Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Triết học của khổng tử nho giáo và ý nghĩa của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội trong thời đại của chúng ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.33 KB, 16 trang )

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Nếu như triết học phương Tây thiên về hướng ngoại, với xu hướng tập
trung nghiên cứu thế giới vật chất để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới, thì
triết học phương Đơng nói chung thiên về hướng nội, nghiên cứu con người
và thế giới nội tâm của con người và từ đó đi đến các vấn đề xã hội.
Khổng học là một học thuyết chính trị- xã hội ln lấy đức làm trọng, là
công cụ quản lý xã hội của giai cấp thống trị Trung Quốc. Với rất nhiều
giáo lý phù hợp với xã hội Việt Nam, Khổng học từng bước được tiếp nhận
và đề cao, đặc biệt trong quản lý đất nước, đào tạo con người, phát triển kinh
tế xã hội.
Thời gian vừa qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong
việc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội, bên cạnh đó cịn tồn tại những
hạn chế. Những hạn chế này có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó yếu tố
con người là vấn đề cốt lõi, Đảng ta xác định con người là một trong
những nhân tố quyết định hàng đầu tới sự phát triển của đất nước. Con
người mới mà hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang quyết tâm xây dựng là
con người phát triển toàn diện về mọi mặt: thể chất, trí tuệ, đạo đức,…Quán
triệt tư tưởng trên, Nhà nước và nhân dân ta đã tập trung huy động toàn bộ
lực lượng xã hội tham gia vào nhiệm vụ xây dựng con người mới, trong đó
có việc tiếp thu các giá trị truyền thống tốt đẹp và tinh hoa văn hóa nhân
loại. Một trong những tư tưởng quý báu trong kho tàng nhân loại, thấm
đẫm truyền thống phương Đơng, có ảnh hưởng sâu sắc đến việc hình
thành con người Việt Nam thời phong kiến chính là tư tưởng của Khổng Tử.
Nếu chúng ta biết kế thừa có chọn lọc những nhân tố có giá trị trong tư tưởng
của Khổng Tử thì sẽ có được nhiều bài học kinh nghiệm quý giá, góp phần

HÀ THỊ THU HIỀN


1

CAO HỌC 1102A


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

giải quyết những vấn đề đặt ra trong vấn đề xây dựng con người mới hiện
nay. Từ ý nghĩa đó tơi chọn đề tài: “Triết học của Khổng Tử (nho giáo) và
ý nghĩa của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội trong thời đại của
chúng ta”.
2.Mục đích tiểu luân:
Mục đích Tiểu luận là làm rõ tư tưởng của Khổng Tử về giáo dục
con người, đồng thời làm rõ ý nghĩa của nó trong việc phát triển kinh tế xã
hội trong thời đại của chúng ta.
3.Phạm vi, đối tượng nghiên cứu:
Trong Tiểu luận này, tôi đề cập đến tư tưởng “đức trị” và học thuyết
“chính danh” của Khổng Tử; vai trò của những tư tưởng này trong việc xây
dựng con người phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội trong thời đại của
chúng ta.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
- Tiểu luận thực hiện trên cơ sở các tác phẩm của Khổng Tử; một số
tác phẩm và và cơng trình nghiên cứu tiêu biểu về Khổng Tử; nhiều cơng trình
nghiên cứu về xây dựng con người mới ở nước ta. Tiểu luận dựa trên quan
điểm chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam về con người và về chiến lược xây dựng và phát triển con
người
- Tiểu luận dựa vào phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, đồng
thời sử dụng các phương pháp lịch sử và logic, phương pháp phân tích và
tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê…


HÀ THỊ THU HIỀN

2

CAO HỌC 1102A


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC KHỔNG TỬ
I.Tư tưởng “đức trị”:
Đọc Luận ngữ chúng ta thấy hầu như mọi tư tưởng, mọi luận bàn của thầy
trò Khổng Tử đều xoay quanh đường lối “Đức trị”, vậy trước hết hãy xem
Khổng Tử đã quan niệm về “Đức” như thế nào?
Với Khổng Tử, đạo đức là gốc của con người, nói đến con người trước hết
là nói đến đạo đức. Đúng như thiên “ Học nhi” – sách Luận ngữ đã viết: “…
người quân tử chăm chú vào việc gốc, gốc mà vững thì đạo đức sinh ra…”
Trước thời Khổng Tử đã xuất hiện khái niệm quân tử nhưng thời đó nó chỉ
cái địa vị tơn q trong xã hội, chứ khơng trỏ cái phẩm tính con người. Đến thời
mình, Khổng Tử đã đề ra những tiêu chuẩn về tài đức, về tư cách phẩm chất để
thành người quân tử đáng được nắm quyền trị dân, nhờ đó tiếng qn tử khơng
cịn thuần t chỉ người cầm quyền như trước nữa, mà chủ yếu là có nghĩa chỉ
người có đức dù họ cầm quyền hay khơng.
Theo ơng “...đạo trời có bốn đức lớn là: ngun, hanh, lợi, trinh; đạo
người bởi đó cũng có bốn đức là: nhân, nghĩa, lễ, trí. Nguyên tức là nhân đứng
đầu các điều thiện; hạnh tức là lễ, hội hợp các cái đẹp; lợi tức là nghĩa, định rõ
các phận cho điều hịa; trinh tức là trí, giữ vững cái chính để làm gốc cho mọi
sự...”. (Khổng Tử – Trần Trọng Kim). Trong bốn đức cần có, đức Nhân được

Khổng Tử nhắc đến nhiều nhất trong Luận ngữ thì đủ rõ là ông đề cao chữ Nhân,
xem đức Nhân là tông chỉ duy nhất trong tư tưởng của mình. Vậy thử xem ý
nghĩa của đức Nhân trong tư tưởng của Khổng Tử như thế nào.
Thế nào là Nhân? Các đệ tử hỏi Khổng tử, tùy học lực tư cách mà ông trả
lời mỗi người một khác. Nhưng tựu trung lại, theo ông Nhân là yêu người, yêu
vạn vật, muốn cho vạn vật cách đắc kỳ sở; là hàn động phải hợp theo thiên lý chí
HÀ THỊ THU HIỀN

3

CAO HỌC 1102A


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

công và bỏ hết cái tư ý. Lịng u ấy xuất ư tự nhiên, khơng miễn cưỡng chút
nào.
Nhân là cái gốc lớn của sự sinh hóa trong trời đất. Thế gian nhờ đó mà
đứng, vạn vật nhờ đó mà sinh, quốc gia nhờ đó mà cịn, lễ nghĩa nhờ đó mà phát
hiện ra. Cho nên Khổng giáo lấy nhân làm tông chỉ. Trong Luận ngữ thiên Lý
Nhân có viết: “…người qn tử trong bữa ăn cũng khơng trái nhân, vội vàng
cũng phải theo nhân, hoạn nạn cũng phải theo nhân…”. Nghĩa là bao việc, bao
hành vi đạo đức là căn bản ở chữ nhân cả. Nhân là điều trọng yếu như thế cho
nên Khổng giáo dạy người ta chỉ cốt ở đạo nhân mà thôi. Nhân là cái đích tu
dưỡng của Khổng giáo. Ai đã tu đến bậc nhân thì làm việc gì cũng đúng, hợp với
thiên lý lưu hành của tự nhiên vậy.
Đặc biệt, Khổng Tử quan niệm về "đức" của người quân tử không phải chỉ
trong phẩm hạnh, tri thức mà còn là trong lời nói, hành động giúp đời, như trong
sách Trung dung có viết “...quân tử cử động có thể đời đời làm đạo cho thiên hạ,
hành vi có thể đời đời làm khn phép cho thiên hạ, nói năng có thể đời đời làm

chuẩn tắc cho thiên hạ, người ở xa trông mong, người ở gần không bao giờ
chán...” , hoặc như trong Luận ngữ thiên Vi tử cũng có viết “...Người quân tử ra
làm quan là làm việc nghĩa vậy...”.
Vây nên có thể nói đạo của Khổng tử vốn lấy chữ đức làm gốc, phải tu
dưỡng để đạt được bốn đức nhân, nghĩa, lễ, trí thì mới được gọi là người qn tử
và ơng xem chính trị là cái cơng cụ để người quân tử truyền bá đạo với đời.
Khổng Tử đề xuất đường lối "Đức trị" - đường lối trị nước bằng đạo đức mang
đậm dấu ấn độc đáo của ông. Nguyễn Hiến Lê rất có lý khi nhận xét rằng:
"Khổng Tử là người đầu tiên nói nhiều nhất đến tư cách người cầm quyền, đến
bổn phận họ phải sửa mình, phải làm gương cho dân, phải giáo hố dân. Ơng
khơng tách rời đạo đức và chính trị, ơng đã đạo đức hố chính trị. Và tất cả triết

HÀ THỊ THU HIỀN

4

CAO HỌC 1102A


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

lý chính trị của ơng gồm trong danh từ đức trị, mà danh từ này có nghĩa là người
trị dân,phải trị dân bằng đức, chứ không bằng bạo lực...".
Khổng Tử thật sự tin rằng, "...làm chính trị mà dùng đức thì như sao Bắc
Đẩu ở một nơi mà các ngơi sao khác hướng về cả..." (trích Luận ngữ). Cơ sở tư
tưởng "Đức trị" của ông suy đến cùng là lòng thương yêu con người, lòng tin ở
bản tính con người có thể cảm hố được. Ơng quan niệm phép trị dân "...cần gì
phải dùng biện pháp giết người?... Đức hạnh của người quân tử như gió, mà đức
hạnh của dân như cỏ. Gió thổi thì cỏ tất rạp xuống..." (trích Luận ngữ). Khổng
Tử đã nói: “...người trên thích điều nhân thì kẻ dưới tranh nhau làm điều nhân.

Người cai quản dân phải lập cái đạo của mình cho chính để dạy dân tơn q điều
nhân...” . Đọc Luận ngữ chúng ta thấy rõ, trước sau Khổng Tử muốn lấy đạo đức
mà cảm hóa người hơn là dùng hình pháp mà trị người. Ơng nói: “...dùng chính
lệnh mà khiến, dùng hình pháp mà tề nhất thì dân khỏi tội nhưng khơng có lịng
hổ thẹn; dùng đức mà khiến, dùng lễ mà tề nhất, thì dân có lịng hổ thẹn, lại cố
làm điều hay...” (trích Luận ngữ).
Tin vào "Đức trị" như vậy và cả đời ôm mộng cứu đời bằng "Đức trị",
Khổng Tử thật sự tin rằng: nếu có ai dùng ơng làm quốc chính "thì một năm kỷ
cương đã khá, ba năm sẽ thành cơng". Tóm lại, với Khổng Tử, "Đức trị" có sức
mạnh vạn năng. Đó là đường lối "dù không ra lệnh dân cũng theo", như vua
Thuấn chỉ kính cẩn đoan trang ngồi trên ngai, chẳng làm gì mà thiên hạ bình trị
II. Học thuyết “chính danh”:
Nhằm ổn định trật tự xã hội, ông đưa ra học thuyết “Chính danh”. Theo
ơng, danh với thực phải hợp nhau, nếu khơng hợp nhau thì gọi tên ra, người ta sẽ
khơng hiểu, lí luận sẽ khơng xi, mọi việc sẽ khơng thành, lễ nhạc, hình pháp
khơng định được mà xã hội sẽ hỗn loạn.

HÀ THỊ THU HIỀN

5

CAO HỌC 1102A


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Ông chia người trong xã hội thành hai loại: quân tử và tiểu nhân với tiêu chuẩn
rất rõ ràng: quân tử thời hiểu được đạo, thi hành đạo để mưu lợi cho mn người
cịn tiểu nhân chỉ lợi dụng đạo để mưu lợi cho cá nhân mình. Thế nên người đạt
được đạo –người quân tử – nên nắm lấy chính sự thì mới làm cho xã hội bình trị,

ổn định được.
Ơng nói: "...chính sự là làm cho mọi việc ngay thẳng, công minh. Lấy
ngay thẳng mà khiến mọi người thì ai dám khơng ngay thẳng..." (trích Luận ngữ
– Nhan Un). Ơng cho rằng việc chính trị hay dở là do người cầm quyền.
Người cầm quyền biết nghe đường chính để sửa mình theo đạo thì việc gì cũng
thành chính cả. Ơng cịn nói thêm “mình ngay chính thì khơng sai khiến người ta
cũng làm, mình khơng ngay chính thì tuy có sai khiến cũng khơng ai theo”.
Ơng yêu cầu người cầm quyền phải có cái đức của người quân tử để thi
triển cái đạo của đức, làm gương cho mọi người cùng theo mà thành kỷ cương
cho toàn xã hội, nghĩa là người cầm quyền phải đạt được cái danh người quân tử
theo tiêu chuẩn đã nói ở trên.
Trong mối quan hệ xã hội, ông cho rằng mỗi người đều có một địa vị, bổn
phận nhất định, và tương ứng với nó là một danh nhất định. Mỗi danh đều có
những tiêu chuẩn riêng. Chính danh là phải tôn trọng tôn ti trật tự, gọi là luân.
Trong Ngũ luân (vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn - bè; quân - thần,
phụ - tử, phu - phụ, huynh - đệ, bằng - hữu) có ba mối quan hệ cơ bản, tam
cương (quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương). Mỗi quan hệ lại
có những tiêu chuẩn riêng, chẳng hạn quân nhân thần trung, phu từ tử hiếu, phu
xướng phụ tòng...
Người nào mang danh nào phải thực hiện những tiêu chuẩn của danh đó
nếu khơng phải gọi bằng danh khác. Khi danh tự đã chính thì việc gì có nghĩa lý
của việc ấy; khi danh tự đã định rõ thì người nào có địa vị chính đáng của người
ấy, trên ra trên, dưới ra dưới, trật tự phân minh. Một nước thịnh trị là trong nước
HÀ THỊ THU HIỀN

6

CAO HỌC 1102A



TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

“...vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con...” (Luận ngữ –
Nhan Uyên). Khi Tử Lộ hỏi về chính trị, Khổng tử đáp: Muốn trị nước, trước hết
phải thực hiện “chính danh”, bởi vì “...nếu khơng chính danh thì lời nói sẽ khơng
đúng đắn, lời nói khơng đúng đắn sẽ dẫn đến việc thi hành sai… Cho nên nhà
cầm quyền xưng danh thì đúng với phận, với nghĩa, đã xưng danh đúng với danh
phận, thì phải tùy theo đó mà làm...” (Luận ngữ - Tử Lộ). Giữ trật tự cho minh
và danh phận cho chính tức là giữ lấy cái căn bản của chính trị vậy.

HÀ THỊ THU HIỀN

7

CAO HỌC 1102A


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

CHƯƠNG II: Ý NGHĨA TRIẾT HỌC KHỔNG TỬ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ CỦA CHÚNG TA
2.1 Vấn đề về xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay”:
Con người luôn là nhân tố quyết định đối với sự phát triển của bất cứ xã
hội nào trong bất cứ thời đại nào. Đây là một yêu cầu khách quan của xã
hội. Bởi mỗi xã hội đều có những đặc điểm riêng, do vậy cần có những con
người phù hợp với những đặc điểm của nó. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
nói: “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã
hội chủ nghĩa”.
Tuy nhiên, con người mới mà chúng ta xây dựng trong thời kỳ này cịn rất
nhiều phiến diện, tạo ra sự trì trệ, kìm hãm sự phát triển xã hội, ảnh hưởng

đến mục tiêu xây dựng con người mới. Chúng ta chỉ chú trọng tới yếu tố
chính trị- xã hội ít chú ý tới các giá trị kinh tế- vật chất; chỉ đề cao con người
tập thể mà quên mất con người cá nhân; chú trọng nhiều về mặt đạo đức mà
quên mất mặt tài năng; say sưa với những giá trị truyền thống mà thiếu đi
những giá trị hiện
đại,…
2.2. Sự cần thiết khách quan của việc xây dựng con người mới ở Việt Nam
hiện nay:
Trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay, việc xây dựng con người mới trở thành đòi hỏi cấp bách mang tính khách
quan của tồn xã hội. Bởi vì: Thứ nhất, con người mới vừa là sản phẩm, vừa
là chủ thể của sự nghiệp đổi mới đất nước; Thứ hai, con người mới vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của q trình đổi mới và đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Trong bối cảnh khoa học- kỹ thuật phát triển như vũ bão và đang ngày
càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp; lực lượng sản xuất đã mang tính
quốc tế hóa cao, đang chứng tỏ cho thế giới thấy trí tuệ con người là nguồn

HÀ THỊ THU HIỀN

8

CAO HỌC 1102A


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

tài nguyên quý nhất của quốc gia, điều này càng đặt ra vấn đề xây dựng con
người mới.
2.3. Sự cần thiết khách quan của việc kế thừa giá trị truyền thống trong sự

nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay:
Đảng ta nhiều lần khẳng định: “Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở
rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn
hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng
tự hào dân tộc, tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới,…”
Việc kế thừa truyền thống chúng ta cần phải có những phương pháp tiếp
thu một cách khoa học mới đem lại hiệu quả thực sự. Vậy những phương pháp
đó là gì?
Một là, phải kế thừa có phê phán văn hoá truyền thống, vượt qua những
hạn chế lịch sử để làm phong phú thêm nền văn hoá đương đại và phục vụ tốt
nhất cho mục tiêu phát triển.
Hai là, phải nâng cao những gì đã được kế thừa từ truyền thống lên ngang
tầm thời đại mới ở một trình độ mới, bằng cách bổ sung thêm những tư tưởng
mới, cho phù hợp với hoàn cảnh hiện phát triển của đất nước.
Ba là, quá trình kế thừa văn hoá truyền thống phải gắn liền với sự phát
triển sáng tạo, trong đó kế thừa những yếu tố tích cực chính là tạo tiền đề, tạo
động lực cho sự phát triển và sáng tạo.
2.4. Những giá trị tích cực trong tư tưởng của Khổng Tử với việc xây dựng
con người mới ở Việt Nam:
Thứ nhất, xây dựng một mẫu người lý tưởng làm nòng cốt cho xã hội.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu:
dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh chúng ta rất cần phải
xây dựng những con người mới, những con người xã hội chủ nghĩa có đủ năng
lực và phẩm chất để thực hiện thành cơng sự nghiệp cao cả đó. Con người mới
chúng ta cần xây dựng, trước hết và quan trọng, là đội ngũ cán bộ- một trong

HÀ THỊ THU HIỀN

9


CAO HỌC 1102A


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

những nhân tố thúc đấy mạnh mẽ sự phát triển của xã hội :"Cán bộ là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của
đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng".
Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, đội ngũ cán bộ đã chưa đáp ứng được
nhiệm vụ của cách mạng trong tình hình mới, đã bộc lộ nhiều khuyết điểm và
yếu kém. Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khóa (VIII)
về chiến lược cán bộ khẳng định: “Đội ngũ cán bộ hiện nay, cả về chất lượng, số
lượng và cơ cấu đều có nhiều mặt chưa ngang tầm với địi hỏi của thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Sự “chưa ngang tầm” của đội ngũ cán bộ không chỉ ở
sự yếu kém về mặt năng lực lãnh đạo, quản lý, mà nặng nề hơn là sự tha hóa về
mặt đạo đức. Rõ ràng, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ hiện nay đang là yêu cầu
hết sức bức thiết.
Như vậy, có thể thấy tư tưởng giáo dục và đào tạo người quân tử- người
quản lý xã hội của Khổng Tử thực sự còn nhiều ý nghĩa trong xã hội ta hiện nay.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát
triển những chuẩn mực đạo đức đó trở thành những chuẩn mực cho đội ngũ cán
bộ trong giai đoạn cách mạng mới. Theo Chủ tịnh Hồ Chí Minh, đạo đức cách
mạng là nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.
Thứ hai, trong xây dựng con người mới phải lấy đạo đức làm gốc.
Tiếp thu tư tưởng đạo đức của Khổng Tử, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan
niệm, đạo đức là cái gốc của con người. Đạo đức người cách mạng hiện nay là
cần, kiệm, liêm, chính. Người nói: “Trời có bốn mùa: Xn, Hạ, Thu, Đơng. Đất
có 4 phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc. Người có 4 đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì khơng thành trời; thiếu một phương, thì khơng thành đất;
thiếu một đức thì khơng thành người” Cùng với việc đề cao nhân tố đạo đức

trong giáo dục con người, coi đó như là một phương thức hữu hiệu để bình ổn
và phát triển xã hội, Khổng Tử còn để lại cho chúng ta nhiều tư tưởng có giá trị
trong nội dung đạo đức của ơng. Bác Hồ từng nói: “Học thuyết của Khổng Tử
HÀ THỊ THU HIỀN

10

CAO HỌC 1102A


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân”. Trước thực trạng suy thoái
đạo đức như hiện nay, việc kế thừa những nội dung đạo đức tích cực của Khổng
Tử sẽ góp phần không nhỏ vào việc giáo dục và nâng cao đạo đức con người.
Vấn đề tu thân là vấn đề hàng đầu trong tư tưởng giáo dục đạo đức
của Khổng Tử. Ông cho rằng nhân cách, đạo đức con người không phụ thuộc
vào tính trời cho, mà được quyết định bởi cơng rèn luyện, tu dưỡng của chính
con người. Muốn trở thành chữ "NGƯỜI" đòi hỏi mọi người trong xã hội, bất
kỳ ở danh vị nào cũng phải tu thân.
Sự nghiệp xây dựng con người mới là một sự nghiệp vô cùng khó khăn
và lâu dài, địi hỏi sự góp sức của tồn xã hội, nhưng cái quyết định sự thành
cơng
lại là ở chính sự nỗ lực của bản thân mỗi người, nhất là những người cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: “chúng ta làm cách mạng nhằm
mục đích cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội
thì trước hết phải tự cải tạo bản thân chúng ta”.
Tuy nhiên, việc kế thừa tư tưởng tu thân của Khổng Tử cũng cần có sự
chọn lọc, bổ sung và phát triển cho phù hợp với giai đoạn mới. Hạn chế lớn
nhất trong tư tưởng tu thân của Khổng Tử là chỉ tu thân về mặt đạo đức, về

mặt đối nhân xử thế mà khơng có tu thân về mặt tri thức khoa học, kỹ thuật,
về mặt ý thức.
Tính tích cực chính trị
Tính tích cực chính trị của Khổng Tử được thể hiện rõ trong mục đích
giáo dục. Trong đó, Ơng dạy các học trị phải “học vì người” chứ khơng “học
vì mình”, tức là người học phải đem cái học của mình để phị vua, giúp nước,
giúp dân. Ngược lại, nếu có tài mà khơng đem ra làm quan tức là thiếu nghĩa
quân thần. Chính tư tưởng nhập thế, học để làm quan của Khổng Tử đã có ảnh
hưởng lớn tới tư tưởng giáo dục của Trung Quốc và nhiều nước châu Á khác,
trong đó có Việt Nam.
Bên cạnh sự thối hóa của khơng ít cán bộ, đảng viên, thì sự suy đồi về
HÀ THỊ THU HIỀN

11

CAO HỌC 1102A


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

đạo đức, lối sống của một bộ phận thanh niên cũng đang trở thành nỗi lo. Do
đó, để xây dựng thành công con người mới xã hội chủ nghĩa, cũng như thực
hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước, đòi hỏi chúng ta phải tăng cường
giáo dục lý tưởng chính trị đúng đắn.
Đề cao vai trị của gia đình và giáo dục gia đình
Trong những cơ sở hình thành tư tưởng Nhân của Khổng Tử, thì Hiếu, Lễ
là một trong những cơ sở rất quan trọng. Hiếu, Lễ là những chuẩn mực đạo đức
trong gia đình. Chính vì vậy, Khổng Tử rất coi trọng mối quan hệ trong gia
đình đối với việc làm hình thành đạo đức con người. Khổng Tử cho rằng mọi
người trong xã hội đều bị trói buộc bởi 5 mối quan hệ (ngũ luân): Vua- tôi,

cha- con, chồng- vợ, anh- em, bạn- bè. Năm mối quan hệ này phản ánh hai
mặt của cuộc sống hiện thực đó là quan hệ trọng gia đình và quan hệ ngồi xã
hội. Trong năm mối quan hệ đó, Khổng Tử đề cập đến 3 mối quan hệ trong
gia đình (cha- con, chồng- vợ, anh- em). Đạo đức Khổng Tử chính là những
chuẩn mực trong đối nhân xử thế giữa người với người, mà trước hết là từ
trong gia đình rồi tới xã hội. Xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững là nền
tảng cho sự ổn định xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế và bảo vệ tổ
quốc, là nơi phòng chống có hiệu quả nhất mọi tệ nạn xã hội đang làm phương
hại đời sống tinh thần của con người.
Như vậy, cùng với tư tưởng lấy đạo đức làm gốc, Khổng Tử còn để
lại cho chúng ta nhiều bài học giá trị về phương pháp tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức. Một trong những hạn chế trong đạo đức của Khổng Tử là ông chỉ giới
hạn đạo đức trong phạm vi đạo đức cá nhân. Vì vậy, trong giáo dục đạo đức cần
mở rộng phạm vi đạo đức để con người được phát triển được tồn diện và hài
hịa hơn.
2.5. Về vấn đề phát triển kinh tế:
Trải qua hàng chục thế kỷ, những nhà Khổng bảo thủ thường trích dẫn
những lời nói của Khổng Mạnh để biện minh cho những chính sách bảo thủ về
mặt kinh tế. Nhưng thực ra trong “Luận ngữ” ta thấy Khổng Tử cũng khuyến
khích động viên làm giàu. Trong thiên “Thái Bá” chương VII, ơng nói: “Nước có
đạo, ta nghèo và hèn là hổ thẹn”. Như vậy, ơng muốn ám chỉ nước có đạo mình
HÀ THỊ THU HIỀN

12

CAO HỌC 1102A


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC


phải giàu; nghèo là đáng hổ thẹn, là có tội. Khi Đức Khổng tử đi đến nước Vệ,
thầy Nhiễm Hữu hỏi: “Dân đã đông, nhà cầm quyền phải làm thêm gì nữa?”.
Đức Khổng Tử đáp: “Phải làm cho dân giàu”. Rõ ràng rằng trong cái đạo của
Khổng Tử muốn thực thi có quan điểm làm cho dân được giàu lên.
Hiện nay chúng ta cũng đang khuyến khích mọi người làm giàu, giàu cho bản
thân mình cũng như giàu cho đất nước. Trong ba mục tiêu lớn của Đảng và Nhà
nước: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”, thì “dân giàu” được
đặt ở vị trí thứ nhất. Điều này chứng tỏ ở Việt Nam rất coi trọng việc “làm giàu”,
cơng việc mà trước đó 20 năm được gán cho cái nhãn “tư sản”.
Khổng Tử không đề ra việc làm giàu một cách chung chung; việc làm giàu
gắn liền với đạo lý, giàu không đúng đạo lý khơng làm, giàu bất nghĩa khơng
bền. Khổng Tử nói: “...giàu cùng sang, người ta ai cũng muốn, nhưng chẳng
đúng đạo lý mà được giàu sang, thì chẳng ở cảnh ấy...” (Luận ngữ - Lý Nhân).
Khổng Tử khuyến khích việc làm giàu, nhưng cái giàu đó phải chân chính. Đối
với ông: “...nước không có đạo mà giàu và sang là đáng hổ thẹn...” (Luận ngữ Thái Bá). Như vậy, ở đây xuất hiện cái gọi là đạo lý làm giàu hay đạo đức trong
kinh doanh. Giàu phải theo và đúng đạo lý thì mới lâu và bền được.
Hiện nay ở Việt Nam, Nhà nước khuyến khích làm giàu một cách chân
chính. Điều đó được thể hiện bằng các chính sách trên mọi lĩnh vực. Cá nhân
hồn tồn có quyền kinh doanh trong những ngành có lợi cho kinh tế quốc dân
do pháp luật quy định. Mọi người kinh doanh được bảo đảm quyền sở hữu và thu
nhập hợp pháp. Nhà nước thừa nhận về lâu dài việc thuê mướn nhân cơng. Với
đường lối chính sách như vậy, phải chăng cách tiếp cận của Nhà nước ta và
Khổng Tử đối với việc làm giàu chân chính có sự tương đồng?!.

HÀ THỊ THU HIỀN

13

CAO HỌC 1102A



TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

KẾT LUẬN

Một học thuyết ra đời cách đây hơn 2.500 năm, đến nay vẫn còn ảnh hưởng
đến sự phát triển của thế giới (đặc biệt là Đông Á) thì giá trị của nó về mặt lý
luận và thực tiễn là điều chúng ta không dễ bỏ qua. Ngoại trừ những điều được
coi là có tính chất phong kiến và lỗi thời, triết lý Khổng giáo – sau khi được
nhuận chính do sự thay đổi của hồn cảnh – vẫn còn đáng trân trọng và bền
vững.
Hệ thống các quan điểm về đức trị và chính danh của Khổng tử có nhiều ý
tưởng sâu sắc và phong phú. Những quan niệm đó thể hiện lịng tin vào những gì
tốt đẹp của con người và xã hội. Tư tưởng của Khổng Tử khơng chỉ có ý nghĩa
đối với xã hội cổ đại bấy giờ mà cịn có ý nghĩa đối với xã hội ta, một xã hội đã
và đang xây dựng với những mục tiêu nhằm hướng đến những điều tốt đẹp nhất
cho mỗi người dân, và cho toàn nhân loại.
Trong khn khổ bài viết này, tơi chỉ muốn góp thêm tiếng nói về một khía
cạnh mà, theo tơi, mang tính tích cực và có ý nghĩa đối với mỗi chúng ta trong
quá trình rèn luyện và tu dưỡng đạo đức cũng như tri thức để góp phần xây dựng
đất nước. Đấy là, Khổng giáo là kim chỉ nam cho những ai muốn đem tài sức
mình phụng sự những mục tiêu cao quý cho xã hội, đem lại an bình cho nhân
loại, cổ vũ lịng trung tín giữa bạn bè, và tình cảm yêu thương trân trọng của
những người trẻ dành cho các bậc trưởng thượng.

HÀ THỊ THU HIỀN

14

CAO HỌC 1102A



TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình triết học (dùng cho học viên cao học va nghiên cứu sinh khơng
thuộc chun ngành Triết học) – NXB chính trị - hành chính.
2.

Trang web: />%AF

3.

Trang web: />
4. Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo (2007), Nxb Lao động - xã hội
5. Luận Ngữ (1950), Nxb Trí Đức, Sài Gịn. (Đồn Trung Cịn dịch)

HÀ THỊ THU HIỀN

CAO HỌC 1102A


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................................................1
1.Lý do chọn đề tài:.........................................................................................................................1
2.Mục đích tiểu luân:.......................................................................................................................2

3.Phạm vi, đối tượng nghiên cứu:..................................................................................................2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:...............................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC KHỔNG TỬ.......................................................3
I.Tư tương
̉ng “đ “đức trị”:....................................................................................................................3
II. Học thuyết “chính danh”:............................................................................................................5
CHƯƠNG II: Ý NGHĨA TRIẾT HỌC KHỔNG TỬ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
TRONG THỜI KỲ CỦA CHÚNG TA....................................................................................................8
2.1 Vấn đề về xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay”:..................................................8
2.2. Sự cần thiết khách quan của việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay:.........8
2.3. Sự cần thiết khách quan của việc kế thừa giá trị truyền thống trong sự nghiệp đổi mới
ở Việt Nam hiện nay:...................................................................................................................9
2.4. Những giá trị tích cực trong tư tưởng của Khổng Tử với việc xây dựng con người mới ở
Việt Nam:.....................................................................................................................................9
2.5. Về vấn đề phát triển kinh tế:.........................................................................................12
KẾT LUẬN......................................................................................................................................14

HÀ THỊ THU HIỀN

CAO HỌC 1102A



×