Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

đánh giá ảnh hưởng của nước thải khu công nghiệp gang thép đến chất lượng nước suối cam giá thành phố thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (902.8 KB, 85 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐAI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM








PHẠM THÁI HÀ



Tên đề tài:

ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA NƯỚC THẢI KHU CÔNG
NGHIỆP GANG THÉP ĐẾN CHẤT LƯỢNG NƯỚC SUỐI
CAM GIÁ THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP















Thái Nguyên – năm 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐAI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM






PHẠM THÁI HÀ


Tên đề tài:

ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA NƯỚC THẢI KHU CÔNG
NGHIỆP GANG THÉP ĐẾN CHẤT LƯỢNG NƯỚC SUỐI
CAM GIÁ THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN



Chuyên ngành: Khoa học môi trường
Mã số : 60 85 02


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP



Giảng viên hướng dẫn: 1. PGS.TS Nguyễn Tuấn Anh
2. PGS.TS Đỗ Thị Lan










Thái Nguyên – năm 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐAI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM







PHẠM THÁI HÀ


Tên đề tài:

ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA NƯỚC THẢI KHU CÔNG
NGHIỆP GANG THÉP ĐẾN CHẤT LƯỢNG NƯỚC SUỐI
CAM GIÁ THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN


Chuyên ngành: Khoa học môi trường
Mã số : 60 85 02



TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP













Thái Nguyên – năm 2011


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Công trình được hoàn thành tại khoa đào tạo Sau đại học – Đại học Nông lâm
Thái Nguyên – Đại học Thái Nguyên




Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Nguyễn Tuấn Anh
2. PGS.TS Đỗ Thị Lan





Phản biện 1: PGS.TS Lê Văn Khoa

Phản biện 2: PGS.TS Nguyễn Khắc Thái Sơn




Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn họp tại: Khoa Sau
đại học – Đại học Nông lâm Thái Nguyên – Đại học Thái Nguyên.
Vào hồi: 07 giờ ngày 22 tháng 10 năm 2011












Có thể tìm hiểu luận văn tại trung tâm học liệu Đại học Thái Nguyên
Và thư viện Trường Đại học Nông Lâm



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU

Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, môi trường toàn cầu có nhiều biến đổi theo
chiều hướng bất lợi, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế xã hội
của nhiều nước, làm mất cân bằng sinh thái trên Trái đất. Vì vậy, phát triển bền
vững là vấn đề đang được đặc biệt quan tâm đối với nhiều quốc gia và tổ chức,
nhằm đảm bảo sự cân bằng hài hòa trong phát triển kinh tế - xã hội - môi trường.
Đất nước ta đang trong thời kì hội nhập kinh tế toàn cầu, công cuộc
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước đang trong thời kì đẩy mạnh với nhịp
độ ngày càng cao, phấn đấu đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp vào

năm 2020. Thế nhưng bên cạnh những thành tựu đạt được về mặt kinh tế thì
những vấn đề tiêu cực về môi trường do công cuộc công nghiệp hóa cũng đáng
kể. Một lượng lớn tài nguyên phải được khai thác để phục vụ cho sản xuất của
các khu công nghiệp, đồng thời chất thải được thải ra môi trường từ các khu
công nghiệp ngày càng nhiều, đặc biệt là vấn nạn nước thải công nghiệp.
Trong số các nguồn thải gây ô nhiễm môi trường nước mặt phải kể đến ngành
công nghiệp sản xuất gang thép.
Thái Nguyên có thể được gọi là cái nôi sản xuất gang thép – luyện kim
đen của cả nước. Công ty Gang Thép Thái Nguyên được thành lập từ năm
1959, trải qua hơn 50 năm xây dựng, phát triển và trưởng thành, đến nay sản
lượng thép của công ty ngày càng nâng cao, quy mô sản xuất ngày càng mở
rộng. Tuy nhiên, quá trình sản xuất công nghiệp của công ty cũng để lại những
tác động tiêu cực đến môi trường xung quanh, trong đó có môi trường nước
mặt của suối Cam Giá - thành phố Thái Nguyên. Đây là con suối tiếp nhận
trực tiếp nguồn nước thải của khu công nghiệp (KCN) Gang Thép, sau đó đổ
ra sông Cầu.
Vì vậy, để đánh giá được ảnh hưởng của các nguồn nước thải KCN
Gang Thép tới chất lượng nước suối Cam Giá trong những năm gần đây, được
sự cho phép của Ban giám hiệu nhà trường, Khoa Sau đại học, dưới sự hướng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
dẫn trực tiếp của PGS.TS Nguyễn Tuấn Anh và PGS. TS Đỗ Thị Lan, tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài: “ Đánh giá ảnh hưởng của nước thải Khu công nghiệp
Gang Thép đến chất lượng nước suối Cam Giá thành phố Thái Nguyên”.
Mục đích đề tài
- Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nguồn nước thải KCN Gang
Thép tới chất lượng nước suối Cam Giá trong giai đoạn 2010 – 2011.
- Đề xuất một số biện pháp khắc phục cải thiện chất lượng nước suối

Cam Giá.
Ý nghĩa
* Ý nghĩa khoa học
Đề tài là một bước kế tiếp phát triển các nghiên cứu khoa học trước đó
trong lĩnh vực đánh giá chất lượng môi trường nước và nghiên cứu về nước
thải công nghiệp.
* Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài giúp cho việc đánh giá được ảnh hưởng của nguồn nước thải
KCN Gang Thép tới chất lượng môi trường nước suối Cam Giá, từ đó đề xuất
các biện pháp phù hợp cải thiện, nâng cao chất lượng nước suối Cam Giá.














Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Ô nhiễm môi trường
Khái niệm ô nhiễm môi trường:
Theo Luật bảo vệ môi trường 2005 của nước CHXHCNVN thì “Ô
nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù
hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật”.
Theo Trần Yêm và Trịnh Thị Thanh (1998) [17], “Ô nhiễm môi trường
được hiểu là sự có mặt của các chất hoặc năng lượng với với khối lượng lớn
trong môi trường mà môi trường khó chấp nhận”- trích Từ điển Oxford. Do
đó, ô nhiễm môi trường được hiểu theo cách diễn đạt của giáo trình này là:
“Sự hiện diện của các vật chất ở 3 dạng rắn, lỏng, khí và năng lượng có nguồn
gốc là tự nhiên hoặc nhân tạo với một hàm lượng nào đó làm ảnh hưởng đến
chất lượng nói chung hoặc chất lượng của từng thành phần môi trường nói riêng”.
Ô nhiễm môi trường theo nguồn gốc có thể phân thành ô nhiễm môi
trường do tự nhiên và ô nhiễm môi trường do nhân tạo.
Ô nhiễm môi trường theo loại hình môi trường có thể phân thành ô
nhiễm môi trường nước, ô nhiễm môi trường không khí và ô nhiễm môi
trường đất.
1.1.2. Ô nhiễm nước
Khái niệm về nước thải và nước ô nhiễm: Theo 2 tác giả Trần Yêm và
Trịnh Thị Thanh (1998) [17] thì:
Nước thải là chất lỏng được thải ra sau quá trình sử dụng của con người
và đã bị thay đổi tính chất ban đầu của chúng.
Ô nhiễm nước là sự thay đổi bất lợi môi trường nước, hoàn toàn hay đại
bộ phận do các hoạt động khác nhau của con người tạo nên.
Nguồn gốc gây ô nhiễm nước có thể là tự nhiên và có thể là nhân tạo.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4

Có nhiều cách để phân loại về nước thải:
Phân loại theo cách xác định nguồn thải: Có 2 nguồn gây ô nhiễm là
nguồn gây ô nhiễm xác định (nguồn điểm) và nguồn gây ô nhiễm không xác
định (nguồn không điểm).
Nếu phân loại theo tác nhân ô nhiễm thì gồm có dạng ô nhiễm cơ học
(vật lý), ô nhiễm hóa học (vô cơ, hữu cơ), ô nhiễm vi sinh vật, ô nhiễm nhiệt
và ô nhiễm phóng xạ.
Theo nguồn gốc phát sinh thì ô nhiễm nước do: Nước thải sinh hoạt và
nước thải sản xuất (công nghiệp, nông nghiệp), nước mưa chảy tràn.
1.2. Các căn cứ pháp luật
1.2.1. Cơ sở pháp lí
Việc đánh giá chất lượng nước thải công nghiệp và nước mặt (sông
suối) được thực hiện trên cơ sở quy định của các văn bản pháp lí sau:
- Luật Bảo vệ Môi trường sửa đổi được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005.
Các văn bản dưới luật đã hướng dẫn cụ thể thực hiện luật bảo vệ môi
trường bao gồm:
- Nghị định 80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 về việc quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ Môi trường.
- Nghị định 21/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm 2008 về sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định 80 nêu trên.
- Nghị định 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 về xử lí vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực Bảo vệ môi trường.
- Nghị định số 04/2007/NĐ-CP ngày 8/1/2007 về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của nghị định 67/NĐ-CP của Chính phủ về phí Bảo vệ môi trường
đối với nước thải.
- Thông tư liên tịch số 106/2007/TTLT/BTC-BTNMT về việc sửa đổi,
bổ sung thông tư liên tịch số 125/2003/TTLT/BTC-BTNMT ngày 18/12/2003
của liên bộ BTC-BTNMT hướng dẫn thực hiện nghị định số 67/2003/NĐ-CP
về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
- QCVN 24:2009/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng
nước thải.
- QCVN 08:2008/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng
nước mặt.
- Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5992 : 1995, Chất lượng nước - lấy mẫu-
Hướng dẫn kỹ thuật lấy mẫu.
- Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5999 : 1995, Chất lượng nước lấy mẫu -
Hướng dẫn lấy nước thải.
1.2.2.Cơ sở thực tiễn
Hiện tại, nước ta đang trong thời kì mở cửa phát triển nền công nghiệp,
vì vậy mà các KCN, các nhà máy được xây dựng ồ ạt nhằm đáp ứng mục tiêu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng đi đôi với phát triển công
nghiệp là yêu cầu giữ gìn, bảo vệ môi trường, nhất là tại các KCN và các nhà
máy xí nghiệp. Việc các KCN, các nhà máy xí nghiệp được mở ra để đẩy
mạnh phát triển kinh tế cũng gây ra nhiều vấn đề tranh cãi về môi trường.
Hiện trạng môi trường nước thải ở các khu vực sản xuất này đã và đang có
những dấu hiệu bị ô nhiễm.
Tỉnh Thái Nguyên có nhiều khu công nghiệp, trong đó KCN Gang
Thép – Lưu Xá là một trong các KCN lớn chuyên sản xuất gang, thép đáp ứng
cho nhu cầu phát triển công nghiệp trong cả nước. Công ty Gang Thép là
doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng công ty Thép Việt Nam (Bộ Công
nghiệp), được thành lập từ năm 1959 và đi vào hoạt động từ năm 1963. Mặc
dù đã có những nỗ lực trong cải thiện chất lượng môi trường nhưng KCN
Gang Thép vẫn có những hoạt động ảnh hưởng gây ô nhiễm môi trường, trong
đó việc xả thải nguồn nước thải (chủ yếu là nước thải sản xuất) đã gây ảnh
hưởng tới môi trường nước xung quanh. Do vậy, tiến hành đánh giá chất

lượng suối Cam Giá do ảnh hưởng của nguồn nước thải KCN Gang Thép có ý
nghĩa thực tiễn quan trọng.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
1.3. Thực trạng ô nhiễm môi trƣờng nƣớc do nƣớc thải công nghiệp
trên thế giới và ở Việt Nam
1.3.1. Thực trạng ô nhiễm môi trường nước do nước thải công
nghiệp trên thế giới
Vấn đề môi trường đang là một trong những vấn đề được quan tâm
hàng đầu trên thế giới. Nhiều hội nghị quốc gia, quốc tế về môi trường thường
xuyên được tổ chức nhằm hạn chế tình trạng môi trường toàn cầu đang ngày
càng bị ô nhiễm nghiêm trọng. Tình hình môi trường thế giới đáng báo động;
treenn khắp hành tinh, các hệ sinh thái đang mất cân bằng, xuống cấp nặng nề;
sự sống bị nạn hạn hán, lũ lụt, sa mạc hóa và nhiều dạng ô nhiễm đe dọa. Các
nhà môi trường đã lên tiếng cảnh báo về tình hình “đầm lầy hóa thành sa mạc”
ở vùng Lưỡng Hà, hồ cạn nước ở châu Phi và Trung Á, rừng rậm mỏng dần ở
Amazon…(Unesco) [19].
Vấn đề ô nhiễm do nước thải công nghiệp trên thế giới ngoài một số ít
thuộc các nước phát triển, còn lại vẫn tập trung chủ yếu ở các nước đang phát
triển và các nước nghèo, nơi mà có công nghệ sản xuất lạc hậu, nền kinh tế
không đủ mạnh để đầu tư hệ thống xử lí an toàn trước khi xả thải ra môi trường.
Theo báo cáo của Unesco [19], các sông Thames (Anh), sông Seine
(Pháp) là những con sông đã từng bị ô nhiễm nặng do hoạt động xả thải của
sản xuất công nghiệp và cả chất thải sinh hoạt. Ở Hoa Kì, các con sông và hồ
ở phía Đông và một số vùng khác cũng gặp tình trạng tương tự. Vùng Đại hồ
bị ô nhiễm nặng, trong đó hồ Enrie, Ontario đặc biệt nghiêm trọng.
Ở các nước đang phát triển và các nước nghèo thì ô nhiễm nước và

thiếu nước sạch là phổ biến. Có tới hơn 80% khối lượng nước ở các cống rãnh
ở các khu dân cư và hơn 65% lượng nước thải ở các KCN thải trực tiếp ra
đồng ruộng, sông hồ… gây ô nhiễm, thường là ở Trung Quốc, các nước Trung
cận Đông, châu Phi, Nam Á, Đông Nam Á.
Việc ô nhiễm môi trường nước đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến
sức khỏe con người, mỗi năm có khoảng 3.578 triệu người chết do các bệnh
liên quan đến nước.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
Cũng theo báo cáo này, đã chỉ ra được thiệt hại môi trường trong hồ
Peipsi – hồ nằm trên biên giới của nước Cộng hòa Estonia và Liên bang Nga.
Sự ô nhiễm hồ và phú dưỡng đã làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế xung
quanh hồ và hoạt động khai thác cá trong hồ. Ở Trung Quốc, có đến khoảng
50.000 km các con sông lớn (theo FAO) bị ô nhiễm nặng, chủ yếu do nước
thải công nghiệp, trong đó có 80% là không còn khả năng khai thác cá do môi
trường sống của chúng đã bị hủy hoại. Đây có thể coi như là kết quả của việc
xả thải các chất độc hại từ các nhà máy công nghiệp trên thượng nguồn như
nhà máy giấy, nhà máy thuộc da, nhà máy sản xuất cán thép, nhà máy lọc dầu
và nhà máy hóa chất…nước sông Hoàng Hà hiện đang chứa một hàm lượng
rất cao các kim loại nặng và chất độc khác, làm cho chất lượng nước suy giảm
tới mức không đạt tiêu chuẩn đối với nước dành cho mục đích thủy lợi. Đoạn
sông Hoàng Hà đi qua tỉnh Sơn Tây, do sử dụng nước tưới cho nông nghiệp
nên kim loại nặng đã đi vào nông sản như hàm lượng Crôm và Chì đã quá
ngưỡng cho phép trong lúa gạo, Cadimi quá ngưỡng trong bắp cải…
Ở Brazil, Baixada Santista cũng là khu vực nổi tiếng thế giới về ô
nhiễm có liên quan đến công nghiệp, cảng và các hoạt động đô thị. Các hoạt
động khai thác mỏ và luyện kim đã cho kết quả là thải ra môi trường các chất
độc hại có khả năng lan truyền theo chuỗi thức ăn như Chì, Thủy ngân,

Niken… Không chỉ có vậy, các hoạt động xả thải công nghiệp ở khu vực này
cũng gây ra hiện tượng phú dưỡng (Elisabete S.Braga et al, 2004) [18].
Trong ngành công nghiệp luyện kim, quá trình sản xuất bắt buộc phải
sử dụng đến một lượng nước khá lớn. Để sản xuất 1 tấn thép cần 100-200 m
3

nước/h, tức là cần trung bình 150m
3
/h. Khối lượng nước thải ra để sản xuất
1.000.000 tấn phôi thép/năm là 250-500m
3
/năm (vì có phần lớn lượng nước
được sử dụng làm mát tái tuần hoàn). Trung bình mỗi giờ, lượng nước bơm
cho các hoạt động trong sản xuất thép nhu sau:
Thiêu kết: 0-20m
3
/tấn thiêu kết
Blast lò: 50-80m
3
/tấn gang
Luyện thép: 20-50m
3
/tấn thép

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Máy cán: 20-80m
3
/tấn cán

Cốc hóa: 2-5m
3
/tấn than cốc
Lò làm sạch khí: 2-5m
3
/1000m
3
khí (P.Gendy và E.Dohen, 2001) [20].
Theo tác giả O’Connell và các cộng sự (1987) [21], [22], ở Chicago
những năm giữa thế kỷ 20, sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành công
nghiệp thép trong khu vực Cahemet sau khi có sự chuyển giao, phát triển công
nghệ đã khiến cho môi trường nơi này bị ảnh hưởng. Các nhà máy thép ở Nam
Chicago, Đông Chicago và Gary tạo thành một cụm công nghiệp khá rộng lớn.
Dọc theo bờ biển phía nam hồ Michigan cũng bao gồm các nhà máy lọc dầu,
hóa chất và chế tạo kim loại. Hậu quả là hắc ín từ nhà máy than cốc và axit từ
các nhà máy đã bao phủ con sông Grand.
1.3.2. Thực trạng ô nhiễm môi trường nước do nước thải công
nghiệp ở Việt Nam
Nước thải công nghiệp là nước thải được sinh ra trong quá trình sản
xuất công nghiệp từ các công đoạn sản xuất và các hoạt động phục vụ cho sản
xuất như nước thải khi tiến hành vệ sinh công nghiệp hay hoạt động sinh hoạt
của công nhân viên. Nước thải công nghiệp rất đa dạng, khác nhau về thành
phần cũng như lượng phát thải và phụ thuộc vào nhiều yếu tố: loại hình công
nghiệp, loại hình công nghệ sử dụng, tính hiện đại của công nghệ, tuổi thọ của
thiết bị, trình độ quản lý của cơ sở và ý thức cán bộ công nhân viên. Cơ sở để
nhận biết và phân loại như sau:
Nước thải được sản sinh từ nước không được dùng trực tiếp trong các
công đoạn sản xuất, nhưng tham gia các quá trình tiếp xúc với các khí. Chất
lỏng hoặc chất rắn trong quá trình sản xuất. Loại này có thể phát sinh liên tục
hoặc không liên tục, nhưng nói chung nếu sản xuất ổn định thì có thể dễ dàng

xác định được các đặc trưng của chúng.
Nước thải được sản sinh ngay trong bản thân quá trình sản xuất. Vì là
một thành phần của vật chất tham gia quá trình sản xuất, do đó chúng thường
là nước thải có chứa nguyên liệu, hoá chất hay phụ gia của quá trình và chính
vì vậy những thành phần nguyên liệu hoá chất này thường có nồng độ cao và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
trong nhiều trường hợp có thể được thu hồi lại. Ví dụ như nước thải này gồm
có nước thải từ quá trình mạ điện, nước thải từ việc rửa hay vệ sinh các thiết bị
phản ứng, nước chứa amoni hay phenol từ quá trình dập lửa của công nghiệp
than cốc, nước ngưng từ quá trình sản xuất giấy. Do đặc trưng về nguồn gốc
phát sinh lên loại nên loại nước thải này nhìn chung có nồng độ chất gây ô
nhiễm lớn, có thể mang tính nguy hại ở mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào bản
thân quá trình công nghệ và phương thức thải bỏ. Nước thải loại này cũng có
thể có nguồn gốc từ các sự cố rò rỉ sản phẩm hoặc nguyên liệu trong quá trình
sản xuất, lưu chứa hay bảo quản sản phẩm, nguyên liệu.
Thông thường các dòng nước thải sinh ra từ các công đoạn khác nhau
của toàn bộ quá trình sản xuất sau khi được xử lý ở mức độ nào đó hoặc không
được xử lý, được gộp lại thành dòng thải cuối cùng để thải vào môi trường (hệ
thống cống, lưu vực tự nhiên như sông, ao hồ…). Có một điều cần nhấn mạnh:
thực tiễn phổ biến ở các đơn vị sản xuất, do nhiều nguyên nhân, việc phân lập
các dòng thải (chất thải lỏng, dòng thải có nồng độ chất ô nhiễm cao với các
dòng thải có tải lượng gây ô nhiễm thấp nhưng lại phát sinh với lượng lớn như
nước làm mát, nước thải sinh hoạt, nước mưa chảy tràn…) cũng như việc tuần
hoàn sử dụng lại các dòng nước thải ở từng khâu của dây chuyền sản xuất,
thường ít được thực hiện.
Hiện nay ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng
trong việc thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường, nhưng tình

trạng ô nhiễm nước là vấn đề rất đáng lo ngại. Nước ta thực hiện công nghiệp
hóa và đương nhiên là kéo theo đô thị hóa. Theo kinh nghiệm của nhiều nước,
tình hình ô nhiễm môi trường cũng gia tăng nhanh chóng. Nếu tốc độ tăng
trưởng GDP trong vòng 10 năm tới tăng bình quân khoảng 7%/năm, trong đó
GDP công nghiệp khoảng 8 – 9%/năm, mức đô thị từ 23%/năm tăng lên 33%
năm 2000, thì đến năm 2010 lượng ô nhiễm do công nghiệp có thể tăng lên
gấp 2,4 lần so với bây giờ. Tại TP. Hồ Chí Minh có 25 KCN tập trung hoạt
động với tổng số 611 nhà máy trên diện tích 2298 ha đất. Theo kết quả tính
toán, hoạt động của các KCN này cùng với 195 cơ sở trọng điểm bên ngoài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
KCN, thì mỗi ngày thải vào hệ thống sông Sài Gòn – Đồng Nai tổng cộng
1.740.000m
3
nước thải công nghiệp, trong đó có khoảng 617 tấn cặn lơ lửng,
1.135 tấn BOD
5
(làm giảm nhu cầu oxy sinh hóa), 1.789 tấn COD (làm giảm
nhu cầu oxy hóa học), 104 tấn Nito, 15 tấn Photpho và kim loại nặng. Lượng
chất thải này gây ô nhiễm cho môi trường nước của các con sông vốn là nguồn
cung cấp nước sinh hoạt cho một nội địa bàn dân cư rộng lớn, làm ảnh hưởng
đến các vi sinh vật và hệ sinh thái vốn là tác nhân thực hiện các quá trình phân
hủy và làm sạch các dòng sông. Tại Hà Nội, khi thực hiện gói thầu CP7A
nhằm cải thiện hệ thống thoát nước ở Hà Nội trên hệ thống sông Tô Lịch, sông
Lừ, sông Sét, tức là thực hiện các biện pháp xử lí nước thải hữu hiệu như đã
đề ra trong quy hoạch tổng thể thoát nước của Hà Nội thì đến năm 2010, hầu
hết các con sông ở Hà Nội có chỉ tiêu BOD dưới 25mg/l; còn nếu không có
biện pháp cải thiện môi trường rõ rệt thì chỉ số BOD sẽ tăng gấp khoảng 1,8

lần so với thời kì 1997 – 1998, trong đó sông Lừ sẽ bị ô nhiễm nặng nhất với
chỉ số BOD là 130mg/l, khá nhất là sông Sét thì cũng là 54mg/l, trong đó tiêu
chuẩn cho phép đối với nước loại A là không quá 4mg/l, với nước loại B là
không quá 25mg/l, (Nguyễn Hưng, 2010) [3].
Theo tác giả Hoàng Hoa Lan (2003) [6], ô nhiễm nước do sản xuất
công nghiệp là rất nghiêm trọng. Ví dụ: ở ngành công nghiệp dệt may, ngành
công nghiệp giấy và bột giấy, nước thải thường có độ pH trung bình từ 9-11;
chỉ số nhu cầu ô xy sinh hoá (BOD), nhu cầu ô xy hoá học (COD) có thể lên
đến 700mg/1 và 2.500mg/1; hàm lượng chất rắn lơ lửng… cao gấp nhiều lần
giới hạn cho phép. Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua
(CN
-
) vượt đến 84 lần, H
2
S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH
3
vượt 84 lần tiêu
chuẩn cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt trong vùng
dân cư.
Mức độ ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công
nghiệp tập trung là rất lớn. Tại cụm công nghiệp Tham Lương, thành phố Hồ
Chí Minh, nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi nước thải công nghiệp với tổng lượng
nước thải ước tính 500.000 m
3
/ngày từ các nhà máy giấy, bột giặt, nhuộm, dệt.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Ở thành phố Thái Nguyên, nước thải công nghiệp thải ra từ các cơ sở

sản xuất giấy, luyện gang thép, luyện kim màu, khai thác than; về mùa cạn
tổng lượng nước thải khu vực thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng 15% lưu
lượng sông Cầu; nước thải từ sản xuất giấy có pH từ 8,4-9 và hàm lượng NH
4
+

là 4mg/1, hàm lượng chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu, mùi khó
chịu…(Hoàng Hoa Lan, 2003) [4].
Tình trạng ô nhiễm nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt
không có hệ thống xử lý tập trung mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận (sông,
hồ, kênh, mương). Mặt khác, còn rất nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước
thải, phần lớn các bệnh viện và cơ sở y tế lớn chưa có hệ thống xử lý nước
thải; một lượng rác thải rắn lớn trong thành phố không thu gom hết được… là
những nguồn quan trọng gây ra ô nhiễm nước . Hiện nay , mức độ ô nhiễm
trong các kênh, sông, hồ ở các thành phố lớn là rất nặng . Ở thành phố Hà Nội,
tổng lượng nước thải của thành phố lên tới 300.000 – 400.000 m
3
/ngày; hiện
mới chỉ có 5/31 bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải, chiếm 25% lượng nước
thải bệnh viện; 36/400 cơ sở sản xuất có xử lý nước thải; lượng rác thải sinh
hoại chưa được thu gom khoảng 1.200m
3
/ngày đang xả vào các khu đất ven
các hồ, kênh, mương trong nội thành; chỉ số BOD, oxy hoà tan, các chất NH
4
,
NO
2
-

, NO
3
-
ở các sông, hồ, mương nội thành đều vượt quá quy định cho phép
ở thành phố Hồ Chí Minh thì lượng rác thải lên tới gần 4.000 tấn/ngày; chỉ có
24/142 cơ sở y tế lớn là có xử lý nước thải; khoảng 3.000 cơ sở sản xuất gây ô
nhiễm thuộc diện phải di dời, (Minh Kỳ, 2009) [7].
Không chỉ ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh mà ở các đô thị khác như
Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định, Hải Dương… nước thải sinh hoạt cũng
không được xử lý độ ô nhiễm nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải đều vượt
quá tiểu chuẩn cho phép (TCCP), các thông số chất lơ lửng (SS), BOD; COD;
Ôxy hoà tan (DO) đều vượt từ 5-10 lần, thậm chí 20 lần TCCP. Trong số 82
khu công nghiệp mới, chỉ khoảng 20 khu công nghiệp có trạm xử lý nước thải
tập trung. Đó là các trạm xử lý nước thải tại Khu Công nghiệp Bắc Thăng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Long, Khu Công nghiệp Nội Bài ở Hà Nội; Khu Công nghiệp Nomura ở Hải
Phòng, Khu Công nghiệp Việt Nam – Xingapo ở Bình Dương,… Số khu công
nghiệp còn lại vẫn chưa có trạm xử lý nước thải tập trung. Trong số các doanh
nghiệp đã khảo sát, năm 2002, có tới 90% số doanh nghiệp không đạt yêu cầu
về tiêu chuẩn chất lượng dòng xả nước thải xả ra môi trường. 73% số doanh
nghiệp xả nước thải không đạt tiêu chuẩn, do không có các công trình và thiết
bị xử lý nước thải. Có 60% số công trình xử lý nước thải hoạt động vận hành
không đạt yêu cầu. Nước thải hiện thời chưa được phân loại, [Hoàng Hoa Lan,
2003) [4].
Theo Sở Tài nguyên Môi trường Hà Nội, nước thải do khu công nghiệp
Quang Minh xả ra môi trường có nhiều chỉ tiêu vượt quá tiêu chuẩn cho phép
nhiều lần. Trong đó, hàm lượng độc tố cyanua vượt 8 lần. Ngày 21/6 Trung

tâm Quan trắc và Phân tích Tài nguyên Môi trường (Sở Tài nguyên và Môi
trường Hà Nội) đã công bố kết quả phân tích từ mẫu nước thải tại điểm xả
cuối cùng ngoài hàng rào ở trạm xử lý nước thải tập trung của Công ty Đầu tư
và phát triển hạ tầng Nam Đức – chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu
hạ tầng khu công nghiệp Quang Minh (huyện Mê Linh). Tại thời điểm kiểm
tra một tháng trước, đoàn kiểm tra đã phát hiện trạm xử lý nước thải này
không hoạt động. Tại miệng cống xả cuối cùng của trạm xử lý vẫn có nước
thải đen, hôi xả thẳng ra môi trường. Nước thải công nghiệp của nhiều cơ sở
chưa được thu gom xử lý mà xả thẳng ra môi trường với lưu lượng lớn. Ngoài
hàm lượng cyanua lên tới 0,56 mg/l, vượt 8 lần tiêu chuẩn cho phép, còn có
BOD5 vượt 13,5 lần, COD vượt 14,7 lần, sunfua vượt hơn 4 lần, colifom vượt
hơn 13 lần… Theo các chuyên gia, cyanua là chất cực độc, chỉ cần 0,15-0,2
gram là đủ để giết chết một người khỏe mạnh. Sở Tài nguyên Môi trường đã
kiến nghị đình chỉ hành vi xả nước thải vượt quy chuẩn Việt Nam ra môi
trường của Công ty Nam Đức; buộc công ty này phối hợp với các doanh
nghiệp trong khu công nghiệp tổ chức đấu nối toàn bộ nước thải vào hệ thống
thu gom nước thải để xử lý tập trung trước khi đổ ra môi trường; vận hành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
trạm xử lý nước thải thường xuyên, bảo đảm toàn bộ nước thải của Quang
Minh phải được xử lý đạt tiêu chuẩn…
Riêng với hành vi không vận hành thường xuyên hệ thống xử lý nước
thải, công ty Nam Đức đã bị UBND Hà Nội ra quyết định xử phạt 150 triệu
đồng vào ngày 8/6. Lãnh đạo thành phố Hà Nội cũng đã chỉ đạo lập đoàn kiểm
tra liên ngành để kiểm tra việc thực thi quy định về môi trường của các doanh
nghiệp trong khu công nghiệp Quang Minh.
Trước đó, ngày 24/5 do quá bức xúc với tình trạng ô nhiễm kéo dài do
nước thải từ khu công nghiệp Quang Minh, người dân quanh đây đã tập trung

phản đối, lấp cống xả thải. Đến 27/5, cửa xả cuối cùng của khu công nghiệp
Quang Minh cũng bị người dân thị trấn Quang Minh lấp, đến nay, vẫn chưa
được khơi thông, (Nguyễn Hưng, 2010) [3].
Theo Hà Lê (2009) [5], hiện tại, chúng ta đang tập trung phát triển các
ngành công nghiệp phụ trợ, trong đó kỳ vọng đặc biệt vào ngành gia công kim
loại. Do vậy, nhu cầu gia công mạ kim loại ngày càng lớn và cũng từ đó việc
xử lý chất thải trong gia công mạ - một yếu tố có nhiều khả năng phá hủy môi
trường, là hết sức cần thiết và cần được giải quyết triệt để.
Nước thải phát sinh trong quá trình mạ kim loại chứa hàm lượng các
kim loại nặng rất cao và là độc chất đối với sinh vật, gây tác hại xấu đến sức
khỏe con người. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, với nồng độ đủ lớn,
sinh vật có thể bị chết hoặc thoái hóa, với nồng độ nhỏ có thể gây ngộ độc
mãn tính hoặc tích tụ sinh học, ảnh hưởng đến sự sống của sinh vật về lâu về
dài. Do đó, nước thải từ các quá trình xi mạ kim loại, nếu không được xử lý,
qua thời gian tích tụ và bằng con đường trực tiếp hay gián tiếp, chúng sẽ tồn
đọng trong cơ thể con người và gây các bệnh nghiêm trọng, như viêm loét da,
viêm đường hô hấp, eczima, ung thư…
Kết quả các nghiên cứu gần đây về hiện trạng môi trường ở nước ta cho
thấy, hầu hết các nhà máy, cơ sở xi mạ kim loại có quy mô vừa và nhỏ, áp
dụng công nghệ cũ và lạc hậu, lại tập trung chủ yếu tại các thành phố lớn, như
Hà Nội, Hải Phòng, TP.HCM, Đồng Nai… Trong quá trình sản xuất, tại các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
cơ sở này (kể cả các nhà máy quốc doanh hoặc liên doanh với nước ngoài),
vấn đề xử lý ô nhiễm môi trường còn chưa được xem xét đầy đủ hoặc việc xử
lý còn mang tính hình thức, chiếu lệ, bởi việc đầu tư cho xử lý nước thải khá
tốn kém và việc thực thi Luật Bảo vệ môi trường chưa được nghiêm minh.
Nước thải mạ thường gây ô nhiễm bởi các kim loại nặng, như crôm,

niken… và độ pH thấp. Phần lớn nước thải từ các nhà máy, các cơ sở xi mạ
được đổ trực tiếp vào cống thoát nước chung mà không qua xử lý triệt để, đã
gây ô nhiễm cục bộ trầm trọng nguồn nước.
Kết quả khảo sát tại một số nhà máy cơ khí ở Hà Nội cho thấy, nồng độ
chất độc có hàm lượng các ion kim loại nặng, như crôm, niken, đồng… đều
cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn cho phép; một số cơ sở mạ điện tuy có hệ
thống xử lý nước thải nhưng chưa chú trọng đầy đủ đến các thông số công
nghệ của quá trình xử lý để điều chỉnh cho phù hợp khi đặc tính của nước thải
thay đổi.
Tại TP.HCM, Bình Dương và Đồng Nai, kết quả phân tích chất lượng
nước thải của các nhà máy, cơ sở xi mạ điển hình ở cả 3 địa phương này cho
thấy, hầu hết các cơ sở đều không đạt tiêu chuẩn nước thải cho phép: hàm
lượng chất hữu cơ cao, chỉ tiêu về kim loại nặng vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho
phép, COD dao động trong khoảng 320-885 mg/lít do thành phần nước thải có
chứa cặn sơn, dầu nhớt… Hơn 80% nước thải của các nhà máy, cơ sở xi mạ
không được xử lý. Chính nguồn thải này đã và đang gây ô nhiễm nghiêm trọng
đến môi trường nước mặt, ảnh hưởng đáng kể chất lượng nước sông Sài Gòn
và sông Đồng Nai.
Về chất lượng nước các hệ thống sông: nhìn chung chất lượng nước ở
thượng lưu các con sông còn khá tốt, nhưng vùng hạ lưu phần lớn đã bị ô
nhiễm, có nơi ở mức nghiêm trọng. Nguyên nhân là do nước thải của các cơ sở
sản xuất, kinh doanh, nước thải sinh hoạt không được xử lý đã và đang thải
trực tiếp ra các dòng sông. Chất lượng nước suy giảm mạnh, nhiều chỉ tiêu
như BOD, COD, NH
4
+
, tổng N, tổng P cao hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


15
- Sông Đồng Nai : Vùng hạ lưu (tính từ sau hồ Trị An đến điểm hợp lưu
với sông Sài Gòn), ô nhiễm hữu cơ chưa cao (DO = 4 -6 mg/l, BOD = 4 – 8
mg/l) nhưng hầu như không đạt TCVN đối với nguồn loại A. Ô nhiễm vi sinh
và dầu mỡ rõ rệt, ô nhiễm kim loại nặng, phenol, PCB… chưa vượt tiêu chuẩn,
nhiễm mặn không xảy ra từ Long Bình đến thượng lưu. Vùng thượng lưu nước
có chất lượng tốt, trừ khu vực thành phố Đà Lạt đã bị ô nhiễm nặng do hàm
lượng cao của các chất hữu cơ, dinh dưỡng, vi sinh. Khả năng tự làm sạch của
sông Đồng Nai khá tốt (Minh Kỳ, 2009) [7].
- Sông Sài Gòn: Mức độ ô nhiễm là nghiêm trọng cả về hữu cơ (DO =
1,5 – 5,5 mg/l; BOD = 10 – 30 mg/l), dầu mỡ, vi sinh, không có điểm nào đạt
TCVN đối với nguồn loại A. Ô nhiễm cao nhất là ở vùng sông chảy qua trung
tâm TP Hồ Chí Minh. Ngoài ra, sông Sài Gòn còn bị axit hoá nặng do nước
phèn ở đoạn Hooc Môn – Củ Chi (pH = 4,0 – 5,5) (Minh Kỳ, 2009) [7].
- Sông Cầu: Chất lượng nước các sông thuộc lưu vực sông Cầu ngày
càng xấu đi, nhiều đoạn sông đã bị ô nhiễm tới mức báo động. Ô nhiễm cao
nhất là đoạn sông Cầu chảy qua địa phận thành phố Thái Nguyên, đặc biệt là
tại các điểm thải của Nhà máy Giấy Hoàng Văn Thụ, Khu Gang Thép Thái
Nguyên… , chất lượng nước không đạt cả tiêu chuẩn A và B. Tiếp đến là đoạn
sông Cà Lồ, hạ lưu sông Công, chất lượng nước không đạt tiêu chuẩn A và
một số yếu tố không đạt tiêu chuẩn B. Yếu tố gây ô nhiễm cao nhất là các chất
hữu cơ, NO
2
-
và dầu. Ô nhiễm nhất là đoạn từ nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ
tới cầu Gia Bảy, ôxy hòa tan đạt giá trị thấp nhất (0,4 – 1,5 mg/l), BOD5,
COD rất cao (>1000mg/l); Colifom ở một số nơi khá cao, vượt quá tiêu chuẩn
A tới hàng chục lần. Hàm lượng NO2- > 2,0 mg/l và dầu > 5,5 mg/l, vượt quá
tiêu chuẩn B tới 20 lần (Minh Kỳ, 2009) [7].
- Sông Nhuệ - sông Đáy: Hiện tại, nước của trục sông chính thuộc lưu

vực sông Nhuệ - sông Đáy đã bị ô nhiễm, đặc biệt là nước sông Nhuệ. Chất
lượng nước sông Nhuệ từng lúc (phụ thuộc vào thời gian mở cống Liên Mạc),
từng nơi vượt trên giới hạn cho phép đối với nước loại B. Các sông khác có
chất lượng nước ở mức giới hạn cho phép đối với nước loại B. Nếu không có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
biện pháp ngăn ngừa khắc phục, xử lý ô nhiễm kịp thời thì tương lai không xa
nguồn nước sông Nhuệ, sông Đáy không thể sử dụng cho sản xuất được.
Ngoài ra, ô nhiễm nước ở các sông hồ ở nội thành Hà Nội, Tp Hồ Chí
Minh, Tp Đà Nẵng đang ở mức trầm trọng, các chỉ tiêu quan trắc đều vượt quá
tiêu chuẩn cho phép nhiều lần, thậm chí hàng trăm lần.
Nước ngầm ở một số vùng, đặc biệt là các khu công nghiệp và đô thị có
nguy cơ cạn kiệt vào mùa khô và ở một số nơi đã có dấu hiệu bị ô nhiễm.
Nguyên nhân là do khai thác bừa bãi và không đúng kỹ thuật, (Minh Kỳ,
2009) [7].
Ở Cao Bằng, tuy công nghiệp chưa phát triển mạnh như những địa
phương khác, nhưng cũng đã có những vấn đề ô nhiễm nước do nước thải
công nghiệp. Tổng lượng nước thải từ các cơ sở công nghiệp trên địa bàn tỉnh
bình quân khoảng 3.000 m
3
/ngày. Hầu hết các nhà máy đều có hệ thống xử lý
nước thải nhưng công nghệ xử lý lạc hậu nên chất lượng nước thải sau khi xử
lý thải ra môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ môi trường. Đặc biệt,
nguồn nước thải của các cơ sở khai thác và chế biến khoáng sản đã và đang
tàn phá môi trường nghiêm trọng. Các cơ sở này chủ yếu thực hiện biện pháp
xử lý nước thải bằng phương pháp tạo bể, hồ để thu gom nước thải, lắng lọc tự
nhiên nhưng do hầu hết các hồ chứa nước thải dung tích không đạt như thiết
kế, lắng lọc rất kém, nước thải ra môi trường thường vượt tiêu chuẩn cho phép

nhiều lần. Không chỉ vậy, hiện trên địa bàn tỉnh đã và đang hình thành một số
khu vực xả nước thải công nghiệp, y tế, nước thải sinh hoạt xuống dòng sông
mà không qua xử lý với lượng lớn. Điển hình như: sông Nguyên Bình mỗi
ngày đêm tiếp nhận trên 1.400 m
3
nước thải công nghiệp, khoảng 1.000 m
3

nước thải sinh hoạt và 100 m
3
nước thải y tế; sông Bằng tại khu vực thị xã Cao
Bằng và huyện Hoà An tiếp nhận gần 7.000 m
3
nước thải sinh hoạt và trên
2.000 m
3
nước thải công nghiệp một ngày đêm… Trong khi đó, nguồn nước
thải này đều có hàm lượng chất rắn lơ lửng (TSS), nhu cầu ôxi sinh hóa
(BOD
5
), nhu cầu ô xi hóa học (COD)… vượt nhiều lần tiêu chuẩn Việt Nam
cho phép. Kết quả phân tích nước mặt trên sông Bằng tại khu vực thị xã Cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Bằng có chỉ số TSS vượt tiêu chuẩn cho phép gần 5 lần, BOD
5
vượt tiêu chuẩn
cho phép từ 2 – 4 lần… Nguồn nước sông Hiến cũng bị ô nhiễm nặng do hoạt

động khai thác khoáng sản trên thượng nguồn. Trong khi đó, đây là nguồn
cung cấp nước cho Nhà máy nước xử lý để phục vụ hàng vạn người dân sinh
sống tại khu vực thị xã Cao Bằng (Lưu Thanh Tuấn, 2010) [8].
Thái Nguyên: Hầu hết khu, cụm công nghiệp chƣa có hệ thống xử
lý nƣớc thải tập trung
Sự phát triển của các khu công nghiệp đã góp phần tích cực vào sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra
hệ thống kết cấu hạ tầng mới, hiện đại, có giá trị lâu dài, góp phần hiện đại hóa
hệ thống kết cấu hạ tầng trên cả nước.
Tuy nhiên, ở nhiều địa phương, việc hình thành và phát triển các khu
công nghiệp (KCN) còn đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, đặc biệt là vấn đề ô
nhiễm môi trường. Thái Nguyên là tỉnh nằm trong bối cảnh chung đó.
Theo tác giả Hoàng Huy (2008) [2], tính đến thời điểm năm 2008, theo
quy hoạch, toàn tỉnh Thái Nguyên có 25 khu, cụm công nghiệp, trong đó KCN
Sông Công 1 thu hút được 32 dự án đầu tư, 1 số khu, cụm công nghiệp đã kết
thúc giai đoạn đầu tư bắt đầu đi vào hoạt động. Tuy nhiên, trong tổng số 25,
khu, cụm công nghiệp được quy hoạch chỉ có duy nhất KCN Sông Công thực
hiện lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, còn lại các khu, cụm công
nghiệp khác đề không có báo cáo đánh giá tác động môi trường, chưa xây
dựng chương trình quản lý chất thải và giám sát chất lượng môi trường.
Việc xử lý chất thải tại các khu, cụm công nghiệp hầu hết còn manh
mún, tự phát, chưa có thiết kế quy hoạch chi tiết và xây dựng kết cấu hạ tầng
bảo vệ môi trường của từng KCN nên việc xử lý ô nhiễm không đáp ứng được
các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường. Theo ông Dương Văn Khanh, Giám đốc
Sở TN&MT – Thái Nguyên là tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế khá. Trong
những năm gần đây, số lượng doanh nghiệp tăng lên rất nhanh, từ chỗ 200 –
300 doanh nghiệp, đến nay đã tăng lên hơn 2.000 doanh nghiệp. Việc phát
triển các cơ sở sản xuất nhanh chóng đã tạo sức ép lên môi trường. Nhiều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


18
doanh nghiệp không thực hiện các biện pháp xử lý gây ô nhiễm môi trường.
Theo báo cáo của Sở TN&MT tỉnh Thái Nguyên, tổng lượng nước thải của
ngành luyện kim, cán thép, chế tạo thiết bị máy móc khoảng 16.000 m
3
/ngày.
Trong đó, nước thải của KCN Gang Thép Thái Nguyên có ảnh hưởng lớn nhất
tới chất lượng nước sông Cầu. Nước thải của KCN qua hai mương dẫn rồi
chảy vào sông Cầu với lưu lượng ước tính 1,3 triệu m
3
/năm.
Hoạt động sản xuất gang thép phát sinh nước thải có chứa nhiều chất ô
nhiễm độc hại như dầu mỡ, phenol và xianua từ quá trình cốc hóa. Tại KCN
Sông Công (nằm trên thị xã Sông Công với các nhà máy sản xuất cơ khí, chế
tạo máy động lực), mặc dù KCN này hoạt động từ năm 2001 nhưng đến nay
mới chỉ lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường và vẫn chưa có hệ thống xử
lý nước thải tập trung. Ông Nguyễn Mười, Phó ban quản lý KCN tỉnh Thái
Nguyên cho biết: “Hiện nay, có 18/31 dự án chưa có giấy phép môi trường
mặc dù có những dự án đã hoạt động 5 năm rồi vẫn chưa cấp”.
Với góc độ cơ quan quản lý nhà nước không phải chúng tôi không đôn
đốc. Năm ngoái, đã tiến hành 2 cuộc thanh tra, có rất nhiều văn bản công văn
yêu cầu các dự án làm ĐTM hoặc bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường”. Do
các cụm, KCN chưa xây dựng hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung nên
các doanh nghiệp phải tự đầu tư hệ thống xử lý. Tuy nhiên, theo kết quả thanh
tra của Sở TN&MT tỉnh Thái Nguyên thì hầu hết các nhà máy trong KCN
chưa có hệ thống xử lý nước thải, hoặc chỉ có hệ thống xử lý lắng cặn sơ bộ
rồi thải thẳng ra sông Công. Nước thải của KCN này chứa nhiều dầu mỡ, kim
loại nặng do tính đặc thù của ngành sản xuất cơ khí. Không chỉ có nước thải,
hệ thống xử lý khí thải của các đơn vị này cũng không đạt tiêu chuẩn môi

trường.
BVMT trong sản xuất công nghiệp là yêu cầu cấp thiết hiện nay, bởi
đây chính là cơ sở phát triển công nghiệp bền vững. Để làm được điều này,
các doanh nghiệp cần có sự đầu tư tổng thể công nghệ sản xuất sạch hơn, thực
hiện các biện pháp ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, xây dựng hệ
thống xử lý chất thải bảo đảm đạt tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường. Vấn đề

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
BVMT trong các khu, cụm công nghiệp không chỉ là thách thức với Thái
Nguyên mà còn là trở ngại của nhiều địa phương trong cả nước trong việc phát
triển nền công nghiệp bền vững.
1.4. Tình hình sản xuất Gang thép trên thế giới và ở Việt Nam
1.4.1. Tình hình sản xuất Gang thép trên thế giới
CÔNG NGHIỆP LUYỆN KIM
Công nghiệp luyện kim gồm hai ngành là: luyện kim đen (sản xuất ra
gang, thép) và luyện kim màu (sản xuất ra các kim loại không có sắt).
Luyện kim đen
Đây là một trong những ngành quan trọng nhất của công nghiệp nặng,
tạo ra nguyên liệu cơ bản cho ngành chế tạo máy và gia công kim loại. Hầu
như tất cả các ngành kinh tế đều sử dụng các sản phẩm của ngành luyện kim
đen. Kim loại đen chiếm trên 90% tổng khối lượng kim loại sản xuất trên thế giới.
Ngành luyện kim đen được phát triển mạnh từ nửa sau thế kỉ XIX cùng
với việc phát minh ra động cơ đốt trong, xây dựng đường sắt, chế tạo đầu máy
xe lửa và toa xe, tàu thuỷ và sau này là máy công cụ, máy nông nghiệp, ô tô
các loại…
Sản lượng thép từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối thế kỉ XX
tăng khá nhanh, gấp hơn 4 lần. Hiện nay, hằng năm thế giới sản xuất trên 800
triệu tấn thép. Những quốc gia đứng đầu về sản lượng thép là Trung Quốc,

Nhật Bản, Hoa Kì, Cộng hoà liên bang Đức, liên bang Nga, Hàn Quốc, Bra-
xin… Một số nước công nghiệp phát triển, chẳng hạn như Nhật Bản, tuy có
trữ lượng quặng sắt hạn chế, song ngành sản xuất thép vẫn lớn mạnh nhờ nhập
khẩu quặng từ các nước đang phát triển.
Các quốc gia sản xuất thép lớn:
Năm 2006 thế giới tiêu thụ 1.200 triệu tấn, trong đó Việt Nam tiêu thụ
7 triệu tấn. Năm 2007 được đánh giá tăng trưởng 5,2% (Singgapore 10 triệu
tấn/ năm, Thái Lan 20 triệu tấn /năm) Mỹ, Đức, Nhật, Nga, Trung Quốc, Ấn
Độ, Brazil. Từ năm 2002, Trung Quốc trở thành cường quốc xuất khẩu thép
trên thế giới. Trung Quốc năm 2003 chiếm 1/3 sản lượng thế giới (300 triệu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
tấn), hiện nay là nước sản xuất mạnh nhất trên thế giới, trên > 50%. Năm 2007
là 462 triệu tấn, (Trần Mai, 2007) [6].
Lịch sử ra đời của thép không gỉ - stainless steel
Thép không gỉ hay còn gọi là inox là một dạng hợp kim sắt chứa tối
thiểu 10,5% crôm. Nó ít bị biến màu hay bị ăn mòn như thép thông thường
khác. Lịch sử Thép không gỉ gắn liền với tên tuổi của một chuyên gia ngành
thép người Anh là ông Harry Brearley. Khi vào năm 1913, ông đã sáng chế ra
một loại thép đặc biệt có khả năng chịu mài mòn cao, bằng việc giảm hàm
lượng carbon xuống và cho crôm vào trong thành phần thép (0.24% C và
12.8% Cr). Sau đó hãng thép Krupp ở Đức tiếp tục cải tiến loại thép này bằng
việc cho thêm nguyên tố niken vào thép để tăng khả năng chống ăn mòn axit
và làm mềm hơn để dễ gia công. Trên cơ sở hai phát minh này mà 2 loại mác
thép 400 và 300 ra đời ngay trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Sau chiến
tranh, những năm 20 của thế kỷ 20, một chuyên gia ngành thép người Anh là
ông chống ăn mòn axit và làm mềm hơn để dễ gia công. Sau chiến tranh,
những năm 20 của thế kỷ 20, một chuyên gia ngành thép người Anh là ông W.

H Hatfield tiếp tục nghiên cứu, phát triển các ý tưởng về thép không rỉ. Bằng
việc kết hợp các tỉ lệ khác nhau giữa niken và crôm trong thành phần thép, ông
đã cho ra đời một loại thép không rỉ mới 18/8 với tỉ lệ 8% Ni và 18% Cr,
chính là mác thép 304 quen thuộc ngày nay. Ông cũng là người phát minh ra
loại thép 321 bằng cách cho thêm thành phần titan vào thép có tỉ lệ 18/8 nói
trên. Tiếp tục nghiên cứu, phát triển các ý tưởng về thép không rỉ. Trải qua
gần một thiên niên kỷ ra đời và phát triển, ngày nay thép không rỉ đã được
dùng rộng rãi trong mọi lĩnh vực dân dụng và công nghiệp với hơn 100 mác
thép khác nhau. Trong ngành luyện kim, thuật ngữ thép không gỉ (inox) được
dùng để chỉ một dạng hợp kim sắt chứa tối thiểu 10,5% crôm. Tên gọi là “thép
không gỉ” nhưng thật ra nó chỉ là hợp kim của sắt không bị biến màu hay bị ăn
mòn dễ dàng như là các loại thép thông thường khác. Vật liệu này cũng có thể
gọi là thép chống ăn mòn. Thông thường, có nhiều cách khác nhau để ứng
dụng inox cho những bề mặt khác nhau để tăng tuổi thọ của vật dụng. Trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
đời sống, chúng xuất hiện ở khắp nơi như những lưỡi dao cắt hoặc dây đeo
đồng hồ… Thép không gỉ có khả năng chống sự ôxy hoá và ăn mòn rất cao,
tuy nhiên sự lựa chọn đúng chủng loại và các thông số kỹ thuật của chúng để
phù hợp vào từng trường hợp cụ thể là rất quan trọng. Khả năng chống lại sự
oxy hoá từ không khí xung quanh ở nhiệt độ thông thường của thép không gỉ
có được nhờ vào tỷ lệ crôm có trong hợp kim (nhỏ nhất là 13% và có thể lên
đến 26% trong trường hợp làm việc trong môi trường làm việc khắc nghiệt).
Trạng thái bị oxy hoá của crôm thường là crôm ôxit (III). Khi crôm trong hợp
kim thép tiếp xúc với không khí thì một lớp chrom III oxit rất mỏng xuất hiện
trên bề mặt vật liệu; lớp này mỏng đến mức không thể thấy bằng mắt thường,
có nghĩa là bề mặt kim loại vẫn sáng bóng. Tuy nhiên, chúng lại hoàn toàn
không tác dụng với nước và không khí nên bảo vệ được lớp thép bên dưới.

Hiện tượng này gọi là sự oxi hoá chống gỉ bằng kỹ thuật vật liệu. Có thể thấy
hiện tượng này đối với một số kim loại khác như ở nhôm và kẽm. Khi những
vật thể làm bằng inox được liên kết lại với nhau với lực tác dụng như bu lông
và đinh tán thì lớp ôxit của chúng có thể bị bay mất ngay tại các vị trí mà
chúng liên kết với nhau. Khi tháo rời chúng ra thì có thể thấy các vị trí đó bị
ăn mòn. Niken cũng như mô-lip-đen và vanađi cũng có tính năng oxy hoá
chống gỉ tương tự nhưng không được sử dụng rộng rãi. Bên cạnh crôm, niken
cũng như mô-lip-đen và nito cũng có tính năng oxi hoá chống gỉ tương tự.
Niken (Ni) là thành phần thông dụng để tăng cường độ dẻo, dễ uốn, tính tạo
hình của thép không gỉ. Mô-lip-đen (Mo) làm cho thép không gỉ có khả năng
chịu ăn mòn cao trong môi trường axit. Ni tơ (N) tạo ra sự ổn định cho thép
không gỉ ở nhiệt độ âm (môi trường lạnh). Sự tham gia khác nhau của các
thành phần crôm, niken, mô-lip-đen, nito dẫn đến các cấu trúc tinh thể khác
nhau tạo ra tính chất cơ lý khác nhau của thép không gỉ. Thép không gỉ có khả
năng chống sự oxy hoá và ăn mòn rất cao, tuy nhiên sự lựa chọn đúng chủng
loại và các thông số kỹ thuật của chúng để phù hợp vào từng trường hợp cụ
thể là rất quan trọng. Thép không rỉ được sản xuất như thế nào? Thép không rỉ
được sản xuất trong một lò hồ điện quang trong đó các điện cực carbon tiếp

×