Tải bản đầy đủ (.pdf) (181 trang)

Thiết kế sách giáo khoa điện tử lớp 10 - nâng cao chương "Nhóm Halogen"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.39 MB, 181 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM





Nguyễn Thị Thu Hà








THIẾT KẾ SÁCH GIÁO KHOA
ĐIỆN TỬ LỚP 10 - NÂNG CAO
CHƯƠNG “NHÓM HALOGEN”

Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học hóa học
Mã số: 60 14 10



LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRỊNH VĂN BIỀU







Thành phố Hồ Chí Minh – 2008

LỜI CẢM ƠN



Bằng tất cả lòng kính trọng và biết ơn, tác giả xin gởi lời cám ơn chân thành
nhất đến Ban Giám Hiệu trường ĐHSP TP. HCM, Phòng Khoa học công nghệ và
Sau đại học, quý thầy cô đã tận tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các
học viên hoàn thành khóa học.
Tác giả cũng xin gởi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến:
- Thầy Trịnh Văn Biều, Trưởng Khoa Hóa, ĐHSP T
P. HCM. Cám ơn thầy đã
dành rất nhiều thời gian, công sức và cả những lời chỉ bảo tận tình trong suốt quá
trình làm luận văn.
- Các thầy cô giáo ở các trường Ngô Quyền, Nguyễn Thị Minh Khai, Mạc Đĩnh
Chi… đã giúp đỡ rất nhiều trong quá trình thực nghiệm sư phạm đề tài.
- Các thầy cô ở các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Lâm Đồng và TP. HCM
đã nhiệt tình đóng góp ý kiến cho e-book.
Cuối cùng, xin cám ơn gia đì
nh, người thân, bạn bè đã luôn ủng hộ, động viên,
giúp đỡ để tác giả có thể hoàn thành tốt luận văn.


Thành phố Hồ Chí Minh 2008

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNTT : công nghệ thông tin
CSS : cascading Style Sheets – Bảng kiểu xếp chồng
GV : giáo viên
HS : học sinh
HTML : hypertext Markup Language – Ngôn ngữ liên kết siêu văn bản
ICT : information and communication technology – Công nghệ thông
tin và truyền thông
PPDH : phương pháp dạy học
SGK : sách giáo khoa
THPT : trung học phổ thông



MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người và là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong thời đại hiện nay, Việt Nam đã là
thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO, thì giáo dục lại cần
phải phát triển hơn nữa để góp phần đào
tạo những thế hệ con người Việt Nam mới
năng động, sáng tạo, có khả năng hội nhập toàn cầu, tự lập trong suốt cuộc đời…
Nhưng, biển học thì vô bờ mà bất cứ trường học nào cũng chỉ có thể cung cấp cho
con người khối lượng tri thức có giới hạn. Vậy nên học sao đây trong thời đại bùng
nổ công nghệ thông tin như hiện nay, kiến thức nhân loại tăng lên vùn vụt, mỗi
ngà
y một nhiều? Nên chăng cách giải quyết tốt nhất là rèn luyện cho học sinh khả

năng tự học như Bác Hồ đã dạy: “Về cách học, phải lấy tự học làm cốt”; có như thế
thì khi ra trường họ vẫn có thể học mãi, học suốt đời và chỉ có thế họ mới không bị
lạc hậu so với tình hình phát triển của khoa học, kĩ thuật.
Hiện nay,
việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy là một bước tiến
mới, thúc đẩy quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Đảng, Nhà nước ta đặc biệt
quan tâm đến vấn đề này và đã cụ thể hóa bằng chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 30/7/2001 về việc tăng cường giảng
dạy, đào
tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục. Một trong bốn
mục tiêu được đặt ra là: “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác
giáo dục và đào tạo ở các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng công
nghệ thông tin như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp
giảng dạy, học tập ở tất cả các môn học”.
Từ những l
í do trên đã thôi thúc chúng tôi chọn đề tài: THIẾT KẾ SÁCH GIÁO
KHOA ĐIỆN TỬ LỚP 10 – NÂNG CAO CHƯƠNG “NHÓM HALOGEN” với
mong muốn hỗ trợ hoạt động tự học hóa học của học sinh và góp phần vào việc đổi
mới phương pháp dạy học hiện nay.

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Thiết kế sách giáo khoa điện tử để hỗ trợ hoạt động tự học của học sinh
THPT.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu:
Việc thiết kế sách giáo khoa điện tử chương “Nhóm Halogen” sách giáo
khoa lớp 10 nâng cao để hỗ trợ hoạt động tự học của học sinh.

Khách thể nghiên cứu:

Quá trình dạy học hóa học ở trường THPT.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
-
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
-
Thiết kế sách giáo khoa điện tử chương “Nhóm Halogen”.
-
Thực nghiệm sư phạm để đánh giá kết quả của đề tài.
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Nội dung sách giáo khoa điện tử được giới hạn trong chương “Nhóm
Halogen” hóa học lớp 10 nâng cao THPT.
6. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu khai thác tốt các nguồn tài nguyên dạy học từ sách giáo khoa, sách tham
khảo, các phim thí nghiệm và từ mạng internet kết hợp với việc sử dụng máy vi tính
và các phần mềm thì sẽ thiết kế được sách giáo khoa điện tử có nội dung hấp dẫn,
giao diện đẹp kích t
hích hứng thú tự học của học sinh, từ đó góp phần nâng cao chất
lượng dạy học.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí thuyết
-
Đọc và nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đề tài.
-
Truy cập thông tin trên internet.
-
Sử dụng các phần mềm tin học.
-
Phân tích và tổng hợp.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
-

Điều tra bằng các phiếu câu hỏi.
-
Phỏng vấn.
-
Thực nghiệm sư phạm.
7.3. Sử dụng toán thống kê để xử lý số liệu.
8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
- Sử dụng công nghệ thông tin để thiết kế các bài học chương “Nhóm
Halogen” dưới dạng e-book.
- Giúp học sinh có sách giáo khoa điện tử để tự học, tự nghiên cứu ở nhà.
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử vấn đề ng
hiên cứu
Hiện nay, với sự phát triển của Internet chỉ cần search trên mạng là đã có rất
nhiều các website về hoá học nhưng chủ yếu đều là tiếng Anh, do đó gây trở ngại
lớn trong việc tìm kiếm tri thức của học sinh phổ thông.
Bên cạnh đó, số lượng đề tài về thiết kế website tự học trong các khóa luận và
luận văn tốt nghiệp đến na
y vẫn chưa nhiều. Sau đây là một số khoá luận và luận
văn tốt nghiệp chuyên ngành hóa học, trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh và ĐHSP Hà
Nội:
1. Hỉ A Mổi (2005), Thiết kế website tự học môn hóa học lớp 11 chương trình
phân ban thí điểm, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
2. Phạm Dương Hoàng Anh (2006), Phối hợp phần mềm Macromedia
Dreamweaver MX và Macromedia Flash MX 2004 để thiết kế website hỗ trợ
cho việc học tập và củng cố kiến thức môn Hóa học phần Hiđrocacbon không
no mạch
hở dành cho học sinh THPT, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
3. Nguyễn Thị Thanh Hà (2006), Ứng dụng phần mềm Macromedia Flash và
Macromedia Dreamver để thiết kế website về lịch sử hóa học 10 góp phần

nâng cao chất lượng dạy học, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
4. Phạm Duy Nghĩa (2006), Thiết kế Web site phục vụ việc học tập và ôn tập
chương nguyên tử cho học si
nh lớp 10 bằng phần mềm Macromedia Flash và
Dreamweaver, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
5. Nguyễn Ngọc Anh Thư (2006), Phối hợp phần mềm Macromedia
Dreamweaver MX và Macromedia Flash MX 2004 để tạo trang web hỗ trợ
cho học sinh trong việc tự học môn hóa học lớp 11 nhóm Nitơ chương trình
phân ban thí điểm, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
6. Phạm Thị Phương Uyên (2006), Phối hợp phần mềm Macromedia
Dreamweaver MX 2004 và M
acromedia Flash MX 2004 thiết kế website hỗ
trợ cho việc học tập và củng cố kiến thức cho học sinh môn hoá học nhóm oxi
– lưu huỳnh chương trình cải cách, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
7. Đỗ Thị Việt Phương (2006), Ứng dụng Macromedia Flash MX 2004 và
Dreamweaver MX 2004 để thiết kế website hỗ trợ cho hoạt động tự học hoá
học của học sinh phổ thông trong chương halogen lớp 10, Khóa luận tốt
nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
8. Lê Thị Xuân Hương (2007), Thiết kế website hỗ trợ việc dạy và tự học chương
Hal
ogen lớp 10 THPT, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
9. Trịnh Lê Hồng Phương (2008), Thiết kế học liệu điện tử chương oxi – lưu
huỳnh lớp 10 hỗ trợ hoạt động tự học hóa học cho học sinh trung học phổ
thông, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
10. Nguyễn Thị Ánh Mai (2006), Thiết kế sách giáo khoa điện tử (
E-book) các
chương về lý thuyết chủ đạo sách giáo khoa hoá học lớp 10 THPT, Luận văn
Thạc sĩ khoa học giáo dục, ĐHSP Hà Nội.
Các website này đều có điểm chung là giúp HS có một công cụ tự học hiệu quả.
Mặc dù vậy, các tác giả chưa quan tâm nhiều đến một số vấn đề sau:

- Nội dung kiến thức trình bày chưa thật sự hấp dẫn, chủ yếu được xây dựng
trên phần mềm
Dreamweaver mà không phối hợp một số phần mềm khác.
- Chưa có phần mở đầu mỗi bài học.
- Ở phần bài tập, chưa cung cấp đủ các câu hỏi lí thuyết và đáp án cho từng bài
học. Trong phần trắc nghiệm, các tác giả chủ yếu đưa ra những câu hỏi trắc nghiệm
kiểm tra chung cho cả chương mà chưa có những câu hỏi trắc nghiệm cho mỗi bài
học.
- Phim thí nghiệm
không thể xem trực tiếp trên nội dung bài học mà thường
phải download về máy tính rồi mới xem được.
- Chưa cung cấp cho HS các phương pháp giải nhanh các bài toán hoá học….
1.2. Đổi mới phương pháp dạy và học
1.2.1. Các xu hướng
đổi mới phương pháp dạy và học

Theo TS. Trịnh Văn Biều [7], một số xu hướng đổi mới phương pháp dạy
học trên thế giới và ở nước ta hiện nay là:
1. Phát huy tính tích cực, tự lực, chủ động, sáng tạo của người học. Chuyển
trọng tâm hoạt động từ GV sang HS. Chuyển lối học từ thông báo tái hiện sang sáng
tạo, tìm tòi, khám phá.
2. Cá thể hóa việc dạy học.
3. Sử dụng tối ưu các phương tiện dạy học đặc biệt là tin học và công nghệ
thông ti
n vào dạy học.
4. Tăng cường khả năng vận dụng kiến thức vào đời sống. Chuyển từ lối
học nặng về tiêu hóa kiến thức sang lối học coi trọng việc vận dụng kiến thức.
5. Cải tiến việc kiểm tra và đánh giá kiến thức.
6. Phục vụ ngày càng tốt hơn hoạt động tự học và phương châm
học suốt

đời.
7. Gắn dạy học với nghiên cứu khoa học với mức độ ngày càng cao (theo
sự phát triển của HS, theo cấp học, bậc học).
Trong 7 xu hướng đổi mới trên thì việc phát huy tính tích cực và khả năng
tự học của HS đang là những xu hướng đổi mới quan trọng về phương pháp dạy và
học hiện nay (xu hướng 1 và 6).
1.2.2. Đổi mới PPDH với sự hỗ trợ của
công nghệ thông tin

Trong báo cáo về “Công nghệ thông tin trong giáo dục” của Quách Tuấn
Ngọc (2/11/2005)[24], tác giả đã đưa ra một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy
và học với sự hỗ trợ của CNTT:



a. Xu hướng đổi mới nhờ CNTT
Bảng 1.1. Xu hướng đổi mới nhờ CNTT
Từ Đến
Xây dựng trường lớp với bảng, bàn… Một hạ tầng tri thức (trường học, phòng
thí nghiệm, radio, TV, Internet)
Các lớp học Từng người học một (tính cá thể)
Giáo viên như là người cung cấp tri
thức
Giáo viên như là người hướng dẫn và
tạo điều kiện tìm tri thức
Bộ sách giáo khoa và một vài đồ dùng
phụ trợ nghe nhìn tương tự (radio-
cassette…)
Dụng cụ đa phương tiện Multimedia (in
ấn, âm thanh, thiết bị số...) và nguồn

thông tin trên mạng máy tính

b. Đổi mới phương pháp dạy và học

Về phương pháp trình bày:
- Từ phấn bảng sang trình chiếu điện tử.
- Từ độc thoại, thầy đọc trò chép sang đối thoại, diễn giả, trình bày.

Về phương tiện trình chiếu:
Từ máy chiếu overhead (ảnh tĩnh) đơn giản sang máy chiếu
multimedia.

Về bài thí nghiệm:
Từ thí nghiệm trên hiện vật trực quan sang thí nghiệm ảo, sinh động,
không độc hại, đỡ tốn kém, cá thể hoá…

Về phương tiện truyền tải thông tin:
- Từ kênh chữ sang multimedia (đa phương tiện) với hình ảnh, video,
tiếng nói, âm thanh… sinh động.
- Từ SGK thuần chữ (text) sang e - book đa phương tiện (multimedia).

Vai trò thầy:
- Từ độc thoại, người dạy dỗ … sang vai trò hướng dẫn, kích hoạt các
hoạt động, để HS tự động não thu nhận, thảo luận …
- Thầy soạn bài, soạn giáo án ngay trên máy vi tính bằng word,
powerpoint...

Vai trò học sinh:
Tăng cường tính tự học, giao lưu quốc tế, nhiều khi trò giỏi hơn
thầy…

1.3. Tự học

1.3.1. Tự học là gì?

Theo từ điển Giáo dục học – NXB Từ điển Bách khoa 2001 [16], tự học là:
“…quá trình tự mình hoạt động lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng thực
hành…”.
Tiến sĩ Võ Quang Phúc cho rằng: “Tự học là một bộ phận của học, nó
cũng được hình thành bởi những thao tác, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của người
học trong hệ thống tương tác của hoạt động dạy học. Tự học phản ánh rõ nhất nhu
cầu bức xúc về học tập của người học, phản ánh tính tự giác và sự nỗ lực của người
học, phản ánh năng lực tổ chức và tự điều khiển của người học nhằm đạt đư
ợc kết
quả nhất định trong hoàn cảnh nhất định với nồng độ học tập nhất định”.
Tự học thể hiện bằng cách tự đọc tài liệu giáo khoa,
sách báo các loại,
nghe radio, truyền hình, nghe nói chuyện, báo cáo, tham quan bảo tàng, triễn lãm,
xem phim, kịch, giao tiếp với những người có học, với các chuyên gia và những
người hoạt động thực tiễn trong các lĩnh vực khác nhau. Người tự học phải biết cách
lựa chọn tài liệu, tìm ra những điểm chính, điểm quan trọng trong các tài liệu đã
đọc, đã nghe, phải biết cách ghi chép những điều cần thiết, biết viết tóm tắt và làm
đề cương, biết cách tra cứu từ điển và sách tham khảo, biết cách làm việc trong thư
viện… Đối với HS, tự học còn thể hiện bằng cách tự làm các bài tập chuyên môn,
các câu lạc bộ, các nhóm thực nghiệm và các hoạt động ngoại khóa khác. Tự học
đòi hỏi phải có tính độc lập, tự chủ, tự giác và kiên trì cao.
1.3.2. Các hình thức của tự học
Theo TS. Trịnh Văn Biều [8]
, có 3 hình thức tự học:

- Tự học không có hướng dẫn: Người học tự tìm lấy tài liệu để đọc, hiểu,

vận dụng các kiến thức trong đó. Cách học này sẽ đem lại rất nhiều khó khăn cho
người học, mất nhiều thời gian và đòi hỏi khả năng tự học rất cao.
- Tự học có hướng dẫn: Có GV ở xa hướng dẫn người học bằng tài liệu
hoặc bằng các phương tiện thông tin khác.
- Tự học có hướng dẫn trực tiếp: Có tài liệu và giáp mặt với GV một số tiết
trong ngày,
trong tuần, được thầy hướng dẫn giảng giải sau đó về nhà tự học.
1.3.3. Chu trình học
Theo Nguyễn Kỳ “Chu trình học là chu trình chủ thể tìm hiểu, xử lý, giải
quyết vấn đề hay vật cản của một
tình huống học với sự hợp tác của tác nhân và sự
hỗ trợ của môi trường sư phạm” [40, tr 113].
Cũng theo tác giả, chu trình học diễn biến theo ba thời: Tự nghiên cứu
(I), Tự thể hiện, hợp tá
c với bạn và thầy (II), Tự kiểm tra, tự điều chỉnh (III).

Hình 1.1. Chu trình học ba thời

Thời (I): Tự nghiên cứu
Trước một tình huống học, chủ thể bắt đầu thấy có nhu cầu hay hứng thú
tìm hiểu, nhận biết vấn đề của tình huống học: Đây là vấn đề gì? Có ý nghĩa ra sao?
Có thể giải quyết theo hướng nào? Từ chỗ nhận biết vấn đề, chủ thể tiến hành thu
nhận thông tin có liên quan đến vấn đề đó, xử lý thông tin, xây dựng các giải pháp,
thử nghiệm g
iải pháp, kết quả, đưa ra kết luận và giải quyết vấn đề. Chủ thể ghi lại
kết quả “tự nghiên cứu” của thời (I) thành sản phẩm học cá nhân ban đầu.
Tất nhiên sản phẩm đó có thể mang tính chủ quan, phiến diện, thiếu khoa
học. Bằng con đường nào để làm cho sản phẩm ban đầu trở thành khách quan, khoa
học thật sự? Đó là con đường người học tự thể hiện m
ình để hợp tác với các bạn và

thầy trong cộng đồng lớp học. Tự thể hiện, hợp tác với bạn , đó là thời (II) của chu
trình học.
Thời (II): Tự thể hiện, hợp tác với bạn và thầy
Qua thời (I), chủ thể đã tự thể hiện mình bằng cách tự đặt mình vào tình
huống, bằng sắm v
ai, bằng văn bản của sản phẩm học ban đầu. Giờ đây, cần tiếp tục
tự thể hiện để hợp tác với các bạn và thầy bằng cách tự trình bày và bảo vệ sản
phẩm học của mình, hỏi bạn và thầy về những gì đã tự hỏi mà không tự trả lời được,
tỏ rõ thái độ của mình trước chủ kiến của bạn; tham
gia tranh luận. Tranh luận có
trọng tài, có kết luận của thầy. Tranh luận và kết luận của thầy sẽ cho phép chủ thể
bổ sung sản phẩm ban đầu của mình thành một sản phẩm khách quan hơn, có tính
hợp tác, xã hội, nhất là thông qua việc “tự kiểm tra, tự điều chỉnh” ở thời (III) dưới
đây.
Thời (III): Tự kiểm tra, tự điều chỉnh
Thảo luận ở cộng đồng lớp và kết luận của thầy đã cung cấp thông tin
phản hồi về sản phẩm học ba
n đầu của chủ thể, lấy đó làm cơ sở cho người học so
sánh, đối chiếu, tự kiểm tra lại sản phẩm học, tự đánh giá, tự phê bình và cuối cùng
tổng hợp, chốt lại vấn đề rồi tự sửa sai, điều chỉnh, hoàn chỉnh thành sản phẩm khoa
học, và tự rút kinh nghiệm về cách học, cách tư duy, cách giải quyết vấn đề của
m
ình, sẵn sàng bước vào một tình huống học mới.
Chu trình học ba thời “Tự nghiên cứu – Tự thể hiện, hợp tác với bạn và
thầy – Tự kiểm tra, tự điều chỉnh” – thực chất cũng chính là con đường “Nhận biết,
phát hiện vấn đề, định hướng giải quyết và giải quyết vấn đề” của việc nghiên cứu
khoa học – con đường xoắn ơristic kiểu học trò ở tầm vóc và trình độ của người
học, dẫn dắt người học đến tri thức khoa
học, đến chân lý mới (chỉ mới đối với
người học) và chỉ có thể diễn ra dưới sự hướng dẫn của thầy.

Ngay tự thời (I), thầy đã hướng dẫn người học cách tự nghiên cứu như
giới thiệu vấn đề (ý nghĩa, mục tiêu, định hướng), hướng dẫn cách thu nhận, xử lý
thông tin, cách giải quyết vấn đề và tạo điều kiện t
huận lợi cần thiết để trò có thể tự
nghiên cứu, tự tìm ra kiến thức.
Ở thời (II), thầy là người tổ chức cách học hợp tác hai chiều đối thoại trò
– trò, trò – thầy, như giúp đỡ cá nhân trình bày, bảo vệ sản phẩm học, tổ chức thảo
luận ở cộng đồng lớp học, lái cuộc tranh luận theo đúng mục tiêu. Cuối cùng thầy là
người trọng tài kết luận về những gì người học đã tự tìm
ra và tranh luận thành tri
thức khoa học.
Ở thời (III), thầy là người cố vấn cho trò tự kiểm tra, tự điều chỉnh như
cung cấp thông tin liên hệ ngược về sản phẩm học (kết luận, đánh giá, cho điểm…)
,
giúp đỡ trò tự đánh giá, tự sửa sai, tự rút kinh nghiệm về cách học.
Chu trình học ba thời không có nghĩa tuyệt đối là có “ba bước”, “ba giai
đoạn”, có ranh giới rạch ròi, máy móc, tách rời nhau, mà có thể đan xen, hoà nhập
lẫn nhau và có thể biến động theo hoàn cảnh người học. Ngay trong lúc đang tham
gia thảo luận (thời II), chủ thể có thể động não, suy nghĩ (tự nghiên cứu – thời I),
hoặc tự kiểm tra, tự phê bình về sản phẩm học của mình (thời III). Thời chỉ có nghĩa
là vào lúc đó, nổi bật lên vai trò của cá nhân người học, của lớp hay của thầy. Thời
nào cũng c
ó vai trò và hoạt động của trò và thầy, song ở thời (I), nổi lên vai trò lao
động cá nhân (học cá nhân) của người học với kết quả là sản phẩm học ban đầu.
Thời (II) là vai trò của lao động hợp tác (học hợp tác) với thầy và bạn ở lớp học, tạo
ra sản phẩm học mang tính hợp tác – xã hội. Ở thời (III), nổi lên vai trò lao động cá
nhâ
n (học cá nhân) ở trình độ cao hơn thời I: tự kiểm tra, tự phê bình, tự sửa sai, tự
điều chỉnh, rút kinh nghiệm…
Điều cốt yếu là cả ba thời đều diễn ra trên cái nền chung là hành động

học, tự học, tự nghiên cứu, tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo của chủ thể, dưới
sự hướng dẫn hợp lý của nhà giáo.
Ba thời cũng có thể xem
như là ba cách học tổng quát: cách tự nghiên
cứu, cách học hợp tác, cách tự kiểm tra, tự điều chỉnh.
Chu trình học ba thời bắt đầu từ “Tự nghiên cứu” dưới sự hướng dẫn của
thầy, qua các thời “Tự thể hiện, hợp tác với bạn và thầy” và “Tự kiểm tra, tự điều
chỉnh” rồi trở lại “Tự nghiên cứu” ở một tình huống học mới, ở t
rình độ cao hơn
trình độ ban đầu “một ít”, theo con đường xoắn ốc nhiều tầng từ tự học đến học hợp
tác rồi trở lại tự học để dần dần kiến tạo cho bản thân chủ thể trình độ và năng lực
tự học, tự nghiên cứu, năng lực tư duy, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề.
Tổng thể c
ác chu trình học là “cuộc hành trình nội tại” phát triển bền
vững ở mỗi người học năng lực tự học và thói quen tự học suốt đời “để hiểu”, “để
làm”, “để hợp tác cùng chung sống” và “để làm người” lao động tự chủ, năng động
và sáng tạo của thế kỷ XXI.
1.3.4. Vai trò của tự học

Tự học là một giải pháp khoa học giúp giải quyết mâu thuẫn giữa khối
lượng kiến thức đồ sộ với quỹ thời gian ít ỏi ở nhà trường. Nó giúp khắc phục
nghịch lý: học vấn thì vô hạn mà tuổi học đường thì có hạn.
Tự học là giúp tạo ra tri thức bền vững cho mỗi người bởi lẽ nó là kết quả
của sự hứng thú, sự tìm tòi, nghiên cứu và lựa chọn. C
ó phương pháp tự học tốt sẽ
đem lại kết quả học tập cao hơn. Khi HS biết cách tự học, HS sẽ “có ý thức và xây
dựng thời gian tự học, tự nghiên cứu giáo trình, tài liệu, gắn lý thuyết với thực
hành, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, biến quá trình đào tạo thành quá
trình tự đào tạo” [21, tr.25].
Tự học của HS THPT còn có vai trò quan trọng đối với yêu cầu đổi mới

giáo dục và đào tạo, nâ
ng cao chất lượng đào tạo tại các trường phổ thông. Đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa người học sẽ phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, sáng tạo của người học trong việc lĩnh hội tri thức khoa học. Vì
vậy, tự học chính là con đường phát triển phù hợp với quy luật tiến hóa của nhân
loại và là biện pháp sư phạm đúng đắn cần đư
ợc phát huy ở các trường phổ thông.
Theo phương châm học suốt đời thì việc “tự học” lại càng có ý nghĩa đặc
biệt đối với HS THPT. Vì nếu không có khả năng và phương pháp tự học, tự nghiên
cứu thì khi lên đến các bậc học cao hơn như đại học, cao đẳng… HS sẽ khó thích
ứng do đó khó có thể thu được một kết quả học tập tốt. Hơn thế nữa, nếu không c
ó
khả năng tự học thì chúng ta không thể đáp ứng được phương châm “Học suốt đời”
mà Hội đồng quốc tế về giáo dục đã đề ra vào tháng 4 năm 1996.
1.3.5. Tự học qua mạng và lợi ích của nó
1.3.5.1. Tự học qua mạng

Ngày nay cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin thì việc học qua mạng
ngày càng trở nên phổ biến và vô cùng cần thiết. Với hình thức học này người học
sẽ chủ động tìm kiếm tri thức để thỏa mãn những nhu cầu hiểu biết của mình tự
củng cố, tự phân tích, tự đào sâu, tự đánh giá, tự rút kinh nghiệm…với sự hỗ trợ
của máy tính và mạng Internet.
1.3.5.2. Lợi ích của tự học qu
a mạng
Trong thời đại ngày nay, muốn thoát khỏi lạc hậu với khoa học và kĩ thuật,
mỗi người phải có thói quen và khả năng tự học suốt đời vì không phải ai, vào bất
cứ lúc nào, cũng có điều kiện đến trường, đến lớp để học. Thế nhưng tự học như thế
nào, tự học cái gì, phải bắt đầu tự học từ đâu và ai là người hướng dẫn?
Đó là
những vấn đề khó khăn mà người tự học thường gặp phải. Để giải quyết tình trạng

đó, tự học qua mạng ra đời nhằm cung cấp sự hướng dẫn cho bất cứ ai muốn học
một chương trình nào đó hoặc xem lại, bổ sung, mở rộng phần kiến thức đã học ở
trường lớp.
Sự hướng dẫn này có cấp độ chung và cấp độ cụ thể. Cấp độ chung
hướng dẫn học về các mặt tư tưởng, quan điểm, phương pháp luận, những phương
pháp chung nhất, phổ biến nhất. Cấp độ cụ thể hướng dẫn học môn cụ thể, từng bài
học cụ thể. Cấp độ chung soi sáng cho cấp độ cụ thể và cấp độ cụ thể min
h họa,
củng cố cấp độ chung. Cả hai cấp độ hướng dẫn này khi vào học sẽ hòa quyện vào
nhau, tác động lẫn nhau để tạo nên một phong cách tự học có hiệu quả, người học
sẽ có trong tay một công cụ cơ bản để học suốt đời. Một sự hướng dẫn được coi là
có hiệu quả nếu người tiếp thu thật sự chủ động khiến cho yêu cầu “đư
ợc hướng
dẫn” cũng sẽ giảm dần cho đến khi người học có thể tự học hoàn toàn.
Việc tự học qua mạng sẽ giúp người học không bị ràng buộc vào thời khóa
biểu chung, một kế hoạch chung, có thời gian để suy nghĩ sâu sắc một vấn đề, phát
hiện ra những khía cạnh xung quanh vấn đề đó và ra sức tìm tòi học hỏi thêm. Dần
dần, cách tự học đó trở thành thói quen, gi
úp người học phát triển được tư duy độc
lập, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo.
Tự học qua mạng giúp người học có thể tìm kiếm nhanh chóng và dễ dàng
một khối lượng lớn thông tin bổ ích. Về mặt này, người học hoàn toàn thuận lợi so
với việc tìm kiếm trên sách báo.
Với tính năng siêu liên kết và giao diện thân thiện, website sinh động, hấp
dẫn, tiện dụng c
ho người học góp phần nâng cao hứng thú học tập.
* Tóm lại, có thể nói tự học chính là con đường để mỗi chúng ta tự khẳng định
khả năng của mình. Nó có ý nghĩa quyết định quan trọng đối với sự thành đạt của
mỗi người. Tuy tự học có một vai trò hết sức quan trọng nhưng tự học của HS cũng
không thể đạt được kết quả cao nhất nếu không có sự hướng dẫn, chỉ dạy của người

thầy. C
hính vì vậy, “trong nhà trường điều chủ yếu không phải là nhồi nhét cho học
trò một mớ kiến thức hỗn độn… mà là giáo dục cho học trò phương pháp suy nghĩ,
phương pháp nghiên cứu, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề”
(Thủ tướng Phạm Văn Đồng-1969). GV cần giúp cho HS tìm ra phương pháp tự
học thích hợp và cung cấp cho HS những phương tiện tự học có hiệu quả. Dạy cho
HS biết cách tự học qua mạng c
hính là một trong những cách giúp HS tìm ra chiếc
chìa khóa vàng để mở kho tàng kiến thức vô tận của nhân loại.
1.4. Sách giáo khoa điện tử (e-book)
1.4.
1. Khái niệm e-book

Theo trang web www.thuvien-ebook.com [62] “E-book là từ viết tắt của
electronic book (sách điện tử). Hiểu theo cách đơn giản nhất, sách điện tử (e-books
hay digital books) là phiên bản dạng số (hay điện tử) của sách. Nội dung của sách
số có thể lấy từ sách giấy hoặc mang tính độc lập tùy thuộc vào người xuất bản.
Một số người thường sử dụng thuật ngữ này để chỉ luôn cả thiết bị dùng để đọc sách

dạng số (còn gọi là book – reading appliances hay e-book readers)”.
Trong luận văn này, có thể hiểu sách giáo khoa điện tử thực chất giống như
một cuốn sách giáo khoa bình thường nhưng có bổ sung nhiều hình ảnh, phim thí
nghiệm, nhiều bài tập hoá học… và được sử dụng thông qua hệ thống máy tính.

Những tính năng ưu việt của e-book
Sách điện tử có những lợi thế mà sách in thông thường không có được:
- Rất gọn nhẹ, giá thành rẻ.
- Nhiều hình ảnh, phim minh họa rõ nét, hấp dẫn.
- Khả năng lưu trữ lớn, có thể chứa rất nhiều thông tin, hình ảnh, phim…
Cùng với sự phát triển vượt bậc của mạng internet và kết hợp với các

thiết bị kỹ thuật cao cấp, hầu hết các sách in giấy thông thường đều có thể được làm
thành sách điện tử. Chính vì vậy mà ngày nay, không khó khăn lắm để chúng ta tìm
một tác phẩm nổi tiếng để đọc trực tiếp trên mạng hay tải về máy tính để đọc theo
dạng e-book.

Nhược điểm của e-book
- Giống như e-mail (thư điện tử) e-book chỉ có thể dùng các công cụ máy
tính như máy vi tính, máy trợ giúp kỹ thuật số cá nhân (palm, pocket pc…) để xem.
- Không giống như sách in thông thường, sách điện tử cũng có những
“định dạng” khác nhau. Nói một cách dễ hiểu là sách có nhiều tập tin mở rộng như
.pdf, .prc, .lit, … Những tập tin này sở dĩ khác nhau vì chúng được làm từ những
chương trình khác nhau và vì thế, muốn đọc được chúng, ta cần phải có những
chương trình tương ứng.

1.4.2. Mục đích thiết kế e-book
Thiết kế sách giáo khoa điện tử (e-book) hỗ trợ cho hoạt động tự học hóa
học của HS phổ thông như là một công cụ tự học thích hợp từ đó nâng cao hiệu quả
tự học thông qua những kiến thức được minh họa một cách sinh động, hấp dẫn.
Ngoài ra, khi GV ứng dụng ICT trong dạy học hóa học có thể sử dụng sách giáo
khoa điện tử như là một tài liệu tham
khảo.
1.4.3. Các yêu cầu thiết kế e-book
Việc thiết kế e-book phục vụ cho giáo dục đòi hỏi phải đáp ứng những
đặc trưng riêng về mặt nghe, nhìn, tương tác; do đó theo Nguyễn Trọng Thọ [37] để
đáp ứng nhu cầu tự học, chúng ta phải tuân theo đầy đủ các bước của việc thiết kế
dạy học (ADDIE là chữ viết tắt của 5 bước):
1. Analysis (phâ
n tích tình huống để đề ra chiến lược phù hợp):

Hiểu rõ mục tiêu.


Các tài nguyên có thể có.

Đối tượng sử dụng.
2. Design (thiết kế nội dung cơ bản):

Các chiến lược dạy học.

Siêu văn bản (hypertext) và siêu môi trường (hypermedia).

Hướng đối tượng, kết nối và phương tiện điều hướng.
3. Development (phát triển các quá trình):

Thiết kế đồ hoạ.

Phát triển các phương tiện 3D và đa môi trường (multimedia).

Hình thức và nội dung các trang Web.

Phương tiện thực tế ảo.
4. Implementation (triển khai thực hiện):
Cần tích hợp với chương trình công nghệ thông tin của trường học :

Chuẩn bị cho phù hợp với thực tế các phòng máy tính.

Thủ tục tiến hành với thầy.

Triển khai trong toàn bộ các đối tượng dạy, học và quản lí.

Quản lí tài nguyên (nhân lực và vật lực).

5. Evaluation (lượng giá):
Đánh giá hiệu quả huấn luyện thường sử dụng mô hình bốn bậc do
Donald Kirkpatrick phát triển (1994). Theo mô hình này, quá trình lượng giá luôn
được tiến hành theo thứ tự vì thông tin của bậc trước sẽ làm nền cho việc lượng giá
ở bậc kế tiếp:

Bậc 1: Phản ứng tích cực hay tiêu cực (Reactions).

Bậc 2: Hiệu quả học tập (Learnings).

Bậc 3: Khả năng chuyển giao hay chuyển đổi (Transfers).

Bậc 4: Kết quả thực tế (Results).

Hình 1.2. Mô hình lượng giá bốn bậc theo Kirkpatrick
1.4.4. Các phần mềm thiết kế e-bo
ok
1.4.4.1. Macromedia Dreamweaver 8 [32]
, [33], [54]

Dreamweaver là công cụ để thiết kế và phát triển web rất hiệu quả của
Macromedia, cho phép xây dựng những trang web có giao diện tuyệt vời. Vì
Dreamweaver rất dễ sử dụng nên nó tạo ra môi trường rất linh hoạt trong thiết kế
web. Sẽ rất hữu ích nếu sử dụng thành thạo các ngôn ngữ lập trình web, nhưng với
Dreamweaver, vẫn có thể tạo được các website hấp dẫn mà không cần biết nhiều về
HTML, JavaScript…
Với Dreamweaver ta có thể:

Xây dựng trang chủ của e-book và các trang liên kết khác.


Tạo kiểu, bố trí nội dung trang.

Tạo các liên kết từ trang này đến các trang khác.

Bổ sung các file Flash Slide Presentation …
1.4.4.2. Macromedia Flash Prof
essional 8
Flash là một công cụ sáng tạo, cho phép tạo ra các thiết kế, các ứng dụng có
khả năng tương tác cao. Có thể sử dụng Flash để tạo các thí nghiệm, mô phỏng cơ
chế phản ứng, tạo những hiệu ứng hoạt hình sinh động…
Với nhiều tính năng ưu việt, Macromedia Flash Professional 8 – phiên bản
mới ngày càng khẳng định vai trò của mình. Khác với các phiên bản trước đây,
phiên bản mới này cho phép tạo các trình diễn (Slide Presentation) với nhiều hình
ảnh đẹp, có thể tích hợp các film thí nghiệm vào trong các slide trình diễn. Ngoài ra,
Macromedia Flash Professional 8 còn hỗ trợ việc tạo nhiều loại câu hỏi trắc nghiệm
như: câu hỏi đúng – sai, câu hỏi nhiều lựa chọn, câu điền khuyết, câu hỏi ghép cặp
dạng kéo – thả… Đặc biệt các tập tin flash (.swf) có kích thước nhỏ, gọn c
ó thể đưa
lên website một cách dễ dàng và nhanh chóng. Đây cũng là phần mềm chính mà
chúng tôi đã sử dụng để tạo nội dung các bài học cũng như các câu hỏi trắc nghiệm
trong e-book.
1.4.4.3. Sothink Glanda

Sothink Glanda là một công cụ tạo Flash hoàn hảo cho những người dùng
không chuyên nghiệp. Nó có nhiều đặc tính nổi bật nhưng lại rất dễ sử dụng như tạo
một đoạn văn bản có hiệu ứng. Có thể tạo những đoạn film Flash như album, tiêu đề
hoạt hình sinh động và cả những nút hoặc menu tương tác… một cách dễ dàng và
nhanh chóng. Trong e-book, toàn bộ các tiêu đề đều được tạo ra từ phần mềm
Sothink Glanda.
1.4.4.4. ChemOffice 2005

Chương trình ChemOffice có rất nhiều tí
nh năng và hỗ trợ nhiều chương
trình Hóa học khác. Trong ChemOffice 2005 chúng tôi sử dụng chủ yếu 2 chương
trình sau:
- ChemDraw Ultra 9.0: dùng để vẽ công thức cấu tạo (dạng 2D) của các
chất vô cơ và hữu cơ, từ công thức có thể biết tên chất hoặc ngược lại, có thể viết
tên gọi của chất, sau đó ChemDraw có thể tự vẽ công thức cấu tạo của chất.


- Chem3D Ultra 9.0: dùng để vẽ hoặc chuyển công thức dạng 2D sang 3D.


1.5. Thực trạng sử dụng CNTT trong dạy học ở trường phổ thông
Quán triệt tư tưởng về đổi mới PPDH nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo, giáo viên THPT đã tiếp cận với PPDH mới, bước đầu ứng dụng CNTT vào
giảng dạy các bộ môn đạt kết quả, thể hiện rõ nét nhất qua việc sử dụng Power point
kết hợp nhiều phần mềm dạy học khác để tự thiết kế giáo á
n điện tử và thực hiện
giờ dạy trên lớp với sự hỗ trợ tối đa của các thiết bị hiện đại như projector, camera,
máy tính, máy scan…
Theo Thông tấn xã Việt Nam (nguồn www.vnanet.vn
):
Đến nay, đã có 20% giáo viên trung học, 30% trường Trung học phổ
thông, ứng dụng CNTT. Trong đó, từ 2-5% số bài giảng được sử dụng
phần mềm dạy học và có ứng dụng CNTT. Ngoài ra, còn có nhiều phần
mềm hỗ trợ khác đã được sử dụng rộng rãi trong các trường.
Trường THPT U Minh là trường đầu tiên trong tỉnh Cà Mau tổ chức ứng dụng
CNTT vào dạy và học. Các GV đã tự trang bị cho mình giáo án điện tử và tìm hiểu,

nghiên cứu các phần mềm dạy học như: Geometer’s, Sketchpad, Graph,

Cabri…Các tổ chuyên môn có nhiều giáo viên đã sử dụng thành thạo một số phần
mềm dạy học. Toàn trường có hơn 200 tiết dạy, thao giảng, dạy rút kinh nghiệm, dự
thi giáo viên giỏi vòng tỉnh có sử dụng giáo án điện tử với các môn: Toán, Vật lí,
Hóa học, Anh văn, Công nghệ, Văn, Tin học. (nguồn www.camau.gov.vn
).
Hiện nay, việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy không chỉ phát triển mạnh ở
các thành phố lớn mà còn phát triển ở nhiều tỉnh miền núi. Tuy nhiên, theo nhiều
chuyên gia ngành giáo dục, việc ứng dụng CNTT vào quá trình dạy học vẫn là thách
thức với đội ngũ giáo viên. Trước hết đòi hỏi GV phải thông thạo việc sử dụng máy
tính; phải mất nhiều thời gian để soạn một giáo án điện tử trong khi đó chương trình
học, chỉ tiêu, tỉ lệ phần trăm chất lượng vẫn luôn là sức ép đối với mỗi GV; lớp học
đông, HS trình độ không đồng đều, đa số chưa quen tính tự chủ trong học tập; cơ sở
vật chất trong nhà trường chưa đư
ợc trang bị đồng bộ, chưa đầy đủ… Hiện còn 21%
trường THPT chưa được trang bị máy tính.

Theo đề tài “Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở trường phổ thông
Việt Nam” do PGS. TS. Đào Thái Lai, công tác tại Viện Chiến lược và Chương
trình giáo dục, làm chủ nhiệm thì: “Số lượng phần mềm dạy học hạn chế, tài liệu
hướng dẫn giáo viên sử dụng phầm mềm dạy học còn thiếu. Giáo viên còn hạn chế
về kiến thức và kĩ năng sử dụng phần mềm dạy học”[53].

Đối với bộ môn hoá học, việc đổi mới PPDH, phương tiện, thiết bị dạy học đã
và đang từng bước được cải tiến. Hầu hết các giáo viên đã thấy được internet là một
kho tàng kiến thức khổng lồ nếu biết khai thác tốt nó sẽ giúp ít cho việc soạn giảng,
giúp bài giảng sinh động hơn; còn phần mềm dạy học là một phần không thể thiếu
trong việc ứng dụng CN
TT vào giảng dạy.

Tuy nhiên do trình độ tin học và ngoại

ngữ còn nhiều hạn chế, kinh phí đầu tư vào các phương tiện, thiết bị dạy học còn
hạn hẹp nên việc khai thác các phần mềm vi tính trong dạy học hoá học ở trên lớp
và dạy học qua mạng internet bước đầu gặp rất nhiều khó khăn.
Hiện nay trên thế giới có khá nhiều phần mềm, tư liệu dạy học hoá học phong
phú như: ChemWindow, ChemOffice được dùng để viết và vẽ công thức cấu tạo
dạng 2D, 3D; các chương trình tính toán hóa lượng tử như H
yperChem, Gaussian…
hoặc các đĩa CD về thí nghiệm hóa học (Cyber Chem, Crocodile Chemistry 605),
các mô hình, các câu hỏi trắc nghiệm tự kiểm tra (Quiz), sách điện tử về hóa học…

×