Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Tiểu Luận - Quản Trị Chiến Lược - Đề Tài - Phân Tích Ngành Sữa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.63 KB, 37 trang )

Lời mở đầu

Trong những năm trở lại đây, sữa là một trong những ngành đạt tốc độ tăng trưởng
nhanh nhất trong ngành thực phẩm ở Việt Nam. Ngành sữa đạt doanh thu 62.2
nghìn tỷ đồng (2.9 tỷ USD) vào năm 2013 tăng 16,5% so với năm 2012. Theo nhận
xét đánh giá của các chuyên gia thì ngành sữa Việt Nam là một trong những ngành
có tính ổn định cao, ít bị tác động bởi chu kỳ kinh tế. Đồng thời Việt Nam đang là
quốc gia có tốc dộ tăng trưởng ngành sữa khá cao trong khu vực. Với một đất nước
đang phát triển, có tốc độ đơ thị hóa và tăng dân số cao như ở Việt Nam, nhu cầu
về các sản phẩm sữa ở Việt Nam như một nguồn bổ sung dinh dưỡng thiết yếu
ngày càng tăng lên.
Ở Việt Nam hiện có 60 doanh nghiệp trong nghành sữa đang cạnh tranh nhau. Thị
trường sữa hiện có sự tham gia của nhiều hãng sữa cả trong nước và nước ngoài
với nhiều sản phẩm đa dạng. Tuy nhiên Ngành sữa vẫn phải nhập tới 80% tổng nhu
cầu về nguyên liệu. Điều đó lý giải tại sao thị trường sữa trong nước có thể bị ảnh
hưởng mỗi khi nguyên liệu sữa thế giới biến động về giá hay chất lượng. Đồng
thời nó cũng lý giải tại sao giá của sữa trong nước vẫn cịn khá cao.Vậy liệu
nghành sữa Việt Nam có đáp ứng được như cầu ngày càng tăng của người tiêu
dùng? Bài toán về nguồn cung nguyên liệu ?...Đồng thời ngành sữa được đánh giá
là nghành đang trong giai đoạn tăng trưởng và khá có tiềm năng. Đe dọa từ những
doanh nghiệp mới xâm nhập vào nghành như thế nào? ....Để trả lời cho những câu
hỏi đó nhóm 5 xin lựa chọn đề tài “ Phân tích ngành Sữa Việt Nam “ chú trọng
làm rõ phân đoạn thị trường nghành sữa, các lực lượng cạnh tranh trong nghành và
đưa ra dự báo cho nghành sữa trong tương lai.


Phần 1: Tổng quan về ngành sữa Việt Nam:
1.1:Lịch sử phát triển ngành sữa Việt Nam:
Trong những năm qua ngành sữa Việt Nam phát triển khá nhanh. Theo đánh
giá của các chuyên gia, thị trường sữa Việt Nam hiện nay vẫn đang trong giai đoạn
tăng trưởng mạnh có quy mơ 3 tỷ USD với nhiều tên tuổi lớn như Vinamilk,


Fresland Campina VietNam, Ba Vì Milk, Mộc Châu Milk, Đà Lạt Milk,…
Nhu cầu về sữa ở Việt Nam còn rất lớn. Về bản chất, sữa là một loại đồ uống
có lợi cho sức khỏe, mang lại nguồn dinh dưỡng quý giá trong chế độ chăm sóc
sức khỏe cho người tiêu dùng. Đặc biệt, sữa là nguồn dinh dưỡng không thể thiếu
giúp hồn thiện thể chất và trí tuệ cho trẻ em. Theo thống kê của Tổ chức Lương
thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc, mức tiêu thụ các sản phẩm từ sữa của người
Việt Nam là 14,81 lít/ người/ năm, cịn thấp so với Thái Lan (23 lít/ người/ năm) và
Trung Quốc (25 lít/ người/ năm). Trong những năm gần đây, do điều kiện kinh tế
vĩ mơ ở Việt Nam có nhiều thay đổi dẫn đến thu nhập của người dân được cải thiện
theo hướng tăng lên khiến nhu cầu tiêu dùng sữa ngày càng tăng cao (20-25% một
năm, trong đó sữa nước tăng 8-10% một năm).
Chăn ni bị sữa xuất hiện ở Việt Nam từ những năm đầu của thế kỷ XX. Tuy
nhiên ngành chăn ni bị sữa mới chỉ thực sự trở thành ngành sản xuất hàng hóa
từ những năm 1990 trở lại đây.
1920 - 1923
Người Pháp đã đưa các giống bị chịu nóng như bị Red Sindhi (thường gọi
là bò Sin) và bò Ongle (thường gọi là bò Bơ) vào Tân Sơn Nhất, Sài Gịn và Hà
Nội để nuôi thử và lấy sữa phục vụ người Pháp ở Việt Nam. Tuy nhiên số lượng bị
sữa thời đó cịn ít (khoảng 300 con) và năng xuất sữa thấp (2-3 kg/con/ngày).
1937 - 1942
Ở miền Nam đã hình thành một số trại chăn ni bị sữa ở Sài Gịn-Chợ
Lớn, mỗi ngày sản xuất được hàng nghìn lít sữa và tổng sản lượng sữa đạt trên 360
tấn/năm. Có 6 giống bị sữa đã được nhập vào miền Nam là Jersey, Ongole, Red
Sindhi, Tharpara, Sahiwal và Haryana. Cũng ở miền Nam trong giai đoạn này,
Chính phủ Australia đã giúp đỡ xây dựng Trung tâm bò sữa thuần Jersey tại Bến


Cát với số lượng 80 bò cái, nhưng do điều kiện chiến tranh Trung tâm này sau đó
đã giải thể. Bò lai hướng sữa và bò sữa nhiệt đới về sau được ni tại Tân Bình,
Gị Vấp, Thủ Đức tại những trại bò sữa do tư nhân quản lý với qui mô nhỏ từ 1020 con, sản xuất sữa tươi cung cấp cho các nhà hàng và trực tiếp cho người tiêu

dùng là chính.
1954 - 1960
Ở miền Bắc, Nhà nước bắt đầu quan tâm đến phát triển chăn nuôi, trong đó
có bị sữa. Các Nơng trường quốc doanh được xây dựng như Ba Vì (Hà Tây), Mộc
Châu (Sơn La), Than Uyên (Nghĩa Lộ), Tam Đường (Lào Cai), Hữu Nghị (Quảng
Ninh), Hà Trung (Thanh Hoá)... cùng với các trạm trại nghiên cứu về giống và kỹ
thuật chăn ni bị sữa. Năm 1960, giống bò sữa lang trắng đen Bắc Kinh lần đầu
tiên đã được đưa vào Việt Nam nuôi thử nghiệm tại Ba Vì, Sa Pa và Mộc Châu.
Đến thập kỷ 70, Việt Nam đã được Chính phủ Cu Ba viện trợ 1000 con bị sữa
Holstein Friesian (HF) về ni thử nghiệm tại Mộc Châu. Đồng thời chính phủ Cu
Ba cũng đã giúp ta xây dựng Trung tâm bò đực giống Moncada để sản xuất tinh bị
đơng lạnh.
Những năm 1970
Việt Nam cũng đã nhập một số trâu sữa Murrah từ Ấn Độ. Số trâu này được
nuôi ở Phùng Thượng, Sông Bé và một số nới khác. Tuy nhiên, chăn nuôi trâu sữa
tỏ ra chưa phù hợp với điều kiện của Việt Nam và vì thế đến nay số lượng trâu
Murrah cịn lại khơng nhiều. Từ năm 1976 một số bị sữa HF được chuyển vào
nuôi tại Đức Trọng (Lâm Đồng). Bên cạnh đó phong trào lai tạo và chăn ni bị
sữa cũng được phát triển mạnh thêm ở các tỉnh miền Đơng Nam Bộ và Tp. Hồ Chí
Minh. Tuy nhiên, cho đến những năm đầu thập kỷ 1980, đàn bò sữa của Việt Nam
chỉ được nuôi tại các nông trường quốc doanh và các cơ sở trực thuộc sở hữu Nhà
nước. Quy mơ các nơng trường quốc doanh thời đó phổ biến là vài trăm con, quy
mô lớn nhất là Nông trường Mộc Châu với khoảng 1000 con. Do còn nhiều hạn
chế về kinh nghiệm chăn nuôi, cơ chế quản lý không phù hợp, điều kiện chế biến
và tiêu thụ sữa khó khăn nên nhiều nơng trường đã phải giải thể do chăn ni bị
sữa khơng có hiệu quả. Đàn bị sữa cũng vì thế mà giảm sút nhanh chóng.


1985 - 1987
Đồng thời với việc ni bị thuần nhập nội, chương trình lai tạo bị sữa HàẤn (HFx Lai Sin) cũng được triển khai song song với chương trình Sin hố đàn bị

Vàng nội. Trong thời gian 1985-1987 Việt Nam nhập bò Sin (cả bò đực và bò cái)
từ Pakistan về nuôi ở nông trường Hữu nghị Việt Nam - Mông Cổ và Trung tâm
tinh đông lạnh Moncada (Ba Vì, Hà Tây). Đồng thời năm 1987, bị Sahiwal cũng
đã được nhập từ Pakistan về nuôi tại Trung tâm tinh đơng lạnh Moncada và Nơng
trường bị giống miền Trung (Ninh Hồ, Khánh Hồ). Những bị Sin và Sahiwal
này đã được dùng để tham gia chương trình Sin hố đàn bị Vàng Việt Nam nhằm
tạo ra đàn bò Lai Sin làm nền cho việc gây HF khác nhau tuỳ theo thế hệ lai: F1
(1/2 HF), F2 (3/4 HF), F3 (7/8 HF) hay F2 (5/8 HF).
Trong thời gian trên Việt Nam cũng đã nhập tinh đơng lạnh bị Jersey và
Nâu Thuỵ Sĩ dùng để lai với bò cái Lai Sin (LS), bò Vàng và bò cái lai F1, F2 (HF
x LS). Tuy nhiên do năng suất sữa của con lai kém xa so với bò lai với bò Holstein,
hơn nữa do màu lông không hợp với thị hiếu của người nuôi, nên việc lai tạo với
bị này khơng có hướng phát triển thêm.
1986 - 1999
Từ năm 1986 Việt Nam bắt đầu phong trào Đổi mới và chỉ sau 3 năm từ
một nước thiếu lương thực Việt Nam đã có lương thực xuất khẩu. Kinh tế phát
triển đã tạo ra nhu cầu dùng sữa ngày càng tăng. Do vậy, đàn bò sữa ở TP HCM,
các tỉnh phụ cận như Bình Dương, Đồng Nai, Long An, ngoại thành Hà Nội và các
tỉnh phụ cận cũng tăng nhanh về số lượng. Từ năm 1986 đến 1999 đàn bị sữa tăng
trưởng trung bình 11%/năm. Phong trào chăn ni bị sữa tư nhân đã hình thành và
tỏ ra có hiệu quả.
2001
Chính phủ đã có chủ trương đẩy mạnh phát triển ngành sữa của Việt Nam với
việc thông qua Quyết định 167/2001/QĐ/TTg về chính sách phát triển chăn ni
bị sữa trong giai đoạn 2001-2010. Theo chủ trương này từ năm 2001 đến 2004
một số địa phương (TP Hồ Chí Minh, An Giang, Bình Dương, Thanh Hố, Tun
Quang, Sơn La, Hồ Bình, Hà Nam, …) đã nhập một số lượng khá lớn (trên 10


nghìn con) bị HF thuần từ Australia, Mỹ, New Zealand về ni. Một số bị Jersey

cũng được nhập từ Mỹ và New Zealand trong dịp này.
Từ năm 2008 đến nay
Có nhiều dự án đầu tư vào xây dựng trang trại chăn nuôi tập trung với quy
mô lớn và áp dụng cơng nghệ khoa học từ nước ngồi mà điển hình là Trang trại
chăn ni bị sữa của Cơng ty TNHH Sữa Cho Tương Lai – Dự án đầu tư 100%
vốn nước ngoài tại Tuyên Quang, các dự án trang trại quy mô lớn của Vinamilk tại
Tuyên Quang, Nghĩa Đàn – Nghệ An, Bình Định,… và đặc biệt là dự án đầu tư
chăn ni bị sữa với quy mơ rất lớn của Công ty CP TH True Milk tại Nghệ An.

Bên cạnh các loại sữa có nguồn gốc từ động vật, hiện nay ngành sữa Việt
Nam cịn có các sản phẩm sữa từ thực vật. Mặt hàng sữa đậu nành hiện nay có tốc
độ tăng trưởng nhanh nhất trong những năm qua do nhận thức của người tiêu dùng
về lợi ích của sữa đậu nành ngày càng tăng.


Theo dự báo, sản lượng sữa Việt Nam đến năm 2025 là 2.4 tỷ lít sữa tươi, đạt
trung bình 34 lít/ngày/người/năm. Ngành sữa Việt Nam hứa hẹn là một ngành có
tiềm năng phát tiển ngày càng mạnh mẽ.

1.2: Đặc điểm của ngành sữa Việt Nam
1.2.1: Khách hàng
Khách hàng là yếu tố quan trọng đối với mọi ngành kinh doanh và sữa cũng không
là ngoại lệ. Khách hàng ngành sữa rất đa dạng từ trẻ em, thanh niên, người già,…
gần như hầu hết các đối tượng. Chịu tác động của các yếu tố cơ bản sau:
- Thói quen tiêu dùng của khách hàng:
Thói quen tiêu dùng ảnh hưởng khá lớn đến việc lực chọn nhãn hiệu. Người mua
có thói quen lựa chọn sữa theo nhãn hiệu lâu năm (trong tâm trí họ), có thương
hiệu và uy tín trên thị trường. Họ có xu hướng đánh giá sữa qua giá thành và nguồn
gốc xuất xứ, giá cao hơn chất lượng sẽ tốt hơn (đặc biệt là sữa dành cho trẻ em và
người cao tuổi) và hàng ngoại sẽ tốt hơn hàng nội. Tuy nhiên giá không phải yếu tố

tiên quyết để chọn lựa nhãn hiệu sữa vì các sản phẩm sữa hiện nay rất đa dạng và
có thể thay thế cho nhau. Người mua lựa chọn nhãn sữa dựa trên thông tin chất
lượng, sức mạnh thương hiệu, phản hồi của người dùng,… rồi mới đến mức giá cả.
Đối tượng đưa ra quyết định mua chủ yếu là phụ nữ. Phụ nữ đóng vai trị quyết
định trong q trình chi tiêu. Họ là người chăm lo sức khỏe cho cả gia đình, và họ
lực chọn những sản phẩm liên quan đến sức khỏe rất khắt khe. Và chất lượng của
sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến sự trung thành của họ đối với nhãn hiệu. Phụ nữ
trong độ tuổi 30 ra quyết định thường xuyên sử dụng các phương tiện truyền thông,
trong khi đó, phụ nữ với tuổi trung bình là 47 có thói quen mua sắm chuẩn bị
trước, có ý thức về giá trị hàng hóa tốt và ưa chuộng các quảng cáo thương mại.
Phụ nữ trong độ tuổi 67 luôn đánh giá cao tầm quan trọng của truyền miệng. Dựa
vào những đặc điểm cơ bản đó doanh nghiệp sẽ có những biện pháp tiếp cận phù
hợp.


Sự tin tưởng là yếu tố lớn nhất và thành công nhất khi tiếp cận người tiêu dùng
trong lĩnh vực sức khỏe và dinh dưỡng. Người mua tin tưởng thông tin từ người
dùng khác, người bán, và dễ bị tác động đến quyết định mua.
Họ tìm kiếm các nguồn thơng tin qua nguồn cá nhân (gia đình, bạn bè,..), cơng
chúng, thử nghiệm, kinh nghiệm bản thân,…
- Thu nhập:
Thu nhập có ảnh hưởng lớn đến hành vi tiêu dùng sản phẩm sữa, đặc biệt là sữa
bột công thức, bởi các sản phẩm này có giá tương đối cao. Nó tác động trực tiếp
đến quyết định mua sắm của người tiêu dùng.
Xu hướng chọn lựa những sản phẩm liên quan đến dinh dưỡng rất cẩn thận. Khi
thu nhập càng cao thì sự lựa chọn này càng khắt khe hơn, vì những sản phẩm này
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của họ. Mà trong thời đại hiện nay vấn đề sức
khỏe rất được quan tâm, đặc biệt khi mức sống của người dân cao hơn.
- Nhu cầu tiêu dùng:
Mức tiêu dùng sữa ngày càng tăng. Theo báo cáo về người tiêu dùng Việt Nam

2013 của Nielsen cho thấy, sau những lo ngại về nền kinh tế chưa ổn định và việc
làm, sức khỏe là mối quan tâm thứ ba của người tiêu dùng. Người Việt Nam tiêu
dùng ngày càng nhiều cho những sản phẩm có lợi cho sức khỏe, trong đó có sữa.
Mức tiêu thụ sữa của người Việt Nam khoảng 15 lít/ người/ năm (2012).
Nhu cầu tiêu dùng về sữa ngày càng cao do sự phát triển về kinh tế và nhận thức
tầm quan trọng sức khỏe của người dân.

1.2.2: Các loại sản phẩm sữa Việt Nam:
Có rất nhiều loại sữa, nhưng về cơ bản ta có thể chia thành các nhóm cơ bản sau:
- Sữa bột cơng thức:
Là sản phẩm sữa bột trẻ em được pha chế theo công thức đặc biệt thay thế cho sữa
mẹ hoặc được bổ sung những vi chất đặc biệt dành cho các đối tượng đặc biệt,
thường là trẻ em dưới 3 tuổi.


Một số nhãn hiệu như: Abbott Việt Nam (23.1% thị phần ), Vinamilk(17%), Dutch
Lady Vietnam(13.8%), Nestlé Vietnam(8.5%), còn lại là các hãng sữa khác (số liệu
năm 2008).
Đây là mảng sản phẩm có tốc độ phát triển nhanh. Năm 2009, tổng doanh thu sữa
bột công thức đạt hơn 6.590 tỉ VNĐ, chiếm 35,6% doanh thu toàn ngành sữa, tăng
mạnh về cả cầu và cung sản phẩm. Các điều kiện kinh tế-xã hội thay đổi, mức sống
dân cư tăng lên, loại sữa này càng được quan tâm hơn. Cùng với đó, cha mẹ ở Việt
Nam ngày càng có khả năng và muốn loại sản phẩm tốt nhất cho con mình. Đặc
biệt ở các thành phố lớn, người mẹ ít có thời gian hơn để chăm sóc con mình, sữa
bột trẻ em được sử dụng ngày càng nhiều do tiện lợi và đem lại nguồn dinh dưỡng
tốt. Chất lượng là yếu tố quan trọng nhất khi chọn mua sản phẩm này.
- Sữa uống:
Các sản phẩm sữa uống cũng rất đa dạng gồm sữa nước, sữa đậu nành, và sữa bột
khác.
+ Sữa nước : Sữa nước bao gồm sữa tươi nguyên chất (được làm từ 100% sữa tươi)

và sữa tiệt trùng (được chế biến từ sữa bột nhập khẩu). Do nguồn nguyên liệu trong
nước hạn chế, các sản phẩm sữa tiệt trùng hiện chiếm phần lớn trong tiêu thụ sữa
nước. Với những đặc điểm tiện lợi, dễ bảo quản, sữa nước là sự lựa chọn khá hoàn
hảo cho những người bận rộn. Đồng thời nó cũng cung cấp phần dinh dưỡng vừa
đủ để khơng q nhiều hay khơng q ít, dễ dàng sử dụng.
Loại sữa này khá phổ biến trên thị trường, mức giá tương đối ổn, tiếp cận nhanh
chóng với người tiêu dùng, khá thân thiện.
+Sữa đậu nành: Sản phẩm này có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong những năm
qua, do nhận thức của người tiêu dùng về lợi ích của sữa đậu nành ngày càng tăng,
và nhờ các chiến dịch quảng cáo của nhà sản xuất. Mặt khác có thể thấy sản phẩm
này có lượng calo khơng q cao, phù hợp với nhiều đối tượng, mức giá vô cùng
hợp lý, khá tự nhiên với nguyên liệu trong nước, dễ tìm, gần gũi. Hiện nay, công ty
sữa đậu nành Việt Nam Vinasoy chiếm 70% thị phần về sữa đậu nành hộp giấy,
với 2 sản phẩm chính là sữa đậu nành Fami và sữa đậu nành mè đen. Thị phần còn
lại là của VINAMILK với nhãn hiệu V-fresh. VINAMILK đang muốn mở rộng
doanh thu ở mặt hàng này.


+ Sữa bột khác: Đây là các loại sữa bột dành riêng cho từng đối tượng, thường là
người lớn với các sản phẩm như: Dielac Mama (VINAMILK), Enfamama
(Abbott), Frisomum (Dutch Lady – nhập khẩu trực tiếp từ Hà Lan)… - hướng tới
đối tượng là phụ nữ mang thai; Anlene (Fonterra Brands) hay Ensure (Abbott)
dành cho người có nhu cầu dinh dưỡng đặc biệt. Thị trường chuyên biệt trong
ngành sữa thường là dinh dưỡng cho người lớn tuổi và dinh dưỡng dành cho theo
bệnh lý. Vượt trội trong cung cấp calcium cho người lớn tuổi, nhãn hàng Anlene
của công ty Fonterra đã chiếm đến 80% thị phần trong ngành hàng chuyên biệt
này. Ở mảng sản phẩm này, các mặt hàng sữa nhập khẩu nước ngoài vẫn chiếm ưu
thế về thương hiệu và thị phần.
- Các loại sữa khác ( Sữa đặc, sữa chua,…)
+ Sữa đặc: 79% thị phần thuộc về VINAMILK và 21% thị phần thuộc về Dutch

Lady (Somers, 2009). Tuy nhiên, người tiêu dùng, đặc biệt là ở thành phố, bắt đầu
nhận thức được sữa đặc có đường khơng tốt cho sức khỏe, và hiện nay, sữa đặc có
đường hiện phổ biến hơn đối với người tiêu dùng ở nông thơn. Sữa đặc ít được sử
dụng trực tiếp và tốc độ tiêu dùng khá chậm. Theo EMI, nhu cầu về các sản phẩm
sữa đặc ở Việt Nam hiện đang đến giai đoạn bão hòa.
+ Sữa chua: Sữa chua được nhiều người tiêu dùng Việt Nam ưa chuộng nhờ các
thành phần dinh dưỡng có lợi cho sức khỏe. Đặc biệt khi hiện nay sữa chua còn bổ
sung các dưỡng chất tốt cho da (ví như nha đam), các chất tốt cho đường tiêu hóa,
lợi khuẩn. Sữa chua được sử dụng khá rộng rãi bởi đặc tính dễ sử dụng, phù hợp
với mọi lứa tuổi, đặc biệt với trẻ em thì có các loại sữa chua vị rất hấp dẫn. Hiện
nay, phần lớn sữa chua được sản xuất bởi các công ty sữa như VINAMILK,
Dutchlady, Ba Vì, Mộc Châu… Trong năm 2009, doanh thu sữa chua toàn thị
trường tăng 11% so với năm 2008, đạt 2.000 tỉ đồng. Sữa chua gồm có 2 loại, sữa
chua ăn và sữa chua uống. VINAMILK đứng đầu thị trường về doanh thu sữa chua
(khoảng 60% thị phần), chủ yếu ở mảng sữa chua ăn. Tiếp theo sau là Dutchlady,
với ưu thế ở mảng sữa chua uống; cịn lại là sữa chua do hộ gia đình và các nhà
máy nhỏ sản xuất (EMI 2009). Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, thị trường sữa
chua sẽ dần đến giai đoạn bão hòa sau khi tăng trưởng mạnh 10 năm qua (EMI
2009).
1.2.3: Doanh nghiệp trong ngành:


Các doanh nghiệp trong ngành sữa rất đơng, trong đó một số công ty lớn như
Vinamilk, Nestlé, TH true milk, Mộc châu, Ba vì,….

THỊ PHẦN SỮA UỐNG CỦA CÁC CƠNG TY (Năm 2008)
Tên công ty
Dutch Lady
Vinamilk
Nestlé

Mead Johnson
Fonterra Brands
Hanoimilk
Associated British Foods (ABF)
Vinasoy
Mộc Châu
Nutifood
Khác

Thị phần(%)
26.6
25.2
7.9
4.9
4.0
3.1
2.2
1.2
0.8
0.5
23.6

Dutch Lady và Vinamilk chiếm thị phần cao nhất, nắm giữ hầu hết thị phần, có
chỗ đứng khá vững chắc trên thị trường, khó có thể lật đổ được, tạo những thách
thức khá lớn cho các doanh nghiệp ra nhập mới. Những doanh nghiệp muốn ra
nhập thị trường này phải chuẩn bị khá kĩ càng về mọi mặt.
THỊ PHẦN SỮA BỘT CƠNG THỨC (Năm 2008)
Tên cơng ty
Abbott Vietnam Co.Ltd
Vinamilk

Mead Johnson
Dutch Lady
Nestlé
Meiji Dairies Corp.
Khác

Thị phần (%)
23.1
17.0
14.7
13.8
8.5
1.5
21.4


Trong sữa bột cơng thức có khá nhiều hãng lớn, cạnh tranh gay gắt giữa trong nước
với dây chuyền sản xuất nước ngoài. Đối với sản phẩm này, thị trường có vẻ phân
chia khá đồng đều hơn so với sữa uống.

1.2.4:Hệ thống phân phối:
Hệ thống phân phối khá đa dạng và phức tạp. Với thực tế thị trường hiện nay mở
rộng kênh phân phối là điều rất quan trọng, đưa khách hàng đến với nhà sản xuất.
Hiện nay chủ yếu phân phối qua các kênh:
- Từ đại lý lớn tới các tạp hóa nhỏ
- Qua các siêu thị: ngày càng chiếm tỷ trọng lớn do thay đổi trong thói quen tiêu
dùng của người dân.
- Qua các trung tâm dinh dưỡng, giới thiệu sản phẩm: phối hợp với các bệnh viện
(Viện nhi, Viện phụ sản…), các quầy thuốc tại bệnh viện, các trung tâm tư vấn
dinh dưỡng (Viện dinh dưỡng quốc gia, Trung tâm khám và tư vấn dinh dưỡng TP

Hồ Chí Minh…): kết hợp trực tiếp giới thiệu sản phẩm và tư vấn thông qua các
chuyên gia dinh dưỡng tại đây.
Trong năm 2009, các cửa hàng tạp hóa nhỏ và siêu thị tiếp tục là hai kênh phân
phối chính các sản phẩm sữa bột trẻ em. Lợi thế chính của các cửa hàng tạp hóa
nhỏ độc lập là khả năng bao phủ tồn quốc. Trong khi đó, điểm mạnh của kênh
phân phối siêu thị là có thể cung cấp các chủng loại hàng hóa đa dạng với giá cả
cạnh tranh. Các điểm bán lẻ bệnh viện/ quầy thuốc… mất dần tầm quan trọng, vì
khả năng bao phủ hẹp, chủ yếu là ở các thành phố lớn. Tuy nhiên, đó vẫn là kênh
phân phối quan trọng, với 33% thị phần, vì thị trường thành phố hiện tiêu thụ hơn
70% các sản phẩm sữa.
Đặc biệt là hai “ông trùm” trong ngành sữa là VINAMILK hay Dutch Lady thì họ
có cả hệ thống phân phối riêng của mình. VINAMILK hiện có hệ thống phân phối
riêng với 135.000 điểm bán lẻ trên toàn quốc (VINAMILK, 2010). Dutch Lady
Việt Nam hiện phân phối sản phẩm của mình thơng qua hơn 150 nhà phân phối và
100.000 điểm bán lẻ (Dutch Lady, 2009).


Các cơng ty sữa nước ngồi khi bán hàng tại Việt Nam phải phân phối qua các đại
lý ủy quyền, từ đó phân phối ra các kênh khác. Các cơng ty sữa ở nước ngoài khi
bán hàng tại Việt Nam phải qua 1 đại lý, để kiểm tra kiểm dịch chất lượng sản
phẩm, đóng gói lại theo tiêu chuẩn Việt Nam.
1.2.5: Nguồn nguyên liệu:
Đối với các công ty sản xuất sữa trong nước, nguyên liệu trong nước chỉ đáp ứng
được 30% nhu cầu sản xuất, trong khi đó 70% cịn lại phải nhập khẩu (năm 2009).
+ Nguồn nguyên liệu trong nước:
Đàn bò sữa tăng trưởng 16%/năm trong giai đoạn 2001-2009, tập trung chủ yếu ở
miền Nam. Miền Bắc chỉ chiếm từ 15-25% tổng số bò sữa tại Việt Nam trong giai
đoạn này. Ở miền Nam, thành phố Hồ Chí Minh là vùng ni nhiều bị sữa nhất,
với hơn 69 nghìn con vào năm 2008. Mặc dù quy mơ đàn bị sụt giảm vào năm
2007 và 2008 so với năm 2006, sản lượng sữa cả nước vẫn tăng đều qua các năm,

với tốc độ trung bình 23%/ năm. Tương ứng với quy mơ đàn bị, miền Nam sản
xuất hơn 85% lượng sữa tươi cả nước. Năng suất sữa toàn ngành trong năm 2009
sụt giảm nhẹ; với nguyên nhân chính là cơ cấu lại quy mơ đàn bị, do đó có một số
lượng bị sữa nhất định chưa có khả năng khai thác sữa. Các công ty sản xuất sữa
lớn trong nước như VINAMILK hoặc FrieslandCampina Việt Nam (Dutch Lady),
tuy đã bắt đầu phát triển vùng nguyên liệu riêng của mình. Điển hình là
VINAMILK, ngồi việc thu mua sữa ở các trang trại nhỏ lẻ của nông dân, đã xây
dựng 5 trang trại ni bị, với Nghệ An là trang trại bị sữa lớn nhất Việt Nam hiện
nay. Song nhìn chung, Việt Nam khơng có các điều kiện thuận lợi để chăn ni bị
sữa, do khí hậu nhiệt đới và quỹ đất chật hẹp. Do đó, tuy nhà nước và các cơng ty
sữa đã chú trọng phát triển nguồn nguyên liệu trong nước, nhưng hiện hơn 70%
đầu vào sản xuất của các công ty sữa Việt Nam đến từ nhập khẩu.
Trong định hướng quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu đến năm 2020, số lượng
bò sữa cả nước sẽ đạt 426.088 con và đến năm 2025, số lượng bò sữa sẽ đạt
601.436 con. Bên cạnh đó, dự kiến sản lượng sữa đến năm 2020 sẽ đạt 934,5 ngàn
tấn và đến năm 2025 đạt sẽ đạt 1.344,7 ngàn tấn. Theo đánh giá của các chuyên
gia, mặc dù tốc độ phát triển đàn bò sữa ở nước ta hiện vẫn đang ở mức khá cao
nhưng theo dự báo, đến năm 2020, tổng sản lượng sữa bò nước ta mới đáp ứng
được 35-36% và năm 2025 mới chỉ đáp ứng được gần 40% nhu cầu trong nước. Do


đó, các cơ sở chế biến sữa vẫn phải phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nguyên liệu nhập
khẩu.
+ Nguồn nguyên liệu nhập khẩu:
Việt Nam nhập khẩu sữa bột chủ yếu từ các nước châu Úc (như New Zealand, Úc),
Mỹ, Hà Lan. Bên cạnh đó, giá trị nhập khẩu từ các nước Đông Nam Á chiếm một
phần không nhỏ, chủ yếu là sữa bột thành phẩm nhập từ các nhà máy chế biến sữa
của các công ty sữa đa quốc gia đặt tại đây như Dumex, Dutch Lady…Việt Nam
trong những năm qua nhập khẩu nhiều nhất từ New Zealand, tiếp đó là Hà Lan, các
sản phẩm về sữa. Công ty sản xuất sữa lớn nhất Việt Nam – VINAMILK cũng

nhập phần lớn nguyên liệu sữa đầu vào từ Fonterra – một tập đoàn đa quốc gia của
New Zealand (nắm giữ 1/3 thương mại sữa bột trên thế giới).
1.2.6: Diễn biến giá:
Sữa là một trong những mặt hàng bình ổn giá của Chính phủ nhưng nó lại rất khó
kiểm sốt do những lỏng lẻo trong pháp luật, tạo cơ hội cho doanh nghiệp lách
luật.
Tháng 9/2015 giá sữa trên thị trường thế giới giảm mạnh nhưng giá sữa trong nước
thì vẫn giữ nguyên, “ổn định” và được giải thích rằng giá sữa nhập vào có thấp hơn
nhưng do các chi phí nên chưa kịp điều chỉnh. Thực tế là từ trước tới nay giá sữa
trong nước chỉ có tăng chứ khơng có giảm, trong khi giá sữa trên thế giới lại
thường xuyên tăng giảm. Mặc dù giá nguyên liệu sữa trên thị trường thế giới giảm
mạnh từ 12-20%, đặc biệt tại thị trường Úc, có những thời điểm giá sữa giảm tới
30-35%. Dù vậy, nghịch lý là giá sữa tại Việt Nam lại vẫn giữ ngun, thậm chí
một số sản phẩm cịn có xu hướng tăng nhẹ từ 3.000-10.000 đồng.
Vì nằm trong danh mục sản phẩm bình ổn giá của Chính phủ nên giá sữa được điều
chỉnh khá ổn định.

PHần 2: Phân đoạn thị trường sữa và đánh giá tiềm năng của ngành sữa ở
Việt Nam:
2.1:Nhóm chiến lược nghành sữa:


2.1.1:Khái niệm:
Nhóm chiến lược là một nhóm các doanh nghiệp cùng áp dụng một (một vài )
chiến lược tương đồng ,sử dụng các nguồn lực như nhau trên cùng 1 thị trường
mục tiêu.
2.1.2:Ý nghĩa:
-Những đối thủ cạnh tranh gần nhất nằm trong một nhóm chiến lược và được
khách hàng coi là có thể thay thế lẫn nhau .
Các đối thủ cạnh tranh gần gũi nhất của công ty là những cơng ty ở trong nhóm

chiến lược của nó.
-Mỗi nhóm chiến lược có thể có những lực lượng cạnh tranh khác nhau và có thể
phải đối mặt với một tập hợp cơ hội ,thách thức khác nhau.
Nhóm chiến lược khác nhau có vị thế khác nhau so với lực lượng trong số các lực
lượng cạnh tranh.
Rào cản di động bảo vệ các cơng ty trong một nhóm nào đó trước các đe dọa nhập
từ nhóm khác.
+ Nếu rào cản di động thấp, đe dọa nhập cuộc cao, hạn chế khả năng tăng giá và
lợi nhuận.
+ Rào cản di động cao, đe dọa nhập cuộc thấp, các cơng ty trong nhóm có cơ hội
tăng giá và nhận lợi nhuận cao hơn.
2.1.3:Nhóm chiến lược trong ngành sữa:

NGÀNH SỮA

Sữa bột

Sữa nước

Sữa chua

Sữa đặc

-Abbott

-Vinamilk

-Vinamilk

-Vinamilk


-Friesland

-THmilk

-Sữa Ba vì

-FCV

-Vinamilk

-Nutifood

-THmilk

Đậu nành
-Đường
Quảng
Ngãi
-vinasoy


Sữa bột: Giá trị mặt hàng này chiếm 45% thị trường sữa Việt Nam, với tốc độ
tăng trưởng bình quân 10,1%/năm. Tuy nhiên doanh nghiệp nước ngoài như
Abbott, Friesland Campina Vietnam và Mead Johnson chiếm phần lớn thị phần sữa
bột do người tiêu dùng Việt Nam vẫn sẵn sàng trả giá cao cho thương hiệu ngoại.
Doanh nghiệp nội như Vinamilk chiếm khoảng 25% thị phần.
Sữa nước: Mặt hàng sữa nước chiếm 29% giá trị toàn ngành với sự cạnh tranh chủ
yếu của 2 doanh nghiệp lớn là Vinamilk và Friesland Campina Vietnam (FCV).
Theo VPBS, hiện Vinamilk chiếm 49% thị phần sữa nước, tiếp theo là FCV chiếm

26%. Ngoài hai doanh nghiệp kỳ cựu trên, cuộc đua ngành hàng sữa nước cịn có
sự góp mặt của nhiều doanh nghiệp khác như TH Milk, Nutifood, IDP, Hanoi
Milk,…
Sữa chua: Đây là mặt hàng có tiềm năng tăng trưởng trong thời gian tới khi tốc độ
tăng đạt 34,3%, đạt 7,7 nghìn tỷ đồng năm 2013. Đồng thời về cơ cấu, sữa chua
chiếm 20% so với sữa uống là 80%, thấp hơn nhiều so với các nước khác trên thế
giới. Vinamilk là doanh nghiệp dẫn đầu về mặt hàng sữa chua, chiếm 73% thị
phần, ngoài ra có sự tham gia cạnh tranh của Sữa Ba Vì, TH Milk và các thương
hiệu sữa chua nước ngồi khác.
Sữa đặc: Với sự gia tăng của sữa nước và sữa bột, sữa đặc dần tới ngưỡng bão hòa
với tốc độ tăng trưởng thấp chỉ đạt 2,5% năm 2010 và 3% năm 2013. Vinamilk
(chiếm 80%) và FCV tiếp tục là hai doanh nghiệp chi phối ngành hàng này với
những nhãn hiệu nổi tiếng như Sữa Ơng Thọ, Ngơi sao Phương Nam, Cô gái Hà
Lan và Completa.
Sữa đậu nành: Việt Nam là nước tiêu thụ sữa đậu nành nhiều nhất thế giới với
mức 500 triệu lít năm 2012. Trong năm 2013, tiêu thụ tiếp tục tăng 17%, cao hơn
cả sữa nước và sữa bột. Tuy nhiên có ít cơng ty gia nhập vào thị trường này, trong
đó Đường Quảng Ngãi chiếm 81,5% thị phần với hai thương hiệu Fami, Vinasoy,
phần còn lại thuộc về Vinamilk (thương hiệu Goldsoy) và Tân Hiệp Phát (thương
hiệu Soya Number One) muốn đầu tư 40 triệu USD xây dựng trang trại bò sữa tại
Tam Đảo, Vĩnh Phúc trong thời gian tới.

2.2: Phân đoạn thị trường sữa:


2.2.1:Khái niệm phân đoạn thị trường:
Phân đoạn thị trường là q trình chia người tiêu dùng thành các nhóm dựa trên
các khác biệt về nhu cầu, đặc tính, hành vi. Mà mỗi đoạn thị trường là một nhóm
người tiêu dùng có phản ứng như nhau đối với cùng tập chính sách marketing của
doanh nghiệp. Vì vậy, trong cùng một đoạn thị trường, khách hàng đồng nhất về

các đặc tính, nhu cầu nào đó.
2.2.2:Vai trị của phân đoạn thị trường:
 Phân đoạn thị trường là cơ sở tiền đề để xây dựng chiến lược thị trường của
doanh nghiệp. Nhờ hiểu rõ động cơ cũng như sở thích của người tiêu dùng, qua đó
phân tích nhu cầu của từng nhóm khách hàng để đưa ra những sản phẩm cùng loại
nhưng có cơng dụng khác nhau, bao bì khác nhau, giá cả khác nhau v.v.. để phục
vụ cho những nhu cầu khác nhau của những đối tượng khách hàng khác nhau .Qua
đó, lựa chọn cho doanh nghiệp một phân đoạn thị trường thích hợp và xây dựng
chiến lược hợp lý để đáp ứng cao nhất nhu cầu khách hàng, tăng khả năng cạnh
tranh cho doanh nghiệp, đưa doanh nghiệp đến thành công và phát triển.
 Phân đoạn thị trường là cơ sở để các doanh nghiệp nhận định, đánh giá, thị
trường, giúp theo dõi diễn biến thị trường, phán đoán những thay đổi trên thị
trường trong tương lai nhằm đón đầu nhu cầu thị trường.
 Phân đoạn thị trường giúp cho doanh nghiệp có sự phân bố nguồn lực hợp lý,
hiệu quả.
2.2.3: Các tiêu thức (phương pháp) phân đoạn thị trường:


Phân đoạn thị trường

Phân đoạn
thị trường
theo vị trí
địa lý

Phân đoạn
thị trường
theo đặc
điểm dân
số học


-Khu vực

-Tuổi tác

-Quốc gia

-Thu nhập

-Vùng miền

-Giới tính

….

….

Phân đoạn
thị trường
theo đặc
điểm tâm lý
xã hội

Phân đoạn
thị trường
theo hành
vi

-Tính cách


-Lý do sử
dụng

-Sở thích
-Quan điểm

-cường độ
sử dụng

….

….

Phân đoạn
thị trường
kết hợp
(thường
được các
doah
nghiệp áp
dụng)

2.2.4: Các yêu cầu của phân đoạn thị trường:
●Khác nhau về cách thức phản ứng: Các phân khúc phải khác nhau về cách thức
phản ứng đối với cùng các hoạt động/chương trình marketing (Ví dụ, nếu nam và
nữ đều giống nhau về cách thức phản ứng đối với cùng các hoạt động/chương trình
marketing của Cocacola thì Cocacola khơng nên phân khúc thị trường theo giới
tính)
●Khả thi: Doanh nghiệp phải có đủ khả năng phục vụ khách hàng trong phân
khúc.

●Có thể đo lường được: Các yếu tố như kích cỡ phân khúc, sức mua, lợi nhuận
của phân khúc có khả năng đo lường được
●Có thể tiếp cận được: Các khách hàng trong phân khúc có thể tiếp cận được.
●Có khả năng sinh lời: Phân khúc phải có khả năng tạo ra đủ lợi nhuận.
2.2.5: Phân đoạn thị trường sữa Việt Nam:


Sữa là một loại đồ uống có lợi cho sức khỏe,mang lại nguồn dinh dưỡng quý giá
trong chế độ chăm sóc sức khỏe của người tiêu dùng. Tuy nhiên, mỗi người tiêu
dùng có một nhu cầu, lý do sử dụng khác nhau, để đáp ứng được nhu cầu của mỗi
người tiêu dùng tốt nhất ngành đã chia người tiêu dùng ra từng nhóm đối tượng có
cùng nhu cầu, hành vi,..Đó là phân đoan thị trường.
Ngành sữa đã phân đoạn thị trường với nhiều phương pháp phân đoạn khác nhau,
kết hợp những phương pháp đó để có thể đáp ứng nhu cầu cho mỗi phân đoạn một
cách tốt nhất. Nhưng chủ yếu trong ngành vẫn tập trung theo phương pháp phân
đoạn thị trường theo: ‘đặc điểm dân số học và về đặc điểm hành vi’. Phân đoạn thị
trường theo đặc điểm dân số học ngành tập trung vào thu nhập và độ tuổi. Ngành
chia độ tuổi dân số thành các khoảng và tập trung các sản phẩm đặc trưng cho lứa
tuổi có nhu cầu sử dụng lớn nhất. Đồng thời sử dụng kết hợp với phương pháp
phân đoạn thị trường theo hành vi.
Điển hình, sữa là nguồn dinh dưỡng khơng thể thiếu giúp hồn thiện thể chất và
trí tuệ cho tầng lớp trẻ em, để đáp ứng được nhu cầu, hành vi tiêu dùng đó ngành
cho ra đời sản phẩm sữa bột cho trẻ em với công thức pha chế đặc biệt thay thế sữa
mẹ hoặc bổ sung các vi chất đặc biệt dành cho trẻ. Đáp ứng được nhu cầu hành vi
của người tiêu dùng nhưng người sử dụng lại có nhu cầu riêng biệt đối với từng đối
tượng trẻ em, lúc này đây phương pháp phân đoạn thị trường theo dân số học, cụ
thể là phân chia thành sản phẩm sữa cho trẻ em và người trưởng thành. Các loại
sữa bột công thức sẽ được chia theo lứa tuổi trẻ em , phổ biến là các lứa tuổi: 0-6
tháng tuổi, 6-12 tháng tuổi, 1-3 tuổi và trên 3 tuổi. Người trưởng thành cũng có các
loại sữa bột dành riêng cho từng đối tượng như là người có chế độ dinh dưỡng đặc

biệt, đối tượng phụ nữ mang thai, những người dùng theo bệnh lý( Sữa dành cho
người gầy, sữa dành cho người mới ôm dậy, người bị bệnh tiểu đường..), sự phân
chia các đối tượng này là dựa và việc phân đoạn thị trường theo hành vi, lý do, nhu
cầu sử dụng của các tập khách hàng.
Ngành không chỉ có đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng bằng sữa bột mà cịn có
sản phẩm khác là sữa nước bao gồm sữa tươi nguyên chất và sữa tiệt trùng. Ngày
nay, kinh tế phát triển, tỉ lệ đơ thị hóa tăng, áp lực công việc ngày càng lớn, thời
gian ngày càng giảm khiến cho mọi người dễ rơi vào tình trạng stress, ảnh hưởng
khá lớn tới tâm lý và thể lực. Từ đó, nhu cầu dinh dưỡng cũng ngày càng tăng. Từ
những đặc điểm tâm lý, hành vi đó của người tiêu dùng, ngành khơng chỉ có đáp


ứng nhu cầu của người tiêu dùng bằng sữa bột mà cịn có sản phẩm khác là sữa
nước bao gồm sữa tươi nguyên chất và sữa tiệt trùng, sữa đặc có đừng, sữa chua.
Với đặc tính dễ bảo quản, dễ sử dụng, tiện lợi, sản phẩm sữa uống đã một phần nào
đó đáp ứng tốt cho nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng ngày nay.
Bên cạnh các sản phẩm từ sữa thì có sản phẩm sữa đậu nành đang được người tiêu
dùng tin dùng nhờ nhận thức của người tiêu dùng về lợi ích của đậu nành đối với
sức khỏe, dinh dưỡng con người. Nhờ vậy mà mặt hàng sữa đậu nành có tốc độ
tăng trưởng rất nhanh. Sản phẩm sữa đậu nành mè đen là một sự đổi mới của
doanh nghiệp trong ngành, đồng thời mở rộng sự lựa chọn cho khách hàng, mở
rộng thị phần doanh nghiệp và mở rộng thị trường ngành.
Ngành sữa Việt Nam trong những năm qua phát triển khá nhanh, và hiện nay vẫn
đang trong giai đoạn tăng trưởng mạnh. Sự phát triển của ngành thu hút các doanh
nghiệp trong nước và ngoài nước tham gia vào ngành. sự canh tranh trong ngành
đã tạo nên cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp đã và đang hoạt động trong
ngành.
2.2.6: Đánh giá sơ bộ về việc phân đoạn thị trường của ngành:
Các doanh nghiệp trong ngành hầu hết đầu sử dụng phương pháp phân đoạn là kết
hợp nhiều phương pháp phân đoạn khác nhau. Các doanh nghiệp trong nước thuộc

ngành kết hợp đồng thời cả 4 phương pháp phân đoạn là: Phương pháp phân đoạn
theo vị trí địa lý, theo đặc điểm dân số học, theo tâm lý xã hội và theo hành vi.
Nhưng mỗi doanh nghiệp luôn luôn sử dụng chủ yếu một trong bốn phương pháp
đó nhằm có các chính sách, chiến lược đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu
dùng.
Các phương pháp phân đoạn thị trường giúp cho các doanh nghiệp phân chia thị
trường ra là nhiều phân đoạn nhằm lựa chọn ra một phân đoạn mà doanh nghiệp
có thể đáp ứng người tiêu dùng một cách tốt nhất.
Phương pháp phân đoạn thị trường giúp cho các doanh nghiệp mới muốn tham gia
vào phân đoạn này của ngành cũng như doanh nghiệp cũ đang hoạt động trong
ngành xác định rõ các đối thủ cạnh tranh trong ngành của mình, cụ thể là các đối
thủ cạnh tranh đang trong cùng một phân đoạn thị trường. Như ơng cha ta có nói:
“biết người biết ta- trăm trận trăm thắng”. Hiểu rõ đối thủ canh trạnh là một thuận


lợi rất lớn cho các doanh nghiệp, các doanh nghiệp sẽ có các chính sách, chiến
lược đúng đắn để đưa doanh nghiệp tham gia vào ngành cũng như giúp doanh
nghiệp đứng chắc trong ngành, trong phân đoạn thị trường mà doanh nghiệp đã
tham gia, tránh sự rút khỏi. Sự đứng vững của các doanh nghiệp đang hoạt động
trong ngành, trong phân đoạn thị trường là một rào cản cho các doanh nghiệp mới
muốn tham gia vào ngành cũng như là phân đoạn thị trường đó. Nên các doanh
nghiệp mới cũng cần định hình rõ phân đoạn thị trường mà doanh nghiệp tham gia
để đáp ứng cho nhu cầu thị trường.
Phân đoạn thị trường giúp cho các doanh nghiệp định hình chiến lược đúng đắn,
phát triển. Đồng thời giúp cho ngành phát triển, có sự chuyển dịch đáng kể.

2.3:Đánh giá tiềm năng nghành sữa ở Việt Nam:
Việt Nam – Thị trường sữa tiềm năng
Việt Nam được đánh giá là thị trường tiêu thụ sữa tiềm năng. Điều này là bởi Việt
Nam là một quốc gia đông dân, cơ cấu dân số trẻ với mức tăng dân số cao khoảng

1,2%/năm, tỷ lệ tăng trưởng GDP 6-8%/năm, thu nhập bình quân đầu người tăng
14,2%/năm. Những yếu tố này kết hợp với xu thế cải thiện thiện sức khỏe và tầm
vóc của người Việt Nam khiến cho nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm sữa luôn giữ
mức tăng trưởng và ở mức cao.
Nhu cầu tiêu thụ sữa ngày càng tăng.
Năm 2010, trung bình mỗi người Việt Nam tiêu thụ khoảng 15 lít sữa/năm, thấp
hơn so với các nước trong khu vực như Thái Lan 34 lít/người/năm, Trung Quốc 25
lít/người/năm. Dự báo đến năm 2020, con số này sẽ tăng gần gấp đôi, lên đến 28 lít
sữa/năm/người.
Hiện nay, Việt Nam có khoảng 54 cơng ty sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh sữa,
chưa kể có hàng trăm tổng đại lí phân phối sữa, trong đó, 70% thị trường vẫn phụ
thuộc vào nguồn sữa ngoại.
Dự báo năm 2017 thị trường sữa nước sẽ đạt đến quy mô 34.000 tỷ đồng, thị
trường sữa bột là 48.000 tỷ đồng. Với những dự báo khả quan này, hàng loạt doanh



×