Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

cơ sở lý luận và hoạt động kinh doanh tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.91 KB, 8 trang )

CHO VAY ( TÍN DỤNG ) CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I.Tổng quát về ngân hàng thương mại:
1.Khái niệm về ngân hàng thương mại:
Theo pháp lệnh ngân hàng ngày 23/05/1999 của Hội đồng nhà nước xác định :” ngân hàng
thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ và hoạt động chủ yếu thường xuyên là nhận tiền gửi từ
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết
khấu và là phương tiện thanh toán”.
 Xét về bản chất: ngân hàng thương mại chỉ là một doanh nghiệp đặc biệt trên thị
trường vì hàng hóa mà ó kinh doanh là nhưng hàng hóa mang tính đặt biệt như tiền
tệ, vàng bạc, chứng khoán, làm dịch vụ tiền tệ, vàng bạc đá quý, chứng khoán.
2.Chức năng của ngân hàng thương mại
Hoạt động của ngân hàng thương mại rất đa dạng, các nghiệp vụ lại phức tạp và luôn biến động
theo sự thay đổi chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong bất kỳ điều kiện nào ngân hàng thương
mai cũng có 3 chức năng sau:
2.1.Chức năng trung gian tính dụng:
Đây là chức năng cơ bản và đặc trưng của ngân hàng thương mại. Thực hiện chức năng này một
mặt ngân hàng thương mại đứng ra huy động vốn, tập trung các nguồn vốn vay lớn. Mặt khác,
trên cơ sở đó ngân hàng thương mai sẽ tiến hành cho vay, phối hợp lại có trọng điểm đáp ứng nhu
cầu vốn trong nền kinh tế. Như vậy, ngân hàng thương mại đóng vai trò là nhiệp cầu nối giữa
nguồn cung và cầu về vốn. Ngày nay vai trò thự hiện khách quan đáp ứng nhu cầu của nền kinh
tế. Ngân hàng sử dụng các biện pháp kích thích như lãi suất để huy động vốn trong nền kinh tế và
đưa đến những nơi có nhu cầu vốn. Với chức năng này, ngân hàng thương mại đã góp phần kích
thích quá trình vận chuyển vốn của toàn xã hội, thúc đẩy quá trình tái sản suất diễn ra nhanh hơn.
2.2.Chức năng trung gian thanh toán:
Thự chất của chức năng này là ngân hàng tiến hành việc trả tiền cho khách hàng theo lệnh của
chủ tài khoản và tiến hành nhập vào tài khoản những khoản tiền theo lệnh của họ, thay vì các
khách hàng thanh toán bằng tiền mặt thì ngân hàng có thể thanh toán bằng chuyển khoản, phương
tiện này thuận lợi cho cả ba mặt:
• Đối Với Khách Hàng: Tiết kiệm được chi phí
• Đối Với Xã Hội: Tiết kiệm được chi phí lưu thông tiền tệ
• Đối Với Ngân Hàng: Tạo ra nguồn vốn cho ngân hàng


2.3.Chức năng tạo tiền:
Là khả năng mở rộng tiền gửi lên nhiều lần của hệ thống ngân hàng thương mại. Nói cách khác:
Từ một khoản tiền gửi ban đầu vào một ngân hàng thương mại nào đó, hệ thống ngân hàng
thương mại có khả năng mở rộng tiền gửi lên nhiều lần, thông qua việc cho vay bằng bút tệ
• Bút Tệ: Là một hình thái tiền tệ được sử dụng bằng cách ghi chép trên sổ sách kế toán
của ngân hàng, biểu hiện bên ngoài đó là sự vận động của các ủy nhiệm thu, ủy nhiệm
chi, séc, chi phiếu.
Khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của ngân hàng
trung ương thông qua công cụ “ Dự trữ bắt buộc”, tiền cung ứng tăng lên hay giảm xuống phù
hợp với mục tiêu của nền kinh tế.
Để các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng tạo tiền cần phải có các điều kiện sau :
- Phải có một hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động trong mối liên kết chặc chẽ với
nhau
- Các ngân hàng thương mại phải làm tốt công tác thanh toán không dung tiền mặt, để cho
đại bộ phận tiền luân chuyển trên tài khoản của khách hàng tại ngân hàng.
3.Nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại:
3.1.Nghiệp Vụ Huy Động Vốn:
- Nghiêp vụ này có vai trò quan trọng vì thực hiện nghiệp vụ này ngân hàng sẽ huy động một
lượng vốn lớn là nguồn để ngân hàng hoạt động, thực hiện nghiệp vụ cho vay, hoạt động đầu tư,
dự trữ…Đồng thời nguồn vốn huy động được qua việc thực hiện nghiệp vụ này có quy mô lớn sẽ
tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng các hoạt động kinh doanh, nâng cao uy tín và năng lực cạnh
tranh, nâng cao uy tín và năng lực cạnh tranh cho ngân hàng.
- Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ này dưới các hình thức như nhận tiền gửi của khách hàng ( bao
gồm tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác ), phát hành chứng chỉ
tiền gửi ( phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ), và đi vay vốn ( vay của ngân hàng thương mại, vay của
tổ chức tín dụng khác ).
3.2.Nghiệp vụ cấp tín dụng:
Đây là nghiệp vụ chủ lực của ngân hàng, nguồn thu từ hoạt động nay chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng thu nghiệp vụ của ngân hàng. Thông qua nghiệp vụ này, ngân hàng thương mại có thể mở
rộng thêm quy mô tín dụng, tăng thêm lợi nhuận cho ngân hàng và góp phần vào việc đáp ứng

nhu cầu về vốn ngày càng cao của nền kinh tế.
- Nghiệp Vụ Cho Vay Ngắn Hạn:
Là loại cho vay thời hạng tối đa một năm, thường được sử dụng để cho vay bổ sung vốn lưu động
tạm thời thiếu của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ cho sinh hoạt của cá nhân. Ngân hàng
thương mại thường đáp ứng các hình thức sau :
+ Tín dụng chiết khấu:
Chiết khấu tín dụng có giá là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó ngân hàng sẽ nhận và trả
tiền trước cho những chứng từ chưa đến hạn thanh toán cho người thụ hưởng theo số tiền ghi trên
chứng từ sau khi đã khấu trừ lãi chiết khấu, hoa hồng, các chi phí khác. Đây là hình thức được
ngân hàng thương mại ưa chuộng vì ít gặp rủi ro. Mặt khác, chiết khấu thương phiếu tạo điều kiện
cho ngân hàng thương mại có thể xin tái cấp vốn ngân hàng trung ương để cũng cố năng lực
thanh toán của mình.
+ Tín dụng thấu chi :
Là khoản tín dụng ngân quỹ mà doanh nghiệp sử dụng khi nhu cầu vốn của nó vượt quá khả năng
vốn lưu động. Tín dụng thâu chi chỉ cho phép doanh nghiệp có được khối lượng tài trợ nào đó do
ngân hàng cho vay theo nhu cầu. Ngân hàng đồng ý cấp tín dụng giải quyết khoản rút tiền vượt
quá số dư trên tài khoản vãng lai. Loại này giúp cho khách hàng sử dụng vốn vay chủ động hơn,
tiện lợi hơn vì trong hạng mức và thời gian quy nó mang lại cho doanh nghiệp khả năng tạm thời
để tài khoản vãng lai có số dư nợ.
+ Tín dụng ứng trước :
Đây là hình thức cấp tín dụng mà trong đó trên cơ sở thỏa thuận giữa khách hàng và ngân hàng,
ngân hàng sẽ cấp cho khách hàng một hạng mức tín dụng và được duyệt theo nhu cầu bổ sug vốn
cho sản xuất kinh doanh. Khách hàng được quyền sử dụng hạng mức này trong một thời gian nhất
định. Ngân hàng có thể tính lãi theo hạng mức tín dụng hay theo một tỷ lệ trên hạng mức đó chứ
không tín theo số tiền thực tế mà khách hàng rút.
Thực hiện nghiệp vụ này ngân hàng sẽ thu được một số lãi trên tổng số tiền cho vay trong suốt
thời hạn tín dụng mà ngân hàng không phải xuất quỹ một lần mà xuất dần dần theo nhu cầu của
khách hàng. Nghiệp vụ này làm cho tiền gửi của ngân hàng tăng lên một cách giả tạo làm ảnh
hưởng đến vốn khả dụng của ngân hàng.
+ Cho vay mở thư tín dụng(L/C) :

Trong thanh toán các hợp đồng xuất nhập khẩu, ngân hàng phục vụ người nhập khẩu thường mở
một thư tín dụng(L/C) tại một ngân hàng trong nước. Khi mở thư tín dụng theo nguyên tắc thì
người nhập khẩu phải ký quỹ 100% giá trị hợp đồng xuất nhập khẩu. Nhưng trong thực tế vốn
của doanh nghiệp xuất nhập khẩu thực hiện xuất nhập khẩu rất ít khoản 10% đến 20% nên khoản
còn lại họ thường vay ngân hàng để mở thư tín dụng thanh toán cho người xuất khẩu. Sau đó khi
người xuất khẩu giao hàng cho người nhập khẩu, đồng thời nhà xuất khẩu gửi những chứng từ
thương mại có liên quan cho ngân hàng của người nhập khẩu thông qua ngân hàng của nước mình
để đòi tiền. Khi nhận được tài liệu, ngân hàng người nhập khẩu sẽ thanh toán cho người xuất
khẩu, đồng thời sẽ ghi nhợ tài khoản cho người nhập khẩu.
- Nghiệp Vụ Cho Vay Trung Hạn Và Dài Hạn
Là loại hình cho vay trên một năm. Loại tín dụng này thường được cấp để mua tài sản cố định, cải
tiến và mở rộng sản xuất, đầu tư xây dựng cơ bản. Trong điều kiện hoạt động kinh tế hiện nay,
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra gay gắt. Cho vay trung hạn và dài hạn thương giúp cho
các doanh nghiệp đổi mới và hiện đại hóa tài sản cố định, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất.
Từ đó, tạo ra năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại thực hiện nghiệp
vụ cho vay trung và dài hạn bằng nhiều hình thức mà chủ yếu là cho vay theo dự án. Do đó liên
quan đến nghiệp vụ này là vấn đề thẩm định dự án đầu tư. Việc sử dụng vốn vay có hiệu quả thể
hiện ở khả năng trả nợ đúng hạng của khách hàng. Như vậy, thẩm định một dự án đầu tư kỹ càng
sẽ mang lại hiệu quả cho công tác cho vay trung và dài hạn.Nghiệp vụ này có các hình thức sau:
+ Tín dụng thuê mua: Là một kiểu thuê tài sản sử dụng chuyên môn theo hợp đồng. Đối tượng
đem cho thuê là nhà cửa, thiết bị văn phòng… Mà theo đó khách hàng trả nợ dần dần theo hợp
đồng đã thỏa thuận với ngân hàng. Khi người thuê trả xong tài sản họ được quyền sở hữu tài sản
đó hoặc được quyền thuê tiếp theo điều kiện đã được thỏa thuận. Trong thời gian trả hết nợ, tài
sản vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng nhưng quyền sử dụng vẫn thuộc về khách hàng thuê.
+ Cho vay đầu tư theo dự án: Là hình thức cấp tín dụng trên cơ sở dự án đã được xem xét và thẩm
định tính hiệu quả, tính khả thi, tức là dự án được thẩm định.
3.3.Nghiệp vụ trung gian của ngân hàng thương mại:
- Nghiệp vụ thu, chi hộ:
+ Thu hộ: Nghiệp vụ thu hộ của ngân hàng thương mại được áp dụng chủ yếu cho việc thanh toán
tiền hàng và dịch vụ giữa người mua và người bán trên cơ sở hợp đồng kinh tế hoặc đơn đặt hàng.

Ở đây quyền chủ động thuộc về người bán còn ngân hàng chỉ thực hiện việc thu hộ mà thôi.
+ Chi hộ: Áp dụng trong việc thanh toán tiền hàng và dịch vụ, nộp thuế, trả nợ. Quyền chủ động
thuộc về khách hàng, còn ngân hàng chỉ thực hiện việc chi hộ theo lệnh của chủ tài khoản.
- Dịch vụ chuyển tiền: Là nghiệp vụ ngân hàng thực hiện theo yêu cầu của khách hàng tức
là người chuyển tiền ủy nhiệm cho ngân hàng chuyển một số tiền nhất địinh cho người
thụ hưởng.
- Nghiệp vụ của ngân hàng trên thị trường chứng khoán: Là việc bỏ vốn ra mua các loại
chứng khoán nhằm để kiếm lợi.
- Nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng trên thị trường ngoại hối: Ngân hàng là một chủ thể
quan trọng tham gia trên thị trường hối đoái. Trong thị trường này ngân hàng vừa hoạt
động cho mình, vừa hoạt động cho khách hàng.
Khi hoạt động cho khách hàng, ngân hàng làm trung gian mua giới cho khách hàng trong đó chủ
yếu là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng thực hiện việc
kinh doanh hối đoái cho chính mình nhầm kiếm lợi nhuận do sự biến động của tỷ giá.
- Nghiệp vụ ủy thác ngân hàng như:
+ Nghiệp vụ quản lý phân phối tài sản theo trúc thư.
+ Nghiệp vụ quản lý tài sản theo hợp đồng đã ký kết.
+ Nghiệp vụ quản lý giám hộ tài sản.
- Nghiệp vụ tư vấn: Là việc ngân hàng cung cấp cho khách hàng những lời khuyên xứng đáng,
liên quan đến hợp đồng sản xuất kinh doanh của họ, nhằm giúp ngân hàng lựa chọn phương án
kinh doanh tối ưu, quản lý và sử dụng vốn hiệu quả.
II/.BẢN CHẤT CỦA GIAO DỊCH NHẬN TIỀN GỬI LÀ HỢP ĐỒNG VAY TIỀN
Hoạt động nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ
thanh toán – là nội dung thường xuyên của hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng, với nội dung kinh tế là: Nhận các khoản tiền gửi của khách hàng với nhiều hình
thức khác nhau (phân chia theo loại kỳ hạn và tính chất của tiện ích), có trả lãi hoặc, cũng
có thể bao gồm, cung ứng dịch vụ tiện ích theo hình thức huy động; đồng thời NHTM
được quyền sử dụng nguồn vốn huy động ấy để cho vay lại hoặc để cung ứng dịch vụ tiện
ích nhằm mục tiêu thụ lợi nhuận. Như vậy, về kinh tế việc nhận tiền gửi với nội dung trên
không thuần tuý là giao dịch gửi – giữ tài sản (mặc dù trong lịch sử đó là khởi nguồn của

hoạt động ngân hàng) bởi khi thực hiện giao dịch này ngân hàng không có trách nhiệm
hoàn trả đúng đồng tiền đặc định đã nhận, không thu phí giữ hộ tài sản mà ngân hàng còn
phải trả lãi hoặc cung cấp các tiện ích cho khách hàng, đổi lại ngân hàng được quyền khai
thác công dụng tài sản đang chiếm hữu, tức sử dụng tiền gửi. Do vậy, ngay ở góc độ này
nó đã hàm chứa đựng nội dung kinh tế của một giao dịch lưỡng tính – giao dịch gửi giữ
và giao dịch vay tài sản (ở đây là tiền).
Hợp đồng là giao dịch phát sinh trên cơ sở thoả thuận của các bên, trong đó giao dịch gửi
giữ tài sản và giao dịch vay tài sản đều là các hợp đồng và xét một cách độc lập thì chúng
có bản chất pháp lý khác nhau. Về pháp lý, sự khác nhau giữ hợp đồng gửi giữ tài sản với
hợp đồng vay tài sản chính là sự khác nhau về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được
xác lập từ hợp đồng, theo đó:
- Việc gửi giữ tài sản chỉ là sự chuyển giao quyền chiếm hữu tài sản từ bên gửi sang bên
giữ, tài sản gửi giữ vẫn thuộc quyền sở hữu của bên gửi, bên giữ không tự có quyền sử
dụng, định đoạt tài sản nhận giữ và sự chuyển giao trên nhằm đến nội dụng bên giữ có
trách nhiệm nhận tài sản để bảo quản và có nghĩa vụ trả lại chính tài sản ấy, được thu tiền
công, tức phí giữ hộ tài sản, trừ khi có thoả thuận không thu phí (Điều 559 Bộ Luật dân
sự năm 2005 – BLDS);
- Còn việc vay tài sản lại không đặt vấn đề trách nhiệm hoàn trả đúng tài sản đặc định đã
nhận mà bên vay chỉ phải trả tài sản cùng chủng loại, cùng số lượng, chất lượng và có
nghĩa vụ trả lãi theo thoả thuận (Điều 471 BLDS), trong thời hạn vay bên vay là chủ sở
hữu tài sản vay nên được khai thác công dụng của tài sản để sinh lợi (Điều 472 BLDS),
nghĩa là trong giao dịch vay tài sản bên cho vay đã có sự chuyển giao cả 3 quyền năng
(chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) và ngay lập tức trở thành chủ nợ của bên vay (cần lưu ý
rằng quyền chủ nợ là một loại quyền tài sản và trong vị trí ấy chủ nợ sẽ có một số quyền
cụ thể tương tự quyền của chủ sở hữu như: Chuyển nhượng, để lại thừa kế, dùng bảo đảm
nghĩa vụ dân sự… Nhưng bởi đối tượng của quyền là khác nhau nên không bao giờ có
thể xem chúng là một).
Khi tiếp nhận tiền gửi, NHTM và khách hàng đã mặc nhiên thoả thuận nội dung: NHTM
được toàn quyền sử dụng tiền gửi để đầu tư cho các mục đích kinh doanh hợp pháp của
mình với điều kiện có hoàn trả theo phương thức đã thoả thuận (vốn, lãi, dịch vụ), số dư

trên tài khoản tiền gửi là khoản Nợ phải trả của ngân hàng đối với khách hàng. Như vậy,
đối với ngân hàng quyền sử dụng tiền gửi để đầu tư là một quyền năng của quyền sở hữu
được xác lập theo hợp đồng nhận tiền gửi, hay nói cách khác, xuất phát từ hợp đồng nhận
tiền gửi ngân hàng và khách hàng đã thoả thuận để chuyển giao, xác lập cho nhau quyền
sở hữu (cho ngân hàng) và quyền chủ nợ (cho khách hàng). Ngay cả trường hợp mở tài
khoản tiền gửi thanh toán hoặc tài khoản tiết kiệm không kỳ hạn, mặc dù khách hàng
được quyền yêu cầu ngân hàng thực hiện thanh toán hoặc trả lại tiền tại bất kỳ thời điểm
nào (mà không bị chế tài) thì điều đó cũng không phải là dấu hiệu để loại trừ quyền sở
hữu của ngân hàng trong trường hợp này. Về tính chất, hành vi phát lệnh thanh toán hay
rút tiền khỏi ngân hàng chẳng qua là việc chủ nợ đang thực hiện quyền thanh toán, quyền
đòi nợ đã được dự liệu theo điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng mở tài khoản với
ngân hàng là sự xác lập lại quyền sở hữu cho mình và khi tất toán tài khoản thì quyền chủ
nợ sẽ tự mất đi. Mặt khác, theo cơ cấu sử dụng tiền gửi của mình ngân hàng luôn dự liệu
nguồn hoàn trả thay thế và hơn nữa các quyền trên của khách hàng không phải là quyền
đặc trưng, không phải là thuộc tính riêng chỉ thuộc về quyền định đoạt của chủ sở hữu mà
rõ ràng nó còn có thể thuộc về quyền của chủ nợ tuỳ theo loại hợp đồng gửi tiền đã xác
lập. Như vậy việc phân định quyền năng nào đó là thuộc quyền sở hữu hay quyền chủ nợ
không chỉ xem xét qua việc chủ thể thực hiện quyền ấy theo phương thức nào mà cần
được nhìn nhận thêm từ nhiều góc độ khác.
Đồng tiền cụ thể là vật đặc định, song trong quan hệ gửi tiền (và sử dụng tiền nói chung)
bên gửi rõ ràng chỉ quan tâm đến giá trị của đồng tiền, số lượng tiền sẽ thu về, giá trị và
tiện ích của dịch vụ được cung ứng, hay nói cách khác hành vi gửi tiền là sự lựa chọn về
một phương thức đầu tư của khách hàng và họ phải chấp thuận đổi lấy nó bằng việc trao
quyền sở hữu tiền gửi cho ngân hàng trong một thời hạn nhất định. Như vậy, việc NHTM
mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng đã phản ánh rõ bản chất là hành vi vay tiền của
ngân hàng với cam kết bảo toàn và có sinh lợi cho người gửi tiền (ngày nay không chỉ là
hoàn trả gốc, lãi mà còn trao quyền thụ hưởng thêm các dịch vụ, tiện ích mang tính cạnh
tranh khác). Khi tài khoản tiền gửi được thiết lập, hợp đồng vay tài sản đã hình thành,
quyền và nghĩa vụ pháp lý của 2 bên đã phát sinh, theo đó: NHTM đã tiếp nhận sự
chuyển giao quyền sở hữu và trở thành chủ sở hữu đối với số tiền nhận gửi từ bên gửi

(Điều 472 BLDS) nên có quyền định đoạt nguồn tiền huy động đó nhằm thoả mãn các
mục tiêu kinh doanh của mình và có nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền (Điều
17 Luật các TCTD) bằng việc bảo toàn tiền gửi và hoàn trả gốc, lãi theo thoả thuận, hoặc
cung cấp các dịch vụ các cam kết, nếu có (theo quy chế nhận tiền gửi mà NHTM đã công
bố công khai và theo hợp đồng gửi tiền cụ thể); Với khách hàng, họ có quyền của một
chủ nợ (đòi nợ, yêu cầu thanh toán… theo loại hình tài khoản) do là chủ tài khoản gửi
tiền, tức là chủ nợ của ngân hàng, và có nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu của ngân hàng
đối với số tiền vốn đã ký thác cho ngân hàng.
Việc xác định bản chất của hợp đồng nhận tiền gửi là hợp đồng vay tiền và hệ quả của nó
V – dưới góc độ pháp lý sẽ có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ giúp giải quyết tốt các
tranh chấp có thể phát sinh từ giao dịch nhận tiền gửi mà trước hết giúp hình thành nhận
thức đúng về 2 vấn đề thực tiễn sau:
- Về quyền sở hữu của ngân hàng đối với số tiền gửi, một khi đã khẳng định vấn đề trên
(hợp đồng nhận tiền gửi là hợp đồng vay tiền – là một hợp đồng song vụ) thì hiển nhiên
đã thừa nhận sự xác lập quyền sở hữu của ngân hàng đối với số tiền vay, kèm theo đó là
xác lập quyền chủ nợ của người gửi tiền đối với ngân hàng và xác lập các nghĩa vụ đối
ứng của mỗi bên trong quan hệ cho vay – vay, từ đó giúp định hình rõ ràng về các nhóm
quyền và nghĩa vụ khác liên quan của mỗi chủ thể sẽ chi phối trong suốt thời gian duy trì
hiệu lực của thoả thuận vay tiền. Ví dụ: khi ngân hàng được giao quyền sở hữu thì đương
nhiên có quyền định đoạt khoản tiền nhận gửi theo mục tiêu kinh doanh của mình và tự
chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư, có quyền từ chối yêu cầu đòi tiền bất hợp lý của
khách hàng hoặc chấp nhận và buộc chịu chế tài theo hợp đồng, khách hàng không là chủ
sở hữu nên không thể đơn phương thực hiện quyền của một sở hữu chủ đối với số tiền đã
cho ngân hàng vay trong thời gian hợp đồng vay còn hiệu lực, v.v…
- Về quyền chủ nợ của người gửi tiền, trước hết cần nhất quán rằng chứng thư gửi tiền là
bằng chứng xác định tư cách chủ nợ theo phạm vi số tiền gửi chứ không phải là việc xác
định quyền sở hữu của chủ sở hữu đối với tiền gửi, vi phạm điều này sẽ gây ngộ nhận:
khi gửi tiền khách hàng không trao quyền sở hữu cho ngân hàng (đồng nghĩa: không xem
hợp đồng gửi tiền là hợp đồng vay), hoặc vô tình đồng nhất quyền sở hữu tài sản với
quyền chủ nợ (trái với các chế định của pháp luật dân sự). Do bản chất là hợp đồng vay

nợ, khách hàng gửi tiền là bên cho vay và “bên vay (ngân hàng) trở thành chủ sở hữu tài
sản vay kể từ thời điểm nhận tài sản đó” (Điều 472 BLDS), khách hàng được nhận quyền
chủ nợ với bằng chứng xác lập tư cách chủ nợ là chứng thư gửi tiền của ngân hàng phát
hành (thẻ tiết kiệm, phiếu nhận nợ, sec…). Với tư cách chủ nợ, khách hàng không có
quyền can dự vào việc sử dụng đồng tiền đã gửi vào ngân hàng, nhưng có thể dùng quyền
chủ nợ để tham gia một số giao dịch dân sự khác theo thể loại của hợp đồng tiền gửi,
được đòi nợ hoặc nhận tiện ích theo thoả thuận với ngân hàng.
Thực tiễn cho thấy do còn sự nhận thức khác nhau về bản chất vấn đề trên mà có văn bản
còn sử dụng thuật ngữ hoặc có không ít nội dung quy định chưa phù hợp với các nguyên
tắc và định chế cơ bản của pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực này T (các quy định liên quan
về quyền sở hữu, quyền tài sản – quyền chủ nợ trong BLDS, Luật các TCTD). Có thể tìm
thấy sai sót ấy trong rất nhiều quy định trong quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành theo
Quyết định 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13/09/2004 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước,
như: Việc sử dụng cụm từ “Chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm” trong các trường hợp liệt kê về
người gửi tiền (tại các Điều 6, 9, 10, 11, 18, 24, 27…); “Chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm là
người đứng tên trên thẻ tiết kiệm” (Khoản 3 Điều 6); “Đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm
là 2 cá nhân trở lên cùng đứng tên trên thẻ tiết kiệm” (Khoản 4 Điều 6); “Thẻ tiết kiệm là
chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu của chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu
tiền gửi tiết kiệm về khoản tiền đã gửi tại tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm” (Khoản 7 Điều
6)… ở đây rõ ràng đã có sự nhầm lẫn khi luôn coi bên gửi tiền là chủ sở hữu của tiền gửi
(thay vì: người đứng tên trên thẻ tiết kiệm coi là chủ sở hữu của thẻ tiết kiệm, là chủ nợ
của ngân hàng (hoặc đồng chủ sở hữu, đồng chủ nợ), còn ngân hàng mới là chủ sở hữu
tiền gửi tiết kiệm). Không chỉ thế, căn cứ quy chế này các tổ chức tín dụng cũng đã ban
hành quy định về tiền gửi tiết kiệm để áp dụng trong hệ thống của mình và trong các nội
dung tương ứng đều hàm chứa quan niệm tương tự về vấn đề trên, trong đó bản Quy định
về tiền gửi tiết kiệm trong hệ thống NHCT Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số
312/QĐ-HĐQT -NHCT9 ngày 12/09/2005 của Hội đồng quản trị NHCT Việt Nam cũng
rơi vào trường hợp này.
Để hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn huy động đạt mục tiêu an toàn, hiệu quả,
thiết nghĩ với các nội dung trên trước hết Ngân hàng Nhà nước cần có sự nghiên cứu và

chỉnh lý thấu đáo nhằm bảo đảm tính chuẩn mực của thuật ngữ pháp lý, tính nhất quán
của hệ thống quy phạm pháp luật dân sự, qua đó xác lập chính xác các quyền và nghĩa vụ
pháp lý của các chủ thể trong quan hệ vay nợ (quyền sở hữu, quyền chủ nợ), trên cơ sở
đó các NHTM sẽ có cơ sở để tiến hành chỉnh lý nội dung, hoàn thiện các quy định điều
chỉnh đến hoạt động huy động và sử dụng vốn và các hướng dẫn có liên quan khác của
mình
III/.Một số biện pháp đảm bảo an toàn, hiệu quả kinh doanh của tổ chức tín
dụng
Ngày 22/5/2009, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành Chỉ thị 01/CT-
NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng, thực hiện một số biện pháp để đảm bảo an
toàn, hiệu quả hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng, ổn định thị trường
tiền tệ và ngoại hối, góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh
tế ở mức hợp lý, bền vững, và chủ động ngăn ngừa lạm phát.
1. Đối với các tổ chức tín dụng, Thống đốc yêu cầu tiếp tục thực hiện có hiệu quả
các biện pháp đã nêu tại Chỉ thị số 06/2008/CT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2008
của Thống đốc Ngân hàng Nhà và các biện pháp theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam trong những tháng cuối năm 2009; dự báo sát tình hình kinh tế, tiền
tệ và thực hiện các giải pháp kinh doanh phù hợp, chủ động ngăn ngừa rủi ro kinh
doanh.
Về điều hành và quản trị vốn kinh doanh, Thống đốc chỉ thị các TCTD tăng cường
huy động vốn ở trong và ngoài nước, mở rộng tín dụng có hiệu quả đối với nền kinh
tế; có biện pháp đảm bảo cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn; kiểm soát chặt
chẽ quy mô, cơ cấu tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn, bằng đồng Việt Nam và
ngoại tệ phù hợp với khả năng, kỳ hạn và cơ cấu vốn huy động; thường xuyên đảm
bảo an toàn khả năng thanh toán; đảm bảo các tỷ lệ an toàn hoạt động kinh
doanh; Bên cạnh đó, Thống đốc cũng yêu cầu các TCTD ấn định lãi suất huy động
vốn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ phù hợp với tình hình cung - cầu vốn thị trường,
quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản
bằng đồng Việt Nam, có chênh lệch lãi suất ở mức hợp lý; và thực hiện nghiêm các
quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về tỷ giá và quản lý ngoại hối.

Về hoạt động tín dụng, các TCTD cần phải tập trung triển khai có hiệu quả việc
thực hiện các cơ chế cho vay hỗ trợ lãi suất; kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng,
đi đôi với mở rộng tín dụng theo hướng tập trung vốn cho các nhu cầu vay vốn để
sản xuất - kinh doanh, cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, khu vực nông thôn và các dự
án lớn, trọng điểm của Nhà nước; kiểm soát chặt chẽ cho vay kinh doanh bất động
sản, cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay tiêu dùng; đồng thời hực hiện đúng
quy định của pháp luật về cho vay, phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để
xử lý rủi ro tín dụng; nghiêm cấm nới lỏng các điều kiện cấp tín dụng.
Đối với cho vay bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ đối với các nhu cầu vốn của doanh
nghiệp có nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, các TCTD cần kiểm
soát chặt chẽ và thực hiện đúng quy định của pháp luật.
2. Đối với các đơn vị tại trụ sở chính Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng
Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thống đốc yêu cầu các
đơn vị tập trung nỗ lực và trí tuệ tham mưu và đề xuất biện pháp điều hành linh hoạt
các công cụ chính sách tiền tệ, tín dụng và tỷ giá, nhằm ổn định lãi suất, tỷ giá, kiểm
soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, tín dụng ở mức hợp lý; tăng cường
công tác thanh tra, giám sát, trọng tâm trong những tháng cuối năm 2009 là thanh
tra, giám sát việc thực hiện các qui định của pháp luật về cho vay hỗ trợ lãi suất,
chất lượng và mục đích sử dụng vốn vay, quản lý ngoại hối; thực hiện các biện pháp,
các nội dung thực hiện Kế hoạch hành động của NHNN nhằm triển khai thực hiện các
giải pháp tiền tệ, tín dụng và ngân hàng tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 09 tháng
01 năm 2009, Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 và Nghị
quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ.
Thống đốc cũng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của các
tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh, thành phố theo chương trình thanh tra năm 2009.

×