Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Pháp Luật Về Tổng Công Ty Đầu Tư Và Kinh Doanh Vốn Nhà Nước Ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.81 KB, 28 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ NGỌC HÒA




PHÁP LUẬT VỀ TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ
VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC




Hà Nội - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ NGỌC HÒA
PHÁP LUẬT VỀ TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ
VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế


LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Anh Sơn
H à N ộ i - 2011
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục những chữ viết tắt ……………………………………………… 1
Danh mục các bảng, hình vẽ ……………………………………………… 2
MỞ ĐẦU…………… 3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Tình hình nghiên cứu 4
3. Mục đích nghiên cứu 5
4. Phương pháp nghiên cứu 5
5. Kết cấu luận văn 6
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ VÀ
KINH DOANH VỐN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỔNG
CÔNG TY ĐẦU TƯ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƯỚC 7
1.1. Sự cần thiết phải thành lập Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà
nước (SCIC) 7
1.2. Vị trí pháp lý, chức năng của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà
nước 16
1.3. Mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở một số nước trên thế
giới 21
1.3.1. Mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở Trung
Quốc……………………………………………………………………23



1.3.2. Mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở Singapore

(Temasek Holdings)……………………………………………………27
1.3.3. Mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở Malaysia
(Khazanah Nasional)………………………………………………… 30
1.4. Nội dung pháp luật về Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà
nước 32
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ
VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 39
2.1. Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước 39
2.2. Quản trị nội bộ Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước 42
2.3. Các hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước 45
2.3.1. Hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước
trong việc thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước……… 45
2.3.2. Hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước
trong vai trò là nhà đầu tư của Chính phủ…………………………… 48
2.3.3. Hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước
trong vai trò tư vấn cho Chính phủ và các doanh nghiệp………………51
2.4. Một số bất cập của pháp luật về hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và
kinh doanh vốn nhà nước 51
2.4.1. Các quy định của pháp luật về việc thực hiện quyền đại diện chủ
sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp của Tổng công ty Đầu tư và
kinh doanh vốn nhà nước………………………………………………52
2.4.2. Các quy định của pháp luật về vấn đề bán vốn………………….57
2.4.3. Các quy định của pháp luật về vấn đề đầu tư vốn……………….63



2.4.4. Các quy định của pháp luật về cơ chế tài chính …………………64
Chương 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ VÀ KINH
DOANH VỐN NHÀ NƯỚC 67

3.1. Phương hướng chung 67
3.2. Giải pháp pháp lý 69
3.3. Các giải pháp cụ thể 71
3.3.1. Giải pháp về tổ chức và quản trị…………………………………71
3.3.2. Giải pháp về hoạt động………………………………………… 73
KẾT LUẬN 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 86
PHỤ LỤC 1 ……………………………………………………………… 93
PHỤ LỤC 2 ……………………………………………………………… 94
PHỤ LỤC 3 ……………………………………………………………… 94
PHỤ LỤC 4 ……………………………………………………………… 95
PHỤ LỤC 5 ……………………………………………………………… 96









3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới, kinh tế Nhà nước vẫn giữ vị trí quan trọng
trong toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Xác định rõ mục tiêu xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Việt Nam chủ trương phát
triển một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thực hiện vai trò
chủ đạo này, các DNNN không thể vận hành theo cách thức cũ mà cần phải
có sự tham gia của các thành phần kinh tế khác. Do đó, cổ phần hóa các

DNNN là con đường tất yếu. Vấn đề đặt ra là khi DNNN cổ phần hóa cần có
người đại diện vốn của Nhà nước trong các doanh nghiệp. Lựa chọn mô hình
nào sẽ tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, ở từng giai đoạn.
Ngày 20/6/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
151/2005/QĐ-TTg về việc thành lập Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn
nhà nước (SCIC). Kể từ khi đi vào hoạt động (tháng 8/2006) đến nay, SCIC
đã bước đầu thu được những kết quả nhất định; nhưng bên cạnh đó vẫn còn
nhiều vấn đề được đặt ra.
Xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản nêu trên, việc nghiên cứu
làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến SCIC, góp phần nhằm tháo gỡ
những khó khăn vướng mắc trong thực tế hoạt động của SCIC là một hướng
đi đúng đắn, thiết thực.
2. Tình hình nghiên cứu
Mới chỉ có những bài viết/chuyên đề nghiên cứu về SCIC dưới góc
độ tài chính, kinh tế. Về phương diện pháp lý, việc nghiên cứu mô hình quản
lý DNNN ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế.



4
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn được thực hiện với mục đích: làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận về SCIC; trên cơ sở hiệu quả hoạt động của SCIC, luận văn đưa ra
những nhận xét và nguyên nhân của thực trạng. Ngoài ra, luận văn còn đưa
ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt
động của SCIC.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp luận của Triết học Mác -
Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trên cơ sở đường lối và chủ
trương của Đảng về đổi mới nền kinh tế đất nước, về xây dựng nền kinh tế

hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN. Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng phối hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu có tính truyền thống trong khoa học pháp lý như: phân tích, tổng
hợp; logic; … để giải quyết những vấn đề cơ bản của luận văn.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn được chia thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về Tổng
công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước và pháp luật về Tổng công ty
Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước; Chương 2: Thực trạng pháp luật về
Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước ở Việt Nam; Chương 3:
Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tổng công ty
Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.



5
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ
VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC VÀ PHÁP LUẬT VỀ
TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC

Chương này gồm bốn nội dung cơ bản: (1) Sự cần thiết phải thành
lập SCIC; (2) Vị trí pháp lý, chức năng của SCIC; (3) Mô hình quản lý vốn
nhà nước tại doanh nghiệp ở một số nước trên thế giới; (4) Nội dung pháp
luật về SCIC.
1.1. Sự cần thiết phải thành lập Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn
nhà nƣớc (SCIC)
Mục tiêu: Tìm hiểu sự cần thiết phải thành lập SCIC ở Việt Nam; từ
đó, tạo tiền đề cho việc tìm hiểu về vị trí pháp lý và chức năng của SCIC
trong các phần tiếp theo.

Việc thành lập SCIC ở Việt Nam là cần thiết, xuất phát từ tình hình
thực tế của nền kinh tế. Cụ thể:
- Sau hơn 20 năm đổi mới, kinh tế quốc doanh vẫn chiếm một tỷ
trọng lớn trong nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù số lượng DNNN tuy giảm
nhưng quy mô, số vốn bình quân của một DNNN ngày càng tăng lên, thu hút
một lực lượng lao động lớn và đóng góp nhiều nhất vào ngân sách Nhà nước.
- Trong bối cảnh chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN thì các doanh nghiệp quốc doanh dần bộc lộ những yếu kém. Bên
cạnh những DNNN mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách, vẫn còn một bộ



6
phận doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Sự kém hiệu quả đó là do nhiều
nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân cơ bản sau:
+ Quyền tài sản của DNNN không thực sự rõ ràng;
+ Sự không rõ ràng giữa chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức
năng điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; giữa quyền đại diện
chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp với quyền chủ động của doanh
nghiệp trong quản lý, sử dụng vốn nhà nước;
+ Vốn đầu tư của Nhà nước vào các doanh nghiệp còn dàn trải, manh
mún nên phần lớn các DNNN có quy mô nhỏ, cơ cấu bất hợp lý, chưa tập
trung đầu tư vào những ngành, lĩnh vực then chốt.
+ Quá trình sắp xếp, chuyển đổi, cổ phần hoá DNNN còn chậm; dẫn tới
số lượng doanh nghiệp có tỷ trọng vốn nhà nước lớn và doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước còn nhiều, chưa tập trung được các nguồn lực để xây dựng nên
các DNNN có tầm cỡ khu vực.
+ DNNN sử dụng tài sản của Nhà nước để kinh doanh. Khi kinh doanh
không đem lại hiệu quả, thậm chí thua lỗ thì đã có Nhà nước “chịu”. Điều
này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả kinh doanh của DNNN.

- Hiện nay, DNNN đang tồn tại ở hầu hết các nước trên thế giới. Sự
cần thiết tồn tại DNNN ở các nước có chế độ chính trị và trình độ phát triển
khác nhau là do yêu cầu của việc quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế; mở
đường, tạo động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển; khắc
phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường và góp phần chống độc quyền
Như vậy, mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự mang lại kết
quả như mong đợi, nhưng sự tồn tại của DNNN trong nền kinh tế là cần thiết.



7
Chính vì vậy, trong vòng hai thập kỷ trở lại đây, cải cách DNNN luôn được
coi là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc cải cách DNNN, ngày
20/6/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 151/2005/QĐ-
TTg về việc “Thành lập Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước để
thực hiện việc quản lý, đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước tại các doanh
nghiệp, các lĩnh vực theo quy định của pháp luật” (Điều 1); và Quyết định số
152/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng
công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước. Tháng 8/2006, SCIC chính thức
đi vào hoạt động với vốn điều lệ ban đầu là 5.000 tỷ đồng. Hiện nay, theo
Quyết định số 992/QĐ-TTg (30/6/2010) của Thủ tướng Chính phủ về việc
chuyển SCIC thành công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở
hữu, vốn điều lệ của SCIC tại thời điểm chuyển đổi là 19.000 tỷ đồng.
1.2. Vị trí pháp lý, chức năng của Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh
vốn nhà nƣớc
Mục tiêu: Tìm hiểu vị trí và chức năng của SCIC.
SCIC được thành lập nhằm thực hiện những chức năng, nhiệm vụ cơ
bản sau: (1) Tiếp nhận và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước
với vai trò là cổ đông Nhà nước tại doanh nghiệp; (2) Chiếm hữu, sử dụng

vốn nhà nước để đầu tư, và đảm bảo một cách tốt nhất các lợi ích hợp pháp
của Nhà nước qua việc quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp; (3)
Thực hiện đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước vào các ngành, lĩnh vực kinh
tế có tiềm năng và theo nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ giao; (4) Cung
cấp các dịch vụ tư vấn tài chính; tư vấn đầu tư; tư vấn cổ phần hóa và các
dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp khác theo quy định của pháp luật.



8
1.3. Mô hình quản lý vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp ở một số nƣớc trên
thế giới
Mục tiêu: Tìm hiểu mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
ở một số quốc gia trên thế giới. Từ đó, rút ra bài học kinh nghiệm cho việc
quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích nói trên, trong phần này, người viết đi vào tìm
hiểu cách thức quản lý và sử dụng một cách có hiệu quả phần vốn nhà nước
tại một số quốc gia. Theo đó, các quốc gia có thể giao cho một tổ chức là cơ
quan hành chính Nhà nước trực tiếp là đại diện chủ sở hữu DNNN (mô hình
1); hoặc giao cho một tổ chức (không là cơ quan hành chính Nhà nước) hay
một công ty thực hiện chức năng đại diện vốn chủ sở hữu Nhà nước (mô hình
2). Từ đó, tạo tiền đề đi vào tìm hiểu mô hình quản lý vốn nhà nước tại
doanh nghiệp ở Trung Quốc, Singapore, Malaysia.
Theo đó, ở Trung Quốc tồn tại song song cả hai mô hình quản lý vốn
nhà nước tại doanh nghiệp. Đó là mô hình cơ quan hành chính Nhà nước
quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (Ủy ban Quản lý và Giám sát tài sản
Nhà nước - SASAC), và mô hình doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh vốn
nhà nước (Tập đoàn Đầu tư và phát triển Nhà nước - SDIC). Tại Singapore
và Malaysia, chỉ tồn tại một mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
là Temasek Holdings (Singapore) và Khazanah Nasional (Malaysia).

Như vậy, trên thế giới đã có khá nhiều kinh nghiệm về việc thành lập
và phát triển mô hình tương tự như mô hình hoạt động của SCIC. Tuy nhiên,
mỗi quốc gia có một đặc thù riêng, ảnh hưởng tới sự thành công hay thất bại
của mô hình đó. Việt Nam, với tư cách là người đi sau, có thể nghiên cứu, rút
kinh nghiệm từ các bài học thành công và thất bại để áp dụng vào thực tiễn.



9
1.4. Nội dung pháp luật về Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà
nƣớc
Mục tiêu: Tìm hiểu nội dung pháp luật quy định về SCIC.
- Giống như các doanh nghiệp khác, SCIC chịu sự điều chỉnh của
nhiều ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao trùm rộng khắp các
lĩnh vực: dân sự, kinh tế, thương mại, lao động, đất đai, bảo hiểm, đầu tư,
xây dựng, đấu thầu, chứng khoán…
- Mặt khác, SCIC là một tổ chức đặc biệt trong nền kinh tế và mới
chính thức đi vào hoạt động từ tháng 8/2006 và Việt Nam chưa có kinh
nghiệm trong việc quản lý một mô hình tài chính đặc biệt như SCIC. Do đó,
bên cạnh việc được điều chỉnh bởi các luật chung, SCIC còn chịu sự điều
chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật chuyên biệt (các nghị định,
thông tư, quyết định…) (được ban hành bởi Quốc hội, Chính phủ, các bộ,
ban, ngành…). Nội dung những văn bản này chủ yếu liên quan đến ba vấn đề
chính: vấn đề về tổ chức, về quản trị và về hoạt động của SCIC.
Từ những phân tích trên đây, Luận văn khẳng định trong điều kiện
hiện nay, đổi mới, nâng cao và phát triển DNNN vẫn là một trong những
chương trình và mục tiêu lớn của Đảng và Nhà nước ta. Bởi lẽ đó, sự ra đời
của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước là tất yếu, góp phần
quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam.
SCIC được kỳ vọng sẽ góp phần tích cực vào việc bãi bỏ cơ chế Bộ chủ quản

như trước đây, chuyển đổi cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh
nghiệp từ phương thức hành chính sang đầu tư và kinh doanh vốn để nâng
cao hiệu quả sử dụng và phát triển đồng vốn nhà nước.



10
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ
VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM

Chương này bao gồm bốn nội dung chính: (1) Cơ cấu tổ chức; (2)
Quản trị nội bộ; (3) Hoạt động; (4) Một số bất cập của pháp luật về SCIC.
2.1. Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà
nƣớc
Mục tiêu: Phần này đi vào tìm hiểu về cơ cấu tổ chức nội bộ của
SCIC, từ đó làm cơ sở, tiền đề cho việc nghiên cứu việc quản trị và hoạt
động của SCIC trong các phần tiếp theo.
SCIC là Tổng công ty Nhà nước đặc biệt được thành lập theo Quyết
định của Thủ tướng. Theo đó, trước thời điểm chuyển đổi từ mô hình công ty
nhà nước sang mô hình công ty TNHH một thành viên là Nhà nước
(01/7/2010), ngoài Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc và Ban Kiểm soát, trong
cơ cấu tổ chức hoạt động của SCIC còn có 15 đơn vị giúp việc cho Ban Giám
đốc, bao gồm các Ban: Đầu tư 1, Đầu tư 2, Đầu tư 3, Đầu tư 4, Đầu tư 5, Tài
chính - Kế toán, Tổ chức - Cán bộ, Chiến lược, Pháp chế, Công nghệ thông
tin, Hành chính quản trị, Quản lý Rủi ro, Văn phòng Điều hành, Văn phòng
Đảng - Đoàn, Chi nhánh phía Nam. Các đơn vị nói trên có chức năng tham
mưu và tổ chức thực hiện các quyết định của Lãnh đạo SCIC theo lĩnh vực
được phân công. Tuy nhiên, từ khi chuyển đổi đến nay, cơ cấu bộ máy tổ
chức của SCIC vẫn chưa có sự thay đổi. Theo lộ trình, trong thời gian sắp

tới, cơ cấu tổ chức quản lý của SCIC sẽ bao gồm: Hội đồng thành viên, Kiểm



11
soát viên, Tổng giám đốc, các Phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng và các bộ
phận chức năng giúp việc tại SCIC. Ngoài ra, còn có các công ty con, công
ty trực thuộc; chi nhánh, văn phòng đại diện trong và ngoài nước.
2.2. Quản trị nội bộ Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc
Mục tiêu: Tìm hiểu vấn đề về quản trị nội bộ của SCIC.
Theo các quy định hiện hành, Thủ tướng có quyền quyết định mọi
mặt hoạt động của SCIC: từ mục tiêu, chiến lược và định hướng phát triển
cho đến một số dự án đầu tư cụ thể. Theo ủy quyền của Chính phủ, Thủ
tướng và các Bộ thực hiện các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu Nhà nước đối
với SCIC. Kể từ thời điểm chuyển đổi, việc quản trị trong nội bộ SCIC chịu
sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 2005. Tuy nhiên, trước đó, Hội đồng
quản trị SCIC là cơ quan đại diện trực tiếp chủ sở hữu Nhà nước tại SCIC, có
quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến việc xác định và thực hiện mục
tiêu, nhiệm vụ và quyền lợi của SCIC - trừ các vấn đề thuộc thẩm quyền
quyết định của Thủ tướng và cơ quan được phân cấp quản lý. Ban Kiểm soát
là cơ quan giúp việc cho Hội đồng quản trị thực hiện kiểm tra, giám sát mọi
hoạt động của SCIC; còn việc điều hành các hoạt động của SCIC nhằm thực
hiện các nghị quyết và quyết định của Hội đồng quản trị sẽ do Tổng giám
đốc chịu trách nhiệm với sự giúp việc của các đơn vị trực thuộc.
2.3. Các hoạt động của Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc
Mục tiêu: Trả lời cho câu hỏi, liệu việc thành lập SCIC có thực sự là
bước đi đúng đắn hay không; và từ khi thành lập đến nay, SCIC đã hoạt động
như thế nào? Từ đó tạo cơ sở cho việc tìm hiểu, phân tích một số bất cập của
pháp luật về hoạt động của SCIC trong phần 2.4.




12
Để làm rõ các hoạt động của SCIC, luận văn tập trung đi vào tìm
hiểu hoạt động của SCIC trong việc thực hiện ba nhiệm vụ cơ bản: (1) thực
hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước; (2) thực hiện vai trò là nhà
đầu tư của Chính phủ; (3) thực hiện vai trò là nhà tư vấn cho Chính phủ và
doanh nghiệp.
2.3.1. Hoạt động của Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc
trong việc thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc
Với vai trò là đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp,
SCIC tiến hành các công việc chủ yếu sau:
- Quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp thông qua việc nhận
bàn giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn.
- Tổ chức huy động vốn trong nước và quốc tế.
- Thực hiện vai trò là cổ đông Nhà nước thông qua người đại diện.
- Bán vốn tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ để
tập trung vốn cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và các dự án đầu
tư trọng điểm.
2.3.2. Hoạt động của Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc
trong vai trò là nhà đầu tƣ của Chính phủ
Với sứ mệnh là nhà đầu tư chiến lược của Chính phủ, SCIC bước
đầu tiến hành đầu tư vào các ngành, lĩnh vực quan trọng theo chỉ đạo của
Chính phủ. Theo đó, SCIC sẽ tiến hành đầu tư dưới các hình thức: hoặc (i)
Đầu tư trực tiếp vào các dự án, liên kết đầu tư với các tập đoàn, tổng công ty
Nhà nước để đầu tư các dự án trọng điểm theo chiến lược phát triển kinh tế
đã được Chính phủ phê duyệt; hoặc (ii) Đầu tư gián tiếp với tư cách là nhà




13
đầu tư tài chính, thành lập các quỹ đầu tư chung, trên cơ sở đó huy động vốn
đầu tư của khu vực tư nhân trong và ngoài nước tham gia đầu tư. Nhìn
chung, với phương thức quản lý vốn theo cơ chế SCIC là đại diện chủ sở
hữu, tình hình kinh doanh, hiệu quả hoạt động và tài chính của các doanh
nghiệp dần được cải thiện.
2.3.3. Hoạt động của Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc
trong vai trò tƣ vấn cho Chính phủ và các doanh nghiệp
Trong vai trò là nhà tư vấn cho Chính phủ và cho doanh nghiệp,
SCIC cung cấp các dịch vụ tài chính: tư vấn đầu tư, tư vấn tài chính, tư vấn
cổ phần hoá, tư vấn chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp; nhận uỷ thác các
nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
2.4. Một số bất cập của pháp luật về hoạt động của Tổng công ty Đầu tƣ
và kinh doanh vốn nhà nƣớc
Mục tiêu: Chỉ ra một số bất cập của pháp luật về hoạt động của
SCIC trong thời gian qua; làm cơ sở cho những kiến nghị giải pháp tại
Chương 3.
Phù hợp với mục tiêu nói trên, mục này có ba nội dung chính, bao
gồm: (1) Các quy định của pháp luật về việc thực hiện quyền đại diện chủ sở
hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp của SCIC; (2) Các quy định của
pháp luật về vấn đề bán vốn; (3) Các quy định của pháp luật về vấn đề đầu tư
vốn; (4) Các quy định của pháp luật về cơ chế tài chính.
Đối với việc thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước
tại doanh nghiệp của SCIC, các quy định của pháp luật hiện nay còn nhiều
bất cập. Cụ thể: Các quy định về cổ phần hóa còn nhiều phức tạp dẫn tới việc



14
chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp

cho SCIC còn chậm; Các quy định về phạm vi, đối tượng tiếp nhận còn hạn
chế và nhiều bất cập; Quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu còn
chồng chéo, được thực hiện ở nhiều cấp, ảnh hưởng tới các cơ hội kinh
doanh của doanh nghiệp; Chưa có văn bản xác định vị trí của người đại diện
phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp sau cổ phần hóa; Các văn bản đề cập
đến các chế độ chính sách cũng như chế tài đối với các đối tượng này cũng
chưa hoàn thiện. Ngoài ra, tình hình sửa đổi, bổ sung một số luật; việc ban
hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật còn chậm cũng làm ảnh hưởng đến
việc thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu của SCIC.
Trong việc bán vốn, các quy định về hạn chế chuyển nhượng đối với
cổ đông sáng lập; quy định về hình thức, phương pháp bán vốn; quy định về
việc xác định giá khởi điểm; quy định về đối tượng doanh nghiệp Nhà nước
cần nắm giữ cổ phần chi phối gây khó khăn cho SCIC trong việc triển khai
công tác bán và huy động vốn để đầu tư vào các dự án có kết quả khả thi hơn
Về đầu tư vốn, quy định về nguồn vốn của SCIC dẫn tới tình trạng
vốn hoạt động bằng tiền có thể sử dụng cho việc đầu tư không nhiều, trong
khi các dự án chủ yếu mà SCIC đầu tư yêu cầu rất nhiều vốn. Mặt khác, quy
định về phạm vi, thẩm quyền đầu tư của SCIC còn hạn chế và chủ yếu theo
các nhiệm vụ Nhà nước giao nên chưa phát huy được vai trò là đầu tư chiến
lược của Chính phủ.
Về cơ chế tài chính, vẫn còn thiếu những quy định cụ thể và chuyên
biệt hơn nữa trong việc quản lý tài chính đối với một Tổng công ty mang tính
chất đặc thù (chuyên về đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước, không phải hoạt
động kinh doanh thông thường) như SCIC.



15
CHƢƠNG 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC

Phần này bao gồm ba nội dung chính: (1) Phương hướng chung; (2)
Giải pháp pháp lý; (3) Các giải pháp cụ thể.
3.1. Phƣơng hƣớng chung
Khẳng định nhiệm vụ có ý nghĩa mang tính chiến lược là tiếp tục đẩy
mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN. Do
đó, cần tiếp tục củng cố mô hình SCIC theo hướng tối đa hóa lợi nhuận và
thực hiện chức năng đầu tư vốn theo chỉ định ngoài phạm vi các tập đoàn,
tổng công ty (đã xác định) và các địa phương có công ty đầu tư tài chính.
3.2. Giải pháp pháp lý
Mục tiêu: Đưa ra những giải pháp mang tính pháp lý chung nhất về
tổ chức và hoạt động của SCIC, trên cơ sở đó làm tiền đề cho những giải
pháp cụ thể tại phần 3.3.
Mô hình và hoạt động của SCIC có nhiều đặc thù riêng, duy nhất ở
Việt Nam. Do đó, các văn bản pháp lý hiện hành đang được áp dụng chung
cho mọi loại hình doanh nghiệp là chưa phù hợp, dẫn tới những vướng mắc
trong hoạt động của SCIC. Chính vì thế, việc xây dựng, hoàn thiện khuôn
khổ pháp lý mang tính chất đồng bộ cho hoạt động của SCIC là việc làm cấp
thiết. Trước mắt cần tiến hành các công việc sau:
- Đẩy nhanh việc ban hành Nghị định về tổ chức và hoạt động của
SCIC; Nghị định về quản lý, đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước; và tiến tới
là Luật sử dụng vốn và tài sản Nhà nước đầu tư vào kinh doanh.



16
- Tiến hành rà soát chương trình, kế hoạch cổ phần hóa DNNN trong
cả nước đến năm 2010; xây dựng chương trình, kế hoạch cổ phần hóa giai
đoạn 2015; đồng thời xác định lộ trình bàn giao quyền đại diện chủ sở hữu

vốn nhà nước tại các doanh nghiệp về SCIC theo hướng Nhà nước nắm giữ
100% vốn điều lệ đối với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực như:
sản xuất, cung ứng vật liệu nổ, hóa chất độc [24] là việc làm cần thiết.
- Kiên quyết chấm dứt tình trạng cơ quan hành chính Nhà nước can
thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; kiên
quyết đối với những hành vi cản trở, gây chậm trễ trong thực hiện cổ phần
hóa, trong chuyển giao doanh nghiệp thuộc diện bàn giao về cho SCIC; tăng
cường cơ chế giám sát, kiểm tra đối với hoạt động của SCIC cũng như cơ chế
giám sát, kiểm tra đối với các doanh nghiệp có vốn nhà nước qua việc trực
tiếp hoặc gián tiếp thực hiện quyền của cổ đông trong các kỳ họp Đại hội
đồng cổ đông. Tăng cường hơn nữa vai trò của Ủy ban giám sát tài chính
quốc gia và bổ sung SCIC vào đối tượng giám sát của Ủy ban này.
3.3. Các giải pháp cụ thể
3.3.1. Giải pháp về tổ chức và quản trị
Việc đổi mới cơ chế hoạt động của SCIC cần gắn liền với việc đổi
mới phương thức quản trị doanh nghiệp sao cho phù hợp với hoạt động được
đề ra trong từng giai đoạn. Để làm tốt được điều này, cần tiến hành đồng thời
nhiều việc:
- Thứ nhất: Trước mắt, cần đẩy nhanh việc ổn định cơ cấu tổ chức
của SCIC, đặc biệt giai đoạn sau khi chuyển đổi sang mô hình công ty
TNHH một thành viên.



17
- Thứ hai: Củng cố, nâng cao năng lực của SCIC; hoàn thiện bộ
máy tổ chức và cơ chế hoạt động gắn với đổi mới phương thức quản trị
doanh nghiệp, phù hợp với nội dung hoạt động trong từng giai đoạn.
- Thứ ba: Nhanh chóng tăng cường số lượng thành viên, số lượng
thành viên chuyên trách Hội đồng thành viên của SCIC.

- Thứ tư: Thành lập các Ủy ban chuyên môn giúp việc cho Hội
đồng thành viên như: Ủy ban Đầu tư; Ủy ban rủi ro… với sự tham gia của
các chuyên gia cao cấp về quản trị, tài chính, kinh tế, pháp lý… từ các công
ty thành viên hoặc từ các tập đoàn, tổng công ty lớn trong, ngoài nước.
- Thứ năm: Chú trọng đến công tác phát triển nguồn nhân lực có
chuyên môn cao, đáp ứng được nhu cầu công việc của SCIC thông qua tuyển
dụng, đào tạo, chế độ lương/thưởng, chế độ đãi ngộ mang tính cạnh tranh,
theo hướng khuyến khích thỏa đáng về mặt vật chất và tinh thần, căn cứ vào
mức độ đóng góp và kết quả hoạt động của doanh nghiệp…
- Thứ sáu: Tăng cường hơn nữa vai trò của các Kiểm soát viên.
- Thứ bảy: Tiếp tục thực hiện thí điểm hình thức SCIC trực tiếp
thực hiện vai trò cổ đông tại doanh nghiệp không cần thông qua người đại
diện. Hoàn thiện các quy định pháp lý về công bố thông tin, giám sát, đánh
giá doanh nghiệp nhằm bảo đảo tốt nhất quyền lợi của cổ đông Nhà nước.
3.3.2. Giải pháp về hoạt động
3.3.2.1. Giải pháp trong việc thực hiện quyền đại diện chủ sở
hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp của Tổng công ty Đầu tư và kinh
doanh vốn nhà nước



18
- Tiếp tục thực hiện chương trình sắp xếp, cổ phần hóa các DNNN và
thực hiện nghiêm túc việc chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn
nhà nước tại các doanh nghiệp sau chuyển đổi, cổ phần hóa từ các bộ, ngành,
địa phương về SCIC.
- Nghiên cứu việc tiếp nhận vốn tại (i) các công ty liên doanh có vốn
góp Nhà nước do các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương làm đại diện chủ sở hữu; (ii) các tập đoàn kinh tế, Tổng
công ty, doanh nghiệp tổ chức hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty

con sau khi cổ phần hóa theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
- Ngoài Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, tránh mở rộng thêm mô
hình công ty đầu tư tài chính địa phương tại các tỉnh, thành phố khác.
- Nghiên cứu số lượng doanh nghiệp chuyển về cho SCIC quản lý
phải đảm bảo sao cho phù hợp với khả năng cũng như điều kiện hoạt động,
quản lý của SCIC trong từng thời kỳ, từng giai đoạn. Ngoài ra, cần xác định
rõ vai trò quản lý của các cơ quan Nhà nước trong xây dựng chiến lược phát
triển và quy hoạch ngành, vùng, tạo các điều kiện hỗ trợ nhưng không can
thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp.
- Nhanh chóng ban hành khung pháp lý chi tiết quy định về cơ chế
đối với người đại diện, cũng như mối quan hệ phối hợp giữa người đại diện
với cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước (không chỉ với SCIC). Cùng
với đó, SCIC cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương trong việc
đánh giá, lựa chọn người đại diện tại các doanh nghiệp thuộc diện cổ phần
hóa bàn giao về SCIC; đồng thời tăng cường mối quan hệ phối hợp 3 bên: địa
phương, người đại diện và SCIC trong quản lý doanh nghiệp.



19
- Về phương thức cử người đại diện: Đối với doanh nghiệp có quy
mô lớn, SCIC cử người trực tiếp hoặc phối hợp với người đại diện. Đối với
các doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa, cần nghiên cứu theo hướng giảm dần
số lượng người đại diện. Ngoài ra, có thể tại một số doanh nghiệp, SCIC
không cử người đại diện mà thí điểm trực tiếp thực hiện quyền cổ đông qua
phương thức: doanh nghiệp cung cấp thông tin, báo cáo dành cho cổ đông.
3.3.2.2. Giải pháp về bán vốn
- Đa dạng hóa hình thức bán vốn. Ngoài ra, có thể cho phép SCIC
căn cứ vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp (niêm yết hay chưa niêm yết)
để lựa chọn, quyết định phương án bán vốn (có thể theo phương thức thỏa

thuận, khớp lệnh hay chào bán cạnh tranh để lựa chọn cổ đông chiến lược).
Trường hợp cần thiết, SCIC có thể sử dụng dịch vụ tư vấn của kiểm toán, các
tổ chức định giá chuyên nghiệp, thậm chí có thể thuê chuyên gia, các doanh
nghiệp định giá của nước ngoài giàu kinh nghiệm để thúc đẩy việc bán vốn.
- Kiên quyết ngăn chặn tình trạng liên kết, thông đồng trong đấu giá
cổ phần; kiểm tra chặt chẽ việc xác nhận người lao động trong doanh nghiệp
- tránh trường hợp bán cổ phần cho người không phải người lao động trong
doanh nghiệp. Về mặt vĩ mô, Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi hợp
lý đối với các doanh nghiệp có quy mô vốn lớn, hoạt động có hiệu quả thực
hiện niêm yết đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán. Phát triển hơn
nữa hệ thống các tổ chức tài chính trung gian, tạo điều kiện thuận lợi cho các
nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia đầu tư cổ phiếu, trái phiếu. Về mặt
vi mô, tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung Điều lệ tổ chức và hoạt động của
các doanh nghiệp do SCIC nắm giữ, loại bỏ các quy định trái pháp luật (đặc
biệt là những quy định hạn chế quyền chuyển nhượng cổ phần của SCIC).



20
- Triển khai tái cơ cấu doanh nghiệp qua việc tìm kiếm các nhà đầu
tư chiến lược cho doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp trong đấu giá hay niêm
yết trên thị trường chứng khoán. Qua đó tạo cơ hội cho doanh nghiệp tiếp tục
nâng cao giá trị thương hiệu và có điều kiện phát triển bền vững, đóng góp
cho sự phát triển lành mạnh của thị trường vốn.
3.3.2.3. Giải pháp về đầu tư vốn
- Cơ cấu lại danh mục đầu tư, thoái đầu tư ở những DNNN không
cần thiết đầu tư; tập trung vào các lĩnh vực mang tính then chốt, có tác động
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nhằm nâng cao giá trị vốn nhà nước.
- Cần có những quy định cụ thể về việc tách bạch việc đầu tư bằng
nguồn vốn kinh doanh của SCIC và việc đầu tư bằng nguồn Quỹ Hỗ trợ sắp

xếp doanh nghiệp Trung ương.
- Tăng cường hợp tác với các tập đoàn, các tổng công ty, các nhà đầu
tư trong và ngoài nước. Tiếp tục đầu tư vào các dự án năng lượng, các ngành
công nghiệp then chốt, khai khoáng, công nghệ thành lập các quỹ đầu tư để
nâng cao tính chuyên nghiệp trong quản lý đầu tư vốn.
- Nghiên cứu đa dạng hóa các hình thức đầu tư hơn nữa như: góp
vốn tham gia dự án, mua cổ phần của doanh nghiệp trước, trong và sau khi
phát hành cổ phiếu ra công chúng nhằm hình thành những doanh nghiệp đủ
lớn mạnh để có thể cạnh tranh thị trường trong nước và từng bước vươn ra
khu vực và thế giới.
3.3.2.4. Giải pháp để đổi mới cơ chế tài chính
- SCIC cần công khai hơn nữa các báo cáo tài chính định kỳ. Sự
minh bạch sẽ làm tăng hiệu quả đầu tư và tính cạnh tranh của chính SCIC.



21
- Cơ chế tài chính của SCIC cần được xây dựng theo hướng tăng
cường sự kiểm tra giám sát của Nhà nước thông qua việc quy định rõ cơ chế
báo cáo, giám sát cũng như thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp được Chính
phủ giao đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp; tăng nguồn vốn
cho hoạt động đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước của SCIC từ các nguồn
thu được từ cổ tức và bán vốn nhà nước tại các doanh nghiệp. Việc khoán chi
phí, khoán lương cần được xem xét thực hiện đi đôi với cơ chế thưởng thành
tích trên cơ sở hiệu quả kinh doanh.
- Hoàn thiện và bổ sung cơ chế tài chính của SCIC theo hướng nâng
cao quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm của SCIC trong hoạt động đầu tư,
kinh doanh vốn nhà nước.
3.3.2.5. Giải pháp đối với các doanh nghiệp thành viên
- Trước mắt, thúc đẩy việc hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng các phương

thức quản lý tiên tiến theo các nguyên tắc và thông lệ quản trị quốc tế trên cơ
sở minh bạch hóa, tăng cường giám sát đi đôi với cơ chế lương, thưởng có
tính cạnh tranh và gắn liền hiệu quả hoạt động.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên nâng cao năng lực và hiệu quả
hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, kiểm toán nội bộ.
- Phối hợp với các Bộ, các doanh nghiệp để xây dựng các chiến lược
kinh doanh theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động và tập trung vào các
lĩnh vực kinh doanh cốt lõi, phù hợp với chiến lược kinh tế của Nhà nước;
khuyến khích tách mục tiêu kinh doanh và mục tiêu xã hội; khuyến khích các
doanh nghiệp thành viên trong việc tìm kiếm và hợp tác cùng các tập đoàn,
các tổng công ty lớn, dần từng bước khai thác thị trường nước ngoài.



22
KẾT LUẬN
Trong mọi xã hội có Nhà nước - đặc biệt là trong xã hội hiện đại như
ngày nay, Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong tổ chức và quản lý xã hội.
Mặc dù có sự khác nhau về thể chế chính trị, kinh tế, điều kiện địa lý, nhưng
hầu như mọi Nhà nước đều ít nhiều có sự can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp
đến sự phát triển kinh tế đất nước thông qua các DNNN. Tuy nhiên, ở mọi
nền kinh tế, DNNN mang những nhược điểm cố hữu là hiệu quả kinh tế và
khả năng cạnh tranh yếu hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Chính
vì vậy, để DNNN thực hiện được vai trò là điều tiết vĩ mô nền kinh tế thì bài
toán cải cách DNNN cần phải có lời giải đáp.
Sau hơn 20 năm đổi mới, kể từ năm 1986, công cuộc đổi mới nền
kinh tế nói chung và đổi mới DNNN nói riêng ở Việt Nam đã thu được
những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, kết quả thu được từ công cuộc cải
cách DNNN chưa đáp ứng được các yêu cầu đặt ra. Chính vì vậy, Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X nêu rõ cần: „tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi

mới, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN”.
Cải cách DNNN được đặt trong bối cảnh cải cách nền kinh tế nói
chung. Một trong những giải pháp quan trọng để tiếp tục cải cách nền kinh
tế, thúc đẩy sự phát triển của tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt nâng cao
hiệu quả hoạt động của DNNN là tách biệt chức năng quản lý hành chính
Nhà nước với chức năng quản lý doanh nghiệp, minh bạch hóa cơ chế ưu đãi
vốn của Nhà nước và xây dựng cơ chế đầu tư hiệu quả và bình đẳng. Chính
vì vậy, việc thành lập và hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh
vốn nhà nước được xem là một việc làm đúng đắn.

×