh hưởng của
văn hóa Tàu và “Pháp hóa” giới trí thức này để dễ bề thống trị lâu dài.
1. Nguyên nhân gần: ảnh hưởng của Đức ở Đông Dương
Trong các sách vở và những tài liệu về lịch sử Việt Nam ít khi thấy
nói đến ảnh hưởng của Đức ở Việt Nam. Tuy nhiên, đây là một điều có
thực và nó đã xảy ra trước và trong lúc chiến tranh Âu châu 1914 – 1918.
Có những tờ báo Pháp lúc ấy đã nói đến việc Pháp sắp sửa nhượng Đơng
Dương cho Đức như tờ Les Annales Conloniales (ở Pháp), tờ Humanité
Indochinoise, Opinion (ở Việt Nam).


7

Có hai loại ảnh hưởng Đức ở Việt Nam: ảnh hưởng trực tiếp và ảnh
hưởng gián tiếp.
a. Ảnh hưởng gián tiếp: Chính sách ảnh hưởng gián tiếp này của Đức
ở Đông Dương đã làm cho Albert Sarraut lo lắng nhiều nhất. Đó là một lối
ảnh hưởng qua sự trung gian của các sách báo Trung Hoa lúc bấy giờ tràn
sang Việt Nam, phần lớn là các sách báo do các nhà cải cách Trung Hoa
viết như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu…v.v… Trong những sách báo
này, các tác giả thường hay ca tụng nền văn minh Đức và chê bai người
Pháp. Chính điều này đã làm cho Albert Sarraut lo sợ các giới sĩ phu
Việt Nam lúc bấy giờ sẽ chịu ảnh hưởng của các loại sách báo trên mà đâm
ra chống Pháp.
Trong bản báo cáo của Albert Sarraut gởi cho Tổng trưởng Bộ thuộc
địa Pháp (sau ngày ấn hành tờ Nam Phong) ngày 15.9.1917 có viết: “Trước

ngày tuyên chiến (19.4.1918), nhu cầu tạo nên một dư luận quần chúng bản
xứ nhờ vào một chính sách tun truyền có phương pháp và thường xuyên
của kẻ địch (ám chỉ Đức) đã gây ra từ nhiều năm nay một sự tiến hành rất
quan trọng ở Viễn Đơng và chính sách tun truyền lừa phỉnh của chúng đã
được phổ biến một cách sâu rộng trong các giới trí thức An Nam qua sự
trung gian của chữ Hán… Những hoạt động lâu dài này của kẻ thù đã thành
công trong việc chống lại chúng ta trong các giới Á châu và nó đã tạo ra
khuynh hướng thân Đức.”
Qua những nhận xét trên, Albert Sarraut muốn nói đến những sách vở
bấy giờ do các nhà cải cách Trung Hoa viết có tính cách ca tụng Đức và
chê bai người Pháp. Trong các loại sách trên, ta ít khi thấy những loại nói
đến nền văn minh Pháp. Trái lại, có những nhà xuất bản đã cho phát hành
rất nhiều sách đủ loại, dịch từ các sách Đức hoặc Anh. Theo dư luận thông
thường nhất của những tác giả các loại sách này thì nước Pháp là một quốc
gia cổ kính, có một q khứ xa xăm xán lạn nhưng nền văn minh Pháp đã
đứng lại từ sau cuộc Cách mạng 1789 và từ đó quốc gia này không ngừng


8

sa sút và suy đồi. Các loại sách này không bao giờ nói đến những phát
minh khoa học hay phát triển kinh tế của Pháp vào thế kỉ 19, trong khi đó
thì các tác giả trên lại ca tụng người Đức và coi người Đức như những
người đầu tiên đã phát minh ra khoa học và làm cho nhân loại tiến bộ.
Một trong những tác phẩm quan trọng và được biết đến nhiều nhất
trong giới sĩ phu Việt Nam bấy giờ là những tác phẩm của Khang Hữu Vi,
trong ấy ông kể lại cuộc du hành của ông qua các nước Âu châu năm 1900.
Ông viết tất cả 11 quyển nói về một nước mà ơng có dịp đi qua.
Đọc qua những tác phẩm của Khang Hữu Vi, Albert Sarraut phải tức
giận và hằn học, ông ta không ngần ngại gán cho Khang Hữu Vi là “một

tên mật vụ rất đắc lực của Đức ở Trung Hoa”. Ơng ta nói: “Những điều mà
Khang Hữu Vi nói về Pháp chỉ là những lời chỉ trích và vu khơng thậm tệ
mà từ 18 năm nay chưa thấy ai viết ở Trung Hoa. Chính cái tên Khang Hữu
Vi này đã liên kết với tướng Trung Hoa Tchang Hiun trong việc muốn
phục hưng chế độ quân chủ tại Bắc Kinh ngày 1.7.1916 vừa qua. Và này
nay ai cũng đều biết là cái dự định phục hưng ấy đã được Đức khuyến
khích giúp đỡ tài chính”.
Để hiểu rõ hơn về thái độ thân Đức và chống Pháp của Khang Hữu
Vi, xin trích ra đây một đoạn trong tác phẩm của ơng nói về Pháp:
“…Pari khơng được sạch sẽ như Berlin và New York.
“Từ Are de Triomphe đến Viện bảo tàng Louvre chỉ là một nơi du hý
và ăn uống… Đàn ông và đàn bà ăn chơi phè phỡn suốt ngày đêm.
“Nguồn lợi của thành phố Pari chỉ thu hoạch được nhờ những nơi du
hý và các nhà chứa… Số phụ nữ làm nghề mãi dâm, theo con số chính thức
có đến 15.000 người chưa kể những người khác chưa biết đến. Đàn bà con
gái ăn mặc đẹp, họ là những bà hoàng của châu Âu.


9

“Ngoài những bảo tàng viện và tháp Eiffel, ở Pari khơng có gì đáng
ngắm cả… Người Pari rất xảo quyệt và dối trá. Khoa học và nghệ thuật
Pháp rất thấp kém so với khoa học và nghệ thuật Đức và Anh.
“Chính trị Pháp rất thấp và thối nát.
“Người Pháp rất thích xa hoa, làm biếng và khó có thể làm cho nước
họ trở thành một cường quốc.
“Các nhà trí thức thì hay tranh luận một cách vơ ích về vấn đề triết
học…. Người dân thì thích vui đùa chè chén và chưng diện quần áo tốt. Họ
ham xem hát, lười biếng, ham se sua; với những đặc tính nầy, họ không thể
nào làm cho quốc gia họ trở nên một cường quốc được. Họ đã thiết lập nền

cộng hòa nhưng hồn tồn qn hẳn ý nghĩa bình đẳng…; họ thường hay
bấu víu lấy cái thời vàng son ngày trước, mỗi người mỗi ý, nhiều Đảng
chính trị đối lập… Bởi vậy cho nên từ 100 năm nay, nhiều cuộc cách mạng
đã xảy ra… Và bao nhiêu xương máu đã đổ ra một cách vơ ích. Họ rất dễ
vui mà cũng rất dễ giận. Đó là đặc tính của những người dã man. Người
Pháp rất thích say sưa rượu chè. Tơi đã thấy người Âu châu và người Mỹ
say rượu như thế nào rồi. Ban đêm họ nằm dài trên đường, làm ồn ào cả
thành phố; về đến nhà, họ chửi bới đánh đập vợ con có khi đến chết…. Thợ
thuyền kiếm được bao nhiêu tiền đều đem đi uống rượu hết, chính điều này
đã đưa đến sự xa xỉ và sát nhân…
“Canh nông của Pháp cũng thấp kém so với Anh. Nước Pháp khơng
thể so sánh được với Anh và Đức.
“Chính vì lí do trên mà nước Pháp khơng thể tiến bộ được….”[2]
Sự du nhập ảnh hưởng của Đức vào Việt Nam qua sách vở Trung
Quốc đã đóng một vai trị quan trọng trong các giới sĩ phu của ta lúc bấy
giờ. Vì muốn hiểu biết các nước Âu châu các nhà trí thức Việt Nam bây giờ
khơng có tài liệu nào ngồi những tác phẩm của Khang Hữu Vi; đó là
những tài liệu độc nhất viết bằng chữ Hán mà họ có thể đọc được. Và ảnh
hưởng của những quyển sách trên có một tầm quan trọng, mà theo


10

A.Sarraut, là sự phát hiện những phong trào chống Pháp trên toàn quốc bấy
giờ mà tiêu biểu là vụ một trái bom nổ tại khách sạn Hanoi Hotel do Quang
phục Hội của Phan Bội Châu tổ chức làm chết mấy sĩ quan Pháp. Và tờ
Đơng Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh trong số đầu (15.5.1913) đã tỏ
ra rất thương xót những người đã “hy sinh cho xứ An Nam này” và không
tiếc lời nguyền rủa “những tên hủ Nho làm loạn dám chống lại nước đại
Pháp.”

A.Sarraut viết tiếp:
Gần đây, một trong những cộng sự viên của tôi khi viếng thăm các
tỉnh miền Bắc xứ An Nam đã nhận thấy rằng những tác phẩm ngoại quốc
phổ biến ở đây đều khơng đả động gì đến nước Pháp hoặc có nhiều phán
đốn khơng được tốt đẹp về nước Pháp. Các tác phẩm của Khang Hữu Vi
tiếp tục được phổ biến và lưu hành trong xứ bất chấp cả sự cấm đoán của
chính phủ về việc nhập cảng tất cả các loại sách Trung Hoa…”
Trên đây là ảnh hưởng gián tiếp của Đức ở Đông Dương qua trung
gian các sách vở Trung Hoa trong những năm trước chiến tranh 1914 –
1918. Tuy nhiên, trong những năm chiến tranh, ta thấy sự can thiệp của
Đức càng rõ rệt hơn. Đó là sự can thiệp trực tiếp của Đức ở Việt Nam.
b. Sự can thiệp trực tiếp của Đức ở Việt Nam dưới hình thức các loại
ấn phẩm: Chính sách tuyên truyền của Đức ở Việt Nam, ngồi những sách
báo Trung Hoa cịn có một số ấn phẩm khác hồn tồn có tính cách chống
Pháp và thân Đức. Những ấn phẩm này đã lan tràn từ Bắc chí Nam. Mùa hè
năm 1915, nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ đã khám phá ra được, trong
một cửa hàng người Trung Hoa ở Chợ Lớn những bích chương của Đức.
Những bích chương này “đã được phát hành hàng triệu tờ nói về
những nhà sáng lập ra đế quốc Pháp năm 1814 – 1815…., và hồn tồn
khơng đả động gì đến cái hay cái tốt của người Pháp và lịch sử oai hùng
của nước này. Đó là một cách tuyên truyền khéo léo và thâm độc, muốn
chống lại nó chỉ có một cách là phản tuyên truyền.”[3]


11

Dưới hình thức giúp đỡ tài chính và qn sự: Ngồi hình thức tun
truyền bằng sách báo và những ấn phẩm khác người Đức cịn can thiệp trực
tiếp vào Đơng Dương bằng viện trợ quân sự và tài chánh cho các nhà cách
mạng Việt Nam đương thời để chống lại Pháp.

Viên lãnh sự Pháp ở Quảng Đông đã điện cho viên Tồn quyền Đơng
Pháp biết rằng có nhiều “nhóm phản loạn”, được các Lãnh sự Đức ở đây
cung cấp khí giới, đóng binh tại các vùng biên giới Trung Việt, miền Lạng
Sơn và Cao Bằng”[4].
Mặt khác, Đức đã hứa cung cấp tiền cho Phan Bội Châu để mua khí
giới của một nhóm người Nhật và thỏa thuận bí mật tải các khí giới đạn
dược này đến biên giới Hoa Việt[5]. Một người Trung Hoa tên là Wou Sao
Lun, mật vụ của Đức, đã nhiều lần làm trung gian cho những cuộc gặp gỡ
giữa nước Đức và Phan Bội Châu ở công viên Lao Man Tcho (Khu Shei
Wou). Những cuộc gặp gỡ rất thường xuyên như vậy đã xảy ra[6]. Ngoài ra
Cường Để, qua sự trung gian của một người bạn Trung Hoa, đã gặp gỡ
nhiều lần viên Lãnh sự Đức ở Quảng Đơng. Người ta cịn nói đến một cuộc
xuất ngoại của Cường Để sang Berlin. Nhưng tin này đã được sở mật vụ
Pháp ở Hồng Kơng cải chính.
Các sự kiện trên cho thấy ảnh hưởng quan trọng của sự tuyên truyền
Đức ở Đông Dương và điều này đã làm mất ăn mất ngủ chính phủ Đơng
Dương lúc bấy giờ, đặc biệt là A.Sarraut. Tuy nhiên, trước những tấn công
ồ ạt của Đức (dưới mọi hình thức văn hóa, qn sự, tài chính….) chính phủ
Đơng Dương hồi đó lại khơng chú trọng đến những sách vở và báo chí cần
thiết cho một cuộc phản tuyên truyền. Báo chí xuất bản bằng tiếng Việt hay
chữ Hán đều rất ít và rất đơn sơ, do đó, khơng thể đóng một vai trị hữu ích
và đắc lực cho chính quyền Pháp trong việc phản cơng lại chính sách tun
truyền của Đức. Ở Hà Nội, lúc bấy giờ chỉ có ba tờ Đại Nam đồng văn nhật


12

báo, Đăng cổ tùng báo, Đại Việt tạp chí. Ở Sài Gịn chỉ có vài tờ viết bằng
tiếng Việt, nhưng hồn tồn có tính cách địa phương.
Chính trong hồn cảnh này mà chính phủ Đơng Pháp có sáng kiến cho

ra đời một số báo chí ngồi Bắc cũng như trong Nam hầu phản cơng một
cách ráo riết và có hệ thống trước sự tuyên truyền của Đức và trước sự
chống đối của các sĩ phu Việt Nam. Ảnh hưởng mạnh nhất trong sự tuyên
truyền của Đức là bêu xấu người Pháp, nền văn minh Pháp trong các giới sĩ
phu Việt Nam (qua sự trung gian của các sách vở Trung Hoa như đã nói ở
trên). Do đó, chính phủ Đơng Pháp lúc bấy giờ, hay đúng ra, A.Sarraut đã
có hai biện pháp để chặn đứng phong trào “bêu xấu” nước Pháp trong giới
sĩ phu Việt Nam: Tán tụng và cơ ngợi người Pháp; Tách rời họ ra khỏi ảnh
hưởng Trung Hoa và “Pháp hóa” những thành phần ưu tú của xã hội
Việt Nam.
Nói tóm lại, A.Sarraut muốn tạo ở nơi những nhà trí thức Việt Nam
một thứ huyền thoại độc tôn về nền văn minh Pháp và gây nên một thứ mặc
cảm tự ti trong nhóm người này hầu phục vụ cho một chính sách thống trị
lâu dài của Pháp ở Việt Nam. Theo A.Sarraut, có nắm được bọn sĩ phu Việt
Nam, có dẫn dụ được những thành phần ưu tú này của xã hội Việt Nam thì
người Pháp mới có thể cai trị lâu dài dân tộc Việt Nam qua sự trung gian
của những thành phần trí thức hợp tác.
Đối với A.Sarraut, để đạt được mục đích trên, khơng có gì hay hơn là
một chính sách tun truyền bằng báo chí. Chính vì vậy mà dưới thời
A.Sarraut có một số báo chí bằng tiếng Việt được ra đời. Theo tờ Đại Việt
tạp chí (số 3 tháng 3.1918), A.Sarraut cho phát hành, ngồi hai tờ Đơng
Dương và Nam Phong ở Bắc, sáu tờ trong Nam: Nam Trung nhật báo, An
Hà nhật báo, Đại Việt tạp chí, Nữ giới chung, Đèn nhà Nam, Quốc dân
diễn đàn. Trong những tờ báo trên, hầu hết những tờ xuất bản trong Nam
đều nhằm vào chính sách ngắn hạn của A.Sarraut: thơng tin và tun truyền
chống Đức. Cịn hai tờ Đơng Dương và Nam Phong ở Bắc thì nhằm vào


13


chính sách dài hạn: ca tụng người Pháp cốt để Pháp hóa các nhà trí thức
Việt Nam bấy giờ. Trong hai tờ này thì chỉ có tờ Nam Phong là nổi bật hơn
cả vì nó đã được chính phủ trực tiếp điều khiển. Cịn tờ Đơng Dương thì
khơng được cái hân hạnh sống lâu để đóng vai trị tán dương đại Pháp như
tờ Nam Phong của Phạm Quỳnh vì chủ bút, ơng Nguyễn Văn Vĩnh, tuy là
một nhà báo có tài nhưng lại là một chính khách vụng về cho nên tạp chí
của ơng đành chết yểu.
Với ý định muốn chinh phục giới sĩ phu Việt Nam, “chính phủ Đơng
Pháp mới có sáng kiến thành lập một tạp chí bằng tiếng bản xứ cho người
An Nam để giáo dục và tuyên truyền, tức là mục tiêu mà chúng ta phải
theo”.
A.Sarraut viết tiếp: “Việc thành lập tạp chí này, mà ban biên tập đã
được giao phó cho những nhà trí thức danh tiếng trong nước, đã được sửa
soạn từ nhiều tháng trước, vì khơng những phải gom góp các vật liệu trước
mà cịn phải đợi nhà in tìm mua máy móc và làm những thứ chữ cần thiệt
cho việc in tiếng quốc ngữ”[7].
Một khi vật liệu và máy móc xong xi, “văn phịng chính trị và an
ninh được phép, do nghị định ngày 30.12.1916, xuất bản một tạp chí giáo
dục và tuyên truyền hầu phổ biến trong giới trí thức An Nam”[8].
Tạp chí Nam Phong ra đời[9], A.Sarraut giao cho Louis Marty trọng
trách điều khiển. Tất cả những bài vở trước khi in đều phải qua sự kiểm
duyệt và chấp nhận của L.Marty.
Mục đích chính của tạp chí cũng đã được A.Sarraut nói rõ trong bản
tường trình của ơng gởi cho Tổng trưởng Thuộc địa Pháp ngày 15.9.1917:
“Mục đích của tạp chí này là cung cấp cho giai cấp sĩ phu và trí thức
An Nam những bài chính xác ngõ hầu họ quan niệm được cái vai trò của
nước Pháp trên thế giới về phương diện văn hóa, khoa học và kinh tế. Tạp
chí mới này, lấy tên là Nam Phong, sẽ đăng những bài phân tích chính xác
về những tác phẩm khoa học và văn chương hay nhất, tiểu sử những nhà



14

bác học danh tiếng nhất của chúng ta, những sự mô tả đẹp đẽ về nước
Pháp, những bài phiên dịch những truyện ngắn hay tiểu thuyết…. Ngay sau
khi phát hành, tạp chí này đã hồn tồn thành cơng trong giới độc giả trí
thức mà nó muốn chinh phục và nhóm người này lần đầu tiên đã tìm thấy
được một cái gì tương đương với những sách vở mà họ đã gởi mua từ bên
Tàu trước đây…”.
Mặt khác, riêng việc L.Marty chọn cái tên Nam Phong cho tờ báo
(chắc chắn có sự tham dự ý kiến của Phạm Quỳnh) cũng cho ta thấy rõ
dụng ý khi cho ra đời tạp chí này. Theo L.Marty[10], sáng lập viên chính
thức của tờ báo này, thì cái tên Nam Phong được bắt nguồn từ một bài thơ
cổ danh tiếng Trung Hoa được làm ra dưới thời vua Thuấn (2255 trước
Thiên chúa). Sau đây là bản dịch bằng tiếng Pháp của L.Marty:
Les tièdes effluves du Vent du midi
Dissipent les chagrins de mon peupl
La saison deu Vent du midi
Accoit la richesse de mon peuple!
Theo L.Marty, cái “ngọn gió Nam” này đã được xoay chuyển sắp xếp
theo những ảnh hưởng tốt nhất. Một trong những đề mục thích hợp nhất
cho tạp chí này nằm trong sự đối kháng của nền văn minh Hy lạp chống lại
nền văn minh của các nước Đức, chính hai chữ Nam Phong là một ám chỉ
rất thích hợp cho mục đích của nó. Đằng khác, như đã nói, tạp chí này được
đưa ra để nâng cao trình độ tinh thần và trí thức của dân An Nam, từ đó
người ta có thể tìm thấy ngay trong cái tên của tạp chí ngụ ý của mục đích
thứ hai: vì chữ “Nam” là chữ tắt của An Nam, nó có cái nghĩa bóng là
“ngọn gió tái tạo xứ An Nam”[11].
Như vậy mục đích của tờ Nam Phong đã rõ. Nó là một dụng cụ cho
bộ máy tun truyền của chính phủ Pháp; nó có mục đích là tơn trọng, ca

ngợi người Pháp, chống lại sự bêu xấu của Đức qua các sách báo Trung
Hoa ở Việt Nam. Chính vì vậy mà chúng ta khơng lấy gì làm ngạc nhiên


15

khi đọc trên bìa tờ Nam Phong những câu như: la France devant le monde;
son rôle dans la guerre des Nations… Và bìa sau của tờ báo với hình
“rồng Nam phun lửa diệt Đức tặc”. Và chúng ta có thể đọc trong Nam
Phong những bài viết về chiến tranh (1914-1918) với một giọng căm thù
Đức rất hăng say của ký giả Tuyết Huy: “Vái Trời phù hộ mẹ nuôi ta, mau
mau giết hết lũ yêu ma, mà vun lại mầm dân tộc” (Nam Phong, số 2).
2. Nguyên nhân sâu xa: Pháp hóa giới trí thức Việt Nam
Ngồi việc chống Đức, Nam Phong cịn nhắm một chính sách dài
hạn. Chính trong địa hạt này Nam Phong đã đóng một vai trị rất quan
trọng, vai trò ca tụng và tán dương nền văn minh Pháp bị bêu xấu bởi sự
tuyên truyền của Đức ở Việt Nam nhất là trong các giới trí thức mà từ xưa
nay chỉ biết có nền văn minh Trung Hoa mặc dù có sự hiện diện của người
Pháp là những kẻ chinh phục mới ở ngay trước mắt họ. Vì vậy, tạp chí
Nam Phong có cái sứ mạng là giới thiệu nền văn minh Pháp trước nhân
dân Việt Nam, nhất là với các sĩ phu Việt Nam bấy giờ; “Pháp hóa” những
thành phần ưu tú này của xã hội Việt Nam ngõ hầu dễ bề thống trị lâu dài
trên bán đảo Đơng Dương. Chính L.Marty cũng xác nhận mục đích này của
tờ Nam Phong: “Tạp chí, có cái tên Nam Phong, được xuất bản hai thứ
tiếng, chữ An Nam và chữ Tàu. Nó nhắm mục đích phổ biến một cách sâu
xa trong giới trí thức An Nam và cái tầm hoạt động của nó cịn lan rộng
trong giới kiều dân Trung Hoa ở Đông Dương và các tỉnh Trung Hoa gần
biên giới Hoa Việt”[12].
Chính vì cái vai trị quan trọng của nó mà A.Sarraut mới giao phó cho
L.Marty đảm nhiệm, và tờ báo được lãnh phụ cấp của chính phủ mỗi tháng

là 400$, một số tiền rất lớn thời bấy giờ[13].
Đến khi viên chủ bút của nó là ông Phạm Quỳnh được bổ nhiệm ra
làm quan ở Huế, tờ báo vắng chủ, không tiền phụ cấp nên đành đóng cửa.
Đọc Nam Phong, số cuối cùng ra ngày 15.8.1934, ta thấy những dịng sau
đây bằng tiếng Pháp: “Ơng bạn Hán Thu (Nguyễn Tiến Lãng) đã cố gắng


16

làm trẻ lại cơ quan của chúng tơi, nhưng vì sự khó khăn về ngân sách,
chính phủ khơng cịn giúp đỡ chúng tơi nữa… Một tạp chí văn học sống
nhờ vào sự giúp đỡ của các Mạnh Thường Quân. Đông Pháp khơng cịn là
Mạnh Thường Qn của chúng tơi nữa. Chúng tôi đành phải tự bay bằng
đôi cánh riêng của chúng tơi vậy”.
Theo những sự kiện mà tơi đã trình bày ở trên, chúng ta biết tại sao,
trong trường hợp nào tờ Nam Phong ra đời và thâm ý chính trị của người
Pháp trong khi cho phát hành tờ tạp chí văn học này. Như vậy, chúng ta có
thể nói rằng văn học của tạp chí Nam Phong là một thứ văn học nhằm phục
vụ cho mục đích chính trị của Pháp, vì ngun do ra đời của nó là một dụng
ý chính trị, do đó mục tiêu cuối cùng của nó là một dụng ý chính trị. Chúng
ta khơng thể nào phán xét văn học của tạp chí Nam Phong một cách riêng
rẽ, một thứ văn học thuần túy và coi như khơng có liên quan gì đến chính
trị. Một sự nhận xét như thế là sai lầm và chủ quan, và dĩ nhiên là chúng ta
không khỏi rơi vào bẫy của chính sách tun truyền văn hóa của thực dân
Pháp.
Kết luận bài này, để nói lên cái giá trị và địa vị của tờ Nam Phong
trong lịch sử và văn học nước nhà, tơi xin trích ra đây một đoạn nói về
Nam Phong đăng trong báo Phụ nữ tân văn (số 273, Paaques 1935), mà
theo tơi khơng có gì xác đáng hơn trong sự đánh giá đúng mức cái vai trị
của tạp chí Nam Phong và của ơng Phạm Quỳnh mà một vài trí thức Việt

Nam vẫn cịn chiêm ngưỡng: “Cái tinh thần của một người ăn vận quốc
phục và cư xử như một giáo sĩ của đạo Nho truyền nhiễm khắp Nam Phong
thật là tẻ ngắt, thật là nơng nổi, thật là hèn. Ơng Phạm Quỳnh hay khen, mà
chỉ khen người có tiền của thế lực, đại khái như khen ơng Bạch Thái Bưởi.
Chính cái tinh thần thấp hèn ấy là yếu tố cho một thứ văn học mà ta có thể
gọi là văn học Nam Phong. Học trò ở các trường Tiểu học phải đọc những
bài văn trích ở Nam Phong thiệt là một sự bất hạnh. Công chúng không bao
giờ mến ông Phạm Quỳnh, nhưng Nam Phong có lý tài vững vàng để xuất


17

bản thường xuyên và được quan quyền ủng hộ thì thế nào nó cũng có ảnh
hưởng trong hàng trí thức. Ảnh hưởng ấy là một cái ảnh hưởng rất xâu xa,
cái văn học hàng phục đã dẫn dụ một số người trí thức cúi đầu mà nhận hết
thảy những sự bất bình ở trong xã hội…Nam Phong đã ảnh hưởng sâu xa
đến một số người viết báo và văn sĩ, thứ nhất là những người sơ học chỉ
nhờ đọc quốc văn mà biết văn học, triết học. Vì thiếu phổ biến học thức, vì
khơng am hiểu Pháp văn, thành ra nhiều văn sĩ phải học trong Nam Phong
các môn học thức phổ thơng, và nhân đó mà bị cảm nhiễm cái tinh thần nơ
lệ của nó. Cho đến nỗi nhiều nhà chủ trương rằng nên đánh đổ ý kiến chính
trị của ông Phạm Quỳnh mà yêu cái tài văn chương của ơng! Đó là một sự
lầm lạc to tát: Tất cả ý kiến văn học, triết học, xã hội, chính trị của ông
Phạm Quỳnh làm thành một cái thống hệ, mà cái thống hệ đó chỉ là cái chủ
nghĩa khuất phục của một người muốn nhờ cây bút đưa đến chỗ giàu
sang….”.
II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA TỜ NAM PHONG TẠP
CHÍ
1. Diện mạo thể loại
Qua 17 năm phát triển, mảng sáng tác đã ghi dấu ấn sắc nét trên Nam

phong tạp chí, đặc biệt khi đặt trong tương quan đời sống văn học trên báo
chí giai đoạn cùng thời(1917-1934). Thực tế cho thấy, mặc dù có thời gian
hai năm tồn tại song song và giao thoa với phong trào Thơ mới (19321934) nhưng thơ ca trên Nam phong tạp chíchủ yếu thuộc dòng thơ cũ gắn
với thể Đường luật và khơng để lại dấu ấn nào đáng kể. Do tính chất phức
tạp, phức hợp, nguyên hợp của các loại hình và thể loại văn học mà nhà thư
mục học Nguyễn Khắc Xuyên đã phân các bài viết trên Tạp chí thành 7
chủng mục cơ bản: - văn học, văn hóa, văn minh; - văn gia, thi gia; - văn
phẩm; - văn thể; - văn học thế giới; - văn học Pháp; - văn học Trung
Hoa[16, tr.378-402]. Sự phân loại trên đây chỉ là một phương án và còn
khá cọc cạch. Tuy nhiên, có thể cho rằng, thành tựu sáng tác trên Nam


18

phong tạp chí chủ yếu lại là văn xi với hai thể loại chính là du ký và
truyện ngắn.
2. Du ký
Trong nền văn học trung đại Việt Nam đã có nhiều sáng tác thuộc thể
tài du ký (như thơ ca đề vịnh phong cảnh Thăng Long, núi Bài Thơ, Yên
Tử, Hoa Lư, sông Hương núi Ngự, Gia Định, Hà Tiên...). Bước sang thế kỷ
XX, thể tài du ký có bước phát triển mạnh mẽ. Khi thực hiện cơng
trình Mục lục phân tích Tạp chí Nam phong, nhà thư mục Nguyễn Khắc
Xun xác định du ký (cịn được ơng gọi là du hành)là 1 trong 14 bộ mơn.
Ơng nêu nhận xét: “Nhiều khi chúng ta tự cảm thấy, sống trong đất nước
với giang sơn gấm vóc mà khơng được biết tới những cảnh gấm vóc giang
sơn. Thì đây, theo tờ Nam phong, chúng ta có thể một phần nào làm lại
cuộc hành trình qua tất cả những phong cảnh hùng vĩ nhất, đẹp đẽ nhất của
đất nước chúng ta từ Bắc chí Nam, từ Cao Bằng, Lạng Sơn đến đảo Phú
Quốc, từ núi Tiên Du đến cảnh Hà Tiên và Ngũ Hành Sơn, từ Cổ Loa, Hạ
Long đến Huế thơ mộng... Với thời gian, hẳn những tài liệu này càng ngày

càng trở nên quý hoá đối với chúng ta... Trong mục Du ký này, phải kể
bài Hạn mạn du ký của Nguyễn Bá Trác, Lại tới Thần kinh của Nguyễn
Tiến Lãng; Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam kỳ, và nhất là Pháp du
hành trình nhật ký của Phạm Quỳnh” [17, tr.10-22].
Thông qua các chuyến đi, các cuộc giao lưu mà mỗi người vừa tăng
thêm nhận thức và niềm tự hào dân tộc, vừa chiêm nghiệm và chứng
nghiệm được đầy đủ tình nghĩa đồng bào. Trong một chuyến tới thăm Hà
Nội, ông Nguyễn Tử Thức, chủ bút Nam trung nhựt báo ở Sài Gòn, đã phát
biểu trên Nam phong tạp chí: “Thiệt chúng tơi khơng ngờ giang sơn nước
Nam ta cẩm tú như vầy. Là bởi xưa nay chưa đi khắp nên chưa biết, chưa
biết bờ cõi nước ta to rộng, nhân dân nước ta đông đảo là dường nào. Tới
nay mới biết, càng biết mà cái cảm tình đối với tổ quốc càng chan chứa biết
bao!... Khi tới Tourane, khi tới Hải Phịng, quanh mình tồn những người


19

bổn quốc, cùng ăn bận như mình, cùng nói năng như mình, nhận ra mới
biết người với mình, mình với người, tuy ăn ở xa nhau mà cũng là người
một nòi một giống, chớ đâu” [3, tr.126].
Bài Cảnh vật Hà Tiên (do Đông Hồ và Nguyễn Văn Kiểm sao lục) đã
mở đầu bằng niềm tự hào: “Tỉnh Hà Tiên có nhiều cảnh đẹp, có bãi dài
biển rộng, hồ trong núi biếc, mỗi cảnh đều có vẻ đẹp thiên nhiên của tạo
hố... Cảnh bãi biển thì kiêm cả màu trời sắc nước, bãi cát mênh mơng, gió
nam mát mẻ. Cảnh núi như Thạch Động có các kỳ quan qi thạch, núi
Bình San, núi Tơ thì có cỏ đẹp hoa thơm...”. Niềm tự hào trước vẻ đẹp quê
hương xứ sở của tác giả cũng đồng điệu với tấm lòng người chủ báo qua
mấy dòng đề tựa đầy ý nghĩa: “Muốn cho con trẻ u mến nước nhà thì
phải cho con trẻ thơng thuộc nước nhà, hiểu biết cả lịch sử, địa lý, lễ giáo,
phong tục; nhỏ từ cách sinh hoạt trong dân gian; lớn đến các kỷ cương về

đạo lý, ngõ hầu mới có lịng thiết tha đến nơi q hương tổ quốc của mình.
Lại trước khi biết đến cái tổ quốc lớn là toàn thể quốc gia, phải biết cái tổ
quốc nhỏ là nơi địa phương mình sinh trưởng đã” [6, tr.145].
Vượt qua những áp đặt tuyên truyền tư tưởng chính trị “Pháp - Việt đề
huề” và hạn chế lịch sử nhất định, Nam phong tạp chíđã tiếp nối được tinh
thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc từ cội nguồn văn học truyền thống.
Trong một chừng mực nhất định, nhiều trí thức cựu học và tân học đã biết
lợi dụng diễn đàn công khai để khơi gợi và giáo dục tình cảm yêu nước,
nhắc nhớ lại truyền thống đấu tranh anh dũng ngàn năm (thông qua việc
tưởng niệm các danh nhân đất nước như An Dương Vương, Lý Thái Tổ,
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung...; và thơng qua việc
ca ngợi các di tích lịch sử như Cổ Loa, đền Lý Bát Đế, hồ Hoàn Kiếm, Hoa
Lư, lăng điện xứ Huế, danh thắng Bà Nà, Ngũ Hành Sơn, Sài Gịn, Tây Đơ,
Phú Quốc, Thạch Động, Hà Tiên).
Xét trên phương diện hình thức, thể tài du ký thu nạp nhiều phong
cách thể loại, Nam phong tạp chíchịu sự chỉ đạo và quản lý trực tiếp của


20

chính quyền đương thời nên buộc phải phát ngơn tiếng nói quan phương.
Tuy vậy, các bài du ký này vẫn thể hiện được niềm tự hào dân tộc và cảm
xúc chân thành trước vẻ đẹp non sông đất nước. Hơn nữa, nhiều bài du ký
(như Cùng các phái viên Nam Kỳ, Một tháng ở Nam Kỳ, Mười ngày ở
Huế, Pháp du hành trình nhật ký; Tổng thuật về việc phái bộ Bắc Kỳ đi
quan sát đường xe lửa Vinh - Đơng Hà...) lại thực sự có giá trị sử liệu để
xem xét nhiều sự kiện, hiện tượng văn hoá - xã hội và định vị hoạt động tổ
chức hành chính của giai tầng công chức thượng lưu dưới thời thực dân
phong kiến. Có bài du ký viễn du ghi lại những chuyến du hành vượt biên
giới, đòi hỏi cả nguồn kinh phí, u cầu cơng việc và ý chí của người ham

hoạt động. Các bài du ký này đã mở ra những chân trời nhận thức mới, đưa
lại niềm phấn khích. Đó là những bài du ký dài hơi, phong phú, hấp dẫn
như Hạn mạn du ký (kể lại cuộc đi chơi phiếm qua Bangkok - Hương Cảng
- Nhật Bản - Thượng Hải - Nam Kinh - Quảng Tây - Quế Lâm - Bắc Kinh Tứ Xuyên - Quảng Đông và trở về nước); Pháp du hành trình nhật ký (kể
về chuyến đi trong sáu tháng, từ khi dời bến Sài Gòn ngày 15-3-1922, qua
những ngày lênh đênh trên biển và ở lại thăm thú nước Pháp văn minh hoa
lệ, cho tới ngày 11-9 về tới cảng Hải Phịng). Có bài du ký thiên về khảo
cứu danh nhân lịch sử, truyền thuyết và sự tích liên quan tới một địa điểm,
địa danh cụ thể. Loại du ký này thường là kết quả sau một chuyến picnic
giới hạn trong thời gian ngắn. Ví dụ, đó là Ba Bể du ký (Nhạc Anh Hoàng
Văn Trung), Du Ngọc Tân ký, Du Tử Trầm Sơn ký, Bài ký chơi Cổ Loa,
Cuộc đi chơi năm tầng núi, Cuộc đi chơi Sài Sơn (Tùng Vân Nguyễn Đơn
Phục), Bà Nà du ký (Huỳnh Bảo Hồ), Thăm lăng Sĩ Vương, Nam du đến
Ngũ Hành Sơn (Nguyễn Trọng Thuật)... Có bài du ký hướng tới khảo sát,
giới thiệu cả một vùng văn hoá sinh thái rộng lớn. Loại du ký này địi hỏi
người viết có thời gian du ngoạn theo “tua” dài hơi và đòi hỏi vốn kiến văn
sâu rộng, có sự chuẩn bị tư liệu cơng phu và ghi chép thực địa kỹ lưỡng.
Các bài du ký tiêu biểu kiểu này có: Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam



×