Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

lam phat viet nam va nhung bien phap khac phuc ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.77 KB, 20 trang )

20
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế nước ta đang chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường ,có
sự quản lý của nhà nước.Cơ chế mới là môi trường thúc đẩy sự phát triểncủa nền
kinh tế theo xu hướng hiện đại,chắt lọc kế thừa những thành tựu và khắc phục
những tồn tại đã qua.Trong đó lạm phát là một vấn đề hết sứcnghiêm trọng đối với
các hoạt động kinh tế-chính trị-xã hội không chỉ ở Việt Nam mà hầu hết các nước
trên thế giới đều quan tâm .
Lạm phát là một trongnhững chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển kinh tế của
một quốc gia nhưngcũng là một trở ngạI lớn nhất trong công cuộc phát triển đất
nước.Bước sangnền kinh tế thị trường,chúng ta phải đối đầu với con số lạm phát
không nhỏ do cơ chế cũ để lại.Việc xem xét,đánh giá,nghiên cứu nhằm mục đích
tìm ra nguyên nhân dẫn đến lạm phát và tìm cách khắc phục nó như thế nào là vô
cùng cần thiết .
Để nghiên cứu về lạm phát và ảnh hưởng của nó tới các vấn đềkhác như:thất
nghiệp,giá cả,tiên lương từ đó đưa ra cách giải quyết để kìmhãm lạm phát,sử dụng
các chính sách cần thiết để phát triển hàI hoà nền kinh tế.Để hiêủ rõ bản chất của
lạm phát ,tác hại cũng như tác động của nó và những biện pháp kiềm chế lạm phát
ở nước ta chúng ta cần hiểu rõ những kháiniệm cơ bản về lạm phát ,cách khắc
phục lạm phát.
Được sự hướng dẫn của cô giáo bộ môn Lương Mỹ Thùy Dương và qua tham
khảo một số sách báo tài liệu em xin đưa ra một vài suy nghĩ với mong muốn tìm
hiểu và vận dụng tốt hơn những lý luận về lạm phát và các biện pháp khắc phục
nhằm giảm lạm phát trong thời kỳ kinh tế mở và phát triển một cách đồng bộ ở
Việt Nam.
Trong bài viết này sẽ không thể tránh khỏi những sai xót em mong các thầy cô
bỏ qua cho.Em xin chân thành cảm ơn và rất mong có được ý kiến đóng góp nhiệt
tình để có thể hàn thành tốt hơn nữa vấn đề nghiên cứu.
20
CHƯƠNG 1 . LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT


1.1. LẠM PHÁT LÀ GÌ
- Quan niệmcổ điển cho rằng “Lạm phát là phát hành tiền vượt quá số
lượng tiền cần thiết trong lưu thông”. Tuy nhiên định nghĩa này không giải thích
được hiện tượng lạm phát chi phí đẩy (xuất hiện trên thế giới từ những năm 70
hoặc ở Việt nam năm 2005) do loại lạm phát này vẫn có thể xảy ra trong khi cung
tiền tăng ổnđịnh. Nếu chỉ coi là lạm phát khi sự tăng giá là kết quả của việc tăng
mạnh cung tiền thì sẽ dẫn đến coi thường các nguy cơ lạm phát có thể xảy ra.
- Một quan điểm phổ biến khác cho rằng: Lạm phát là hiện tượng tăng
lên của mức giá chung (mức giá bình quân, mức giá tổng hợp) theo thời gian. Tuy
nhiên không phải mọi sự tăng lên của mức giá đều đáng lo ngại. Nếu giá cả chỉ
tăng tạm thời,trong ngắn hạn, chẳng hạn như dịp gần Tết Nguyên đán ở Việt nam,
sau đó lại giảm xuống thì đó là kết quả của những biến động cung cầu tạm thời,
nhiều khi có tác dụng tích cực hơn là tiêu cực tới nền kinh tế. Những trường hợp
như vậy mà đã coi là lạm phát thì sẽ dẫn đến sự cường điệu hoá nguy cơ lạm phát.
- Các nhà kinh tế học theo trường phái trọng tiền hiện đại, đứng đầu là Milton
Friedman đã định nghĩa “lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và liên tục
trong một thời gian dài”. Theo trường phái này, sự tăng lên của mức giá chung
mới chỉ phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát, bản chất của lạm phát được
thể hiện ở tính chất của sự tăng giá đó: đó là sự tăng giá với tốc độ cao và kéo dài.
Chính sự tăng giá cao và liên tục từ thời gian này đến thời gian khác mới tạo ra
những tác động đặc thù của lạm phát. Cũng vì vậy, cái gọi là tỷ lệ tăng giá hàng
tháng mà chúng ta có thể nghe trên đài, báo hay vô tuyến chỉ cho biết mức giá cả
đã thay đổi bao nhiêu phần trăm so với tháng trước chứ chưa được coi là biểu hiện
của lạm phát. Đó có thể chỉ là sự thay đổi xảy ra duy nhất một lần hoặc chỉ là tạm
thời chứ không kéo dài. Chỉ khi nào tỷ lệ tăng giá vẫn duy trì cao trong thời gian
dài thì mới được coi là biểu hiện của lạm phát cao.
20
1.2. Phân loại lạm phát
1) Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát
dưới 10% một năm

2) Lạm phát phi mã: lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ
lệ 2 hoặc 3 con số một năm.
3) Siêu lạm phát : xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt
xa lạm phát phi mã, siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên
200% .
20
CHƯƠNG 2 . THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
2.1. Thực trạng lạm phát của Việt Nam năm 2010
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 02/2010 được Tổng cục Thống kê công bố tăng
1.96% so với tháng trước đó. Đây là mức tăng CPI cao nhất trong vòng 17 tháng
qua. Số liệu thống kê này cùng với quyết định điều chỉnh tỷ giá hối đoái, giá xăng
dầu, giá điện, nước, than… trong thời gian gần đây và áp lực tăng giá hàng hóa
sau dịp Tết Âm lịch đã khiến cho lo ngại về lạm phát một lần nữa được nhắc đến
nhiều hơn.
Báo cáo do Ngân hàng Thế giới nhận định tỷ lệ lạm phát của Việt Nam đột ngột
dâng cao hơn dự kiến trong tháng 10 và 11. Cụ thể, đến cuối tháng 11, tỷ lệ lạm
phát 11 tháng đứng ở mức gần 9,6%. Lạm phát giá lương thực hàng năm lên đến
14,8%, cao nhất kể từ tháng 4/2009.
Mức lạm phát 2 con số của Việt Nam trong năm 2010 đã chính thức được khẳng
định. Con số 11,75% tuy không quá bất ngờ nhưng vẫn vượt so với chỉ tiêu được
20
Quốc hội đề ra hồi đầu năm gần 5%. Trong đó, yếu tố tiền tệ đóng góp tới 4,65%
và các yếu tố khác góp 7,1%.
Yếu tố tiền tệ đã có một “đóng góp” đáng kể trong sự gia tăng vượt chỉ tiêu (dù đã
được điều chỉnh) của lạm phát năm 2010, đặc biệt là từ đầu quý 4. Tuy nhiên,
trong những thông tin chính thống được phát đi từ Ngân hàng Nhà nước, hay đánh
giá của đầu mối chuyên trách tư vấn, đó lại không do hoặc không phải là nguyên
nhân chủ yếu. Đánh giá đưa ra là: đến quý 3/2010, về cơ bản, lạm phát được kiềm

chế. Nhưng sang quý 4/2010, lạm phát tăng cao ngoài khả năng dự đoán. “Nguyên
nhân chủ yếu không phải do sai lầm của chính sách và điều hành vĩ mô, chính sách
tiền tệ trong năm cũng không phải là nhân tố làm cho lạm phát tăng cao. Nguyên
nhân chính là xuất phát từ những nhân tố khách quan như sự bất ổn kinh tế, giá cả
thế giới và một số yếu tố chủ quan nội tại của nền kinh tế”, thông tin từ Ngân hàng
Nhà nước giới thiệu về nội dung tại cuộc họp cho biết.
Trong năm 2010, giá cả một số hàng hóa thiết yếu thế giới tiếp tục tăng cao (giá
dầu thô và giá xăng – gas tăng, sắt thép, nguyên vật liệu nhập khẩu tăng do kinh tế
thế giới phục hồi, giá cả nguyên vật liệu tăng trên 10%), giá vàng biến động mạnh.
Trung Quốc mất mùa nên đã thu hút hàng hóa của Việt Nam khá mạnh.
Trong nước, dịch bệnh trong nông nghiệp, bão lũ nặng nề ở miền Trung làm ảnh
hưởng khá lớn đến cung cầu hàng hóa, giá lương thực thực phẩm tăng do việc chủ
động đưa giá lên để tạo điều kiện cho các nhà sản xuất trong nước và nông dân.
Tăng lương cơ bản, tăng chi phí giáo dục, y tế. Do chi tiêu ngân sách và đầu tư
công khá lớn những năm qua và cả năm 2010, kết hợp tỷ giá tăng, giá vàng tăng,
yếu tố tâm lý kỳ vọng lạm phát trong dân dẫn đến tổng cầu tăng đột biến, làm giá
tăng mạnh ở thời điểm quý 4/2010…
Trong tháng 12/2010, mức tăng giá tiêu dùng (CPI) của cả nước là 1,98%, cũng là
mức tăng cao nhất trong năm. Đóng góp chủ yếu vào con số này là mức tăng giá ở
20
khu vực hàng ăn và dịch vụ ăn uống, tăng 3,31% (riêng lương thực tăng tới
4,67%). Cũng trong tháng này, giá nhà ở và vật liệu xây dựng cũng tăng mạnh tới
2,53%.
Tuy nhiên, tính chung trong cả năm 2010, giáo dục mới là nhóm tăng giá mạnh
nhất trong rổ hàng hóa tính CPI (gần 20%). Tiếp đó là hàng ăn (16,18%) và nhà ở
– vật liệu xây dựng (15,74%). Bưu chính viễn thông là nhóm duy nhất giảm giá
với mức giảm gần 6% trong năm 2010.
Về các địa phương, việc Hà Nội và TP HCM có mức tăng giá (lần lượt là 1,83%
và 1,61%) thấp hơn so với trung bình cả nước trong tháng 12 là một diễn biến khá
bất ngờ. Trong khi đó, những địa phương có mức trượt giá mạnh trong tháng

(khoảng 2%) là Thái Nguyên, Hải Phòng và Gia Lai.
Trong tháng 12, giá vàng và đôla Mỹ không leo thang mạnh như những tháng
trước (lần lượt tăng 5,43% và 2,86%). Tuy nhiên, tính chung trong cả năm 2010,
giá vàng đã tăng tới 30% trong khi mức tăng của đôla Mỹ là xấp xỉ 10%.
Mặc dù năm 2010, bội chi ngân sách đã được kéo xuống còn dưới 6%, nhưng nếu
tính cả huy động trái phiếu, thì tỷ lệ vẫn còn ở mức 7%. Đó là mức rất cao, không
những là một trong những nguyên nhân của lạm phát cao, mà còn làm gia tăng nợ
nần.
Nhập siêu năm 2010, so với năm trước và so với kế hoạch năm, đã giảm và thấp
hơn cả về kim ngạch tuyệt đối cũng như tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu, nhưng
nhập siêu liên tục, kéo dài và hiện ở mức khá cao (năm 2007 là 14,2 tỷ USD, năm
2008 là 18,0 tỷ USD, năm 2009 gần 12,9 tỷ USD, năm 2010 khoảng 12 tỷ USD).
Điều này đã tác động tiêu cực tới cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối và tạo sức
ép lên tỷ giá. Giá USD trên thế giới giảm, nhưng ở trong nước vẫn tăng (năm 2008
tăng 6,31%, năm 2009 tăng 10,7%, 11 tháng năm 2010 tăng 6,63%), làm tăng
mạnh gánh nặng lạm phát …
20
2.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát
Trong các nguyên nhân dẫn đến lạm phát do yếu tố tiền tệ, theo tổng kết của
IMF thường xuất phát từ chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ (CSTT): Sự
thâm hụt ngân sách kéo dài được bù đắp bằng việc in tiền, và/hoặc sự chi tiêu quá
mức và thất thoát lớn trong xây dựng cơ bản của chính phủ sẽ là nguyên nhân gây
ra lạm phát, hoặc CSTT quá nới lỏng, dẫn tới tăng cung tiền, tăng đầu tư tín dụng
quá mức v.v. cũng là nguyên nhân gây lạm phát. Do vậy, để kiểm soát lạm phát ở
mức mục tiêu luôn đòi hỏi sự phối hợp rất chặt chẽ trong điều hành CSTT và
chính sách tài khóa. Xét trong giác độ điều hành CSTT để kiểm soát lạm phát
(lạm phát được coi là mục tiêu cuối cùng của CSTT), tùy điều kiện kinh tế, mức
độ phát triển của thị trường tiền tệ, khả năng điều tiết tiền tệ của Ngân hàng Trung
ương (NHTW) mà NHTW các nước sử dụng các công cụ khác nhau để kiểm soát
lạm phát. Thực tế hiện nay cho thấy, đối với những nước phát triển, là những nước

có thị trường tiền tệ, thị trường vốn phát triển, đặc biệt là những nước theo đuổi
khuôn khổ CSTT hướng tới mục tiêu lạm phát .
Trong thực tế có rất nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến lạm phát.Một số nguyên
nhân xuất phát từ phía cầu một số nguyên nhân xuất phát từ phía cung. Các
nguyên nhân này có thể xảy ra đồng thời,tạo nên lạm phát do cả cung lẫn cầu.
2.2.1 Lạm phát cầu kéo.
Nền kinh tế phục hồi sau ảnh hưởng suy thoái kinh tế thế giới, nhu cầu tiêu dùng
cũng như sản xuất dần tăng trở lại. Cầu tăng giúp kích thích nền kinh tế nhưng vấn
đề đáng lo ngại hơn là nhu cầu giả tạo, làm giá cả tăng cao không cần thiết. Cán
cân thương mại Việt Nam chịu thâm hụt lớn kéo dài trong nhiều năm (năm 2007
thâm hụt hơn 12 tỷ USD, năm 2008 mức thâm hụt tăng lên đến trên 17 tỷ USD).
Sang năm 2009, khác với các nước khác, mất cân bằng cán cân thương mại thu
hẹp lại khi chịu chịu tác động của khủng hoảng, mức thâm hụt cán cân thương mại
Việt Nam có giảm xuống nhưng không đáng kể, nhập siêu vẫn ở mức 12,2 tỷ USD
ngang bằng với năm 2007 và cao hơn rất nhiều so với nhiều năm trước đó. Sự nới
20
lỏng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa theo chương trình kích thích kinh tế
đã đẩy mạnh nhập khẩu, góp phần làm thâm hụt cán cân thương mại lớn quay trở
lại. Tình trạng thâm hụt cán cân thương mại triền miên và chênh lệch giữa tỷ giá
chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do tạo tâm lý lo ngại Việt Nam đồng mất
giá, tạo ra cầu giả tạo, giá cả tăng cao. Tuy nhiên, với những động thái điều chỉnh
tý giá gần đây của NHNN nhằm giúp giảm chênh lệch 2 mức tỷ giá để người dân
giảm tích trữ hàng hóa, vàng, đô la, hạ thấp nhu cầu giả tạo, góp phần kiểm soát
giá cả.
2.2.2. Lạm phát chi phí đẩy
Lạm phát chi phí đẩy (cost push inflation) hay lạm phát do cung xảy ra khi chi
phí sản xuất gia tăng hoặc khi năng lực sản xuất của một quốc gia giảm súc
Chi phí sản xất gia tăng có thể do sự gia tăng tiền lương danh nghĩa, thuế …khi
chi phí tăng ,đường tổng cung sẽ dịch chuyển sang trái.Khả năng cung ứng giảm
trong khi mức cầu vẫn cao,hang hóa khan hiếm làm cho giá bán tăng.Khi giá bán

tăng,lượng cầu sẽ giản bớt vì vậy lượng cung cũng giản theo.Kết quả là nền kinh
tế cân bằng ở mức giá cao hơn và sản lượng thấp hơn. Trong trường hợp này nền
kinh tế vừa bị lạm phát vừa bị sụt giảm sản lượng.Tình trạng này được gọi là lạm
phát đình đốn hay lạm phát suy thoái.
Bên cạnh đó, năm 2010, giá cả của nhiều đầu vào như giá than, giá điện, giá
xăng và giá nước đồng loạt được điều chỉnh tăng. Ngoài ra, theo lộ trình, trong
năm 2010 sẽ tăng lương, cộng với tình hình kinh tế thế giới ấm lên sẽ làm giá cả
các mặt hàng tăng… Tuy nhiên, không phải cứ giá đầu vào tăng bao nhiêu thì giá
cả sản phẩm tăng lên bấy nhiêu nếu các doanh nghiệp có các biện pháp quản lý chi
phí, tiết kiệm được chi phí sản xuất để hạ giá thành sản phẩm. Một nhược điểm
khác của thị trường Việt Nam là yếu tố tâm lý có tác động một phần khá lớn tới
giá cả hàng hóa. Về mặt lý thuyết, tiền lương tăng lên để bù đắp mức tăng của giá
cả, giúp đảm bảo và nâng cao đời sống của người dân. Tuy nhiên, trước khi tiền
20
lương được chính thức tăng lên, thì thông tin
tăng lương cũng đã đẩy giá các mặt hàng thiết
yếu lên cao.
2.2.3 Lạm phát tiền tệ:
Đây là dạng thức lạm phát lộ diện khá rõ.
Năm 2007, với việc tung một khối lượng lớn
tiền đông để mua ngoại tệ từ các nguồn đổ vào
nước ta đã làm tăng lượng tiền trong lưu thông
với mức tăng trên 30%, hạn mức tín dụng cũng
tăng cao, mức tăng 38%. Ấy là chưa kể sự tăng
tín dụng trong các năm trước đã tạo nên hiện
tượng tích phát tác động đến năm 2007 và có thể cả những năm sau.
Đằng sau những nguyên nhân trực tiếp trên là vấn đề cố hữu của nền kinh tế
trong nhiều năm qua. Sau những năm suy giảm phát triển kinh tế cuối giai đoan
90, từ năm 2000, các nhân tố lạm phát bắt đầu được nuôi dưỡng khi giải pháp
kích cầu tăng trưởng thông qua gia tăng chi tiêu công và đầu tư của các doanh

nghiệp nhà nước được ưa chuộng để kích thích nền kinh tế. Tuy nhiên, khả năng
sản xuất trong nước lại không đáp ứng được sự tăng lên của nhu cầu nội địa. Chi
tiêu của Nhà nước (so với GDP) đã tăng từ 5% năm 2000 lên trên 8% từ sau năm
2005. Tỉ lệ vốn đầu tư/GDP cũng tăng lên đến 34% năm 2000 và đến 40% từ năm
2004 đến nay. Năm 2009, bội chi ngân sách đã lên cao, chiếm 7% GDP trong khi
đó hệ số ICOR tính bình quân 5 năm cho cả 2 giai đoạn 2001 – 2005 (4,6%) và
2006 – 2010 (5,8%) của Việt Nam đều cao gấp đôi so với Malaysia hay Indonesia
khi các nước này ở trong cùng giai đoạn giống ta. Thực tế, chỉ số ICOR cao cũng
không phải là điều đáng lo ngại nếu nó được giải thích bởi sự gia tăng cơ sở hạ
tầng, xây dựng phát triển đẩy mạnh nền tảng kinh tế nhưng tình hình Việt Nam,
tổng chi đầu tư cho kết cấu hạ tầng trên GDP cao nhưng kết cấu hạ tầng vẫn còn
20
nhiều bất cập. Điều này cho thấy cơ cấu đầu tư của Việt Nam có vấn đề, cơ cấu
kinh tế chưa thực sự hợp lý để tạo điều kiện phát triển bền vững cho những năm
sau.
Việc bơm tiền ra để đầu tư kích thích tăng trưởng kinh tế, song hệ số ICOR cao,
nguy cơ lạm phát là khó tránh khỏi. Tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2009 đã ở
mức 38%, gấp 7 lần tốc độ tăng trưởng GDP, cao hơn nhiều so với mức chênh
lệch 3,5 lần giữa tốc độ tăng tín dụng bình quân và tốc độ tăng GDP trong 5 năm
trước. Đây là sức ép gây ra lạm phát cho năm 2010.
Trong ngắn hạn tín dụng có vai trò nhất định đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng
ảnh hưởng của tín dụng đối với lạm phát cũng không nhỏ và ngày càng tăng lên.
Xem xét đồ thị tăng trưởng GDP và chỉ số giá tiêu dùng trong mối quan hệ với tín
dụng từ những năm 90 cho đến nay có thể thấy tác động của tín dung lên CPI ở
giai đoạn 91-99 yếu hơn (khoảng cách trong tốc độ phát triển của 2 chỉ số xích lại
gần nhau hơn ở giai đoạn sau) so với những năm 2000.
Mối liên hệ giữa tăng trưởng tín dụng với tăng trưởng kinh tế và lạm phát
Nguồn: Tổng cục Thống kê
20
Một số nghiên cứu định lượng về vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh

tế và ảnh hưởng của nó đến CPI, cũng đã đưa ra kết luận rằng: cùng với sự phát
triển của thị trường vốn, sự giao lưu kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng thì vai trò
của tín dụng ngân hàng đối với tăng trưởng kinh tế sẽ giảm dần. Mặt khác, theo
kết quả của mô hình SVAR (“Cơ chế truyền tải CSTT qua kênh tín dụng” của Việt
Hà (2006)) đánh giá tác động của cú sốc tín dụng đến sản lượng, lạm phát cho
thấy, tín dụng tăng 1,6% sẽ làm tăng mức sản lượng là 0,24%, lạm phát là 0,35%
với độ trễ là 24 tháng. Như vậy, có thể thấy vai trò của tín dụng đối với tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam vẫn quan trọng, nhưng đang có xu hướng giảm dần và
ảnh hưởng của tín dụng đến lạm phát là lớn hơn đến tăng trưởng. Đây là điều rất
đáng lưu tâm khi nhìn vào tình hình tăng trưởng tín dụng hiện nay. Trong những
năm qua, tốc độ tăng trưởng tín dụng ở Việt Nam khá cao. Năm 2009, khi nền
kinh tế vừa vượt qua cơn sốc lạm phát, lại tiếp tục đối mặt với cơn suy thoái toàn
cầu, mức tăng trưởng tín dụng đã vượt xa kế hoạch 25% đặt ra ban đầu, tăng lên
đến gần 38 %.
Tăng trưởng tín dụng là một trong những tiêu chí quan trọng để giúp vực dậy nền
kinh tế trong ngắn hạn. Tuy nhiên, để tăng trưởng kinh tế bền vững, nhưng không
phải trả cái giá quá đắt của lạm phát thì việc đảm bảo chất lượng tăng trưởng tín
dụng để tín dụng thực sự góp phần cải thiện và tạo điều kiện phát triển nền tảng
kinh tế thực, nâng cao năng lực sản xuất cho nền kinh tế là hết sức quan trọng.
2.3 Tác động của lạm phát
2.3.1 Đối với lĩnh vực sản xuất
Tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng, gây ra
sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm vô hiệu
hóa hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh – sản xuất ở một vài
doanh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh
20
nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất
lớn.
2.3.2 Đối với lĩnh vực lưu thông
Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hóa. Các nhà

doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông. Thậm chí khi lạm
phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải
rủi ro cao. Do đó nhiều người tham gia vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực này
trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại nhanh
chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm
thúc đẩy lạm phát gia tăng.
2.3.3 Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số
người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do
lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay,
cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi
không làm an tâm những người hiện đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về
phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách
nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường
nữa. Chức năng kinh doanh tiền bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn
nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt.
2.3.4 Đối với chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hóa, khi lạm phát
xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá hủy do biến động của giá cả làm cho thị
trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và
kém. Đồng thời lạm phát làm cho Nhà nước thiếu vốn, do đó Nhà nước không còn
20
đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm…các
ngành, các lĩnh vực dự định được Chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại
hoặc không có gì. Một khi ngân sách Nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải
thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được.
2. 4. Ảnh hưởng của lạm phát
Khi lạm phát xảy ra thì hầu hết mọi thành phần của nền kinh tế đều trở thành nạn
nhân của lạm phát, bởi nhìn một cách tổng thể thì mỗi người đều là người tiêu
dùng. Tuy nhiên 3 thành phần chịa thiệt thòi nhất là:

- Người về hưu: Lương hưu là một trong những “hàng hoá” ổn định nhất về
giá cả, thường chỉ được điều chỉnh tăng lên đôi chút sau khi giá cả hàng hoá đã
tăng lên gấp nhiều lần
- Những người gửi tiền tiết kiệm: Hẳn nhiên sự mất giá của đồng tiền khiến
cho những người tích trữ tiền mặt nói chung và những người gửi tiền tiết kiệm
đánh mất của cải nhanh nhất
- Những người cho vay nợ: Khoản nợ trước đây có thể mua được một món
hàng nhất định thì nay chỉ có thể mua được những món hàng có giá trị thấp hơn.
Vậy ai là người được hưởng lợi? Có lẽ khi đồng tiền mất giá dần thì người sung
sướng nhất chính là những con nợ vì nay khoản nợ họ phải trả có vẻ nhẹ gánh
hơn.
- Những người thuộc diện nghèo trong xã hội (thu nhập dưới 1USD/ngày): đây
là những người chịu hậu quả nặng nề nhất của lạm phát khi số tiền ít ỏi của họ giờ
đây không đủ cho 1 bữa ăn gia đình

20
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP LÀM HẠN CHẾ LẠM PHÁT Ở
VIỆT NAM
Trong nỗ lực đẩy lùi lạm phát, chính phủ Việt Nam đã thi hành kế hoạch 7 điều
vào cuối tháng 3 vừa rồi bao gồm:
1) thắt chặt chính sách tiền tệ hơn nữa;
2) cắt giảm chi tiêu của chính phủ cũng như các dự án đầu tư công;
3) đặt sản xuất nông nghiệp làm trọng tâm chính;
4) thúc đẩy xuất khẩu nhằm giảm thâm hụt thương mại;
5) khuyến khích việc giảm thiểu tiêu dùng;
6) điều khiển các hoạt động của thị trường để tránh nạn đầu cơ tích trữ;
7) ban hành các trợ cấp xã hội và lương thưởng để trợ giúp người nghèo.
Thêm vào đó, chính phủ cũng đã quyết định kiểm soát việc xuất khẩu gạo và giữ
giá nhiên liệu ổn định cho đến tháng 6.
Tuy nhiên, chỉ có một số những biện pháp kể trên sẽ là hữu dụng trong việc cách

ly sức ép lạm phát, các biện pháp khác thì không. Trong môi trường lạm phát cao
như hiện nay, một chính sách thu chi ngân sách vừa phải có lẽ sẽ thích hợp với
Việt Nam hơn
Mặt khác, quản lý hành chính giá cả và xuất khẩu có nguy cơ gây thêm bất ổn
trong hệ thống, và tác động cũng không lâu bền. Goldman Sachs tin rằng Việt
Nam nên đặt chính sách tiền tệ lên hàng đầu trong việc quản lý lạm phát, với gốc
rễ của vấn đề lạm phát hiện nay mang tính chất tiền tệ (lượng cung tiền tăng
mạnh).
20
Ngân hàng trung ương đã thi hành một số biện pháp để thắt chặt chính sách tiền tệ
từ tháng 6 năm ngoái, bao gồm tăng tỷ lệ bắt buộc, sử dụng nghiệp vụ repo, phát
hành tín phiếu, tăng lãi suất, nới lỏng biên độ tỷ giá để VNĐ tăng giá so với
USD…
3.1 Điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng
Chính phủ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng theo nguyên
tắc thị trường một cách chặt chẽ, chủ động và linh hoạt, bảo đảm mục tiêu chống
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm huy động các nguồn vốn phục vụ phát
triển kinh tế.
Thời gian gần đây báo chí liên tục đưa tin về việc Ngân hàng Nhà nước
thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, NHTM tăng lãi suất tiền gửi, siết
chặt cho vay với mục tiêu chung là kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế. Tuy
nhiên cái giá phải trả cho việc thực hiện những chính sách này không rẻ chút
nào.
Ngay từ tháng 1-2008, tình hình vốn tiền đồng của các ngân hàng thương
mại đã căng thẳng, ngay từ đầu năm mới, lãi suất liên ngân hàng đã có lúc lên đến
25%. Nhiều ngân hàng đã liên tục điều chỉnh lãi suất theo hướng tăng lên, có nơi
điều chỉnh biểu lãi suất 2-3 lần trong một tháng. Như vậy, quyết định rút tiền ra
khỏi lưu thông bằng tín phiếu sẽ tiếp thêm năng lượng cho cuộc đua tăng lãi suất
của ngân hàng.
Trở ngại cho thu hút vốn gián tiếp,Trong điều kiện thị trường chứng khoán

đầu năm 2008 vẫn chưa mấy khởi sắc, liên tục các quy định thắt chặt tiền tệ sẽ tạo
ra cảm giác cho nhà đầu tư là NHNN đang “hy sinh thị trường chứng khoán” để
chống lạm phát.
Đồng Việt Nam sẽ tiếp tục lên giá Lãi suất tiền đồng (VND) được đẩy lên
cao trong tình hình lãi suất đô la Mỹ (USD) trên thế giới đang giảm sẽ tạo áp lực
giảm giá lên đồng USD so với VND.
20
3.2 Giảm thâm hụt ngân sách nhà nước
Tăng thu gắn liền với thắt chặt, tiết kiệm chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, hạn chế bội chi ngân sách. Thủ tướng yêu
cầu hệ thống chính trị phải gương mẫu thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên;
cắt giảm các khoản chi chưa thật cần thiết; thực hiện các biện pháp tiết kiệm xăng,
dầu; rà soát và giảm các hạng mục, công trình chưa thật bức thiết, đồng thời kêu
gọi nhân dân thực hành tiết kiệm tiêu dùng.
Giảm thâm hụt ngân sách bằng cơ chế quản lý đầu tư công Chính sách giảm
tổng cầu thông qua thắt chặt chi tiêu công là đúng đắn, cần thiết nhưng chưa đủ.
Nỗ lực giảm chi tiêu công của Chính phủ chỉ thực sự có hiệu lực nếu như Chính
phủ đồng thời có cơ chế để đảm bảo những khoản đầu tư còn lại có hiệu quả.
Để thu hẹp thâm hụt ngân sách thì song song với việc giảm chi tiêu, Chính
phủ cũng cần cải thiện các nguồn thu ngân sách, tránh tình trạng ngân sách phụ
thuộc quá nhiều (tới hơn 40%) vào các nguồn thu không bền vững từ dầu mỏ và
thuế nhập khẩu như hiện nay. Cải cách thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân
(hiện chiếm 2% tổng ngân sách của Việt Nam trong khi con số này ở các nền kinh
tế hiện đại đều lớn hơn 20%) và thuế bất động sản.
3.3 Cân đối cung cầu trong nền kinh tế
Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành phải chịu trách nhiệm đảm bảo cân đối
cung cầu các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống và sản xuất như xăng, dầu, gạo,
thuốc, xi măng, sắt, thép, phân bón gắn liền với kiểm soát chặt chẽ giá cả. Khẳng
định không tăng giá bán than cho ngành điện, không tăng giá điện và giá xăng dầu.
Nhà nước tiếp tục bù lỗ cho các mặt hàng này nhằm ổn định giá.

Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, tiếp tục đẩy mạnh sản xuất kinh doanh để
duy trì tăng trưởng. Phấn đấu với tinh thần cao nhất để giải quyết vốn cho các
doanh nghiệp, nhất là vốn lưu động. Thủ tướng cũng chỉ đạo các Bộ ngành tích
cực, chủ động hơn nữa trong việc tháo gỡ khó khăn. Đặc biệt, các Bộ trưởng phải
chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của các tập đoàn, Tổng công ty
thuộc bộ mình quản lí.
20
3.4 Ổn định giá cả thị trường
Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, chính quyền các địa phương, hiệp hội các
ngành hàng tăng cường các biện pháp quản lý thị trường giá cả, tổ chức tốt thương
mại trong nước, kêu gọi các doanh nghiệp có trách nhiệm với đất nước không đầu
cơ trục lợi và tăng giá các mặt hàng. Chính phủ đã xác định nguyên tắc ưu tiên là
từ nay đến cuối năm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo đà cho những
năm tiếp theo, đảm bảo an sinh xã hội. Và trong việc ổn định giá các mặt hàng
thiết yếu, Thủ tướng đã chỉ đạo, với mặt hàng xăng dầu, trong bất cứ thời điểm
nào, địa điểm nào cũng phải đảm bảo nguồn cung tổng thể. Trong trường hợp có
diễn biến bất thường, Chính phủ sẽ nghiên cứu biện pháp hợp lý để giải quyết.
Điều này cho thấy Chính phủ luôn xác định ưu tiên chống lạm phát là mục tiêu
hàng đầu, nhất là đối với xăng dầu – mặt hàng thiết yếu hàng đầu của nền kinh tế.
Với mặt hàng than, Bộ Tài chính đang nghiên cứu xây dựng phương án và
lộ trình chặt chẽ về giá than trong thời gian tới, trong đó, quy định giá bán than
cho từng hộ tiêu thụ lớn.
Điện giữ giá ổn định từ nay đến hết năm thì giá than bán cho điện cũng phải
ổn định. Đó là điều đương nhiên. Còn than bán cho sản xuất xi măng, cho sản xuất
phân bón, và ngành sản xuất giấy cũng đang được Bộ Tài chính tính toán xây
dựng lộ trình, bước đi cho phù hợp với điều kiện hiện nay, trên cơ sở kiềm chế
tăng giá tiêu dùng và chống lạm phát là mục tiêu hàng đầu.
với Hiệp hội xi măng quy định thống nhất cách quản lý giá bán trên thị
trường. Vụ trưởng Vụ quản lý vật liệu xây dựng – Bộ Xây dựng, Còn với mặt
hàng thép, trước đề nghị mới đây của Hiệp hội Thép Việt Nam về điều chỉnh tăng

giá bán thép xây dựng trước việc giá phôi thép trên thị trường thế giới tăng cao,
quan điểm của Chính phủ là chưa ủng hộ việc tăng giá thép.
Hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất phân bón đang tiếp tục thực hiện
nhiều biện pháp để ổn định thị trường phân bón.
20
3.5 Đẩy mạnh xuất khẩu để giảm nhập siêu
Tìm mọi cách đẩy mạnh xuất khẩu để giảm nhập siêu. Thủ tướng nhấn
mạnh, không có xuất khẩu thì không có tăng trưởng nên tập trung đẩy mạnh xuất
khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh như thuỷ sản, dệt may và da giầy Chính
phủ sẽ kiểm soát quyết liệt nhập siêu bằng cả biện pháp thị trường và hành chính
vì lợi ích của nhân dân và đất nước. Bộ Công thương nghiên cứu hạn chế nhập
siêu các mặt hàng không thiết yếu như ô tô nguyên chiếc, phụ tùng xe máy phấn
đấu kiểm soát nhập siêu trong năm 2008 tương đương năm ngoái, tiến tới cân
bằng cán cân thương mại
Trong đó, 11 tỷ USD là con số nhập siêu trong bốn tháng đầu năm, chiếm
60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Do đó, Thủ tướng yêu cầu phải đẩy mạnh xuất
khẩu, tránh mất cân bằng cán cân thanh toán. Ngoài ra, Thủ tướng cũng chỉ đạo
Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tập trung quản lý chặt
việc kiểm soát giá các mặt hàng xăng, dầu, lương thực, thực phẩm. “Bộ Công
thương kiểm soát chặt chẽ tình hình giá cả tại các địa phương, Bộ Công an phối
hợp với các cơ quan xử lý nghiêm các trường hợp đầu cơ, nâng giá trục lợi
3.6. Chính sách tỷ giá hối đoái và biện pháp thu hút USD trong việc giảm lạm
phát
Các công cụ lãi suất và nghiệp vụ thị trường mở đã không thành công và gây
nên nhiều biến động khó lường. Lạm phát cần phải có một phương thuốc mới để
điều trị phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay. Cần nhớ rằng, khi tỷ giá giảm thì
cái lợi đầu tiên là chúng ta sẽ nhập khẩu nguyên, nhiên liệu với giá rẻ hơn, dẫn đến
chi phí sản xuất trong nước giảm làm cho giá cả hàng hóa trong nước giảm. Cái
lợi thứ hai là xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng cũng sẽ làm tăng tổng cung cho nền
kinh tế trong nước. Tác động gộp của các yếu tố này có thể làm giảm lạm phát .

Em cho rằng các biện pháp trên là thích hợp, lợi ích chúng ta nhận được là giảm
lạm phát và chi phí sản xuất, giảm lượng USD quá nhiều mà nền kinh tế chưa thể
hấp thụ hết, ổn định tâm lý của người dân và bảo đảm tính thanh khoản của ngân
20
hàng trong khi chỉ phải trả một khoản thiệt hại cho thâm hụt cán cân thương mại
hay giảm tốc độ tăng trưởng. Như vậy, nền kinh tế vẫn còn lời?
20
KẾT LUẬN
Chúng ta nhận thức rằng quá trình đấu tranh chống lạm phát không đơn
giản ngày một ngày hai.Nó là căn bệnh kinh niên nhưng việc xóa bỏ lạm phát
hoàn toàn thì cái giả phải trả không tương xứng với lợi ích đem lại.Tình hình
diễn biến lạm phát và khắc phục nó tại Việt Nam rất phức tạp. Lạm phát đã
hoành hành công khái khi Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế xã hội, xóa bỏ bao
cấp, quan liêu. Sự cải cách không đồng bộ giữa giá cả và quản lý kinh tế dẫn đến
khủng hoảng trầm trọng. Thành công trong cuộc chống lạm phát 1989 và các
biện pháp kiềm chế lạm phát năm 2008 đưa nước ta vượt lên chính là sự đổi mới
trong nhận thức quản lý kinh tế của Đảng và nhà nước ta. Kinh tế ổn định đã làm
tiền đề cơ sở cho sự thành công của các thành tựu trong lĩnh vực giáo dục, khoa
học, chính trị…những thành tựu to lớn mà chúng ta đạt được trong công cuộc
chống lạm phát cũng không vì thế mà chúng ta chủ quan, nới lỏng.
Lạm phát luôn rình rập và đe dọa chúng ta bất cứ lúc nào. Chính vì vậy
Đảng và nhà nước cần phải luôn thận trọng trong mỗi bước đi của mình để đảm
bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển vững mạnh làm nền tảng để phát triên khoa
học, giáo dục, đuổi kịp sự phát triển của các nước trong khu vực nói riêng và các
nước trên thế giới nói chung. Điều này không chỉ của riêng ai mà một phần không
nhỏ dành cho các nhà doanh nghiệp trẻ góp phần làm rạng danh đất nước trong
nhiều năm tới này. Lạm phát đang là vấn đề nổi cộm trong lý thuyết Tài chính-
Tiền tệ. Em đã cố gắng tới mức cao nhất hoàn thành đề án trong khả năng của
mình. Bài viết này chỉ là những thu nhặt bước đầu mang tính chất cơ sở cho việc
phát triển nhận thức sau này.

Em hy vọng đây là cách tiếp cận có hiệu quả trong quá trình tìm hiểu
nền kinh tế nói chung và lạm phát nói riêng

×