Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

đề án chuyên ngành: công cụ lãi suất của chính sách tiền tệ vn potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.08 KB, 32 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
  
Ngày nay, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu trong tiến
trình toàn cầu hóa nền kinh tế. Có thể thấy việc gia nhập tổ chức thương mại
thế giới (WTO) chính là cơ hội để Việt Nam tiến sâu vào hội nhập và phát
triển bình đẳng với các quốc gia trên thế giới. Song nhìn về đặc điểm, trình
độ, các mối quan hệ kinh tế hiện hữu và năng lực điều hành kinh tế vi mô, vĩ
mô, thì chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức không phải là nhỏ.
Gắn với công cụộc đổi mới và mở cửa ở nước ta, có nhiều yêu cầu phải giải
quyết cùng một lúc: vừa ổn định, vừa phát triển kinh tế trong nước, vừa mở
rộng giao lưu quan hệ quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài… Vì vậy cần
phải có những bước đi thận trọng với những chính sách linh hoạt để tránh
những “cơn sốc” hay “khủng hoảng” đối với kinh tế Việt Nam trên con đường
hội nhập.
Chính sách tiền tệ (CSTT) là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực
kỳ quan trọng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng
lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm
phát… Để đạt được các mục tiêu của CSTT thì việc sử dụng các công cụ của
nó có vai trò cơ bản, quyết định. Từ khi đổi mới đến nay, các công cụ của
CSTT dang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với
nền kinh tế. Việc lựa chọn các công cụ sao cho phù hợp và việc sử dụng
chúng sao cho hiệu quả nhất trong từng giai đoạn kinh tế luôn là một vấn đề
mà Nhà nước quan tâm theo dõi và đưa ra các quyết định cụ thể. Đặc biệt
trong bối cảnh hiện nay, thì việc nghiên cứu các công cụ của CSTT là vấn đề
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Trong các công cụ của chính sách tiền tệ
thì công cụ lãi suất là một công cụ quan trọng. Chính vì vậy, em đã chọn đề
tài: “Công cụ lãi suất của CSTT ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
hoàn thiện” để tìm hiểu và nghiên cứu.
Ngoài phần mở bài và kết luận, đề tài gồm 03 chương với bố cục như sau:
Chương 1: Tổng quan về CSTT trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng việc sử dụng công cụ lãi suất của CSTT ở Việt Nam


trong giai đoạn hiện nay.
1
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công cụ lãi suất của CSTT ở Việt Nam hiện
nay.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo
ThS. Trịnh Thị Thúy Hồng đã giúp em hoàn thành đề tài này.
Vì kiến thức cũng như kinh nghiệm còn non trẻ và thời gian hạn hẹp
nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong được sự góp ý của cô
để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên thực hiện

Lê Trung Hiếu
CHƯƠNG I
2
TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG
1.1 Khái niệm, vị trí và đặc trưng của CSTT
1.1.1 Khái niệm
CSTT của NHNN là tập hợp những chủ trương, biện pháp, nguyên tắc
cũng như các công cụ mà NHNN sử dụng để điều tiết, điều hòa khối lượng
tiền trong nền kinh tế nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, tạo
nền tảng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống của người dân.
Điều 2, Luật NHNNVN quy định: CSTTQG là một bộ phận của chính
sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm
chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân.
Tùy theo điều kiện mỗi nước, CSTT có thể được xác lập theo hai
hướng: CSTT mở rộng (tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất
kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng – CSTT chống thất nghiệp)

hoặc CSTT thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản
xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng – CSTT ổn
định giá trị đồng tiền).
1.1.2 Vị trí
Vị trí CSTT: Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước
thì CSTT là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực
tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các
chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khóa, chính sách thu nhập,
chính sách kinh tế đối ngoại.
Đối với NHNN việc hoạch định và thực thi CSTT là hoạt động cơ bản
nhất, mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho CSTT quốc gia được thực hiện
có hiệu quả hơn.
1.1.3 Đặc trưng của CSTT
CSTT là một bộ phận hữu cơ cấu thành chính sách tài chính quốc
gia.
Mức độ tiền tệ hóa cao hay thấp còn thể hiện trình độ phát triển kinh tế
một nước. Vì vậy, tiền tệ đã trở thành một yếu tố rất quan trọng trong một nền
3
kinh tế. CSTT là một bộ phận trung tâm của các chính sách kinh tế - tài chính
quốc gia.
CSTT là công cụ thuộc tầm vĩ mô.
Khối lượng tiền tệ là đối tượng mà một số NHNN xem là yếu tố cần tác
động chính, từ đó tác động đến lãi suất, đầu tư, ảnh hưởng đến sản xuất và lưu
thông hàng hóa. Vì vậy, CSTT là một chính sách thuộc tầm vĩ mô.
NHNN là người đề ra và vận hành CSTT.
CSTT hướng đến việc thay đổi lượng tiền cung ứng và lưu thông sao
phù hợp với mục tiêu, vì vậy chủ thể nào cung ứng tiền thì chủ thể đó phải
trực tiếp vạch ra CSTT.
1.2 Mục tiêu của CSTT
1.2.1 Ổn định giá cả

NHNN thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị
đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên hai mặt:
Sức mua đối nội của đồng tiền (chỉ số giá cả hàng hóa dịch vụ trong nước) và
sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ). Ổn định
giá cả có tầm quan trọng đặc biệt để định hướng sự phát triển kinh tế của quốc
gia vì nó làm tăng khả năng dự đoán những biến động của môi trường kinh tế
vĩ mô. Mức lạm phát thấp và ổn định thúc đẩy nhu cầu đầu tư và đảm bảo sự
phân bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu quả. Tuy vậy, CSTT hướng tới ổn
định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát = 0 vì vậy nền kinh tế
không thể phát triển được, để có một tỷ lệ lạm phát giảm phải chấp nhận một
tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.
1.2.2 Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi Chính phủ trong việc
hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng
trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng,
nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ. CSTT phải đảm bảo sự
tăng lên của GDP thực tế. Nếu mức gia tăng GDP thực tế cao hơn nhịp độ
tăng trưởng dân số thì nền kinh tế thật sự có tăng trưởng. Một nền kinh tế
phồn thịnh với tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định là mục tiêu vĩ mô của bất kỳ
mọi quốc gia.
4
1.2.3 Tạo việc làm
CSTT phải quan tâm đến khả năng tạo công ăn việc làm, giảm thất
nghiệp. Để thực hiện mục tiêu này CSTT hướng vào việc khuyến khích đầu
tư, gia tăng sản xuất, làm tăng việc làm. Ngược lại khi nền kinh tế được mở
rộng sẽ có tác dụng chống suy thoái, đạt được những tăng trưởng ổn định.
Như vậy, CSTT mở rộng hay thu hẹp đều có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử
dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh
hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm
thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên.

Sự phối hợp ba mục tiêu: ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế, tạo công
ăn việc làm là rất quan trọng. Vì giữ các mục tiêu có sự mâu thuẫn với nhau,
nên NHNN không thể theo đuổi tất cả các mục tiêu trên trong một khoảng
thời gian nhất định. Do vậy, khi đặt ra các mục tiêu cho CSTT, cần phải có sự
dung hòa. Cụ thể là phải tùy lúc, tùy thời, tùy điều kiện cụ thể mà sắp xếp thứ
tự ưu tiên. Muốn vậy NHNN phải luôn nắm bắt được thực tế diễn biến của
quá trình thực hiện các mục tiêu, nhằm điều chỉnh chúng khi có sự thay đổi
bằng những giải pháp thích hợp.
1.3 Các công cụ của CSTT
Để thực thi CSTT, thực hiện chức năng và vai trò của mình, NHNN đã
sử dụng hàng loạt các công cụ như: lãi suất, dự trữ bắt buộc, hạn mức tín
dụng, cho vay tái chiết khấu… Mỗi loại công cụ có cơ chế vận hành riêng và
có ưu nhược điểm khác nhau. Do đó, tùy thuộc vào điều kiện thực tế của nền
kinh tế để sử dụng nó một cách phù hợp, hiệu quả. Nhìn chung, các công cụ
này tác động đến hai đầu mối chủ yếu là ngân hàng trung gian và thị trường
mở.
1.3.1 Lãi suất
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn, việc thay đổi của lãi suất sẽ
kéo theo sự biến đổi của chi phí tín dụng, từ đó tác động đến việc thu hẹp hay
mở rộng khối lượng tín dụng trong nền kinh tế. Do đó, lãi suất là một trong
những công cụ chủ yếu của CSTT. Thực tế cho thấy, tùy theo điều kiện thực
tế và trình độ phát triển của thị trường tài chính, NHNN có thể sử dụng công
cụ lãi suất để điều hành CSTT theo các chính sách:
1.3.1.1 Lãi suất cơ bản
5
Lãi suất cơ bản là lãi suất có tác dụng chi phối tất cả các loại lãi suất
khác hình thành trong nền kinh tế thị trường. Đó là loại lãi suất chiếm vị trí
quan trọng trong cơ chế thị trường.
Lãi suất cơ bản do NHTW xác định và công bố trên cơ sở tình hình
thực tế của thị trường và mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.

Lãi suất cơ bản có một số chức năng nhất định. Nó là công cụ để điều
hành chính sách tiền tệ quốc gia. Qua lãi suất cơ bản, NHTW tác động vào thị
trường tiền tệ, thúc đẩy, mở rộng hay thu hẹp tín dụng, giữ mức tương quan
cần thiết giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ. Mặc khác, lãi suất cơ bản là giá
cả sử dụng vốn trong hoạt động tín dụng, là cơ sở hình thành lãi suất thị
trường, tức là lãi suất kinh doanh tiền tệ. Nó là điểm dung hòa một cách tự
nhiên lợi ích của người gửi tiền, của người vay tiền và của tổ chức tín dụng.
Lãi suất cơ bản được xác định một cách trực tiếp dưới nhiều góc độ.
Nếu đứng trên giác độ bảo vệ lợi ích của khách hàng (người gửi tiền và người
vay vốn) người ta quy định lãi suất tiền gửi tối thiểu và lãi suất cho vay tối đa.
Điều này có nghĩa là, vì lợi ích của người gửi tiền, các tổ chức tín dụng không
được hạ lãi suất một cách tùy tiện và vì yêu cầu phát triển sản xuất, các tổ
chức tín dụng không được tăng lãi suất cho vay quá mức. Nếu đứng trên giác
độ bảo vệ lợi ích của các tổ chức tín dụng, tạo khuôn khổ cạnh tranh lành
mạnh, đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD, người ta quy định lãi suất cơ bản
theo chiều hướng ngược lại đó là quy định lãi suất tiền gửi tối đa và lãi suất
cho vay tối thiểu. Tuy nhiên vì muốn tạo lợi thế trong cạnh tranh mà nâng lãi
suất huy động quá cao hoặc cho vay theo lãi suất quá thấp sẽ gây thiệt hại
chung cho toàn hệ thống các tổ chức tín dụng.
Khi xác định lãi suất cơ bản phải tính đến tổng thể quan hệ cung cầu
vốn thông qua hàng loạt các yếu tố trong hoạt động kinh doanh tiền tệ thông
thường. Đó là tỷ suất lợi nhuận bình quân, mức tăng trưởng kinh tế, chỉ số
lạm phát dự kiến, lãi suất thực dương cho người gửi tiền, bù đắp chi phí và có
lãi cho TCTD, yêu cầu điều hành chính sách tiền tệ từng thời kì, rủi ro trong
hoạt động tín dụng, mức độ dự trữ bắt buộc, lãi suất hình thành trên thị trường
tiền tệ nói chung, mối tương quan giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ, mối
tương quan giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái…
6
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về lãi suất cơ bản, cách thức xác định
và điều hành lãi suất cơ bản. Có thể lấy lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối

đa, lãi suất cho vay tối đa, lãi suất tái chiết khấu của NHTW đối với các tổ
chức tín dụng hoặc lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.
Lãi suất cơ bản là lãi suất tái chiết khấu: đây là phương pháp phổ biến
được NHTW các nước áp dụng. Do lãi suất này được chủ động công bố và
được xem xét, tính toán tương đối thường xuyên nên thực sự đóng vai trò
quyết định đối với các mức lãi suất kinh doanh cũng như cung cầu vốn của
các TCTD. Nhưng lại mang nặng tính chất điều hành chính sách tiền tệ.
Lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa: Thực chất của lãi suất cơ bản
loại này là NHTW công bố và kiểm soát lãi suất tiền gửi tối đa và tự do hóa
lãi suất cho vay. Các tổ chức tín dụng sẽ ấn định các mức lãi suất tiền gửi
trong phạm vi khống chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất
cho vay cụ thể phù hợp với cung cầu về vốn.
Lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay tối đa: NHTW công bố một mức lãi
suất trần nhưng có thể quy định biên độ phù hợp vời từng loại hình TCTD,
thời hạn khác nhau.
Lãi suất cơ bản là lãi suất trên thị trường liên ngân hàng: Lãi suất liên
ngân hàng là lãi suất cho vay giữa các NHTM. Lãi suất liên ngân hàng được
hình thành trên cở sở thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và quan hệ cung
cầu vốn trong nền kinh tế. Do vậy, lãi suất liên ngân hàng gắn liền với thị
trường nhiều hơn và dễ biến động hơn. Thông thường, lãi suất cơ bản bằng lãi
suất liên ngân hàng cộng với một biên độ gồm chi phí quản lý món vay, chi
phí rủi ro…
Sử dụng lãi suất cơ bản phải linh hoạt tùy vào từng thời điểm như: hạn
chế tăng trưởng tín dụng bằng cách tăng lãi suất tiền vay và tăng lãi suất tiền
gửi. Biện pháp tăng lãi suất tiền vay nhằm khống chế tình trạng đồng vốn vay
được sử dụng tự do trên thị trường. Tăng lãi suất tiền gửi để thu hút một
lượng tiền nhàn rỗi trong lưu thông. Hai biện pháp này sẽ hỗ trợ cho nhau
giúp NHNN chủ động “cầm nắm” được thị trường tiền tệ. Nhờ vậy mà góp
phần kiềm chế được tình trạng lạm phát, kinh tế vĩ mô được điều tiết hợp lý,
hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong đó các ngân hàng thương mại

được đảm bảo.
7
1.3.1.2 Lãi suất tái chiết khấu
Khi nền kinh tế phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, NHTW chuyển
sang điều hành lãi suất một cách gián tiếp, mang nặng yếu tố kinh tế. Đó là lãi
suất tái chiết khấu của NHTW. Lãi suất tái chiết khấu tác động và có ý nghĩa
hướng dẫn lãi suất thị trường một cách gián tiếp, tức là tác động đến lãi suất
kinh doanh của các tổ chức tín dụng.
Lãi suất chiết khấu chủ yếu tác động đến cung tiền tệ bằng cách ảnh
hưởng đến khối lượng cho vay chiết khấu và cơ số tiền tệ. Một sự giảm xuống
cho vay chiết khấu sẽ làm giảm bớt cơ số tiền tệ và thu hẹp cung ứng tiền tệ.
Còn một sự tăng lên trong cho vay chiết khấu sẽ làm tăng cơ số tiền tệ và tăng
cung ứng tiền tệ.
Ngoài việc sử dụng làm công cụ để tác động đến cơ số tiền tệ và cung
ứng tiền tệ, lãi suất chiết khấu còn được sử dụng để giúp cho việc tránh khỏi
những cơn sụp đổ tài chính vì NHTW đóng vai trò là người cho vay cuối
cùng. NHTW cung cấp hệ thống dự trữ cho hệ thống ngân hàng khi các ngân
hàng bị đe dọa phá sản, do đó ngăn chặn những cơn sụp đổ tài chính.
Như vậy, lãi suất chiết khấu chính là một công cụ điều hành lãi suất của
NHTW sao cho phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.
1.3.1.3 Lãi suất tái cấp vốn
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW đối với các NHTM.
Khi tái cấp vốn cho NHTM, NHTW đã tăng lượng tiền cung ứng, đồng thời
tạo cơ sơ cho NHTM tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán cho họ.
NHTW điều chỉnh tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn phù hợp với mục tiêu
thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, từ đó làm giảm hay tăng lượng tiền trong lưu
thông. NHTW cũng sử dụng hạn mức tái cấp vốn để tác động trực tiếp về mặt
lượng đối với dự trữ của hệ thống NHTM.
1.3.2 Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các NHTM phải đưa vào dự trữ

theo luật định. Mức DTBB cao hay thấp tùy thuộc vào tỷ lệ DTBB – do
NHNN quy định – cao hay thấp. Tỷ lệ DTBB là tỷ lệ phần trăm trên lượng
tiền gửi mà NHTM huy động được, phải để dưới dạng dự trữ. Như vậy, mỗi
ngân hàng chỉ được cho vay số tiền còn lại sau khi đã trừ phần dự trữ bắt
buộc. Qua đó, việc tăng hay giảm tỷ lệ DTBB, NHNN có thể hạn chế hoặc
8
bành trướng khối lượng tiền tệ mà hệ thống ngân hàng có khả năng cung ứng
cho nền kinh tế.
Khi tỷ lệ DTBB tăng hoặc giảm thì hệ số tạo tiền của hệ thống NHTM
giảm hoặc tăng dẫn đến khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế giảm hoặc
tăng. Đây là công cụ mang tính hành chính của NHNN. Ưu điểm của nó là có
thể tác động đến tất cả các NHTM như nhau và tác động một cách đầy quyền
lực. Bên cạnh đó việc thay đổi tỷ lệ DTBB sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu
doanh lợi của các NHTM.
1.3.3 Hạn mức tín dụng
Công cụ hạn mức tín dụng là một công cụ can thiệp trực tiếp mang tính
hành chính của NHNN. Bằng công cụ hạn mức tín dụng, NHNN quy định cho
các NHTM một hạn mức tăng tín dụng tối đa. Như vậy, biện pháp này cho
phép NHNN ấn định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế
trong một thời gian nhất định. Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng
kể. Tuy nhiên, nó cũng có những hạn chế nhất định như:
- Có thể làm tăng lãi suất, bởi vì cung hạn chế.
- Làm giảm cạnh tranh giữa các ngân hàng.
- Gây ra tiêu cực trên thị trường vốn.
- Hạn mức tín dụng cũng gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ vì các
ngân hàng thường chọn doanh nghiệp lớn dể cho vay nhằm giảm chi phí và
bảo đảm an toàn trong giới hạn tín dụng được phép.
1.3.4 Tái cấp vốn
Tái cấp vốn là một phương pháp mà qua đó NHNN sẽ cung ứng tiền
cho nền kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các NHTM trên cơ sở nhận

tái chiết khấu, tái cầm cố các chứng từ có giá của các NHTM .
NHNN điều chỉnh tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết
khấu phù hợp với mục tiêu thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, từ đó làm giảm hoặc
tăng lượng tiền trong lưu thông. Nếu chính sách của NHNN là muốn bành
trướng khối tiền tệ, NHNN khuyến khích các NHTM trong việc đi vay bằng
cách hạ thấp lãi suất tái chiết khấu và những điều kiện tái chiết khấu cũng dễ
dãi. Ngược lại, khi NHNN muốn giảm bớt cơ hội làm tăng khối tiền tệ, sẽ
thực hiện nâng lãi suất tái chiết khấu, thay đổi điều kiện tái chiết khấu theo
hướng khó khăn hơn.
9
NHNN cũng sử dụng hạn mức tái cấp vốn để tác động trực tiếp về mặt
lượng đối với dự trữ của hệ thống NHTM.
1.3.5 Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động giao dịch, mua bán các chứng
khoán của NHNN với các đối tác được lựa chọn trên thị trường tiền tệ, ảnh
hưởng đến khối lượng dự trữ của các NHTM, từ đó tác động trực tiếp đến khả
năng cung ứng tín dụng của các NHTM và gián tiếp đến lãi suất thị trường
nhằm điều tiết mức cung tiền thông qua những ảnh hưởng về mặt lượng và
giá.
Khi NHNN đem chứng khoán ra thị trường mở bán nó sẽ thu được tiền
mặt và séc về. Điều này có nghĩa là khối lượng tiền mặt cung ứng cho lưu
thông giảm, dự trữ của các NHTM giảm, làm giảm khả năng cung ứng tín
dụng của các NHTM và như thế, cung ứng tiền trong nền kinh tế bị thắt chặt
hơn. Bên cạnh đó, việc NHNN bán chứng khoán ra thị trường mở sẽ làm tăng
cung chứng khoán, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá chứng
khoán này sẽ hạ, và do vậy, lãi suất chứng khoán tăng lên. Lãi suất chứng
khoán tăng buộc các NHTM phải tăng lãi suất ngân hàng lên theo để tránh
trình trạng công chúng khỏi rút tiền ra khỏi ngân hàng đem đầu tư vào chứng
khoán, nghĩa là gián tiếp thắt chặt thêm khối tiền tệ.
Ngược lại khi NHNN đem tiền mặt hoặc séc mua chứng khoán trên thị

trường mở, thì lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên, đự trữ của các NHTM
tăng lên. Mặt khác, việc NHNN mua chứng khoán sẽ làm tăng cầu về chứng
khoán, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá chứng khoán sẽ tăng,
dẫn đến lãi suất chứng khoán giảm, và đến lượt lãi suất ngân hàng giảm, kích
thích doanh nghiệp đi vay, khối tiền tệ tăng lên.
1.3.6 Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là đại lượng biểu thị mối tương quan về mặt giá trị giữa
hai đồng tiền. Nói cách khác, tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ
nước này được biểu hiện bằng một số lượng đơn vị tiền tệ nước khác.
Sự biến động của tỷ giá hối đoái có tác động mạnh mẽ đến mọi hoạt
động kinh tế, từ hoạt động xuất nhập khẩu đến sản xuất kinh doanh và tiêu
dùng trong nước qua biến đổi của giá cả hàng hóa. Do vậy, tỷ giá hối đoái là
một công cụ để NHNN thực thi CSTT của mình. Tuy nhiên, khi vận dụng
10
công cụ này, NHNN không đẩy tỷ giá lên cao hay kéo tỷ giá xuống thấp mà là
ổn định tỷ giá ở mức phù hợp với đặc điểm, điều kiện thực tế của quốc gia
trong từng giai đoạn.
Khi vận hành tỷ giá hối đoái, NHNN có thể ấn định tỷ giá cố định, hoặc
thả nổi tỷ giá theo quan hệ cung – cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Các
loại tỷ giá như: tỷ giá cố định, tỷ giá thả nổi hoàn toàn, tỷ giá thả nổi có sự
quản lý của Nhà nước.
Tỷ giá cố định và tỷ giá thả nổi hoàn toàn đều có những nhược điểm cơ
bản. Cụ thể, cung – cầu ngoại hối biến đổi không ngừng, do vậy, nếu NHNN
ấn định một mức tỷ giá cố định thì tác động đến quy luật cung – cầu trên thị
trường. Còn nếu thả nổi tỷ giá thì sự biến động của tỷ giá có ảnh hưởng lớn
đến nền kinh tế, có thể làm cho nền kinh tế phát triển nhưng cũng có thể đưa
nền kinh tế lâm vào trình trạng khoảng hoảng trầm trọng.
Tỷ giá thả nổi có quản lý là tỷ giá được hình thành trên cơ sở quan hệ
cung – cầu ngoại hối, nhưng khi cần thiết NHNN có thể can thiệp bằng những
biện pháp thích hợp, tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào quan hệ

cung - cầu ngoại tệ từ đó ổn định được tỷ giá.
Biện pháp chủ yếu mà các NHNN thường dùng để can thiệp vào cung –
cầu ngoại tệ là sử dụng dự trữ ngoại hối và quỹ bình ổn hối đoái.
Cụ thể, khi tỷ giá hối đoái tăng cao, NHNN tung ngoại tệ ra bán, làm
cho cung ngoại tệ trên thị trường tăng lên, trong điều kiện các yếu tố khác
không đổi, thì tỷ giá sẽ từ từ giảm xuống. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm,
NHNN hút ngoại tệ về bằng cách mua vào, trong khi các yếu tố khác vẫn
không đổi thì tỷ giá sẽ dần tăng lên. Để áp dụng biện pháp này hiệu quả, đòi
hỏi quốc gia phải có khối lượng dự trữ ngoại hối đủ lớn. Vì vậy, đối với
những nước đang phát triển, chẳng hạn như nước ta thì việc áp dụng công cụ
này có những hạn chế nhất định.
11
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG CÔNG CỤ LÃI SUẤT CỦA CSTT Ở
VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
2.1 Khái quát chung về quá trình thực hiện công cụ lãi suất của CSTT ở
nước ta từ năm 2008 đến nay.
Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính Mỹ cũng đã qua nhưng cho đến nay
dư âm và tác động của nó vẫn còn. Năm 2008, khủng hoảng tài chính bùng
phát tại Mỹ và lan rộng toàn cầu, kéo theo sự sụp đổ đồng loạt của nhiều định
chế tài chính khổng lồ, thị trường chứng khoán khuynh đảo. Nguyên nhân sâu
xa của cơn địa chấn tài chính bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng và nhà đất
tại Mỹ. Bong bóng bất động sản càng lúc càng phình to đã đặt thị trường nhà
đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ cũng như nhiều quốc gia châu Âu vào thế
nguy hiểm. Cho vay dưới chuẩn tăng mạnh là khởi điểm cho quả bong bóng
tại thị trường nhà đất. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản mà không
quan tâm tới khả năng chi trả của khách. Dư nợ trong mảng này nhảy từ 160
tỷ USD của năm 2001 lên 540 tỷ vào năm 2004 và bùng nổ thành 1.300 tỷ
vào năm 2007. Vào cuối quý III năm 2008, hơn một nửa giá trị thị trường nhà
đất Mỹ là tiền đi vay với một phần ba các khoản này là nợ khó đòi. Trước đó,

để đối phó với lạm phát, FED đã liên tiếp tăng lãi suất từ 1% vào giữa năm
2004 lên 5,25% vào giữa năm 2006 khiến lãi vay phải trả trở thành áp lực quá
lớn với người mua nhà. Thị trường bất động sản thời điểm này bắt đầu có dấu
hiệu đóng băng và sụt giảm.
Trước tình hình trên, các ngân hàng, công ty bảo hiểm, tổ chức tài
chính đã mua lại các hợp đồng thế chấp và biến chúng thành tài sản đảm
bảo để phát hành trái phiếu ra thị trường. Loại sản phẩm phái sinh này được
đánh giá cao bởi các tổ chức định giá tín dụng, nên thanh khoản tốt. Không
chỉ dừng lại ở đó, nhiều công ty bảo hiểm, trong đó có AIG, còn sẵn sàng bảo
lãnh cho những hợp đồng hoán đổi này. Chiến lược trên được đưa ra với mục
đích giảm rủi ro cho những khoản vay bất động sản. Tuy nhiên, trái lại nó tạo
ra hiệu ứng sụp đổ dây chuyền và khiến rủi ro bị đẩy lên cao hơn. Những bất
ổn từ hoạt động cho vay dưới chuẩn khiến giá nhà sụt giảm mạnh, thị trường
nhà đất đóng băng. Cuộc khủng hoảng từ đó lan từ thị trường bất động sản
12
sang thị trường tín dụng và cuối cùng dẫn đến khủng hoảng tài chính tại Mỹ
và tràn sang nhiều nước châu Âu, khiến nhiều công ty lớn phá sản.
Trong năm 2008, NHNN đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản.
Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương
ứng. Cơ chế điều hành tỷ giá ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có trong
lịch sử. Biên độ có 3 lần nới rộng, từ +/- 0,75% lên +/- 3%; tỷ giá bình quân
liên ngân hàng có 2 lần điều chỉnh mạnh vào tháng 6 và cuối tháng 12. Bên
cạnh đó, đã thực hiện tốt 8 nhóm giải pháp của Chính phủ về ưu tiên kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã
hội.
Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ (CSTT) đã phải đối mặt với
nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác
động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế.
Trước những tác động bất lợi như vậy, NHNN đã thực thi CSTT một
cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị

trường.
Từ đầu năm 2009, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư
trong xã hội tiếp cận được với vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần
của các gói giải pháp kích cầu của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các
NHTM hoạt động ổn định và hiệu quả, NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ
14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%.
2.2 Thực trạng sử dụng công cụ lãi suất của CSTT trong những năm qua
Đầu năm 2008, trong một loạt các biện pháp kiềm chế lạm phát, Ngân
hàng Nhà nước đã đưa ra Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN về việc tăng tỷ
lệ dự trữ bắt buộc nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về, chủ động kiểm soát tốc
độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng dư nợ tín dụng phù hợp
với các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Theo Quyết định, Ngân hàng Nhà nước sẽ mở
rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc, bao gồm các loại tiền gửi
không kỳ hạn và có kỳ hạn, thay cho việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền
gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống trong thời gian qua.
Tiếp đó là quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu Ngân
hàng Nhà nước bằng tiền đồng dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín
dụng nhằm thu hút 20.300 tỉ đồng. Các ngân hàng thương mại đối mặt với
13
khó khăn thiếu hụt nguồn cung tiền đồng sau những quyết định của Ngân
hàng Nhà nước. Tình trạng thiếu hụt tiền đồng của các ngân hàng thể hiện qua
việc lãi suất cho vay qua đêm của các ngân hàng trong vòng một tháng qua đã
có lúc lên tới 30%. Điều này đã đẩy các ngân hàng đến chỗ đua nhau tăng lãi
suất huy động.
Trước tình hình đó, Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất huy
động là 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 nhằm
hạn chế cuộc đua này. Đến ngày 17/05/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo
những điều chỉnh trong chính sách điều hành lãi suất. Đó chính là Quyết định
số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt
Nam. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh

(lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá
150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng trong từng
thời kỳ; quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30 tháng 5 năm 2002 về
việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại
bằng VNĐ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng hết hiệu lực thi hành.
Việc huy động vốn bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng phù hợp với quy định
về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy động 12%/năm theo
công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 cũng không còn hiệu lực. Qua
đó, đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng
thanh toán của các Ngân hàng thương mại trong những tháng cuối năm 2008;
an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu
tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được
tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các Ngân
hàng thương mại. Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ
mô ổn định và hoạt động của các Ngân hàng thương mại đảm bảo khả năng
thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong năm 2009 tương đối ổn
định.
Năm 2008, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Cụ thể:
- Trong 6 tháng đầu năm, áp lực lạm phát gia tăng mang tính toàn cầu,
trước tình hình đó, NHNN đã tăng tỷ lệ DTBB và mở rộng diện tiền gửi phải
DTBB ở tất cả các kỳ hạn; phát hành tín phiếu bắt buộc 20.300 tỷ đồng cho
các NHTM
14
- NHNN đã tăng tính thanh khoản cho thị trường bằng cách bơm mạnh
tiền qua nghiệp vụ thị trường mở, chuyển từ đấu thầu lãi suất sang đấu thầu
khối lượng, tăng cường thanh tra, giám sát hoạt động tín dụng của các
NHTM.
- Tuy nhiên, các biện pháp chính sách trên chưa ngăn chặn được đà tăng
lãi suất huy động và mở rộng tín dụng của các NHTM, do vậy buộc NHNN
phải quy định trần lãi suất huy động tiền gửi của các NHTM không được quá

12%.
- Một diễn biến bất lợi khác trên thị trường ngoại hối trong tháng
5/2008 là với mức thâm hụt thương mại lớn, lạm phát tăng cao.
Để bình ổn thị trường ngoại hối, NHNN đã thực hiện hàng loạt biện pháp,
như nới rộng biên độ tỷ giá từ ±1% lên mức ±2% tạo sự linh hoạt tỷ giá sát
với cung - cầu thị trường; thực hiện mở rộng đối tượng bán ngoại tệ cho các
NHTM, việc can thiệp dựa vào trạng thái ngoại tệ của các NHTM trong ngày,
thực hiện minh bạch các thông tin về dự trữ ngoại hối.
- Trong tình hình kinh tế thế giới như vậy, mặc dù những tháng cuối năm
2008 mức độ ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến nền
kinh tế Việt Nam, nhất là thị trường tài chính Việt Nam còn nhỏ, song để
ngăn chặn ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu và giảm áp lực lạm phát
vẫn diễn ra ở Việt Nam đến tận tháng 9, NHNN đã phải tiếp tục áp dụng một
số biện pháp hổ trợ thị trường như nâng cao lãi suất tín phiếu bắt buộc, trả lãi
cho tiền gửi DTBB bằng VND.
Để kích thích kinh tế chống lại nguy cơ giảm phát, bắt đầu từ tháng 10,
các loại lãi suất chỉ đạo đã liên tục được hạ xuống theo một lộ trình thích hợp.
Lãi suất cơ bản từ mức 14%/năm sau 4 lần hạ hiện xuống còn 8,5%, lãi suất
tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được hạ tương ứng, biên độ dao động
tỷ giá được nâng lên.
Các chỉ số thị trường tiền tệ (tín dụng và lãi suất) và các chỉ số kinh tế
đạt được trong những tháng cuối năm cho thấy việc thực thi CSTT của
NHNN năm 2008, mặc dù có những bất cập nhất định, nhưng thực sự đã có
những tác động rất rõ nét đến việc ổn định thị trường tiền tệ, ngăn chặn đà
lạm phát đang gia tăng rất cao, tạo thế chủ động cho NHNN trong thực thi
CSTT, thiết lập được kỷ luật trên thị trường tiền tệ mà trước đây rất lỏng lẻo,
15
làm thay đổi thái độ và hành vi ứng xử của các thành viên thị trường theo
chiều hướng tích cực.
Nhìn lại năm 2009, khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đã đặt hệ

thống ngân hàng Việt Nam đứng trước một năm đầy khó khăn và thách thức.
Trên cơ sở bám sát chỉ đạo, điều hành của Chính phủ cùng với sự nỗ lực của
toàn ngành, hoạt động ngân hàng năm 2009 đã đạt được nhiều kết quả tích
cực. Trong đó, nổi bật là việc triển khai kịp thời cơ chế hỗ trợ lãi suất, điều
hành chính sách tiền tệ và hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM)
trong năm 2009 đã có sự ổn định tương đối so với năm 2008. Tuy nhiên, trên
thực tế, những biến động và căng thẳng trên thị trường tiền tệ vẫn còn tồn tại,
ở một số thời điểm, đã có những ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh
nghiệp và tâm lý của người dân trong nền kinh tế, đồng thời cũng đặt ra
những thách thức đối với hoạt động của ngành Ngân hàng trong năm 2010.
Một trong những vấn đề của năm 2009, mặc dù đã có những giải đáp cụ thể
về chính sách điều hành, song, trong những tháng đầu năm 2010, vẫn nổi lên
những vấn đề tranh luận xoay quanh việc điều hành chính sách lãi suất của
NHNN, đặc biệt là việc dỡ bỏ trần lãi suất huy động có được thực hiện hay
không đã gây ảnh hưởng không tích cực đến sự ổn định của hệ thống ngân
hàng.
Ta biết rằng mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của phần lớn Ngân
hàng Trung ương của các nước trên thế giới cũng như NHNN Việt Nam là ổn
định giá trị đồng tiền của quốc gia - thông qua việc kiểm soát lạm phát. Trong
đó, lãi suất là một trong những công cụ điều hành chính sách tiền tệ (CSTT)
của NHTƯ để đạt được mục tiêu tôn chỉ đó.
Về lý thuyết lãi suất danh nghĩa và lạm phát có mối quan hệ cùng chiều.
Khi lạm phát tăng thì lãi suất danh nghĩa tăng để đảm bảo mức lãi suất thực
được chấp nhận bởi các chủ thể trong nền kinh tế. Triển vọng của lãi suất
thực có ảnh hưởng đến các kỳ vọng và hoạt động chi tiêu và đầu tư. Sau khi
xác định được các kỳ vọng lạm phát, nếu người tiêu dùng tin rằng lãi suất tiết
kiệm sẽ không thay đổi hoặc tăng rất thấp, nghĩa là lãi suất thực sẽ âm thì họ
sẽ có khuynh hướng rút tiền gửi tiết kiệm và đầu tư vào bất động sản hoặc
chứng khoán để bảo vệ sức mua. Điều này sẽ tạo nên bong bóng trên thị
trường bất động sản và ngay lập tức sẽ làm cho CPI có xu hướng gia tăng, vì

16
thế, lãi suất thực sẽ là một biến số quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyết
định tiêu dùng, đầu tư của các chủ thể trong nền kinh tế, đồng thời cũng là
biến số tác động đến kỳ vọng lạm phát. Do vậy, NHTƯ các nước thường
kiểm soát lạm phát thông qua xu hướng của lãi suất thực. Thông thường,
NHTƯ sẽ bắt đầu tăng tỷ lệ lãi suất dần dần khi lạm phát tiến gần tới lãi suất
tiền gửi danh nghĩa. Điều này phát đi một tín hiệu là NHTƯ sẽ có khuynh
hướng duy trì chính sách lãi suất thực dương. Dấu hiệu này cũng sẽ làm suy
yếu các kỳ vọng của thị trường về lãi suất thực âm và tăng giá của tài sản.
Mối quan hệ giữa lãi suất và lạm phát được hình thành dựa trên sự ảnh
hưởng của lãi suất lên tổng cầu và đó cũng là điểm mấu chốt để sử dụng lãi
suất trong việc quản lý kinh tế. Trong cấu phần của tổng cầu có hai yếu tố sẽ
chịu tác động trực tiếp của việc thay đổi lãi suất là tiêu dùng và đầu tư. Trong
đó, tiêu dùng sẽ giảm xuống khi lãi suất tăng lên là do giá cả của việc vay
mượn cho nhu cầu tiêu dùng trở nên đắt đỏ hơn. Đối với đầu tư, chi phí vay
mượn tăng làm cho khả năng sinh lời của các khoản đầu tư trở nên thấp hơn.
Vì thế mà việc tăng lãi suất cũng sẽ làm giảm mức độ đầu tư, tuy nhiên, mức
độ đầu tư giảm còn phụ thuộc vào sự co dãn của cầu đầu tư so với lãi suất.
Ngược lại, khi lãi suất giảm xuống thì hành vi của người tiêu dùng và nhà đầu
tư thay đổi theo hướng ngược lại.
Chính vì mối quan hệ trên nên lãi suất đã trở thành công cụ được lựa
chọn để kiểm soát lạm phát mục tiêu và kiểm soát các kỳ vọng lạm phát hữu
hiệu. Cơ chế truyền dẫn của lãi suất đến lạm phát thường được mô tả như sau:
Biểu đồ 2.1 : Từ lãi suất đến lạm phát và tăng trưởng kinh tế
17
Cầu nội
địa
Cầu
ròng
bên

Lãi suất
chính thức
(*)
Lãi suất
thị trường
Giá bất
động sản
Kỳ vọng
thị trường
Tỷ giá
Tổng
cầu
Lạm phát
Áp lực
lạm phát
nội địa
Giá nhập
khẩu
Sản
lượng
(*)Trong đó, lãi suất chính thức là lãi suất chỉ đạo của NHTW công bố
làm cơ sở tham khảo một cách chuẩn mực (Ví dụ như Federal Fund rate của
Mỹ, Overnight rate của Anh) để các NHTM hình thành nên các mức lãi suất
huy động và cho vay đối với nền kinh tế, đồng thời các mức lãi suất này cũng
là một chỉ báo về động thái điều hành CSTT của NHTW. Tại phần lớn các
nước, tỷ lệ lãi suất chính thức – thường được gọi là lãi suất cơ bản, lãi suất
chuẩn, sẽ phát huy vai trò truyền dẫn tác động của CSTT đến việc thực hiện
các mục tiêu kinh tế vĩ mô (tăng trưởng, lạm phát,việc làm,….)
Việc điều hành linh hoạt lãi suất, vừa là công cụ điều tiết thị trường,
vừa là động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều

hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước là thắt chặt hay mở rộng tiền
tệ, đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài
chính, tiền tệ, được các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước quan tâm, theo
dõi, dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết
kiệm và tiêu dùng. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai
trò và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế
lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô.
Sau những giải pháp mà NHTW thực hiện thị trường tiền tệ từng bước
được bình ổn, tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối có những
diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu,
lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ.
Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng
VND và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp
không muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến
nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng
thẳng.
Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN đã triển khai
quyết liệt nhiều giải pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán
USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá
bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết cung cầu
ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt
hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hòa ngoại tệ trên
thị trường ngoại tệ trên ngân hàng
18
Tuy nhiên, diễn biến kinh tế những tháng cuối năm vẫn tiếp tục là thách
thức cho thực thi CSTT như thâm hụt cán cân thương mại không được cải
thiện mà vẫn tiếp tục gia tăng (theo số liệu của Tổng cục Hải quan 11 tháng
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 113,6 tỷ USD, giảm 14,7% so với
cùng kỳ năm 2008, trong đó, xuất khẩu là 51,33 tỷ USD, giảm 11,5% và nhập
khẩu là 62,28 tỷ USD, giảm 17%).

Cán cân thương mại hàng hóa 11/09 tháng thâm hụt 10,95 tỷ USD bằng
21,3% xuất khẩu), nguồn bù đắp cho thâm hụt này suy giảm như nguồn đầu
tư trực tiếp nước ngoài giảm sút mạnh so với năm 2008, đầu tư gián tiếp nước
ngoài không tăng mà còn giảm; nguồn kiều hối cũng giảm do khủng hoảng
kinh tế toàn cầu do vậy dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán, tình hình này
tiếp tục gây bất lợi cho việc ổn định tỷ giá.
Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 mức thâm hụt
ngân sách ở mức 6,5% GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó mà
gây áp lực giảm giá VND.
Trên thị trường tiền tệ xuất hiện những hiện tượng bất cập, mâu thuẫn
nhau: Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay
vốn của doanh nghiệp, VND vẫn khan hiếm, biểu hiện ở áp lực tăng lãi suất,
thanh khoản VND mỏng manh.
Sự khan hiếm tiền đồng về mặt lý thuyết là làm cho VND lên giá.
Nhưng chính sách điều tiết vĩ mô thì lãi suất lại thấp (lãi suất cho vay hỗ trợ,
trần lãi suất cho vay ) gây áp lực giảm giá VND, đồng thời kích thích nhu cầu
sử dụng tiền đồng, tăng nhu cầu tín dụng, gây ra vòng xoáy khan hiếm tiền
đồng, gây áp lực cho NHNN phải cung ứng thêm tiền đồng. Điều này tiếp tục
gây áp lực giảm giá VND. Đồng thời, sự biến động mạnh của giá vàng cũng
có những tác động bất lợi đến tỷ giá.
Đồng thời với điều chỉnh tỷ giá, NHNN đã thực hiện nâng các mức lãi
suất chỉ đạo lên thêm 1%. Đây là giải pháp có tính đồng bộ, phù hợp với tình
hình thực tế, vừa có tác dụng tiếp tục duy trì tăng trưởng của nền kinh tế đồng
thời chủ động ngăn chặn nguy cơ lạm phát và trước mắt ổn định thị trường
ngoại hối.
19
Biểu đồ 2.2 :
Lãi suất chủ đạo của NHNN Việt Nam năm 2008 và 2009
(Nguồn: Số liệu công bố của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
Việc điều hành linh hoạt lãi suất, vừa là công cụ điều tiết thị trường,

vừa là động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều
hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước là thắt chặt hay mở rộng tiền
tệ, đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài
chính, tiền tệ, được các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước quan tâm, theo
dõi, dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết
kiệm và tiêu dùng. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai
trò và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế
lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô.
Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với quy định của Luật Ngân
hàng Nhà nước và Bộ luật Dân sự. Tuy vậy, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản
là công cụ can thiệp trực tiếp đối với lãi suất kinh doanh của Ngân hàng
thương mại, có hạn chế nhất định việc thử nghiệm và đưa ra thị trường các
sản phẩm tín dụng có độ rủi ro cao, nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường.
20
Xử lý vấn đề này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông
tư số 01/2009/TT-NHNN hướng dẫn về lãi suất thoả thuận của các Ngân hàng
thương mại đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông
qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, đi kèm theo đó là cơ chế
thống kê, theo dõi và thanh tra, giám sát nhằm hạn chế rủi ro. Thông tư có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/02/2009.
Thông tư được ban hành nhằm thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NQ-
CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về những giải pháp cấp bách
nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an
sinh xã hội và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 627/VPCP-
KTTH ngày 23 tháng 01 năm 2009 của Văn phòng Chính phủ về áp dụng lãi
suất cho vay thoả thuận của các tổ chức tín dụng.
Từ những phân tích và nhận định nêu trên, trong thời gian tới, việc
Ngân hàng Nhà nước tiếp tục áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là một
giải pháp thích hợp, phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô, cung - cầu vốn
thị trường. Việc điều tiết lãi suất thị trường theo hướng ổn định, được thực

hiện kết hợp giữa điều tiết khối lượng tiền thông qua các công cụ gián tiếp,
điều hành linh hoạt các mức lãi suất chủ đạo và làm tốt công tác truyền thông.
Sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do hoá phải trên cơ
sở đánh giá một cách khoa học và thực tiễn các điều kiện kinh tế, thị trường
tài chính - tiền tệ ở trong và ngoài nước, cũng như các rủi ro có thể xảy ra và
các biện pháp xử lý để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, sự an toàn và phát triển
của hệ thống tài chính.
Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm
2010 đã xác định mục tiêu tổng quát của năm 2010 là “nỗ lực phấn đấu phục
hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009, tăng tính ổn định
kinh tế vĩ mô; nâng cao chất lượng tăng trưởng; ngăn chặn lạm phát cao trở
lại; tăng khả năng bảo đảm an sinh xã hội; chủ động hội nhập và nâng cao
hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn
xã hội; bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh; phấn đấu đạt mức cao nhất
các chỉ tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010”.
Trong đó, vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) góp phần thực
21
hiện thành công các mục tiêu trên là không nhỏ, đặc biệt trong bối cảnh sức
ép gia tăng lạm phát như hiện nay
2.3 Đánh giá quá trình thực hiện các công cụ của CSTT trong những
năm qua
2.3.1 Những thành tựu đạt được
Mặc dù trong giai đoạn vừa qua (2008 – 2010) nền kinh tế Việt Nam có
nhiều biến động thăng trầm, phải đối phó với lạm phát ở mức cao, phải chống
chọi lại cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu (năm 2008), sang năm 2009 nền
kinh tế lại có dấu hiệu giảm phát tuy nhiên với việc thực thi CSTT linh hoạt,
hiệu quả của NHNN đã từng bước đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng và
dần dần đang trên đà hồi phục. Cụ thể:
Năm 2008, với việc thực thi CSTT như trên về cơ bản đạt được mục
tiêu đề ra là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ

mô và hỗ trợ vốn tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều này
thể hiện ở những kết quả sau:
- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xảy ra những
cú sốc về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị
trường tài chính quốc tế
+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh nhưng
mặt bằng lãi suất trong năm ổn định.
+ Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm, trong bối
cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND
và ổn định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái
danh nghĩa trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm
soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND.
Nhìn chung, việc điều hành chính sách tiền tệ trong hai năm 2008 -
2009 đã thực sự thành công. NHNN đã có những quyết định hết sức nhanh
nhạy, kịp thời trong điều hành lãi suất, tỷ giá, … và những liệu pháp đó đã
nhanh chóng có tác động điều tiết rõ rệt đối với thị trường. Cụ thể:
Sau hơn hai năm giữ ổn định ở mức 8,25%/năm, lãi suất cơ bản (LSCB)
đã được NHNN điều chỉnh tăng lên mức 8,75% từ 01/02/2008 và nhảy vọt lên
mức 12% từ 19/05/08. Chưa đầy 1 tháng sau đó, từ ngày 11/06/09, LSCB đã
được đẩy lên mức đỉnh – 14%. Cùng với LSCB, lãi suất tái chiết khấu, lãi
22
suất tái cấp vốn cũng liên tiếp được điều chỉnh tăng với đỉnh tương ứng là
13% và 15%. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD cũng được điều chỉnh
tăng trong khi lãi suất DTBB bị điều chỉnh giảm. NHNN còn phát hành trên
20.000 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với các NHTM.
Biểu đồ 2.3: Diễn biến LSCB của Việt Nam thời gian qua
Nguồn: NHNN Việt Nam
Chính sách tiền tệ thắt chặt với hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã
tạo ra một lực hút mạnh thu hút tiền từ lưu thông đồng thời làm giảm mạnh
cấp tín dụng từ các NHTM ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn

đứng và đẩy lùi từ đỉnh điểm 3,91%/tháng (tương đương 25,2%/năm). Tỷ lệ
lạm phát cả năm 2008 chỉ còn là 19,89%.
Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHNN đã
từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức
quan trọng. LSCB từ từ giảm xuống, cùng với LSCB, LSTCK, LSTCV cũng
được điều chỉnh giảm; các NHTM được bán tín phiếu bắt buộc trước hạn; Tỷ
lệ dự trữ bắt buộc được nới lỏng dần đi kèm với việc điều chỉnh lãi suất
DTBB. Các công cụ trên đã tác động mạnh tới thị trường, làm tăng dần mức
cung tiền cho nền kinh tế.
- Hỗ trợ lãi suất
Đầu năm 2009, Chính Phủ đã đưa ra gói kích cầu bao gồm các nhóm
giải pháp cơ bản:
- Với doanh nghiệp: giảm, giãn thuế TNDN, hỗ trợ lãi suất ở mức 4%.
- Với dân cư: trợ cấp người nghèo, giãn/miễn thuế TNCN, giảm VAT,
đào tạo lao động.
23
- Về phía Chính Phủ: tăng đầu tư cơ sở hạ tầng, tăng chi tiêu công, đẩy
mạnh xúc tiến thương mại để tăng xuất khẩu.
Nổi bật và có tác động rõ rệt nhất là chính sách hỗ trợ lãi suất mà ở đó
vai trò của hệ thống ngân hàng và các công cụ chính sách tiền tệ một lần nữa
lại được phát huy mạnh mẽ.
Để đối phó với suy thoái, Chính Phủ của hầu hết các nước đều đưa ra
các gói hỗ trợ lên tới hàng ngàn tỷ USD với cách thức chủ yếu là hỗ trợ trực
tiếp: mua tài sản xấu, sở hữu vốn của các tập đoàn tài chính và tập đoàn công
nghiệp lớn; chi tiền cho người nộp thuế, người tiêu dùng; thưởng tiền cho
người hủy xe cũ, mua xe mới, … Gói hỗ trợ của Chính Phủ Việt Nam được
định lượng là 1 tỷ USD với cách làm rất sáng tạo, rất linh hoạt. Phần lớn tiền
hỗ trợ không được chi trực tiếp mà được hỗ trợ gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi
suất. Bằng cách này chúng ta đã kích thích tăng trưởng mạnh tín dụng, giúp
các doanh nghiệp có được nguồn vốn giá rẻ nên giảm được giá thành sản

phẩm, duy trì ổn định sản xuất, kích thích được nhu cầu trong nước, …
2.3.2 Những mặt hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1 Hạn chế
Có thể nói, điều hành CSTT năm 2008 về cơ bản, đạt được mục tiêu đặt
ra, tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động, cùng với
việc Việt Nam gia nhập WTO nên việc điều hành CSTT đã phải đối mặt với
nhiều thách thức làm cho việc thực hiện mục tiêu ban đầu còn có hạn chế nhất
định.
Thách thức lớn nhất mà điều hành CSTT năm 2008 phải đối mặt, đó là
dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều. (Theo số liệu thống kê đến tháng
10/2007, doanh số phát sinh tiền gửi bằng VND của người không cư trú tại
các NHTM thì có khoảng 13 tỷ USD của người không cư trú được chuyển
cho người cư trú cho mục đích đầu tư vào thị trường chứng khoán, đầu tư vào
bất động sản và chi tiêu các nhu cầu tiêu dùng khác trong nước). Tình hình
này đã có tác động làm tăng tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế
(tăng M2); làm tăng cung ngoại tệ, gây sức ép làm VND lên giá; dự trữ vượt
của hệ thống ngân hàng tăng mạnh - là một nhân tố thúc đẩy tín dụng tăng
nhanh; dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) có tác động thúc đẩy thị
trường chứng khoán phát triển mạnh hơn, và một lượng vốn nhất định của dân
24
cư cũng như từ hệ thống ngân hàng được đầu tư trên thị trường chứng khoán,
qua đó đã làm tăng dư nợ cho vay nền kinh tế.
Cùng với việc gia tăng mạnh dòng vốn đầu tư nước ngoài là sự tăng giá
khó lường mang tính toàn cầu của một một số mặt hàng, như giá dầu thô, giá
lương thực, bên cạnh đó là hạn hán lũ lụt, dịch bệnh gia cầm trong nước đã có
tác động mạnh đến mức mức giá tiêu dùng nói chung. Trong bối cảnh trên,
CSTT phải cùng một lúc đạt hai mục tiêu là vừa phải hỗ trợ tích cực cho tăng
trưởng kinh tế đạt 8,5%, vừa phải kiềm chế lạm phát dưới mức tăng trưởng là
cực kỳ khó khăn. Giải pháp ổn định lãi suất hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng
kinh tế và ổn định thị trường tiền tệ không để xảy ra sự dịch chuyển dòng

vốn, nhưng lại rất khó khăn để kiểm soát khối lượng tiền trong nền kinh tế và
kiềm chế lạm phát.
Năm 2008 dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào ào ạt, việc hạn chế dòng
vốn này vào Việt Nam là vấn đề không đơn giản khi Việt Nam đã gia nhập
WTO, thị trường tài chính từng bước tự do hóa. Vì vậy, việc hạn chế sự gia
tăng nguồn vốn nước ngoài nằm ngoài tầm kiểm soát của NHNN, mà đòi hỏi
phải có chính sách vĩ mô đồng bộ để đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn nước
ngoài có hiệu quả, giám sát chặt chẽ luồng vốn đầu tư gián tiếp, hạn chế tình
trạng đầu cơ trên thị trường chứng khoán,… nhằm hạn chế những tác động
bất lợi của dòng vốn này.
Năm 2008, NHNN đã thực hiện một loạt các biện pháp mạnh nhằm trị
bằng được “cơn ho” lạm phát. Việc thắt chặt tiền tệ với các biện pháp như
tăng dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu… là phù
hợp với xu thế tự do hóa và thông lệ quốc tế, ở đó, NHNN cần thực thi chính
sách tiền tệ của mình thông qua các công cụ gián tiếp. Thế nhưng, các liệu
pháp trên vẫn chưa đủ liều và hình như chưa đủ răn đe.
Chính sách thắt chặt tiền tệ thông qua việc phát hành tín phiếu trên thị
trường mở thì không có gì lạ, song điều mà nhiều người dễ nhận thấy là tần
suất thực hiện các liệu pháp tiền tệ là quá dày và mang tính mệnh lệnh hành
chính không phù hợp với xu thế thị trường.
2.3.2.2 Nguyên nhân
Một là, NHNN quá bị động và đôi khi còn chủ quan trong việc thực thi
chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát. Sự bị động này một phần là do
25

×