Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Thực trạng lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2000-2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.48 KB, 30 trang )

Lời mở đầu

Lạm phát là chỉ tiêu kinh tế vĩ mơ có vị trí quan trọng hàng đầu trong điều hành
hành chính của mỗi quốc gia, nó ảnh hưởng rất lớn đến đời sống dân chúng, đến
guồng máy xã hội, chính trị cũng như nền kinh tế của mỗi nước.Hiểu và nắm rõ
được vấn đề này không phải là điều đơn giản đặc biệt là nền kinh tế Việt Nam đang
vận hành theo nền kinh tế thị trường,có nhiều thay đổi và biến động khôn lường.
Giai đoạn vừa qua, đặc biệt là những năm từ 2000-2008, chúng ta đã được chứng
kiến những diễn biến và biện pháp khắc phục của nước ta để thốt khỏi tình trạng
lạm phát như thế nào
Do trình độ lí luận và thời gian nghiên cứu cịn nhiều hạn chế, nhưng em cũng xin
phân tích những ý hiểu của mình về “Thực trạng lạm phát ở Việt Nam trong giai
đoạn 2000-2008“ rất mong được sự góp ý chân thành của cô giáo cùng các bạn để
đề án được hoàn thiện hơn.

1


1.Cơ sở lý luận về quan điểm toàn diện và vấn đề
lạm phát
1.1 Quan điểm về lạm phát:
1.1.1 Khái niệm:
a) Lạm phát:
Có rất nhiều quan điểm về lạm phát
- Theo Các Mác trong Bộ Tư Bản: Lạm phát là việc tràn đầy các kênh, các luồng
lưu thông những tờ giấy bạc thừa, dẫn đến giá cả tăng vọt.
Ông cho rằng lạm phát luôn đồng hành cùng với chủ nghĩa tư bản, ngồi việc
bóc lột chủ nghĩa tư bản bằng giá trị thẳng dư, chủ nghĩa tư bản còn gây ra lạm
phát để bóc lột người lao động một lần nữa, do lạm phát làm tiền lương thực tế của
người lao động giảm xuống.
-Nhà kinh tế học Samuelson thì cho rằng: Lạm phát là biểu thị một sự tăng lên


trong mức giá cả chung.
Theo ơng thì lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng- giá
bánh mì, dầu xăng, xe ơ tơ tăng, tiền lương, giá đất, tiền thuê tư liệu sản xuất tăng.
- Theo quan điểm của các nhà kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên của mức giá
chung của nền kinh tế . Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá thị trường
hay sự giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với nền kinh tế khác, lạm phát là
sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với loại tiền tệ khác.
Sự mất giá này được biểu hiện rõ nhất dưới sự tăng lên bình quân xủa tất cả
các hàng hóa, dịch vụ và chi phí đều tăng với tốc độ và tỷ lệ khơng đồng đều.
Nói chung: lạm phát là hiện tượng phát hành thừa tiền giấy so với lượng tiền cần
thiết cho lưu thơng, làm giá cả, mọi thứ hành hóa tăng lên. Lạm phát càng cao thì
đồng tiền càng bị mất giá nhiều.
2


b) Giảm phát ( GNP ):
Ngược lại với lạm phát là giảm phát, một nền kinh tế có chỉ số lạm phát bằng 0
hoặc một chỉ số dương nhỏ được gọi là ổn định giá cả.
Chỉ số giảm phát GNP là chỉ số giá cả cho toàn bộ GNP và nó được xác định:
GNP = GDP danh nghĩa / GDP thực tế.
c) Các mức lạm phát:
Xét về mặt định lượng
-Lạm phát một con số mỗi năm ( lạm phát vừa phải ): là lạm phát xảy ra khi giá cả
tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Trong điều kiện lạm phát vừa phải
giá cả tương đối khơng khác mức giá bình thường bao nhiêu, lãi suất danh nghĩa và
lãi suất thực tế chênh lệch nhau không đáng kể, tiền giữa được phần lớn giá trị của
nó từ năm này qua năm khác.
Đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, với mức lạm phát này,
những tác động kém hiệu quả của nó là không đáng kể
-Lạm phát hai con số mỗi năm ( lạm phát phi mã ): là loại lạm phát khi giá cả tăng

với tỷ lệ hai hoặc ba con số như 20%, 100% một năm. Khi mà lạm phát phi mã kéo
dài sẽ xảy ra những biến dạng kéo dài cho nền kinh tế.
+ Ở mức lạm phát hai chữ số ( 11,12,13 ) thì những tác động tiêu cực của nó
là khơng đáng kể, nền kinh tế vẫn có thể là chấp nhận được.
+ Nhưng khi tỷ lệ lạm phát hai chữ số cao thì những tác động của nó sẽ ảnh
hưởng khơng nhỏ đến nền kinh tế.nó có thể trở thành mỗi đe dọa đến sự ổn định và
phát triển kinh tế.
-Siêu lạm phát: là lạm phát có tỷ lệ rất cao và tốc độ nhanh, thường là lạm phát ba
con số
Với siêu lạm phát thì nó có những tác động rất tiêu cực đến một nền kinh tế và
đời sống xã hội.

3


Xét về định tính:
-Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng
+ Lạm phát cân bằng: là lạm phát tăng tương ứng với thu nhập nên không
ảnh hưởng đến đời sống người lao động.
+ Lạm phát không cân bằng là tỷ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu
nhập, đây là loại lạm phát thường xảy ra nhất.
-Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường.
+ Lạm phát dự đốn trước là loại lạm phát có thể dự đoán dược tỷ lệ lạm phát
hàng năm dựa vào tỷ lệ lạm phát của năm trước. Với điều kiện là lạm phát xảy ra
trong thời gian tương đối dài và tỷ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn, ổn định.
+ Lạm phát bất thường: là loại lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó
chưa hề xuất hiện. Lạm phát bất thường thường gây ra những cú sốc cho nền kinh
tế và ảnh hưởng nhiều đến tâm lý, cuộc sống và thói quen sinh hoạt của người dân.
1.1.2 Đo lường lạm phát:
Thông thường tỷ lệ lạm phát được xác định bằng chỉ số giá tiêu dùng hay còn gọi

là chỉ số điều chỉnh GDP và một số chỉ tiêu thay đổi giá cả của hàng hóa khác.
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một
lượng lớn hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế để đưa ra được một mức giá
cả chung gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các loại sản phẩm.
+ Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức
giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện
qua chỉ số giá cả là tỷ lệ % của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung
bình ở thời điểm gốc.
+ Khơng tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của
chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số
cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thể hiện.
Có 2 cách thơng thường đo lường chỉ số lạm phát:

4


- Chỉ số giá cả được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu dùng CPI,
CPI tính chi phí của một giỏ hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường ( với
các nhóm hàng hóa chính là hàng lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà cửa,
chất đốt, vật tư y tế ).
- Chỉ số thứ hai cũng thường được dùng là chỉ số giá cả sản xuất ( PPI ), đay
là chỉ số vuôn bán, chỉ số này rất có ích vì nó được tính chi tiết, sát với
những thay đổi của thực tế.
Ngoài ra cịn có một số chỉ tiêu khác để xác định chi số lạm phát như chỉ số giá
sinh hoạt ( CLI ) hay chỉ cố giảm phát ( GNP ).
Biết và hiểu rõ cách xác định chỉ số lạm phát sẽ nâng cao việc tiến hành đo lường
cũng như có thể kiềm chế lạm phát không mong muốn.
1.2 Nguyên nhân gây ra lạm phát:
1.2.1 Nguyên nhân chủ quan:
- Cung tiền tăng, khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên và là nguyên nhân

chính gây ra lạm phát: Trong số nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát thì trước hết
phải kể đến đó là bơi chi ngân sách trên quy mô lớn, tốc độ cao. Bội chi ngân sách
dẫn đến việc phát hành tiền giấy vào lưu thông quá mức cần thiết của nó. Điều này
sẽ nảy sinh cầu lớn hơn cung, làm cho giá cả hàng hóa và dich vụ sẽ tăng lên.
- Nguyên nhân quan trọng khác dẫn đến tình trạng lạm phát đó là do sự kém hiệu
quả của các chính sách chính phủ như : định mức lãi suất tiết kiệm và cho vay thấp
hơn mức lạm phát, chính sách thuế khơng đảm bảo được nguồn thu và trích lập
danh nghĩa. Khi lạm phát tăng cao, những người đi vay tăng lãi xuất danh nghĩa
dẫn đến thu nhâp mà người đi vay nhận được bị giảm xuống. Tình trạng này sẽ dẫn
đến suy thối kinh tế, đời sống nhân dân bị giảm sút và thất nghiệm gia tăng cùng
với những hậu quả về chính trị - xã hội khác có thể xảy ra.
- Ngồi ra cịn có một số biện pháp như thiên tai, lũ lụt hoặc ảnh hưởng của các
nền kinh tế khác . Chúng ra đã chứng kiến hai cuộc khủng hoảng kinh tế lớn của
nhân loại, đó là cuộc khủng hoảng kinh tế năm 97 và cuộc khủng hoảng kinh tế
gần nhất diễn ra vào cuối năm 2007.Năm 2007 là năm “ rồng đổi màu “ với nhiều
nước. Nhờ vào cơ hội đó mà nhiều nước đã biết tận dụng và trở nên giàu có, liệu

5


rằng nền kinh tế thế giới sẽ ra sao sau cuộc khủng hoảng này. Đó là một câu hỏi
mà chúng ta sẽ biết trong thời gian tới.

1.2.2 Nguyên nhân khách quan:
- Do cầu thay đổi: khi mà lượng hàng về một loại hàng hóa này giảm đi trong khi
lượng cầu về một hàng hóa khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người độc quyền
và giá cả có tính cứng nhắc chỉ có thể tăng mà khơng thể giảm thì mặt hàng mà
lượng cầu giảm vẫn không tăng giá trong khi mặt hàng mà lượng cầu tăng thì lại
tăng giá, kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.
- Do cơ cấu:Trong một nền kinh tế, ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền cơng

danh nghĩa cho người lao động và ngược lại nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận,
ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm, làm cho mức giá cả
hàng hóa tăng lên. Đây cũng chính là nguyên nhân gây ra lạm phát.
- Do xuất khẩu: Xuất khẩu tăng dẫn đến tổng cầu tăng cao hơn cung hoặc sản
phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường
trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do mất cân
đối giữa tổng cung và tổng cầu.
- Do nhập khẩu: khi mà không thể tự sản xuất trong nước thì chúng ta sẽ đi nhập
khẩu của các nước khác, giá cả của các loại mặt hàng này có thể tăng lên và khơng
thể kiểm soát được làm cho mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên dẫn tới lạm
phát.
- Một trong những nguyên nhân dẫn đến lạm phát là độc quyền: cả độc quyền bán
và độc quyền mua cũng đều làm cho giá cả hàng hóa tăng hơn so với mức giá
chung, đó là nguyên nhân làm cho lương tiền trong lưu thơng tăng lên do đó dẫn
đến lạm phát.
1.3 Tác động của lạm phát:
Phần trước đã nói rõ về một số khái niệm cũng như cách thức đo lường và nguyên
nhân dẫn đến lạm phát. Vậy một câu hỏi đặt ra là lạm phát có lợi khơng và nó có
thể gây ra những tác động gì tới nền kinh tế? Có thể nói lạm phát tác động đến
từng cá nhân, từng doanh nghiệp và cả chính phủ. Lạm phát có thể làm sụp đổ cả
6


một nền kinh thế vững mạnh cũng như có thể giũp cho một nền kinh tế đi lên nếu
biết cách kiềm chế và giữ cho nó ở mức ổn định. Nói chung lạm phát có cả điểm
tích cực và tiêu cực.
1.3.1 Tác động tích cực:
- Nếu lạm phát ở mức một con số cũng có thể đem lại lợi ích cho nền kinh tế. Lúc
này lạm phát có vai trị kích thích tiêu dùng, vay nợ và đầu tư, do đó giảm bớt tình
trạng thất nghiêp và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

- Còn khi lạm phát là phi mã thì tùy vào từng điều kiện cụ thể mà có những biện
pháp tận dụng lợi ích cũng như hạn chế mà nó đem lai. Lạm phát phi mã sẽ là rất
tốt nếu chính phủ biết cách lựa chọn các cơng cụ kích thích đầu tư vào những lĩnh
vực có tiềm năng phát triển và hạn chế những ngành kinh tế bất ổn trong thời kỳ
lạm phát, cân đối giữa các ngành trong cùng một nền kinh tế sẽ giúp cho nền kinh
tế đó phát triển nhanh hơn.
1.3.2 Tác động tiêu cực:
- Làm giảm thu nhập: Nếu thu nhập danh nghĩa không đổi, lạm phát xảy ra sẽ
không chỉ làm giảm thu nhập thực tế của người lao động mà còn làm giảm thu
nhập thực tế từ những khoản lãi, các khoản lợi tức, điều này là do chính sách thuế
của nhà nước được tính trên cơ sở thu nhập lạm phát.
- Ảnh hưởng đến sự phân phối lại thu nhập và của cải: do tác động của lạm phát
làm mất cân đối giữa nợ và tài sản mà những người lao động sống bằng tiền lương
thì tiền lương thực tế giảm trong khi mức giá cả tăng lên làm cho nền kinh tế suy
giảm.
- Tác động đến giá cả, sản lượng, việc làm: Lạm phát kéo dài làm cho lượng tiền
cung ứng tăng liên tục, tổng cung tiền tệ tăng nhanh hơn tổng cầu, lượng tiền danh
nghĩa tăng, lãi suất danh nghĩa tăng, giá trị tiền liên tục bị giảm, giá cả mọi thứ
hàng hóa lên cao với mức độ khơng bằng nhau gây ra tình trang mất cân đối. Đó là
cơ hội cho những nhà đâu cơ có dịp làm giàu trong thời hỗn loại khi mà nền kinh
tế đang khan hiếm về hàng hóa và chính phủ thì rất khó kiểm sốt các hoạt động
kinh tế ngầm. Nếu lạm phát kéo dài đặc biệt là lạm phát phi mã và siêu lạm phát
kéo dài có thể dẫn đến nền kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp vừa và nhỏ phá sản
dẫn đến tình trạng thất nghiệp, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân dân.
7


Nhìn chung, nếu có thể kiềm chế lạm phát ở mức vừa phải đừng để lạm phát tăng
đến lạm phát phi mã hay siêu lạm phát thì lúc đó lạm phát khơng cịn nguy hiểm
với nền kinh tế nữa mà ngược lại nó sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho nền kinh tế đó.

Hiểu được điều này nhưng khơng phải bất kỳ nước nào rơi vào tình trang lạm phát
cũng đều làm được. Muốn làm tốt được vấn đề trên còn phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố. Sau đây, chung ta sẽ cùng tìm hiểu giải pháp chung nhất để kiềm chế lạm
phát.
1.4 Giải pháp kiềm chế lạm phát:
Do lạm phát tăng cao và kéo dài đã gây nên những hậu quả lớn trong đời sống của
nhân dân lao động và cho tăng trưởng kinh tế, Chính phủ các quốc gia cần phải có
những biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa và khắc phục lạm phát. Lịch sử chống
lạm phát của các nước cho thấy: Trong hoàn cảnh cụ thể, Chính phủ phải cần thiết
áp dụng những biện pháp mang tính chiến lược.
1.4.1. Chống lạm phát bằng cách giảm cầu:
a) Chính sách tài khố thu hẹp:
Có hai cách thức áp dụng chính sách tài khóa thu hẹp là giảm tiêu dùng
Chính phủ hay tăng thuế trực thu. Nếu áp dụng chính sách giảm tiêu dùng Chính
phủ thì sẽ trực tiếp ảnh hưởng tới tổng cầu về hàng hóa, dịch vụ; cịn việc tăng thuế
trực thu thì sẽ làm giảm thu nhập khả dụng, gián tiếp làm giảm tiêu dùng và kết
quả là giảm tổng cầu.
Hiện nay, Chính phủ Việt Nam đang áp dụng chính sách giảm tiêu dùng của
Chính phủ thông qua việc thắt chặt nguồn vốn đầu tư, nhằm đảm bảo chi đầu tư
vào những dự án mũi nhọn, chắc chắn đem lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên,
biện pháp này còn chưa phát huy tác dụng cụ thể vì cơng tác xây dựng, kiểm định
và thực hiện các dự án đầu tư còn kém, xảy ra tiêu cực gây thất thốt lớn.
Cịn về chính sách tăng thuế, Chính phủ Việt Nam khơng áp dụng vì sẽ gây ảnh
hưởng lớn đến đời sống nhân dân trong tình hình giá cả leo thang. Ngược lại,
8


Chính phủ lại liên tục tăng lương tối thiểu để tăng thu nhập danh nghĩa cho dân
chúng, bù đắp lượng thu nhập đã mất đi do sự trượt giá của đồng tiền, tuy nhiên,
hạn chế của nó là tăng lượng cung tiền trong nền kinh tế, đẩy lạm phát lên cao.

b) Chính sách tiển tệ thu hẹp:
Thực hiện chính sách này bằng cách bán các loại giấy tờ có giá, tăng tỷ lệ dự
trữ bắt buộc, tăng lãi suất chiết khấu.
Khi chính phủ bán các loại giấy tờ có giá như trái phiếu Chính phủ, thì một
lượng tiền trên thị trường được rút về, làm giảm lượng cung tiền, qua đó làm giảm
tiêu dùng và đầu tư, hạn chế lạm phát. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay, việc bán
trái phiếu Chính phủ để hút tiền trong lưu thơng về rồi lại đầu tư vào các dự án,
các doanh nghiệp nhà nước rất lâu thu hồi vốn và kém hiệu quả, mặt khác rất có
thể biến Ngân hàng nhà nước thành con nợ của các Ngân hàng trung gian và phải
trả lãi.
Khi Ngân hàng trung ương tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc tăng tỷ suất chiết
khấu sẽ làm giảm lượng cung tiền trong các ngân hàng trung gian, từ đó làm giảm
đầu tư, hạn chế lạm phát. Mặt khác, nếu áp dụng chính sách này một cách cứng
nhắc sẽ làm ảnh hưỏng xấu đến sản xuất và xuất khẩu, có thể làm giảm đáng kể tốc
độ tăng trưởng.
c) Chính sách thu nhập:
Đây là một chính sách kiểm sốt nền kinh tế bằng các phương pháp kiểm
soát độc đoán đối với lương và giá. Tuy nhiên do chính sách này khơng cịn phù
hợp với nền kinh tế thị trường nên hiện nay Chính phủ các nước khơng cịn áp
dụng chính sách này.

9


1.4.2. Chống lạm phát bằng cách tác động lên cung:
a) Phương pháp cắt giảm chi phí sản xuất:
Thực hiện phương pháp này tức là tìm mọi cách để giảm chi phí bỏ ra cho
các yếu tố đầu vào nhằm hạ giá thành sản phẩm. Ví dụ như cắt giảm số lao động,
sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả nguyên nhiên vật liệu dùng trong sản
xuất…giá cả thị trường sản xuất giảm xuống sẽ kiềm chế có hiệu quả lạm phát.

b) Phương pháp gia tăng năng lực sản xuất trên cơ sỏ nâng cao hiệu quả sản
xuất:
Thực hiện phương pháp này tức là tiến hành đầu tư nâng cao khoa học công
nghệ, ứng dụng trong sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lý sản xuất…nhằm tăng
sản lượng sản phẩm trong khi không tăng giá thành sản phẩm.
Cả hai biện pháp này đang có ý nghĩa hết sức quan trọng trong các biện pháp
kiềm chế lạm phát ở nước ta hiện nay, nhất là trong tình trạng giá xăng dầu trên thị
trường thế giới tăng cao, nhưng tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC quyết
định không tăng sản lượng làm giá hầu hết các yếu tố đầu vào đều tăng. Đối với
một số nước như Trung Quốc, Singapore…, năng lượng của họ không phụ thuộc
vào nhiều vào dầu, bởi họ có nguồn năng lượng thay thế như năng lượng hạt nhân,
năng lượng mặt trời, năng lượng sức gió…trong khi đó ở Việt Nam khơng có, cộng
với ý thức sử dụng năng lượng chưa cao gây lãng phí. Mặt khác, trình độ ứng dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất cịn nhiều hạn chế, chính là ngun nhân đẩy giá
thành lên cao. Chính vì thế, đầu tư trang thiết bị hiện đại, học tập cách quản lý từ
các nước tiên tiến, chính là cách giảm tác động của lạm phát tới nền kinh tế.

10


1.4.3. Chống lạm phát do qn tính:
Sử dụng các thơng tin đại chúng, các động thái của Chính phủ đúng lúc, và
đúng mức nhằm chấn an các thành phần kinh tế, làm cho họ tin tưởng vào sự phát
triển bền vững của nền kinh tế, tin rằng lạm phát sẽ được khống chế có hiệu quả
trong tương lai gần. Do đó, họ loại bỏ trong kế hoạch của mình các yếu tố liên
quan đến tốc độ lạm phát cao, và hạn chế được phần nào lạm phát. Tất nhiên, việc
sử dụng biện pháp này phải dựa trên những thành công của cơng tác phịng chống
lạm phát bằng cách làm giảm cầu hay tác động lên cung.

11



2.Thực trạng về vấn đề lạm phát trong thời gian qua.
(Giai đoạn 2000-2008)
Trong những năm qua, nước ta đã đạt được một số chỉ tiêu về tốc độ tăng trưởng
kinh tế, và duy trì được một tỷ lệ lạm phát vừa phải, con số hợp lý là tỷ lệ lạm phát
thấp hơn tốc độ tăng trưởng. Tuy nhiên, trong thời gian qua, chúng ta luôn được
cập nhật một số thông tin về chỉ số giá tiêu dùng tăng đột biến, đặc biệt là từ cuối
năm 2007 đến nay, dẫn tới tỷ lệ lạm phát tăng cao. Theo đánh giá của Viện nghiên
cứu và quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), thì kịch bản xấu nhất cho con số lạm
phát tới cuối năm 2008 là 22,3%, đây là con số kỷ lục trong vòng 12 năm qua.
Trong chương này, chúng ta cùng tìm hiểu nguyên nhân gây ra lạm phát cao trong
giai đoạn vừa qua.
2.1. Thực trạng về vấn đề lạm phát do ảnh hưởng từ các nguyên nhân chủ
quan:
2.1.1 Lạm phát do cầu:
a) Nguyên nhân:
Lạm phát do cầu, hay còn gọi là lạm phát do cầu kéo, xảy ra do tổng cầu tăng,
tổng cung không thay đổi, hay tổng cung tăng nhưng tăng chậm hơn tổng cầu.
Tổng cầu tăng do một số nguyên nhân:
-Do tăng chi tiêu của các hộ gia đình và tăng đầu tư của các doanh nghiệp. Khi đó,
có một lượng tiền lớn được tung ra cho việc mua hàng hóa và dịch vụ, gây ra một
lượng tiền dư ra trong lưu thông, khiến cho đồng tiền bị mất giá.

12


-Do tăng cán cân thương mại, khiến cho người nước ngồi tăng mua hàng trong
nước, cịn người trong nước giảm mua hàng nước ngồi.
-Do Chính phủ tăng chi tiêu và giảm thuế. Việc Chính phủ tăng chi tiêu của mình

cho hàng hóa và dịch vụ, lượng tiền mà Chính phủ chi mua hàng hóa và dịch vụ sẽ
trực tiếp đưa vào nền kinh tế, làm tăng tổng cầu. Nếu Chính phủ giảm thuế hoặc
tăng chi chuyển nhượng thì sẽ làm tăng thu nhập khả dụng, từ đó làm tăng tiêu
dùng của các hộ gia đình, tức là tăng cầu. Hiện nay, một trong những nguyên nhân
gây ra tình trạng lạm phát cao là việc tăng chi tiêu của Chính phủ.
-Do việc kiểm soát lượng cung tiền của ngân hàng trung ương cịn hạn chế. Ngân
hàng trung ương khơng kiểm sốt được lượng cung tiền hợp lý, cung tiền tăng, làm
tăng lãi suất, kích thích tăng đầu tư tư nhân, làm tăng cầu.
b) Thực trạng:
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng với tốc độ khá
nhanh, khoảng 7%-8%/năm, nhưng chất lượng tăng trưởng kém. Hiện nay nền kinh
tế Việt Nam phát triển chủ yếu là theo chiều rộng, tức là tăng cường khai thác tài
nguyên, đầu tư mở rộng quy mô sản xuất nhằm tăng sản lượng, chưa thực hiện
được việc tăng sản lượng bằng việc nâng cao trình độ sản xuất. Chi tiêu của Chính
phủ cịn cao, trong đó một phần khơng nhỏ là đầu tư cịn kém hiệu quả, thất thốt
do tham ơ, tham nhũng, tiền chi ra nhiều nhưng không thu lại được hàng hóa, khiến
cho lượng cung tiền quá lớn gây ra lạm phát.
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát ngày một tăng cao: năm
2004 là 9,4%, năm 2005 là 8,3%, năm 2006 là 7,5%, năm 2007 là 12,6%, tính đến
tháng 2 năm 2008 con số này là 15,7%, và theo dự báo tỷ lệ này cuối năm 2008 là
19,4% thậm chí lên tới con số 22,3%.

13


Biểu 1:Tốc độ tăng GDP và lạm phát

Bảng 1:

%


Tỷ lệ lạm phát&tốc độ tăng GDP

25

tốc độ

20

tăng GDP

GPD(%)

15

và lạm

Lạm phát (%)
10

phát

5
0

Năm

2004 2004 2005

2005

2006

2007

2006
2008

2007

2008

Năm

GPD(%)

7.79

8.44

8.17

8.48

7.2

Lạm phát (%)

9.4

8.3


7.5

12.6

19.4

Nguyên nhân của việc tỷ lệ lạm phát gia tăng phải kể đến việc gia tăng chỉ
số giá tiêu dùng, đặc biệt là trong quý I năm 2008, so với 3 tháng đầu năm của các
năm trước, và so với tháng 12 của năm trước.
Bảng 2: Chỉ số giá tiêu dùng 3 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ các năm
trước và so với tháng 12 của các năm trước (100%)
Năm
2004
2005
2006
2007
2008

CPI so với tháng trước
tháng 1
tháng 2
tháng 3
101.1
103.0
100.8
101.1
102.5
100.1
101.2

102.1
99.5
101.05
102.17
99.78
102.38
103.56
102.99

CPI so với tháng 12 năm trước
tháng 1
tháng 2
tháng 3
101.1
104.1
104.9
101.1
103.6
103.7
101.2
103.3
102.8
101.5
103.24
103.02
102.38
106.02
109.19

Như vậy so với tháng 12/2007, giá tiêu dùng của tháng 3 đầu năm 2008 đã

tăng 9,19%, trong đó nhóm hàng lương thực tăng 17,91%, thực phẩm tăng 13,8%;
nhà ở, vật liệu xây dựng tăng 8,01%; phương tiện đi lại, bưu điện tăng 7,32%, các
nhóm khác tăng phổ biến từ 0,6%-4,4%. Bình quân mỗi tháng trong qúy I năm
2008, giá tiêu dùng tăng ở mức 16,38% so với quý I năm trước, trong đó hàng thực
14


phẩm tăng 28,41%; lương thực tăng 21,53%; nhà ở, vật liệu xây dựng tăng
17,94%; phương tiện đi lại, bưu điện tăng 10,05%; các nhóm hàng khác tăng phổ
biến từ 2%-7%.
Do giá tiêu dùng tăng cao, đặc biệt là giá lương thực, thực phẩm và các mặt hàng
thiết yếu đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến đời sống của tồn bộ dân cư, mặc dù mức
lương tối thiểu đã tăng 20% từ tháng 1/2008, nhưng do giá tiêu dùng tăng mạnh
nên tiền lương thực tế của người lao động gần như không được cải thiện, sức mua
giảm.
Về mặt chính sách, các chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương còn
kém phát huy hiệu quả. Cung ứng lượng tiền vượt quá mức địi hỏi của nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ mở rộng được phát huy trong thời gian dài, khiến lượng cung
tiền tăng cao, làm đồng tiền bị mất giá gây lạm phát. Theo TS Lê Xuân Nghĩa (Vụ
trưởng vụ chiến lược, Ngân hàng nhà nước Việt Nam), thì nguyên nhân trực tiếp
của lạm phát trong thời gian gần đây là do lượng tiền trong lưu thơng, đặc biệt là
do tình hình thừa USD trong thị trường tiền tệ Việt Nam gần đây, khiến Ngân hàng
nhà nước phải dùng một lượng lớn VNĐ để mua vào lượng dự trữ USD thừa ra,
lượng tiền này được đưa vào lưu thông gây tăng cung tiền. Cụ thể, tính riêng tháng
6/2007 Ngân hàng nhà nước đã bơm ra lưu thông 112.000 tỷ đồng để mua vào 7 tỷ
USD, đây là một con số không nhỏ tạo áp lực tăng tiền trong lưu thông.
Về cán cân thương mại, trong những năm gần đây, nhập khẩu của nước ta đã
tăng mạnh cả về quy mô tuyệt đối, và cả về tỷ lệ so với GDP. Năm 2000 là
15.636,5 triệu USD, bằng 50,1% GDP, thì năm 2007 đã tăng lên tới 62.682,2 triêu
USD, bằng 88%GDP và tới năm 2008, trong 5 tháng đầu năm, nhập khẩu đã lên tới

37.817 triệu USD, tăng 67% so với cùng kỳ năm trước.

15


Do nhập khẩu tăng cao hơn xuất khẩu, nên nhập siêu trong những năm gần
đây tăng mạnh, nếu năm 2000 mới có 1.153,8 triệu USD bằng 8% tổng kim ngạch
xuất khẩu, và bằng 3,7%GDP thì năm 2007 đã lên tới 14.128,8 triệu USD, bằng
29,1% tổng kim ngạch xuất khẩu, và bằng 19,8% GDP. Tính đến tháng 5 năm
2008, nhập siêu đã lên tới 14.419 triệu USD, cao gấp 3,4 lần so với cùng kỳ năm
trước.
2.1.2. Lạm phát do cung:
a) Nguyên nhân:
Lạm phát do cung hay còn gọi là lạm phát do chi phí đẩy, xảy ra khi chi phí
sản xuất gia tăng hay năng lực quốc gia bị giảm sút, trong cả hai trường hợp đều
tạo ra áp lực tăng giá.
Chi phí sản xuất tăng có thể do một số nguyên nhân sau: do sự gia tăng tiền
lương danh nghĩa, tăng giá nguyên, nhiên vật liệu… Do chi phí sản xuất tăng nên
doanh nghiệp buộc phải tăng giá sản phẩm để đảm bảo lợi nhuận, cuối cùng, thị
trường cân bằng tại mức giá cao hơn ban đầu.
Năng lực sản xuất của một quốc gia giảm có thể do một số nguyên nhân: giảm sút
nguồn nhân lực, do sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, do sự biến động chính trị,
chiến tranh, thiên tai… do năng lực sản xuất suy giảm nên khả năng đáp ứng nhu
cầu giảm, gây khan hiếm hàng hóa và tăng giá cả.
b) Thực trạng:
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2007 đến tháng 4/2008 đã tăng 21,4%, nguyên
nhân là do giá thực phẩm, giá nhà đất, giá dầu ngày càng tăng. Nguyên nhân tăng
giá của các mặt hàng này do chi phí nguyên vật liệu đầu vào và chi phí sản xuất
tăng cao, điều này làm cho tốc độ tăng sản xuất công nghiệp quý I thấp hơn tốc độ
16



tăng cùng kỳ năm trước mặc dù giá trị sản xuất vẫn tăng so với cùng kỳ năm trước,
đặc biệt là ngành công nghiệp chế tạo và công nghiệp chế biến, giá nguyên liệu đầu
vào tăng đồng loạt ảnh hưởng đến tính ổn định, đồng thời tiềm ẩn khả năng rủi ro
cao trong sản xuất và tiêu thụ của ngành công nghiệp. Hơn nữa, trong quý I hàng
năm, thường là thời gian các doanh nghiệp tìm kiếm khách hàng, đối tác để ký kết
các hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Do vậy giá nguyên vật liệu tăng cao
và khó lường đã làm cho cả sản xuất và khách hàng đều gặp khó khăn trong việc
ký kết các hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là các hợp đồng có giá
trị lớn, ổn định lâu dài.
Việc giá dầu trên thế giới tăng cao gây bất ổn cho thị trưòng trong nước, đẩy
giá xăng lên cao, ảnh hưởng tới hầu hết tới lĩnh vực sản xuất. Mặt khác tình trạng
thiếu điện, hay việc nới lỏng biên độ giao dịch với VNĐ, tăng lãi suất và rút tiền tệ
ra khỏi hệ thống ngân hàng khiến cho một số mặt hàng như gas, than đá, xi
măng…tăng cao, chưa kể đến một lượng tiền lớn được đem sử dụng để bình ổn thị
trường chứng khốn, hay tình hình cơn sốt ảo của gạo trên thị trường dẫn tới việc
CPI của nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng lên.
Bên cạnh việc tăng giá tiêu dùng, một nguyên nhân gây ra lạm phát cao đó là
sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu do hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp, hệ số
ICOR cao hơn các nước trong khu vực. Thêm vào đó, việc bố trí đầu tư phát triển
chưa tập trung, mà còn phân tán, dàn trải, trên 13.400 cơng trình, dự án, mới có
khoảng 30% cơng trình được hồn thành, cịn lại 70% cơng trình, dự án dở dang,
kéo dài, vơ hình dung tiếp tay cho việc nợ đọng vốn, lãng phí, thất thốt. Trong khi
đó, việc đầu tư của các tập đồn, các tổng cơng ty lại gặp phải hai vấn đề lớn: đầu
tư tràn lan, không hiệu quả vào những lĩnh vực không phải sở trưịng, nhiều rủi ro,
khơng tập trung vào lợi thế so sánh của họ do vậy không mang lại hiệu quả, bên
cạnh đó việc thành lập ra các ngân hàng, các cơng ty tài chính thuộc nội bộ của họ
17



là một sai lầm về mặt quản trị, bởi đầu tư sang lĩnh vực khác mới là hoạt động
nhằm đem lại lợi nhuận, còn việc đem tiền đầu tư vào lĩnh vực mà họ khơng có khả
năng để phục vụ cho chính hoạt động kinh doanh của mình đem lại rủi ro rất lớn.
Một nguyên nhân quan trọng nữa góp phần tăng tỷ lệ lạm phát, đó là dịng
vốn FDI, FII ồ ạt chảy vào Việt Nam trong thời gian qua (trong 7 tháng đầu năm
2007 tương ứng là khoảng 7,5 tỷ USD, và 6,2 tỷ USD), khiến cho Ngân hàng nhà
nước phải đóng vai trị người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa thêm tiền đồng vào
lưu thông một lượng tương ứng, khiến cho cung tiền tăng, mặt khác đối với nền
kinh tế mà nền kiểm soát điều hành cịn yếu, thì lượng vốn ồ ạt sẽ tăng áp lực tăng
cung tiền đối với Ngân hàng nhà nước, nơi có khả năng thanh khoản lớn nhất, vì
thế đây cũng chính là nguyên nhân gia tăng lạm phát.
2.1.3. Lạm phát do quán tính:
a) Nguyên nhân:
Lạm phát do quán tính hay còn gọi là lạm phát do dự kiến, là tỷ lệ lạm phát
hiện tại mà mọi người dự kiến nó sẽ tiếp tục trong tương lai. Tỷ lệ này thường
được đưa vào các hợp đồng kinh tế, các kế hoạch hay các thoả thuận khác. Và
chính vì mọi người đều đưa tỷ lệ lạm phát vào các hoạt động của mình nên cuối
cùng nó trở thành hiện thực. Một ví dụ cụ thể của hiện tượng lạm phát do quán tính
là khi nền kinh tế có lạm phát cao, mọi người có xu hướng chỉ giữ lại một lượng
tiền mặt tối thiểu để chi tiêu hàng ngày, họ đem tiền đổi lấy các loại tiền mạnh
khác, vàng hay các loại hàng hóa để tích trữ giá trị, làm tăng lượng tiền lưu thông
trên thị trường, càng làm đồng tiền mất giá và tăng lạm phát.
b) Thực trạng:

18


Trong thời gian qua, việc biến động giá vàng, và giá USD trên thị trường thế
giới đã ảnh hưởng không ít tới tâm lý người dân. Tình trạng mua bán vàng và

ngoại tệ trong những tháng đầu năm 2008 trở nên sôi động khi giá vàng tăng lên
trên mức 1,8 triệu đồng/chỉ, thậm chí lên tới 1,9 triệu đồng/chỉ. Trên thị trường tự
do, giá USD chênh lệch so với tỷ giá của liên ngân hàng khiến cho người dân đổ
xô đi mua USD tạo nên cơn sốt USD trên thị trường, điều này khiến cho đồng nội
tệ dường như đang mất giá. Ngoài ra, sự tụt dốc của thị trường chứng khoán, làm
ảnh hưởng tới tâm lý người dân và họ tin rằng tình hình tài chính đang bất ổn bất
ổn.
2.2. Thực trạng về lạm phát do các nguyên nhân khách quan:
2.2.1. Ảnh hưởng từ thiên tai, dịch bệnh:
Rét đậm, rét hại trong những tháng đầu năm 2008 ở 33 địa phương thuộc
vùng đồng bằng sông Hồng, Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và duyên hải Nam
Trung Bộ, đã gây thiệt hại đến hầu hết đến diện tích lúa đã cấy, mạ đã gieo, rau
màu, gia súc, gia cầm và diện tích ni trồng thủy sản. Tổng giá trị thiệt hại do
thiên tai ước tính gần 700 tỷ đồng.
Cụ thể, do ảnh hưởng của rét đậm, rét hại, đã làm cho 127 nghìn con trâu bị
bị chết, bên cạnh đó dịch cúm gia cầm, lợn tai xanh. lở mồm long móng ở gia súc
xảy ra trên bình diện cả nước làm một trong những nguyên nhân làm tăng giá mặt
hàng lương thực, thực phẩm, khiến cho chỉ số CPI của nhóm hàng này liên tục tăng
trong quý I năm 2008.
2.2.2. Ảnh hưởng từ nền kinh tế thế giới:
Trong xu thế hội nhập toàn cầu, Việt Nam đã và đang trên con đường hội
nhập, vì thế mọi biến động trong nền kinh tế thế giới cũng ít nhiều ảnh hưởng tới

19


nền kinh tế Việt Nam và vì thế lạm phát của Việt Nam tăng cao còn do ảnh hưởng
của nền kinh tế thế giới.
Trước hết, tình hình giá nguyên liệu trên thế giới đang nóng lên với sự tăng
giá của dầu thô trên 100$ một thùng, ảnh hưởng mạnh tới tình hình kinh tế Việt

Nam, nhất là trong tình hình sản xuất cịn lãng phí nhiều ngun nhiên vật liệu có
nguồn gốc từ dầu mỏ, chưa có các nguyên nhiên vật liệu thay thế như năng lượng
mặt trời, sức gió, năng lượng hạt nhân…thì việc giá dầu tăng gây ảnh hưởng đến
hầu hết các ngành, lĩnh vực sản xuất, điều này làm cho chi phí sản xuất tăng cao và
bắt đầu cho một cơn bão giá, tạo điều kiện cho lạm phát tăng, ảnh hưởng tới tăng
trưởng kinh tế.
Thứ hai, sự sụt giảm giá của đồng USD trên thế giới so với các đồng tiền
khác, trong khi đồng nội tệ của nhiều nước, nhất là những nước có bn bán lớn
với Việt Nam đã điều chỉnh tăng giá so với USD, thì việc mất giá so với USD, tuy
có tạo thuận lợi cho xuất khẩu nhưng cũng làm cho tình trạng nhập khẩu lạm phát
bị khuyếch đại lên. Mặt khác trong những tháng đầu năm 2008, Ngân hàng nhà
nước đã điều chỉnh đồng Việt Nam lên giá so với USD, nhưng do tác động phụ của
việc tăng giá đồng nội tệ vào đúng thời điểm nhập siêu tăng mạnh khiến cho giá
USD trong tháng 5/2008 đã tăng lên, trên thị trường tự do xuất hiện cơn sốt giá
USD. Theo tính toán của ngân hàng thế giới, 1 USD tại Việt Nam, có sức mua
tương đương với 3,4 USD tại Mỹ, điều này giải thích rằng hàng nhập khẩu vào
Việt Nam hiện nay bị đắt kép: vừa đắt do đơn giá tình bằng USD tăng, trong khi
giá USD lại đang giảm mạnh trên thế giới, lại vừa đắt do giá đồng Việt Nam bị neo
giữ vào đồng USD, và vừa đắt do cánh kéo tỷ giá.
2.3. Những khó khăn trước mắt đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam:
Nhìn lại tác động của các chính sách quản lý kinh tế hiện nay của nước ta để
thấy những hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách, chính những hạn chế này
20



×