Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Nghiên cứu đặc điểm sinh học và sức sản xuất của gà đa cựa nuôi tại xã Xuân Sơn, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.48 MB, 93 trang )


Số hóa bởi trung tâm học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




BÙI THẾ HOÀN




NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
VÀ SỨC SẢN XUẤT CỦA GÀ ĐA CỰA NUÔI TẠI
XÃ XUÂN SƠN HUYỆN TÂN SƠN TỈNH PHÚ THỌ

Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số: 60.62.01.05







: TS. TRƢƠNG HỮU DŨNG







THÁI NGUYÊN - 2014

Số hóa bởi trung tâm học liệu

i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu và
kết quả trình bày trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào.

được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ
nguồn gốc.

Tác giả luận văn




Bùi Thế Hoàn
















Số hóa bởi trung tâm học liệu

ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bản luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
các thầy giáo, cô giáo Khoa Chăn nuôi, khoa sau Đại học - Trường Đại học
Nông lâm Thái Nguyên, đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.
Nhân dịp này cho phép tôi bày tỏ lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất
đến thầy hướng dẫn là TS. Trương Hữu Dũng, đã trực tiếp tận tình hướng dẫn
tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn.
,
khích lệ trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, ngày 6 tháng 2 năm 2014
Tác giả Luận văn


Bùi Thế Hoàn


Số hóa bởi trung tâm học liệu

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU vii
DANH MỤC HÌNH viii
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu 3
1.1.1. Cơ sở nghiên cứu một số đặc điểm sinh học ở gia cầm 3
1.1.2. Cơ sở nghiên cứu một số đặc điểm sinh trưởng và các yếu tố ảnh hưởng
tới khả năng sinh trưởng của gia cầm 6
1.1.3. Cơ sở nghiên cứu một số đặc điểm sinh sản của gia cầm 15
1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 23
1.2.1. Tình hình nghiên cứu gia cầm trên thế giới 23
1.2.2. Tình hình nghiên cứu gia cầm ở Việt Nam 24
1.3. Vài nét về gà Đa Cựa 26
1.4. Một số đặc điểm tự nhiên của xã Xuân Sơn 27
CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 29
2.1. Đối tượng nghiên cứu 29
2.2. Địa điểm nghiên cứu 29

Số hóa bởi trung tâm học liệu


iv
2.3. Nội dung nghiên cứu 29
2.4. Phương pháp nghiên cứu 29
2.4.1. Phương pháp theo dõi đặc điểm sinh học gà Đa Cựa 29
2.4.2. Phương pháp theo dõi sinh trưởng của gà Đa Cựa 30
2.4.3. Phương pháp phân tích thành phần hóa học, chất lượng thịt 31
2.4.4. Phương pháp theo dõi sinh sản của gà Đa Cựa 33
2.5. Các chỉ tiêu nghiên cứu 33
2.5.1. Các chỉ tiêu về đặc điểm sinh học 33
2.5.2. Chỉ tiêu về sinh lý sinh dục 33
2.5.3. Chỉ tiêu về năng suất sinh sản 35
2.5.4. Chỉ tiêu sinh trưởng 36
2.5.5. Chỉ tiêu về khảo sát năng suất thịt 36
2.6. Phương pháp sử lý số liệu 37
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 38
3.1. Cơ cấu và sự phân bố đàn gà Đa Cựa tại xã Xuân Sơn-Tân Sơn-Phú Thọ38
3.1.1. Số lượng gà Đa Cựa nuôi tại xã Xuân Sơn 38
3.1.2. Cơ cấu phân bố và qui mô đàn gà nuôi tại Xuân Sơn-Tân Sơn-Phú Thọ40
3.2. Một số chỉ tiêu về đặc điểm sinh học của gà Đa Cựa nuôi tại Xuân Sơn-
Tân Sơn-Phú Thọ 43
3.2.1. Đặc điểm ngoại hình của gà Đa Cựa nuôi tại xã Xuân Sơn 43
3.2.2. Một số tập tính sinh hoạt của giống gà Đa Cựa nuôi tại xã Xuân Sơn-
Tân Sơn-Phú Thọ 49
3.3. Một số chỉ tiêu về tuổi thành thục về tính và sinh sản của giống gà Đa
Cựa nuôi tại Xuân Sơn - Thanh Sơn - Phú Thọ 50
3.3.1. Một số chỉ tiêu về thành thục sinh dục 50
3.3.2 .Tỷ lệ đẻ và năng suất, chất lượng trứng của giống gà Đa Cựa nuôi tại
Xuân Sơn-Tân Sơn-Phú Thọ 52

Số hóa bởi trung tâm học liệu


v
3.4. Kết quả theo dõi khả năng sinh trưởng của giống gà Đa Cựa nuôi tại
Xuân Sơn - Tân Sơn - Phú Thọ 57
3.5. Đánh giá khả năng cho thịt của đàn gà Đa Cựa 61
3.5.1. Kết quả mổ khảo sát 61
3.5.2. Đánh giá chất lượng thịt của giống gà Đa Cựa nuôi tại Xuân Sơn 64
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 70
1. Kết luận 70
2. Đề nghị 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
PHỤ LỤC


Số hóa bởi trung tâm học liệu

vi
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

cs : Cộng sự
ĐVT : Đơn vị tính
KL : Khối lượng
NST : Năng suất trứng
STT : Số thứ tự
TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam
TL : Tỷ lệ
VCK : Vật chất khô

Số hóa bởi trung tâm học liệu


vii
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1: Số lượng gà Đa Cựa nuôi tại Xuân Sơn qua các năm 38
Bảng 3.2: Cơ cấu phân bố đàn gà nuôi tại xã Xuân Sơn 41
Bảng 3.3: Qui mô chăn nuôi gà Đa Cựa 42
Bảng 3.4: Nguồn gốc nhân đàn gà Đa Cựa nuôi tại xã Xuân Sơn 43
Bảng 3.5: Đặc điểm màu lông của gà Đa Cựa 20 tuần tuổi 44
Bảng 3.6. Kiểu mào của gà Đa Cựa 28 tuần tuổi 46
Bảng 3.7. Số cựa hai bên chân của gà Đa Cựa 20 tuần tuổi 48
Bảng 3.8. Màu da chân của gà Đa Cựa 20 tuần tuổi 49
Bảng 3.9: Tập tính sinh hoạt của gà Đa Cựa 20 tuần tuổi 50
Bảng 3.10: Một số chỉ tiêu về tuổi thành thục sinh dục của gà Đa Cựa 51
Bảng 3.11: Một số chỉ tiêu về tỉ lệ đẻ và năng suất trứng 53
Bảng 3.12: Một số chỉ tiêu chất lượng trứng của đàn gà thí nghiệm 55
Bảng 3.13. Sinh trưởng tích lũy của gà Đa Cựa 0 - 28 tuần tuổi (g) 58
Bảng 3.14: Khảo sát thành phần thân thịt của giống gà Đa Cựa ở các độ tuổi
khác nhau 62
Bảng 3.15: Phân tích một số thành phần hóa học của thịt ngực gà Đa Cựa ở 20
tuần tuổi (n=3) 64
Bảng 3.16: Độ pH của thịt gà Đa Cựa ở 20 tuần tuổi 65
Bảng 3.17: Tỷ lệ mất nước do bảo quản, chế biến vàđộ dai của thịt gà Đa Cựa
ở 20 tuần tuổi 67
Bảng 3.18: Màu sắc sau bảo quản 24h của thịt gà Đa Cựa ở 20 tuần tuổi 68

Số hóa bởi trung tâm học liệu

viii
DANH MỤC HÌNH
Hình 3.1. Gà Đa Cựa 1 ngày tuổi 44

Hình 3.2. Một số màu lông gà 20 tuần 45
Hình 3.3. Kiểu mào trái dâu 46
Hình 3.4. Kiểu mào cờ 46
Hình 3.6. Gà trống 7 cựa 20 tuần tuổi 48
Hình 3.7. Đồ thị tỷ lệ đẻ của đàn gà thí nghiệm theo dõi tại 12 nông hộ 54
Hình 3.8. Đồ thị sinh trưởng từ sơ sinh đến 28 tuần tuổi của gà Đa Cựa 61












Số hóa bởi trung tâm học liệu

1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Chăn nuôi gà nói riêng và chăn nuôi gia cầm nói chung là nghề sản
xuất truyền thống lâu đời và chiếm vị trí quan trọng trong tổng giá trị sản xuất
của ngành chăn nuôi nước ta.
Hiện nay, với sự phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp hóa,
ngành chăn nuôi gia cầm đã đáp ứng đủ về mặt số lượng cho nhu cầu của thị
trường. Tuy nhiên, khi đời sống xã hội ngày càng cao, càng phát triển thì
người tiêu dùng lại hướng đến thị trường chăn nuôi nhằm mục đích phục vụ

thị hiếu đa dạng của con người.
Là người Việt Nam không ai không biết đến câu chuyện truyền thuyết
Vua Hùng kén rể (Truyện Sơn Tinh Thủy Tinh), trong câu chuyện này có xuất
hiện một loài gia cầm được chọn làm lễ vật gả công chúa mà ai cũng nghĩ nó
chỉ có trong truyền thuyết, đó là con gà chín cựa. Ngày nay, ở vùng đất tổ Phú
Thọ xuất hiện giống gà lạ, từ khi nở ra gà đã có nhiều ngón chân, các ngón
chân này mọc thành từng chùm ở vị trí cổ chân, gần với vị trí cựa của các
giống gà địa phương khác. Gà có tên là gà Đa Cựa, được gọi theo cách gọi
của người dân địa phương.
Gà Đa Cựa là gà quý hiếm ngoài việc gắn liền với truyền thuyết, nó còn
gắn liền với đời sống của người dân tộc Dao, đã được phát hiện, thuần hóa và
nuôi tập trung ở xã Xuân Sơn - huyện Tân Sơn - tỉnh Phú Thọ. Giống gà này
có đặc điểm ngoại hình rất đặc biệt là từ khi sinh ra chân gà đã mọc từng
chùm cựa, chất lượng thịt thơm ngon và được coi như một món quà quý về
mặt tâm linh.
Gà được nuôi với hình thức chăn thả tự nhiên, chủ yếu sống trên đồi,
tối mới về chuồng ngủ. Nguồn thức ăn chính là giun, dế, cỏ do gà bới tìm,
một phần là ngô, thóc và các sản phẩm phụ nông nghiệp khác. Đây là một

Số hóa bởi trung tâm học liệu

2
giống gà quý, có khả năng chống chịu với các loại bệnh cao, nhưng hiện nay
gà Đa Cựa có số lượng ít, phân tán, tỷ lệ nuôi sống thấp, thường bị lai tạp với
các giống gà khác và cũng chưa có nhiều nghiên cứu về giống gà này.
Để đóng góp cơ sở khoa học cho việc đánh giá một cách có hệ thống về
giống gà Đa Cựa nuôi tại xã Xuân Sơn - huyện Tân Sơn - tỉnh Phú Thọ và
cung cấp số liệu cơ sở để so sánh với các giống nội địa khác. Cũng như góp
phần nâng cao chất lượng, số lượng của giống gà này ở các địa phương trong
tỉnh, nhằm tăng thu nhập, góp phần xoá đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc

vùng cao, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu đặc điểm sinh
học và sức sản xuất của gà Đa Cựa nuôi tại xã Xuân Sơn huyện Tân Sơn
tỉnh Phú Thọ".
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu được cơ cấu, sự phân bố, đặc điểm sinh học và sức sản xuất
của gà Đa Cựa nuôi tại xã Xuân Sơn-Tân Sơn-Phú Thọ.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả của đề tài sẽ cung cấp các thông tin đầu tiên về gà Đa Cựa nuôi
trong nông hộ tại xã Xuân Sơn-Tân Sơn-Phú Thọ.
Các số liệu thu được phục vụ cho côn ,
thành lập giống gà mới, là tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu phát triển
tiếp theo.
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm rõ về đặc điểm sinh học, khả năng
sinh trưởng, sản xuất của gà Đa Cựa. Từ đó cung cấp thông tin kỹ thuật, kinh
tế giúp người chăn nuôi lựa chọn phương thức nuôi phù hợp. Giúp các nhà
quản lý trong việc định hướng bảo tồn nguồn gen vật nuôi, nhằm tạo ra sản
phẩm có giá trị, nâng cao hiệu quả chăn nuôi trong nông hộ để phát triển hơn
nữa gà Đa Cựa.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

3
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Cơ sở nghiên cứu một số đặc điểm sinh học ở gia cầm
1.1.1.1. Ngoại hình của gia cầm
Theo Đặng Hữu Lanh và cs (1999)[22] màu sắc da, lông là mã hiệu
của giống, một tín hiệu để nhận dạng con giống. Màu sắc và phối hợp màu
sắc đã đi vào khía cạnh thẩm mỹ của con người. Màu sắc da, lông là một

chỉ tiêu cho chọn lọc: thông thường màu sắc đồng nhất là giống thuần, trên
cơ sở đồng nhất đó mà loang là không thuần, đã bị pha tạp. Màu sắc do một
số ít gen kiểm soát nên có thể sử dụng để phân tích di truyền dự đoán màu
của đời sau trong chọn lọc.
Hầu như không có tính trạng bên ngoài nào của vật nuôi được những
nhà chăn nuôi chú ý bằng sắc lông và đốm. Vì vậy, không lấy làm lạ khi
thấy sắc lông là một tính trạng của phẩm giống và đặc tính của phần lớn
phẩm giống đều có yêu cầu nhất định về sắc lông. Sắc tố da, lông của gà
được xác định bằng hai loại sắc tố là xantofin và melanin. Xantofin là sắc
tố tinh thể màu vàng, chất này gà lấy từ thức ăn, nó chỉ nằm ở da những
con có sắc vàng ở da, mỏ và cổ chân đều đồng hợp thể theo gen mà alen
trội của nó (W) hạn chế sự tích luỹ cơ - xantofin trong máu và mỡ (Hutt).
Melanin có ở da và gốc lông, xuất hiện không phụ thuộc vào lứa tuổi.
Ở những con hoàn toàn có màu, da thường có melanin. Ngoài ra,
trong một vài trường hợp đặc biệt, chất này cũng có cả ở lớp da trong, da
ngoài. Ở những con đồng hợp thể hay nửa đồng hợp thể do gen lặn (id) liên
kết với giới tính, chất melanin không lan rộng được do lớp da trong hạn
chế. Nếu lớp da ngoài cũng có chất xantofin thì da có màu óng ánh thấy rõ

Số hóa bởi trung tâm học liệu

4
qua các tế bào Stratun corneum trong vắt của cẳng chân. Nếu cũng trong
lớp da ấy mà lại có xantofin nữa thì màu trở thành xanh. Ở các giống có
màu sắc đen, màu vàng có thể hoàn toàn do màu đen che lấp.
Giải thích di truyền màu sắc da của các loại gia cầm như vậy, còn về
màu sắc lông thì phức tạp hơn. Sự thay đổi về màu sắc lông do các nguyên
nhân: thứ nhất là do màu sắc, hình thức và sự phân bố các hạt màu trong tế
bào, thứ hai là số lượng các lớp tế bào cấu trúc và khả năng thâu nhạy ánh
sáng của các tế bào ấy (Hutt). Vì vậy, loại màu sắc này phụ thuộc vào cấu

trúc. Ví dụ: các màu xanh, đỏ thường thấy ở gà đen. Ở phần lớn các giống
gà, gà trống và gà mái được phân biệt nhau qua bộ lông, lông gáy, vòng
cung cánh và lông seo ở gà trống thì nhọn, cong và dài. Tính trạng màu sắc
và kiểu lông là tính trạng bị giới hạn bởi giới tính.
Mào là đặc điểm sinh dục thứ cấp nên có thể phân biệt trống, mái.
Mào gà rất đa dạng cả về hình dáng, kích thước, màu sắc, có thể đặc trưng
cho từng giống. Theo hình dạng mào người ta phân biệt các loại: mào cờ
(mào đơn), mào hạt đậu, mào hoa hồng, mào nụ.
Cổ, bàn và ngón chân thường có vẩy sừng bao kín, cơ tiêu giảm chỉ còn
gân và da. Chân thường có vuốt và cựa. Cựa có vai trò cạnh tranh sinh sản và
đấu tranh sinh tồn của loài. Chân gia cầm có 4 ngón, hiếm khi 5 ngón vì thế
khi phát hiện chân gà Đa Cựa có từ 3-8 cựa (ngón) là phát hiện mới cần có
các nghiên cứu đi sâu vào nghiên cứu về giống gà địa phương này.
1.1.1.2. Tập tính và sức đề kháng
Tập tính động vật là chuỗi những phản ứng trả lời lại các kích thích
của môi trường (bên trong cũng như bên ngoài cơ thể) nhờ đó mà động vật
tồn tại và phát triển.
Dựa vào các đặc điểm của tập tính động vật, có thể phân biệt thành 2
nhóm tập tính chính là: tập tính bẩm sinh và tập tính thứ sinh.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

5
Tập tính bẩm sinh (inborn): là những hoạt động cơ bản của cơ thể
động vật mà ngay từ khi sinh ra đã có, không cần qua học hỏi, rèn luyện,
mang tính bản năng, được di truyền từ bố mẹ, không thay đổi và không
chịu ảnh hưởng của điều kiện và hoàn cảnh sống, chúng được quyết định
bởi yếu tố di truyền.
Tập tính thứ sinh (acquired): là loại tập tính được hình thành trong
quá trình sống do học tập hoặc do có sự bàn giao giữa các cá thể cùng loài.

Ở những nhóm động vật càng cao, càng tiến hóa, loại tập tính đó học
được càng nhiều, do đó chúng càng dễ thích nghi với điều kiện và hoàn cảnh
sống. Ngoài ra, có thể kể loại tập tính thứ ba là tập tính hỗn hợp (mixed).
Sức sống và khả năng kháng bệnh là một chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng
trực tiếp tới cơ thể. Hiệu quả chăn nuôi bị chi phối bởi các yếu tố bên trong cơ
thể (di truyền) và môi trường ngoại cảnh (dinh dưỡng, chăm sóc, mùa vụ, dịch
tễ, chuồng trại ). Lê Viết Ly (1995)[19] cho biết, động vật thích nghi tốt thể
hiện ở sự giảm khối lượng cơ thể thấp nhất khi bị stress, có sức sinh sản tốt,
sức kháng bệnh cao, sống lâu và tỷ lệ chết thấp.
Sức sống được xác định bởi tính di truyền, đó là khả năng có thể chống
lại những ảnh hưởng bất lợi của môi trường cũng như ảnh hưởng của dịch
bệnh (Johanson, 1972) [13].
Sự giảm sức sống ở giai đoạn hậu phôi có thể do tác động của các gen
nửa gây chết, nhưng chủ yếu là do tác động của môi trường (Brandsch and cs,
1978) [58]. Các giống vật nuôi nhiệt đới có khả năng chống bệnh truyền
nhiễm, bệnh ký sinh trùng cao hơn so với các giống vật nuôi ở vùng ôn đới
(Trần Đình Miên và cs, 1994) [32].
Trần Thị Mai Phương, (2004) [26] cho biết, tỷ lệ nuôi sống của gà Ác
từ 0 - 8 tuần tuổi đạt 93,6 - 96,9%. Tỷ lệ nuôi sống của gà Ri từ 0 - 9 tuần
92,11% (Nguyễn Đăng Vang và cs, 1999) [42].

Số hóa bởi trung tâm học liệu

6
1.1.2. Cơ sở nghiên cứu một số đặc điểm sinh trưởng và các yếu tố ảnh
hưởng tới khả năng sinh trưởng của gia cầm
1.1.2.1. Khái niệm về sinh trưởng và phát triển
Về mặt sinh học, sự sinh trưởng được xem như quá trình tổng hợp
protein, nên người ta thường lấy việc tăng khối lượng làm chỉ tiêu đánh giá
khả năng sinh trưởng, sinh trưởng là một quá trình sinh lý phức tạp và tuân

theo những quy luật nhất định. Trần Đình Miên và cs, (1995)[24] cho biết:
Mydedorpho A.F là người đầu tiên phát hiện ra quy luật sinh trưởng theo giai
đoạn của gia súc, cho rằng gia súc non phát triển mạnh nhất sau khi mới sinh,
sau đó tăng khối lượng giảm dần theo từng tháng tuổi.
* Khái niệm sinh trưởng:
Sinh trưởng là một quá trình sinh lý, sinh hoá phức tạp, duy trì từ khi
phôi được hình thành cho đến khi con vật đã trưởng thành.
Trần Đình Miên và cs, (1995)[24] đã khái quát: Sinh trưởng là một quá
trình tích luỹ các chất hữu cơ thông qua trao đổi chất, là sự tăng lên về chiều
cao, chiều dài, bề ngang, khối lượng của từng cơ quan, bộ phận cũng như toàn
bộ cơ thể trên cơ sở tính di truyền từ đời trước.
Mozan, (1977) (trích theo Chamber, 1990)[46] đã định nghĩa: “Sinh
trưởng là tổng hợp sự sinh trưởng của các bộ phận như thịt, xương, da. Những
bộ phận này không những khác nhau về tốc độ sinh trưởng mà còn phụ thuộc
vào chế độ dinh dưỡng”.
Khái quát hơn, Trần Đình Miên và cs, (1992)[22] đã định nghĩa đầy đủ
như sau “Sinh trưởng là một quá trình tích luỹ các chất hữu cơ do đồng hoá và
dị hoá, là sự tăng chiều cao, chiều dài, bề ngang, khối lượng của các bộ phận
và toàn cơ thể của con vật trên cơ sở tính chất di truyền từ đời trước”. Cùng
với quá trình sinh trưởng, các tổ chức và cơ quan của cơ thể luôn luôn phát
triển hoàn thiện chức năng sinh lý của mình dẫn đến phát dục. Về mặt sinh

Số hóa bởi trung tâm học liệu

7
học, sinh trưởng của gia cầm là quá trình tổng hợp protein thu nhận từ bên
ngoài chuyển hoá thành protein đặc trưng cho từng cơ thể của từng giống,
dòng làm cho cơ thể tăng lên về khối lượng và kích thước.
Sự sinh trưởng ở động vật tuân theo những quy luật nhất định. Theo
Trần Đình Miên và cs, (1994)[23] thì Midedorpho (1987) là người đầu tiên đã

phát hiện ra quy luật sinh trưởng theo giai đoạn của gia súc. Ông cho rằng ở
gia súc non phát triển mạnh nhất sau khi mới sinh, sau đó phần tăng khối
lượng giảm dần theo tuổi. Theo Kislowsky (1930) trong tài liệu của Nguyễn
Ân, (1984)[1] đã khẳng định: Thời gian của các giai đoạn dài hay ngắn, số
lượng giai đoạn và sự đột biến trong sinh trưởng của từng giống, từng cá thể
có sự khác nhau. Sự sinh trưởng không đều còn thể hiện ở từng bộ phận cơ
quan (mô, xương, cơ), có bộ phận ở thời kỳ này phát triển nhanh, nhưng ở
thời kỳ khác lại phát triển chậm.
1.1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của gia cầm
Các tính trạng số lượng, trong đó tốc độ sinh trưởng và khối lượng cơ
thể gà, chịu ảnh rất lớn các tác động của môi trường E (Environment). Theo
Đặng Vũ Bình (2002)[2]; Nguyễn Văn Thiện và cs, (1995)[29] quan hệ giữa
kiểu hình P (Phenotype), kiểu gen G (Genotype) và môi trường E
(Environment) được biểu thị bằng công thức P = G + E; Đặng Hữu Lanh và cs,
(1999)[15]; Nguyễn Văn Thiện và cs, (1998)[31] cho rằng căn cứ vào mức
độ, tính chất ảnh hưởng lên cơ thể gia súc, gia cầm, môi trường E được chia
làm hai loại:
- Môi trường chung Eg (General environment) tác động thường xuyên
liên tục đến tất cả các cá thể trong quần thể.
- Môi trường riêng E
S
(Special environment) tác động đến một số cá thể
riêng biệt nào đó trong quần thể trong một thời gian ngắn.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

8
Theo Lê Đình Lương và cs, (1994)[18] các giống gia súc, gia cầm đều
nhận được từ tổ tiên, bố mẹ chúng một số gen quyết định tính trạng, trong đó
có các tính trạng số lượng. Đó chính là những đặc điểm di truyền của giống

hoặc dòng, nhưng những khả năng đó có phát huy được hay không còn phụ
thuộc rất nhiều vào môi trường sống của chúng như thức ăn, điều kiện chăm
sóc nuôi dưỡng và khí hậu.
a) Ảnh hưởng của dòng, giống:
Mỗi dòng hay mỗi giống gia cầm có nhiều điểm khác nhau về đặc điểm
ngoại hình, sức sản xuất, khả năng kháng bệnh…từ đó ảnh hưởng rất lớn đến
sự sinh trưởng. Nhiều nghiên cứu đã khẳng định sự sinh trưởng của từng cá
thể, giữa dòng, giống có sự sai khác.
Theo Godfrey and cs, (1952)[51] sự di truyền về khối lượng cơ thể do
) vì vậy có sự khác nhau về khối lượng cơ thể
giữa con mái và con trống trong cùng một giống, gà trống nặng hơn gà mái từ
24 - 32%. Ở gà, các giống gà hướng trứng nhẹ hơn các giống gà hướng thịt 2
lần và giống gà kiêm dụng 1,3 - 1,7 lần.
Dẫn theo tài liệu của Đào Văn Khanh, (2002)[14] thì Boshhlebao and
cs, (1972) cho rằng sự tồn tại của các gen hoặc các nhóm gen trong các
dòng, giống gia súc, gia cầm rất khác nhau nên dòng, giống khác nhau có
tốc độ sinh trưởng không giống nhau. Letner and cs, (1938)[54] đã so sánh
tốc độ sinh trưởng của các giống gà Leghorn trắng và Plymouth Rock tới
24 tuần tuổi cho rằng gà Plymouth Tock sinh trưởng nhanh hơn gà Leghorn
từ 3 - 6 tuần tuổi và sau đó không có sự khác nhau. Nguyễn Mạnh Hùng và
cs (1994)[11] cho biết sự khác nhau về khối lượng giữa các giống gia cầm
rất lớn, giống gà kiêm dụng nặng hơn gà hướng trứng khoảng 500 - 700g
khoảng 13 - 30%.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

9
Chọn lọc tính trạng sinh trưởng là do di truyền Jaap and cs (1973)[52]
đã phát hiện những sai khác trong cùng một giống và cường độ sinh trưởng
trước 8 tuần ở gà con của các bố mẹ có sự khác nhau. Kết quả nghiên cứu của

Nguyễn Đức Hưng và cs (1997)[12] cũng khẳng định các giống gia cầm khác
nhau có năng suất khác nhau.
Qua đó ta thấy khối lượng cơ thể, tốc độ sinh trưởng của các dòng,
giống gia cầm chịu ảnh hưởng lớn của các yếu tố di truyền. Trong thực tế sản
xuất cũng như trong nghiên cứu, để xác định mức độ ảnh hưởng của phần di
truyền tới năng suất của gia súc, gia cầm người ta xác định hệ số di truyền của
tính trạng đối với quần thể gia cầm cụ thể để xây dựng chương trình công tác
giống phù hợp. Theo Nguyễn Ân (1983)[1] thì hệ số di truyền khối lượng cơ
thể 3 tháng tuổi là 0,26 -0,5; Cook and cs, (1956)[48] xác định hệ số di truyền
khối lượng cơ thể gà lúc 6 tuần tuổi là 0,5. Dẫn theo tài liệu của Chambers
(1990)[46] thì Sigel và Kiney đã tổng kết tương đối hoàn chỉnh hệ số di
truyền tốc độ sinh trưởng là 0,4 - 0,5.
Tóm lại ở các lứa tuổi khác nhau,các dòng gà khác nhau có hệ số di
truyền khác nhau và biến động trong khoảng 0,26 - 0,60. Ở các quần thể càng
được chọn lọc nhiều thì hệ số di truyền thấp và ngược lại.
b) Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng đến khả năng sinh trưởng
Chamber (1990)[46] cho biết: “Chế độ dinh dưỡng ảnh hưởng đến
tốc độ sinh trưởng, đến sự phát triển của từng mô khác nhau và gây nên sự
biến đổi trong quá trình phát triển của mô này đối với mô khác. Dinh
dưỡng không chỉ ảnh hưởng tới sự sinh trưởng mà còn ảnh hưởng đến sự di
truyền về sinh trưởng”.
Có nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực sinh lý sinh dưỡng đã chứng minh
để đạt được năng suất cao nhất không những phải cung cấp đầy đủ các chất
dinh dưỡng mà còn phải chú ý đến tỷ lệ thích hợp nhất giữa chúng.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

10
Gia cầm sử dụng thức ăn nhằm đảm bảo các hoạt động duy trì cơ thể và
sản xuất (sinh trưởng, sản xuất trứng). Năng lượng và protein là hai yếu tố

dinh dưỡng quan trọng nhất trong khẩu phần thức ăn của gà. Ngoài ra trong
dinh dưỡng gia cầm các thành phần như acid béo, khoáng, vitamin và nước
cũng không thể thiếu được. Khoáng vô cơ là một thành phần trong khẩu phần
ăn dưới dạng canxi (Ca), photpho (P), natri (Na), kali (K), mangan (Mn) và
clo (CL), những nguyên tố này có chức năng khác nhau, đặc biệt là ba nguyên
tố Ca, P và Na có vai trò trong việc hình thành xương, vỏ trứng, điều khiển
chức năng thẩm thấu của cơ thể và hoạt động như những chất bổ trợ của
Enzyme. Đồng (Cu), Iod (I), sắt (Fe), Mangan (Mn), Selen ( Se) là những yếu
tố vi lượng.
Vitamin là hợp chất hữu cơ được chia thành hai nhóm: Nhóm hòa tan
trong nước và nhóm hòa tan trong dầu mà gia cầm chỉ cần một lượng nhỏ sinh
tố trong khẩu phần.
c) Ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến sinh trưởng của gia cầm
Các yếu tố môi trường có ảnh hưởng rất lớn tới sự sinh trưởng của gia
cầm như: Nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, độ thông thoáng Trong đó nhiệt độ và
ẩm độ là hai yếu tố luôn thay đổi theo mùa vụ và có ảnh hưởng rõ rệt đến tốc
độ sinh trưởng của gia cầm. Đã có rất nhiều nghiên cứu chứng minh được sự
ảnh hưởng của hai yếu tố này.
+ Ảnh hưởng của yếu tố nhiệt độ:
Gà con ở giai đoạn còn nhỏ (30 ngày tuổi đầu) cơ quan điều khiển nhiệt
chưa hoàn chỉnh, cho nên yêu cầu về nhiệt độ tương đối cao. Nó rất nhạy cảm
với tác động của điều kiện khí hậu thay đổi. Những ngày đầu tiên thân nhiệt
của gà con mới nở không ổn định và phụ thuộc vào nhiệt độ chuồng nuôi. Vì
thế nhiệt độ chuồng nuôi trong giai đoạn đầu của gà cần phải quan tâm giữ
ấm, nếu nhiệt độ quá thấp gà con sẽ tụ đống lại, không ăn, gà sinh trưởng kém

Số hóa bởi trung tâm học liệu

11
hoặc chết do tụ đống, dẫm đạp lên nhau. Song ở các giai đoạn sau nếu nhiệt

độ môi trường quá cao thì sẽ hạn chế việc sử dụng thức ăn, gà uống nhiều
nước, bài tiết phân lỏng, hạn chế khả năng sinh trưởng và gà dễ mắc các bệnh
đường tiêu hoá.
Ảnh hưởng của yếu tố nhiệt độ là những tác động của nó liên quan
đến việc tiêu thụ thức ăn, ngoài ra còn làm tăng hoạt động sinh lý của hệ
tuần hoàn, hô hấp gây stress mạnh. Nhiệt độ thích hợp nhất cho gà là 15
0
C
đến 25
0
C. Những thay đổi nhiệt độ trên và dưới ngưỡng này đều có thể gây
stress và ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và phát triển của gà.
Scoft and cs (1976)[56] cho biết trong khoảng 26
0
C đến 32
0
C khi nuôi gà
broiler, tiêu thụ thức ăn giảm 1,5g/1
0
C/1 gà và trong khoảng 32
0
C - 36
0
C tiêu
thụ thức ăn giảm 4,2g/1
0
C/1 gà.
+ Ảnh hưởng của độ ẩm không khí:
Ẩm độ cũng là một tác nhân ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển
của gia cầm. Trong mọi điều kiện của thời tiết, nếu ẩm độ không khí cao đều

bất lợi cho gia súc, gia cầm, bởi vì nhiệt độ thấp mà ẩm độ cao làm tăng khả
năng dẫn nhiệt, gà con dễ mất nhiệt gây cảm lạnh và ngược lại nhiệt độ cao,
ẩm độ cao làm cơ thể gia cầm thải nhiệt khó khăn và dẫn đến cảm nóng. Nhiệt
độ và ẩm độ là hai yếu tố luôn thay đổi theo mùa vụ, cho nên ảnh hưởng của
thời tiết, mùa vụ đến tốc độ sinh trưởng của gia cầm là điều tất yếu.
Vai trò của ẩm độ không khí cùng với nhiệt độ môi trường luôn luôn là
những tác nhân chủ yếu ảnh hưởng trực tiếp đến tiểu khí hậu chuồng nuôi, từ
đó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sống hàng ngày của cơ thể gia cầm,
chúng không chỉ ảnh hưởng khi gia cầm còn nhỏ, mà còn tác động khi chúng ở
đã lớn, thậm chí còn ở cả giai đoạn phôi thai. Phisinhin (1985) (trích từ Đào
Văn Khanh, 2002)[14] xác nhận: Gà con nở vào mùa xuân, thường sinh trưởng
kém trong 15 ngày đầu, sau đó tốc độ sinh trưởng kéo dài đến 3 tháng tuổi.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

12
Smetner (1975) đã chứng minh rằng: Gà con nở vào mùa xuân và mùa hè, thời
gian đầu sinh trưởng kém, ngược lại nở vào mùa thu thì gà sinh trưởng tốt ngay
trong những ngày tuổi đầu. Như vậy trong điều kiện khí hậu tối ưu, ẩm độ thấp,
thời tiết mát mẻ sẽ ảnh hưởng tốt đến sinh trưởng của gia cầm. (trích từ Đào
Văn Khanh, 2002)[14]
+ Ảnh hưởng của yếu tố ánh sáng:
Gia cầm rất nhạy cảm với ánh sáng, đặc biệt là giai đoạn gà con và
giai đoạn gà đẻ. Thời gian và cường độ chiếu sáng phù hợp sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho gà ăn, uống, vận động, ảnh hưởng tốt đến khả năng
sinh trưởng. Theo Bùi Đức Lũng và cs (1993)[17] gà broiler cần được
chiếu sáng 23 giờ/ngày khi nuôi trong nhà kín.
d) Ảnh hưởng của kỹ thuật nuôi dưỡng, chăm sóc
Chăn nuôi gia cầm là ngành đang phát triển mạnh ở nước ta, song
chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gà nói riêng là vấn đề nan giải đối với

những nước có khí hậu không thuận hoà. Khí hậu nước ta thuộc loại khí
hậu nhiệt đới gió mùa. Trong quá trình chăn nuôi, rất nhiều tác nhân khí
hậu đã có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả chăn nuôi như nhiệt độ, ẩm độ
không khí, ánh sáng cho nên ở nước ta, nhất là ở miền Bắc phải có
những biện pháp bảo vệ chuồng nuôi chu đáo. Những biện pháp như che
gió, thông thoáng, sưởi ấm nhằm tạo ra tiểu khí hậu chuồng nuôi tối ưu,
cũng như nuôi ở mật độ hợp lý, vận dụng một cách linh hoạt tuỳ thuộc
vào sự biến động của thời tiết là một việc làm cần thiết để triệt tiêu hoặc
làm hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng bất lợi của môi trường,
sẽ giúp chăn nuôi đạt kết quả cao.
Sự biến đổi của tiểu khí hậu trong chuồng nuôi về tính chất vật lý
(nhiệt độ, ẩm độ, gió, bụi, ánh sáng ) và tính chất hóa học (oxi, nitơ,
cacbonic, amoniac ) và vi sinh vật, khác xa so với không khí ngoài tự nhiên.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

13
Mật độ nuôi cũng là một vấn đề nhạy cảm, ảnh hưởng tới hiệu quả
và năng suất chăn nuôi gia cầm. Nuôi mật độ thưa lãng phí lao động, lãng
phí chuồng trại và hiệu quả sản xuất thấp. Nuôi ở mật độ cao không hợp
lý ảnh hưởng tới tiểu khí hậu chuồng nuôi. Ảnh hưởng của mật độ nuôi
gồm nhiều yếu tố:
+ Mật độ nuôi ảnh hưởng tới hàm lượng khí độc sinh ra trong chuồng
nuôi. Khí độc trong chuồng sinh ra từ phân bị phân huỷ, nước tiểu, nước
thải, thức ăn thừa tạo thành các khí NH
3
, CO
2
, H
2

S, CH
4
khí NH
3
khi đi
vào cơ thể khiến hàm lượng kiềm dự trữ trong máu tăng, gia cầm rơi vào
trạng thái trúng độc kiềm (Đỗ Ngọc Hoè, 1995)[9]. Khi hàm lượng NH
3

trong chuồng là 25ppm sẽ làm giảm lượng hemoglobin trong máu, giảm sự
trao đổi khí, giảm hấp thu dinh dưỡng và làm giảm tăng trọng của gà tới
4% (theo Coldhaft (1971) trích từ Đỗ Ngọc Hoè, 1995)[9]. Cùng với NH
3
,
khí H
2
S cũng là khí độc ảnh hưởng tới sinh trưởng, H
2
S kết hợp với Na
trong dịch niêm mạc đường hô hấp tạo thành Na
2
S, muối này đi vào máu,
thuỷ phân thành H
2
S tác động tới thần kinh gây trúng độc cho gia súc.
Nếu nồng độ H
2
S lớn hơn 1mg/l gà sẽ bị chết vì bị liệt trung khu hô hấp.
1.1.2.3. Một số chỉ tiêu sinh trưởng của gia cầm
Sinh trưởng tích luỹ: Là sự tăng khối lượng cơ thể, kích thước các

chiều do trong một đơn vị thời gian nhất định. Khối lượng cơ thể ở tại một
thời điểm nào đó là chỉ tiêu được sử dụng quen thuộc nhất để chỉ khả năng
sinh trưởng. Xác định được khối lượng cơ thể sau các khoảng thời gian khác
nhau như: 1 tuần tuổi, 2 tuần tuổi sẽ cho ta những số liệu về sinh trưởng tích
luỹ. Đối với gà thịt, sinh trưởng tích luỹ là chỉ số năng suất quan trọng nhất
làm căn cứ để so sánh các cá thể, các dòng hoặc giống với nhau.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

14
Đối với gà đẻ trứng sinh trưởng tích luỹ ( đặc biệt giai đoạn hậu bị )
liên quan chặt chẽ đến khả năng sinh sản của gà ở giai đoạn đẻ trứng. Nếu
khối lượng cơ thể nhỏ thì khả năng sinh sản thấp, nếu khối lượng cơ thể lớn
thì tiêu tốn thức ăn tăng. Như vậy khối lượng cơ thể gà mái đẻ trứng có ảnh
hưởng lớn đến hiệu quả kinh tế.
Trần Long (1994)[16] đã nghiên cứu đường cong sinh trưởng của các
dòng gà V
1
, V
3
, V
5
thuộc giống gà Hybro (HV 85), đường cong sinh trưởng
của 3 dòng gà có sự khác nhau và trong mỗi dòng giữa gà trống và mái
cũng có sự khác nhau: Tốc độ sinh trưởng cao ở 7 - 8 tuần tuổi đối với gà
trống và 6 - 7 tuần đối với gà mái.
Sinh trưởng tuyệt đối: Là sự tăng lên về khối lượng, kích thước, thể
tích cơ thể trong khoảng thời gian giữa 2 lần khảo sát. Trong chăn nuôi
thường sử dụng chỉ tiêu (gram/con/ ngày hoặc gram/con/ tháng) để đánh giá
sinh trưởng tuyệt. Đồ thị sinh trưởng tuyệt đối có dạng parabon.

Sinh trưởng tương đối: là tỷ lệ phần trăm (%) tăng lên của khối lượng,
kích thước và thể tích cơ thể lúc kết thúc khảo sát so với lúc bắt đầu khảo sát.
Đồ thị sinh trưởng tương đối có dạng hyperbon.
1.1.2.4. Tiêu tốn thức ăn ở gia cầm
Theo Chambers and cs (1984) [47], hệ số tương quan giữa khối lượng
cơ thể và tăng trọng với tiêu tốn thức ăn thường rất cao (r = 0,5 - 0,9).
Tương quan giữa sinh trưởng và chuyển hoá thức ăn là tương quan nghịch
(từ r = -0,2 đến -0,8). Willson (1969) [57] đã xác định hệ số tương quan giữa
khả năng tăng khối lượng cơ thể và hiệu quả chuyển hoá thức ăn từ 1 - 4 tuần
tuổi là r = 0,5.
Những giai đoạn đầu, tiêu tốn thức ăn thấp hơn so với các giai đoạn
sau. Theo Trần Công Xuân và cs (1995)[44], gà broiler Ross 208 - V35 được
nuôi cùng chế độ dinh dưỡng, tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng ở 4; 6 và 8 tuần
tuổi tương ứng là 1,65; 1,83 và 2,02kg.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

15
Đối với gia cầm sinh sản lấy trứng giống hoặc thương phẩm, tiêu tốn
thức ăn thường được tính cho 10 quả trứng hoặc 1kg trứng.
Theo Nguyễn Đăng Vang và cs (1999)[41], tiêu tốn thức ăn/10 quả
trứng của gà Đông Tảo trong 36 tuần đẻ là 4,14kg. Trần Công Xuân và cs
(1999)[43] cho biết : Gà Tam Hoàng Jiangcun có mức tiêu tốn thức ăn/10
quả trứng trong 66 tuần đẻ đạt 2,94 - 2,99kg. Theo Phùng Đức Tiến và cs,
(1999) [34] gà kiêm dụng trứng thịt Ai Cập tiêu tốn 2,33 kg thức ăn/10 quả
trứng trong 43 tuần.
Gà đẻ trứng tiêu chuẩn có mức tiêu tốn thức ăn sản xuất trứng thấp,
Nguyễn Huy Đạt và cs (1996)[5] cho biết tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng trung
bình trong 12 tháng đẻ ở gà Goldline - 54 thương phẩm là 1,65 - 1,84 kg và gà
Moravia thương phẩm đạt 1,86kg.

Ngoài ra tiêu tốn thức ăn của gia cầm còn phụ thuộc vào điều kiện khí
hậu, thời tiết, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng và tình trạng sức khoẻ.
1.1.3. Cơ sở nghiên cứu một số đặc điểm sinh sản của gia cầm
1.1.3.1. Cơ sở khoa học của năng suất trứng
Các nhà phôi thai học cho rằng trứng gia cầm nói chung và trứng gà nói
riêng là một tế bào sinh sản khổng lồ gồm lòng đỏ, lòng trắng, màng vỏ và vỏ.
Buồng trứng có chức năng tạo thành lòng đỏ, còn các thành phần khác như
lòng trắng, màng vỏ và vỏ do ống trứng tạo nên. Nhiều công trình nghiên cứu
đã khẳng định ở gà mái, trong quá trình phát triển phôi 2 bên phải, trái của gà
mái đều có buồng trứng, nhưng sau khi nở thì buồng trứng bên phải tiêu biến,
chỉ còn lại buồng trứng bên trái.
Số lượng tế bào trứng theo một số tác giả có khác nhau. Pearl and
Schoppe (1921) đếm được 1906 trứng bằng mắt thường và 12000 trứng
bằng kính hiển vi, Jull (1939 - 1948) thì cho rằng ở gà mái thời kỳ đẻ trứng
có thể đếm được 3600 trứng, trong khi đó Hutt (1978) đã đếm và cho biết

Số hóa bởi trung tâm học liệu

16
số lượng tế bào trứng của gà mái có thể lên tới hàng triệu tế bào. Còn Frege
(1978) cho rằng tế bào trứng lúc bắt đầu đẻ là 900 - 3500 ở gà mái, 1500 ở
vịt mái, nhưng chỉ có một số lượng rất hạn chế được chín và rụng (dẫn theo
Lê Thị Nga, 2004) [25].
1.1.3.2. Cơ sở di truyền của năng suất trứng
Sinh sản là một quá trình để tạo ra thế hệ sau, sự phát triển hay hủy diệt
của một loài, trước tiên phụ thuộc vào khả năng sinh sản của loài đó.
được thể hiện qua các chỉ tiêu về
năng suất trứng,
và ấp nở. Đối với các giống gia cầm khác nhau thì khả năng sinh sản của
chúng cũng rất khác nhau. Bởi vậy, các nhà nhà khoa học trên thế giới đã

tập trung nghiên cứu cơ sở di truyền sức đẻ trứng của gia cầm và cho rằng
việc sản xuất trứng của gia cầm có thể do 5 yếu tố ảnh hưởng mang tính di
truyền Letner and cs (1938) [54]. Năm yếu tố đó là:
 Tuổi thành thục về sinh dục, người ta cho rằng ít nhất cũng có hai cặp
gen chính tham gia vào yếu tố này: 1 là gen E (gen liên kết với giới tính) và gen
e; còn cặp thứ hai là E



e

chịu trách nhiệm tính thành thục về sinh dục.
 Cường độ đẻ trứng: yếu tố này do hai cặp gen R và r, R

và r

phối
hợp cộng lại để điều hành.
 Bản năng ấp do hai gen A và C điều khiển phối hợp với nhau.
 Thời gian nghỉ đẻ (đặc biệt là nghỉ đẻ vào mùa đông) do các gen M
và m điều khiển. Gia cầm có gen mm thì mùa đông vẫn tiếp tục đẻ đều.
 Thời gian kéo dài của chu kỳ đẻ: do cặp gen P và p diều khiển.
Trong 5 yếu tố trên thì yếu tố thứ 5 và yếu tố thứ nhất kết hợp với nhau,
cũng có nghĩa là các cặp gen Pp và Ee có phối hợp với nhau. Tất nhiên ngoài
các cặp gen chính tham gia vào việc điều khiển các yếu tố trên thì có thể còn
có nhiều gen khác phụ lực vào.

×