Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Tiểu luận văn học việt nam từ sau cách mạng tháng tám 1945 nhận xét về những đổi mới trong cách tiếp cận đề tài chiến tranh và đổi mới trong nghệ thuật tiểu thuyết của tiểu thuyết nỗi buồn chiến tranh (bảo ninh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (999.11 KB, 55 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

HỌC PHẦN: VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ SAU
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945.
Đề bài: Nhận xét về những đổi mới trong cách tiếp cận đề tài
chiến tranh và đổi mới trong nghệ thuật tiểu thuyết của
tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)

Nhóm: 06
Thành viên thực hiện: Đỗ Công Việt - 705601455
Ngô Thị Thu Uyên - 705601443
Nguyễn Thị Tú Uyên - 705601444
Đỗ Hải Uyên - 705601441
Trần Thu Trang – 705601427
Phạm Thúy Hằng - 705601394

HÀ NỘI – 2023


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
NỘI DUNG........................................................................................................... 2
Chương 1: Vài nét tiêu biểu về Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh.................... 2
1.1. Tác giả ..................................................................................................... 2
1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp ..................................................................... 2
1.1.2. Quan điểm sáng tác ......................................................................... 3
1.2. Tác phẩm .................................................................................................. 3
1.2.1. Hồn cảnh sáng tác.......................................................................... 3
1.2.2. Tóm tắt tác phẩm............................................................................. 4
1.3. Giới thuyết thể loại .................................................................................. 5
1.3.1. Tiểu thuyết ...................................................................................... 5


1.3.2. Đề tài chiến tranh ............................................................................ 6
Chương 2: Những đổi mới trong cách tiếp cận đề tài chiến tranh qua Nỗi buồn
chiến tranh – Bảo Ninh ...................................................................................... 9
2.1. Tình hình tiếp nhận .................................................................................. 9
2.2. Chiến tranh – viết về chiến tranh như một sự tri ân .............................. 12
2.3. Chiến tranh – một hiện thực đa chiều cần nhận thức lại ....................... 14
2.4. Chiến tranh – số phận con người và vấn đề nhân tính ........................... 17
* Tiểu kết ...................................................................................................... 19
Chương 3: Những đổi mới trong nghệ thuật qua tiểu thuyết - Nỗi buồn chiến
tranh – Bảo Ninh .............................................................................................. 20
3.1. Nhan đề - góc nhìn mới về chiến tranh .................................................. 20
3.2. Những kiểu nhân vật mới....................................................................... 21
3.2.1. Kiểu nhân vật dòng ý thức ............................................................... 21
3.2.2. Kiểu nhân vật chấn thương .............................................................. 22
3.2.3. Kiểu nhân vật lạc thời ...................................................................... 25
3.3. Đổi mới về kết cấu tiểu thuyết ............................................................... 29
3.3.1. Khái niệm kết cấu ............................................................................ 29
3.3.2. Kết cấu truyện lồng truyện .............................................................. 29
3.3.2. Kết cấu theo dòng ý thức ................................................................. 31
3.4. Gia tăng yếu tố huyền thoại ................................................................... 35


3.4.1. Giới thuyết về huyền thoại .............................................................. 35
3.4.2. Huyền thoại hóa trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh ................ 36
3.5. Đổi mới về phương thức trần thuật ........................................................ 40
3.5.1. Đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật .................................................... 40
3.5.2. Ngơn ngữ trần thuật ......................................................................... 43
3.5.3. Giọng điệu....................................................................................... 47
* Tiểu kết ...................................................................................................... 48
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 50



* Bảng phân công nhiệm vụ
Họ và tên

Mã sinh viên

Phân cơng nhiệm vụ

Đỗ Cơng Việt (NT)

705601455

Lên khung dàn bài.
Thuyết trình.
Tổng kết và chỉnh sửa.
Mục:
- 3.4. Gia tăng yếu tố huyền thoại
- 3.5. Đổi mới về phương thức
trần thuật

Nguyễn Thị Tú Uyên

705601444

Thuyết trình
Mục:
- 3.3. Đổi mới về kết cấu tiểu
thuyết
- Kết luận


Trần Thu Trang

705601427

Mục:
- 3.2. Những kiểu nhân vật mới
- Tiểu kết chương 3

Ngơ Thị Thu Un

705601443

Mục:
- Mở đầu
- 2.1. Tình hình tiếp nhận
- 2.2. Chiến tranh - viết về chiến
tranh như một sự tri ân
- Tiểu kết chương 2
- Mục 3.1. Nhan đề - góc nhìn
mới về chiến tranh

Đỗ Hải Uyên

705601441

Toàn bộ chương I

Phạm Thị Hằng Thủy


705601394

Mục:
- 2.2. Chiến tranh – một hiện thực
đa chiều cần nhận thức lại
- 2.3. Chiến tranh – số phận con
người và vấn đề nhân tính


MỞ ĐẦU
Văn học bắt nguồn từ đời sống, là tấm gương phản ánh cuộc sống qua mọi
thời đại. Tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của nhà văn. Một tác phẩm nghệ
thuật đích thực mang trong mình giá trị nhân bản sâu sắc và hơi thở cuộc sống.
Nắm bắt được nhu cầu ngày càng cao của độc giả mà những năm gần đây tiểu
thuyết Việt Nam có những bước chuyển mình đáng ghi nhận. Các tác giả khéo léo
vận dụng những quan điểm trong sáng tác nghệ thuật thổi vào nền văn học Việt
Nam một diện mạo mới, phong phú, đa dạng hơn.
Trong văn học nhân loại, chiến tranh là một đề tài lớn, đây như một tất yếu khi
phản ánh một cách chân thực đầy sinh động nhất hiện thực cuộc sống, cuộc đấu
tranh sinh tồn đầy cam go khốc liệt đặc biệt quan trọng của mỗi quốc gia dân tộc.
Khi nhìn vào lịch sử văn học cả phương Đông và phương Tây ta bắt gặp hàng loạt
các tác phẩm có giá trị viết về chiến tranh thậm chí là những kiệt tác có thể coi là
đạt đến đỉnh cao ví như Chiến tranh và hịa bình của Lep Tonxtoi, Sông Đông êm
đềm của Solokhop, Mặt trận phía Tây vẫn yên tĩnh, Một thời để yêu, Một thời để
chết, Đêm Lisbon, Ba người bạn, Khải hồn mơn,...văn học phương đông cũng
không kém cạnh là bao với những bộ tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng đồ sộ như
Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy Hử của Thi Nại Am,...
Văn học Việt Nam khơng nằm ngồi quỹ đạo của văn học nhân loại mang trong
mình sứ mệnh cao cả luôn luôn song hành với lịch sử dân tộc, vận mệnh đất nước
gắn liền với những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Tuy nhiên ở mỗi giai đoạn.

chặng đường thì đề tài chiến tranh lại được khai thác, tiếp cận cũng như phản ánh
ở nhiều góc độ theo những cảm hứng khác nhau.
Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo ninh là một tác phẩm xuất sắc, tiêu biểu
đánh dấu móc quan trọng trong q trình vận động của tiểu thuyết viết về đề tài
chiến tranh trong văn học Việt Nam sau 1945. Tiểu thuyết được đánh giá là một
tác phẩm đặc sắc với nhiều ý tưởng cách tân, đổi mới tiêu biểu cho tiểu thuyết
Việt Nam đổi mới ( 1986), từng được Hội Nhà văn Việt Nam trao tặng giải Nhất
về tiểu thuyết năm 1991. Tác phẩm đưa bạn đọc đến với chiến tranh với cái nhìn
mới ở chất liệu mà cịn ở phương pháp tiếp cận. Chính vì vậy chúng tơi chọn đề
tài “ Đổi mới trong cách tiếp cận đề tài chiến tranh và đổi mới trong nghệ thuật
tiểu thuyết của tiểu thuyết nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)”.
1


NỘI DUNG
Chương 1: Vài nét tiêu biểu về Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh
1.1. Tác giả
1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp
Nhà văn Bảo Ninh, tên thật là Hoàng Ấu Phương, sinh năm 1952 tại huyện
Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Quê của ông ở xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh
Quảng Bình. Gia đình của ơng thuộc dịng dõi thư hương (dịng dõi nho học), cụ
và ơng nội đều là nho sĩ triều Nguyễn. Cha của ơng, Giáo sư Hồng Tuệ (1922 –
1999) từng làm giáo sư thỉnh giảng Việt ngữ tại Đại học Bắc Kinh, ơng cịn là
ngun Viện trưởng Viện Ngơn ngữ học, Tổng biên tập tạp chí Ngôn ngữ. Mùa
hè năm 1959, Bảo Ninh lần đầu xuất ngoại, đến thăm bố đang dạy học ở Bắc Kinh.
Trái với ước mơ, ơng đã khơng có điều kiện học Trung Văn để nối tiếp truyền
thống gia đình.
Bảo Ninh thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ
1975. Ông vào bộ đội năm 1969, khi ấy mới 17 tuổi. Thời chiến tranh chống Mỹ
cứu nước, Bảo Ninh chiến đấu ở mặt trận B3 Tây Nguyên, tại tiểu đoàn 5, trung

đoàn 24, sư đoàn 10. Năm 1975, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thành công cũng
là lúc ông giải ngũ. Bảo Ninh trở về trường đại học với chuyên ngành sinh vật
nhưng ông lại không theo nghề mà bỏ ngang sau đó nhập học trường Viết văn
Nguyễn Du để đi theo văn nghiệp. Từ năm 1976 đến năm 1981, Bảo Ninh học đại
học ở Hà Nội, sau đó ông làm việc ở Viện Khoa học Việt Nam. Ông làm việc tại
báo Văn nghệ Trẻ, là hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam kể từ năm 1997.
Ông bắt đầu con đường sáng tác của mình ở tuổi 32. Văn phong của Bảo
Ninh được thừa hưởng từ nền tảng ngơn ngữ của người cha. Ngồi hai tác phẩm
chính: Trại bảy chú lùn (1987), Thân phận tình yêu (Nỗi buồn chiến tranh, 1987),
người đọc cịn biết đến ơng qua các tác phẩm: Bí ẩn của làn nước, Bội phản, Cái
búng, Giang, Hà Nội lúc 0 giờ, Khắc dấu mạn thuyền, Mắc cạn, Mây trắng còn
bay, Rửa tay gác kiếm, Thách đấu, Thời của xe máy, Tiếng vĩ cầm của quân xâm
lăng, Vô cùng xưa cũ,… Đây đều là những tác phẩm rất ấn tượng của Bảo Ninh,
bên cạnh tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh.

2


1.1.2. Quan điểm sáng tác
“Chiến tranh và văn chương song hành. Từ xưa đến nay, trong khói lửa
chiến tranh ln sản sinh những tác phẩm văn học. Cuộc chiến chống Mỹ của
Việt Nam cũng vậy. Cũng như các bạn hữu cùng thời, đa số nhà văn, nhà thơ thế
hệ chúng tôi, đều đã kinh qua chiến trận. Bản thân nếu như không trực tiếp lăn
lộn trên các chiến trường, tôi đã khơng thể là nhà văn mà có lẽ đã làm một nghề
khác”. Có lẽ hơn bảy năm gắn bó với chiến trường bom lửa ác liệt đã thôi thúc
Bảo Ninh sáng tác những câu chuyện xoay quanh đề tài chiến tranh, đó dường
như cũng là nguồn cảm hứng bất tận của nhiều nhà văn nhà thơ khác. Cũng chính
bảy năm xơng pha kháng chiến đó đã khiến Bảo Ninh có những am hiểu chi tiết
và sâu sắc về chiến trường, về mặt trận, về người chiến sĩ… Bảo Ninh đã chọn đề
tài bộ đội làm kim chỉ nam cho các sáng tác của mình, đó là thế mạnh, cũng là

những gì ơng u thích. Ơng muốn “văn của mình phải mang vẻ đẹp quân đội”.
Ông cũng từng thừa nhận bản thân mình viết ít mà cũng chỉ xoay quanh đề tài bộ
đội.
Bảo Ninh ln đề cao cá tính sáng tạo của nhà văn, ông tin rằng mỗi cây
viết cần phải tìm cho mình một cái gì đó phải mới và riêng để khơng bị lẫn với
người khác. Chính tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh đã chứng minh điều ấy. Vẫn
là đề tài bộ đội quen thuộc, nhưng đi ngược lại với những nhà văn đương thời,
Bảo Ninh chọn cho mình một góc nhìn khác về cuộc chiến chống Mĩ cứu nước và
viết nên tuyệt phẩm của mình. Chiến tranh vốn là một đề tài quen thuộc với mảng
văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975. Sự
đột phá của Bảo Ninh khi viết Nỗi buồn chiến tranh là việc ông đã tiếp cận hiện
thực về cuộc chiến vĩ đại của dân tộc thơng qua dịng kí ức của nhân vật Kiên.
Lịch sử dân tộc đã được nhìn nhận qua lăng kính của một người đã từng trực tiếp
tham gia vào chiến tranh và phải chịu những “chấn thương tâm lí” giày vị suốt
qng đời cịn lại. Chính yếu tố này đã khiến danh tiếng của Nỗi buồn chiến tranh
vang xa ra ngoài lãnh thổ quốc gia.
1.2. Tác phẩm
1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác

3


Năm 1975, chiến tranh kết thúc, Bảo Ninh xuất ngũ. Nhưng sự tàn khốc và
cảnh bi thảm của chiến tranh đã bám dai dẳng trong giấc mơ triền miên, thúc giục
ông sáng tác.
Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh được Bảo Ninh xuất bản năm 1987, là
luận văn tốt nghiệp của ông tại trường Viết văn Nguyễn Du năm 1986, in lần đầu
tiên với tên là Thân phận tình yêu. Tác phẩm được trao tặng giải thưởng của Hội
nhà văn năm 1991.
Năm 1993, bản tiếng Anh được xuất bản và từ đó tác phẩm vang tiếng trên

văn đàn quốc tế. Tính đến năm 2019, tiểu thuyết đã được dịch sang nhiều thứ tiếng
và giới thiệu ở gần hai mươi quốc gia trên thế giới, đạt được bảy giải thưởng và
đề cử ở sáu quốc gia. Riêng tại Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc mỗi nơi đều
có hai phiên bản dịch. Sức ảnh hưởng quốc tế của Nỗi buồn chiến tranh khơng
chỉ ở văn học mà cịn ở cả nhiều lĩnh vực khác như lịch sử, nhân học, văn hố...
1.2.2. Tóm tắt tác phẩm
Nỗi buồn chiến tranh về cơ bản được chia làm bảy phần và một phần vĩ
thanh dựa trên cách chia trang thống nhất trong cả bốn bản in (bản in năm 1990,
năm 1991 và hai bản in năm 2003). Tiểu thuyết này khơng có cốt truyện, tình tiết
rành mạch mà chỉ là những hồi ức của nhân vật Kiên, người lính của tiểu đồn 27
bước ra từ cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt.
Đây là câu chuyện viết về cuộc đời và tình yêu trong và sau cuộc kháng
chiến chống Mỹ của Kiên và Phương. Kiên, chàng học sinh trường Bưởi ở Hà
Nội, mang trong mình tình yêu đẹp đẽ, trong sáng của tuổi 17 với Phương, cô bạn
học từ niên thiếu của anh. Kiên xuất thân từ một gia đình trí thức tiểu tư sản miền
Bắc, cha anh là một họa sĩ những tranh của ông lại bị người đời phê phán là thể
hiện những chân dung ma quỷ; mẹ anh cho rằng chồng mình là một kẻ lập dị, đã
bỏ hai cha con khi anh còn nhỏ và lấy chồng mới là một nhà thơ đã về hưu. Rời
khỏi mái trường, Kiên tình nguyện gia nhập quân ngũ theo tiếng gọi thiêng liêng
của Tổ quốc. Anh là sự kết hợp hoàn hảo giữa cả bố và mẹ: xung phong đi bộ đội
ở tuổi mười bảy, khăng khăng chiến đấu, bỏ lại người yêu, cứng rắn và can đảm.
Ngày lên đường, Phương đã đưa tiễn Kiên một chặng đường dài. Trên chuyến tàu
hàng ra tiền tuyến, Phương bị cưỡng bức. Cảm thấy ở Phương “thái độ điềm nhiên
khinh nhờn và thờ ơ lãnh đạm” sau biến cố ấy, Kiên đã bỏ rơi Phương và đi vào
4


cuộc chiến. Trải qua mười năm khốc liệt, cuối cùng Kiên “may mắn” sống sót trở
về với cuộc sống hịa bình. Tuy nhiên, những vết thương trên thân thể và trong
tâm hồn của anh không thể nào hàn gắn được. Anh khơng thể hịa nhập được với

dịng chảy của cuộc sống, trở thành “nhà văn cấp phường” kỳ quặc, khó hiểu. Anh
bắt tay vào viết tiểu thuyết, viết về chính cuộc chiến bản thân đã từng tham gia,
với những đồng đội, những vui buồn, khốc liệt, với mối tiền day dứt với Phương,
và cả những sự thật ghê gớm đã ám ảnh suốt quãng đời còn lại của anh.
Trong hành trình tâm tưởng của Kiên, ký ức về những người đồng đội luôn
gắn liền với cái chết. Họ bị giết ngay trước mặt anh như người tiểu đoàn trưởng
của tiểu đồn 27, cơ Hịa giao liên,… Có cả những người đã chết trong vòng tay
anh như Quảng, Thịnh “con”… những người đã “gỡ” cho tính mạng của Kiên.
Rồi cũng có nhiều người phải hy sinh vì lỗi lầm của anh như Oanh. Tất cả những
sự kiện đó đã được anh Kiên đưa vào tiểu thuyết của mình trong hình hài hỗn độn.
Người duy nhất có mối quan tâm về cuốn tiểu thuyết ấy chính là người đàn bà
câm sống trên tầng gác áp mái.
Cùng với những trăn trở về quá khứ, “mảnh đời còn lại sau mười năm bị
lửa đạn của chiến tranh vằm xé lại bị móng vuốt của tình yêu xé nát”. Ngày trở
về, Kiên gặp Phương, muốn cùng Phương quay lại thời yêu nhau “bất chấp tất cả,
bất chấp sự khác nhau quá lớn giữa hai đứa” nhưng lúc này đây Phương đã chìm
đắm trong trụy lạc, cơ đi theo một người lính “đã định với nàng một lễ cưới”.
Chán chường với mọi thứ diễn ra xung quanh mình, Kiên quyết định đem đốt
cuốn tiểu thuyết kia và ra đi. Mớ bản thảo như một cuộc sống hỗn loạn với cảm
hứng chủ đạo là sự rối bời anh để lại đã được người đàn bà câm gom lại và cất
giữ.
1.3. Giới thuyết thể loại
1.3.1. Tiểu thuyết
GS. TS. Phương Lựu nhận định: “Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn đặc
biệt phổ biến trong thời cận đại và hiện đại. Với những giới hạn rộng rãi trong
hình thức trần thuật, tiểu thuyết có thể chứa đựng lịch sử của nhiều cuộc đời,
những bức tranh phong tục của xã hội miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai
cấp tái hiện lại nhiều tính cách đa dạng”.

5



Tiểu thuyết là thể loại lớn nhất trong loại tác phẩm tự sự, đặc biệt phát triển
mạnh mẽ trong thời kỳ cận và hiện đại. Thể loại này không bị giới hạn về dung
lượng phản ánh hiện thực, cả về không gian cũng như thời gian. Qua tiểu thuyết,
người đọc có thể hiểu được một giai đoạn lịch sử với nhiều sự kiện, nhiều cảnh
ngộ, địa điểm, tình huống...mà khó có thể loại nào có thể đạt được. Các yếu tố
khác của tác phẩm văn học, từ đề tài, chủ đề, nhân vật, kết cấu...cũng chịu sự chi
phối của đặc điểm này. Tiểu thuyết miêu tả cuộc sống trong tính chất văn xi.
Nó thể hiện cuộc sống như một thực tại cùng thời và hấp thu vào bản thân mọi
yếu tố ngổn ngang, bề bộn của cuộc đời… bao gồm những bi - hài; cao cả - thấp
hèn; vĩ đại - tầm thường, lớn - nhỏ. Chính dung lượng phản ánh hiện thực rộng
lớn giúp nhà văn miêu tả nhân vật và hoàn cảnh một cách đầy đủ, toàn diện, tỉ mỉ
từ những trạng thái tâm hồn cũng như những mối quan hệ đa dạng, phức tạp khác.
Tiểu thuyết là thể loại đa dạng về mặt thẩm mỹ, có khả năng tổng hợp và thu hút
vào bản thân nó những đặc trưng và sắc thái thẩm mĩ của nhiều loại hình nghệ
thuật khác "Ðức tính căn bản của tiểu thuyết là ăn được mọi thứ, nó đồng hóa mọi
loại tác phẩm khác vào mình" (Ph. Mác xơ- Nhà nghiên cứu tiểu thuyết Pháp)
1.3.2. Đề tài chiến tranh
a. Vị trí đề tài chiến tranh trong văn xuôi trước năm 1975
Đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam là nguồn chủ lực, là nguồn mạch
phong phú và không bao giờ vơi cạn của văn học Việt Nam từ khi hình thành cho
đến nay. Đất nước ta trưởng thành và phát triển nhờ các cuộc chiến chống lại các
thế lực thù địch, và dấu ấn của chiến tranh in hằn đậm nét trên các tác phẩm văn
học là lẽ đương nhiên.
Đầu thế kỉ XX, thời kì 1930 – 1935, văn xi có đề tài chiến tranh vẫn cịn
nhạt nhịa, chưa có dấu ấn mạnh mẽ. Đến thời kì 1936 – 1939, phong trào cách
mạng có nhiều thuận lợi, dịng văn học cách mạng những năm này đã xuất hiện
thể loại phóng sự (Ngục Kon Tum – Lê Văn Hiến, Đời tù tội – Chí Thành) , truyện
ngắn, truyện vừa, truyện dài: Vượt ngục (Cựu Kim Sơn), Không tên không tuổi

(Phong Ba), Ba năm ở Nga Xơ viết (Trần Đình Long),… Sự phát triển của bộ phận
văn học này đã khiến sức mạnh tố cáo hiện thực, cổ vũ đấu tranh của văn học cách
mạng trở nên rộng lớn hơn. Hình tượng người chiến sĩ cách mạng được xuất hiện
thêm qua một hình thức mới, có tác dụng nêu gương rõ rệt. Trong khơng khí mặt
6


trận Dân chủ, văn học cách mạng thời kì 1936 – 1939 phát triển với khí thế mới,
quy mơ mới, ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống xã hội.
Các nhà văn đã miêu tả chiến tranh với thái độ trân trọng và lịng tự hào về
mỗi chiến cơng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cứu nước. Văn học
thời kì này ghi lại chi tiết những hình ảnh về một thời kỳ lịch sử đầy máu, mồ hôi
và nước mắt của đồng bào, nhân dân; văn xi đã có sự biến động, đổi mới về cả
nội dung cho đến hình thức theo định hướng của một nền văn học kháng chiến.
Những tác phẩm được ra mắt ngay từ những ngày đầu Cách mạng như Ở
chiến khu của Nguyễn Huy Tưởng, Rãnh cày nổi dậy của Mạnh Phú Tư, Dân khí
miền Trung của Hồi Thanh… đã mang trong mình tiếng nói của dân tộc, thể hiện
chủ nghĩa yêu nước, khát vọng được tự do, độc lập, tinh thần cộng đồng và chủ
nghĩa anh hùng. Văn xi thời kì kháng chiến chống Pháp đã bám sát các diễn
biến và sự kiện của cuộc chiến, dựng lại những bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng
chiến toàn quân toàn dân ở mọi miền Tổ quốc.
Kháng chiến chống thực dân Pháp thành công, tuy nhiên đề tài chiến tranh
vẫn đang là mảnh đất màu mỡ để các cây viết thỏa sức sáng tạo. Điển hình trong
giai đoạn này có Đất nước đứng lên (Ngun Ngọc), Một chuyện chép ở bệnh
viện (Bùi Đức Ái), Sống mãi với Thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng)…
Bước sang giai đoạn toàn quốc kháng chiến chống lại đế quốc Mĩ xâm lược,
sức nóng của đề tài chiến tranh vẫn khơng thun giảm. Đội ngũ với nhiều cây
viết sắc sảo đã tập trung phản ánh kịp thời khí thế và những chiến công, những
tấm gương anh hùng tiêu biểu trong cuộc chiến. Các tác phẩm thời kì này vừa
phản ánh hiện thực chiến tranh, vừa đáp ứng kịp thời yêu cầu cổ vũ cuộc chiến

đấu. Chính tinh thần ca ngợi cách mạng đã tạo nên khuynh hướng sử thi, bao trùm
thời kì văn học chống Mĩ cứu nước.
Có thể thấy đề tài chiến tranh trước năm 1975 có những đóng góp vơ cùng
tích cực cho cơng cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, thể hiện ở chỗ đã
lên án hiện thực ác liệt, tố cáo chiêu trò của kẻ thù, đồng thời khích lệ tinh thần
kháng chiến cứu quốc của đồng bào, nhân dân, binh lính cả nước. Đề tài chiến
tranh giữ vị trí quan trọng trong những năm 1930 đến năm 1975, là đại diện cho
cả một thời kì văn học phát triển rực rỡ và mạnh mẽ.
7


b. Vị trí đề tài chiến tranh trong văn xi sau năm 1975
Những năm đầu sau khi quân và dân ta giành độc lập, dư âm của cuộc kháng
chiến vẫn cịn đó, đề tài chiến tranh vẫn là mối quan tâm của văn học và các cây
viết vẫn giữ nguyên cách khai thác đề tài giống với các giai đoạn trước. Dẫu vậy,
cũng đã có một vài tác phẩm táo bạo hơn khi chọn những thời điểm căng thẳng
nhất nhất của chiến tranh để khám phá tâm lí và tính cách nhân vật như: Miền
cháy (Nguyễn Minh Châu), Miền đất lửa (Nguyễn Sinh, Vũ Kỳ Lân), Đất trắng
(Tập 1, Vũ Trọng Oánh)…
Đến nửa đầu thập kỉ 80, nhu cầu đổi mới rõ dần. Có thể nói, những tiêu chí
đổi mới văn học ít nhiều có liên quan đến văn học đề tài chiến tranh, truyện ngắn
Bức tranh ra mắt năm 1982 của Nguyễn Minh Châu đã đánh dấu bước ngoặt của
văn học Việt Nam. Cịn tiểu thuyết đã góp phần không nhỏ vào việc thay đổi diện
mạo văn học Việt Nam hiện đại. Nó vừa chứa đựng sự đổi mới quan niệm về hiện
thực, con người, lại vừa là nơi thử thách bản lĩnh của người nghệ sĩ.
Đội ngũ những cây viết viết về đề tài chiến tranh sau năm 1975 khơng chỉ
có những gương mặt quen thuộc mà cịn hội tụ những cây viết mới mà trong chiến
tranh họ ở vị trí một người lính hoặc gần gũi với cơng việc của người lính. Họ
đem những trải nghiệm của mình từ chiến hào vào những trang văn, quan niệm
của họ về chiến tranh có nhiều điểm khác biệt so với quan niệm trước đó. Nhiều

cây bút coi việc viết về chiến tranh là một sự tri ân, do đó, tác phẩm của họ sẽ tập
trung khắc họa, ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất: lòng dũng cảm, đức hi sinh, lối sống
vị tha, tình nghĩa… Dù vẫn coi trọng mục đích phản ánh cuộc kháng chiến vĩ đại
của dân tộc nhưng những nhà văn dường như chú tâm đến tính chân thực của tác
phẩm nhiều hơn. Vậy nên, những tác phẩm trong giai đoạn này không chỉ nhắc
đến những thắng lợi vẻ vang mà cịn chạm đến những góc khuất của chiến tranh
như những chấn thương tâm lý, những mất mát, hi sinh…
Chiến tranh, dù đã lùi xa cuộc sống của chúng ta rất nhiều năm rồi nhưng
chưa bao giờ nó thơi hấp dẫn những cây viết. Đề tài chiến tranh sau năm 1975
không chỉ tiếp nối những truyền thống sẵn có mà cịn đổi mới để phù hợp với xu
thế của thời đại và làm thỏa mãn người viết.

8


Chương 2: Những đổi mới trong cách tiếp cận đề tài chiến tranh
qua Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh
2.1. Tình hình tiếp nhận
Nỗi buồn chiến tranh được người đọc tiếp nhận như thế nào? Họ phản ứng
ra sao? Họ nghiên cứu như thế nào?
Tình hình tiếp nhận có nhiều vấn đề, dư luận phản bác, phức tạp, không đồng tình
và đưa ra nhiều ý kiến trái chiều về tác phẩm,gây nhiều tranh luận...Nhìn chung
lại người đọc “điên loạn, rối bời, bôi nhọ quan điểm,..”
Ở trong nước: Nhà văn Nguyên Ngọc – người lãnh đạo đạo hội nhà văn hồi đó đã
từng đánh giá cao thành quả sáng tạo của Bảo Ninh trong “Nỗi buồn chiến
tranh”:“ Đây là cuốn tiểu thuyết về một cuộc chiến đấu của một con người tìm lẽ
sống hơm nay. Bằng cách chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình. Cuốn sách
này khơng mơ tả chiến tranh. Nó “mơ tả” một cuộc kiếm tìm nặng nhọc chính
hơm nay. Hiện thực ở đây là hiện thực bên trong của một tâm hồn quằn quại và
đầy trách nhiệm, quằn quại vì đầy trách nhiệm. Trách nhiệm lương tâm. Cuốn

sách nặng nề này không bi quan. Vẫn thấm sâu ở đâu đó trong từng kẻ chữ của
một âm hưởng hy vọng tiềm tàng, chính là vì thế. Anh đi tìm, nghĩa là anh cịn hy
vọng”. Vậy mà sau này chính nhà văn lại là người đưa yêu cầu mạnh mẽ thu hồi
cuốn tiểu thuyết nhất. Nguyễn Gia Thiều nói rằng: “Nỗi buồn chiến tranh” đã
chạm vào mẫu số chung của nhân loại - đó là câu chuyện của thân phận của mất
mát của tình yêu và chiến tranh”. Hay trong bài viết “Thân phận tình yêu của
Bảo Ninh”, Đỗ Đức Hiểu đánh giá cao cuốn tiểu thuyết này. Người viết đã dùng
các phạm trù của thi pháp học hiện đại biểu dương cách tân tiểu thuyết của nhà
văn, coi tác phẩm là “một điểm nhìn mới về chiến tranh”, “là giấc mơ dài, một
huyền thoại của thời đại”: ““Nỗi buồn chiến tranh” và nỗi buồn tình yêu thấm
vào nhau, hịa lẫn nhau, da diết, xót xa, hủy diệt đó là hai nhịp đập mạnh của
quyển tiểu thuyết”. Nguyễn Đăng Điệp có bài viết “Kĩ thuật dịng ý thức qua “Nỗi
buồn chiến tranh” của Bảo Ninh “đã đi sâu phân tích kĩ thuật dịng ý thức trong
tác phẩm”. Vấn đề thân phận cũng được người viết đề cập: “Đây khơng đơn giản
là tâm lí hồi nghi các giá trị cao đẹp người ta thường nói về chiến tranh, mà sâu
hơn, là những suy tư về thân phận, một vấn đề triết học lớn được đặt ra cấp thiết
trong thời hiện tại. Sự hiện hữu của con người trong thế giới này có nghĩa lí gì?
9


Nó sẽ ra sao trong loạn lạc, khổ đau? Nhưng Bảo Ninh khơng nhìn thế giới như
các nhà hiện sinh đã nhìn. Từ tiếng thở dài về thân phận con người trong li loạn,
Bảo Ninh vẫn tin về sức sống của cái đẹp cho dù đó là cái đẹp đã từng bị vùi
dập”. Tuy nhiên “Nỗi buồn chiến tranh” sau khi đạt giải Hội nhà văn năm 1991
đã bị cấm xuất bản một cách khơng chính thức tại Việt Nam trong một thời gian
dài thậm chí ngay trong năm tác phẩm đoạt giải chính vì thế cho đến những năm
gần đây người ta vẫn chưa đưa ra được kết luận cuối cùng. Hoàng Ngọc Phiến đã
viết: “Cách tiếp cận đề tài của Bảo Ninh giống như một sự liều lĩnh. Có thể tác
giả sẽ bị trả giá trong khi khơng ít người còn viết thiên về cách nghĩ bằng những
“thuận lí”, “một nghĩa”, “bảo đảm an tồn”, thì cuốn tiểu thuyết khác thường

của Bảo Ninh là “cái được” của văn chương”. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh vẫn còn nhiều vấn đề tranh cãi, gây xơn xao dư luận. Có nhiều lời ca ngợi
dành cho tác phẩm nhưng cũng không ít bạn đọc công kích, phản đối nội dung
của câu chuyện. Tiểu thuyết đầu tay của Bảo Ninh bị coi là tiêu cực, thể hiện cái
nhìn sai lệch về cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc. Tiến sĩ Mỹ học và Phó
tiến sĩ Ngữ văn Đỗ Văn Khang đã phẫn nộ “vì Bảo Ninh đã gọi cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước là “cuộc chiến tranh Việt – Mỹ”, đã thể hiện người lính quân
đội nhân dân như một lũ thất trận chứ không phải những người mang tinh thần
“xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Tiến sĩ Phạm Thị Xuân Châu (Trong bài viết
“Chiến tranh và chủ nghĩa nhân văn trong văn chương hiện nay”) lên án gay gắt
tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh “Hình ảnh người lính chống Mỹ
hiện lên trong tác phẩm của Bảo Ninh là những con bệnh về tinh thần, không lý
trí, khơng niềm tin, khơng sức sống (…) Qua cái nhìn của Bảo Ninh, cuộc chiến
tranh chống Mỹ đơn thuần là cuộc chiến phi nhân tính mà hai bên khạc đạn vào
nhau, bắn giết lẫn nhau, tàn sát lẫn nhau trong thân phận khốn cùng của người
lính trận. Nguyên nhân sâu xa, theo tơi, chính là do lập trường chính trị sai lầm
và quan niệm chủ nghĩa nhân đạo một chiều, chủ nghĩa nhân văn phiến diện, siêu
thực của người cầm bút, khơng phân biệt được chiến tranh chính nghĩa và chiến
tranh phi nghĩa, xóa nhịa ranh giới phải –trái, đúng – sai, thiện – ác, đánh đồng
hành động chính nghĩa – phi nghĩa, đồng nhất cái ác, cái phi nhân với đấu tranh
chính nghĩa để hủy diệt tàn bạo; phủ nhận ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến tranh
chống chủ nghĩa thực dân mới, đánh đuổi kẻ thù của dân tộc giành sự tồn vẹn,
thống nhất non sơng để đồn tụ mọi gia đình bị chia cắt”.
10


Thậm chí có một số nhà văn trong ban giám khảo của Hội nhà văn đã lên
tiếng phủ nhận giải thưởng cũng như những phát ngơn của mình trước đó. Nhà
nghiên cứu Vương Trí Nhàn cho rằng: “Nếu thời trước thì cứ thế cuốn sách sẽ
chìm dần trong bóng tối và chỉ cần bị ném ra khỏi các thư viện nữa thơi là có thể

coi như bị xóa sổ hồn tồn, nhưng may mắn, nó được ra vào đúng thời kì Đổi
mới. Đỗ Minh Tuấn trong bài “Văn học cần bảo hiểm cho sự thật lịch sử” cho
rằng: “Trong một số tác phẩm viết về chiến tranh chống Mỹ, tiêu biểu là “Nỗi
buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, đã xuất hiện sự thay máu anh hùng, tước đi
những khát vọng cao cả, những cảm quan anh hùng có thực trong đời sống chiến
sĩ của chúng ta trong chiến tranh và đó là sự đánh tráo linh hồn nhân danh một
tịa án tối cao của chủ nghĩa nhân văn để ép cung và xáo trộn hiện trường lịch
sử, sử dụng nhân chứng giả thay cho các nhân chứng thật đã xuất hiện trong các
tác phẩm theo thủ pháp nghệ thuật quen thuộc”. Đỗ Minh Tuấn cho rằng: “không
thể giản lược chiến tranh thành một hành trình đơn điệu từ cái nhão nhoét của
bùn và máu tới cái nhão nhoét của con bệnh tâm thần và cuối cùng trở thành cái
nhão nhoét của văn chương cải lương, mùi mẫn, một chiều…”
Ở nước ngoài: “Nỗi buồn chiến tranh” đã vượt ra khỏi biên giới. Là một
trong những cuốn sách được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Cuốn tiểu thuyết
viết về đề tài chiến tranh thế kỷ XX đáng đọc nhất. “Nỗi buồn chiến tranh”cũng
được xem là tiểu thuyết hay nhất của văn học Việt Nam thời kì hậu chiến, được
Phan Thanh Hảo và Frank Palmos dịch sang tiếng Anh xuất bản năm 1994 với
nhan đề “The Sorrow of War” được đánh giá cao và các nhà phê bình đánh giá
đây là một trong những tiểu thuyết cảm động nhất viết về chiến tranh. Tháng
5/2011 tác phẩm được giải thưởng châu Á. Tháng 9/2011, “Nỗi buồn chiến
tranh”được giải thưởng sách hay, nhiều nhà làm phim nước ngồi cũng có ý định
dựng thành phim từ cuốn tiểu thuyết này. Tờ báo Anh The Guardian đã viết: “Một
cuốn tiểu thuyết không thể đặt xuống. Bất kì nhà chính trị hoặc nhà hoạch định
chính sách nào của Mỹ cũng cần nên đọc cuốn sách này. Nó lẽ ra phải được giải
Pulitzer, nhưng khơng được. Nó quá hấp dẫn để xứng được thế”. Tờ Independent,
một trong những nhật báo của nước Anh đã nhận xét: Vượt ra ngoài sức tưởng
tượng của người Mỹ, “Nỗi buồn chiến tranh” đi ra từ chiến tranh Việt Nam đã
đứng ngang hàng với cuốn tiểu thuyết chiến tranh vĩ đại của thế kỉ, “Mặt trận
phía Tây vẫn yên tĩnh” của Erich Maria Remarque (…). Một cuốn sách viết về sự
11



mất mát của tuổi trẻ, cái đẹp, một câu chuyện tình đau đớn… một thành quả lao
động tuyệt đẹp”. Tháng 10/2008, Dennis Mauster, thành viên của hội cựu binh vì
hịa bình và hội cựu binh Việt Nam chống chiến tranh, tác giả sách A Bad Attiade:
A Novel from the Viet Nam war đã viết: “Đây là một bức tranh trung thực và tàn
nhẫn đến kinh ngạc. Đã đến lúc thế giới phải thức tỉnh trước nỗi đau mang tính
phổ quát của người lính ở mọi bên xung dột, và cuốn sách này là nên đọc đối với
những ai chọn nghề “binh nghiệp”. Tơi đặc biệt giới thiệu nó cho các bạn bè cựu
binh của mình; Bảo Ninh thực sự là “bạn chiến đấu” của của chúng tôi, bất kể
việc anh ta đứng ở phía bên kia. Hết sức giới thiệu”. Trong bài báo điện tử
Vietnamnet do Thiên Thai dịch với tiêu đề “Người Trung Quốc nghĩ gì về “Nỗi
buồn chiến tranh””, cũng có đưa ra nhận định tốt về cuốn tiểu thuyết “Nỗi buồn
chiến tranh” “Tôi với tư cách là một tiểu thuyết gia đã có đến 26 năm trong quân
đội, đọc xong tiểu thuyết này, cảm giác mãnh liệt nhất, đó chính là giả sử ngay từ
cuối những năm 80 hoặc muộn hơn một chút vào đầu những năm 90, chúng ta có
thể dịch “Nỗi buồn chiến tranh” sang tiếng Trung (…), thì nhận thức của chúng
ta đối với văn học Việt Nam sẽ không đến nỗi phong bế và hạn hẹp như hôm nay;
văn học quân đội Trung Quốc cự kì cũ kĩ và trì tuệ hơm nay cũng nhất định sẽ
khơng bảo thủ, bó chân và tụt hậu như vậy. Thậm chí có thể nói, nếu như có thể
nói, nếu chưa có thể kịp thời dịch và giới thiệu “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo
Ninh, văn học quân đội Trung Quốc ngày ấy và bây giờ đều rất có thể đã mang
một cảnh sắc và sinh khí khác”.
2.2. Chiến tranh – viết về chiến tranh như một sự tri ân
Những tác phẩm văn học về chiến tranh của các nhà văn – chiến sĩ là một
bộ phận quan trọng trong văn học Việt Nam, đóng góp vào việc tơn vinh và giữ
gìn ký ức về một thời máu lửa của dân tộc. Đó khơng chỉ là những tác phẩm nghệ
thuật, mà còn là một cách để ghi nhận lịch sử và tơn vinh những người đã đóng
góp cho đất nước, đưa cho thế hệ trẻ những bài học về tình yêu và sự hi sinh về
một cái thời mà:

“Chúng tơi đã đi khơng tiếc đời mình
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì cịn chi Tổ quốc?”

12


Các tác phẩm của nhà văn – chiến sĩ như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư,
Đỗ Quang Tuấn, Lê Minh Khuê, Nguyễn Văn Thiệu, và nhiều tác giả khác đã tạo
ra những ấn tượng sâu sắc về cuộc đời, tình yêu, và sự hi sinh của người lính và
dân quân. Các tác phẩm này không chỉ được đọc và yêu thích trong nước mà cịn
được đón nhận rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tác phẩm của các nhà văn
– chiến sĩ đã góp phần tạo nên một phần lịch sử văn học của dân tộc, và truyền lại
những giá trị về tình yêu, nhân văn, và tinh thần đồng đội cho thế hệ mai sau.
Nguyễn Minh Châu thấy rằng: “Viết về hai cuộc kháng chiến, viết về chiến
tranh, nhiều đồng chí cầm bút viết văn trong quân đội đã đứng tuổi nhiều lần nói
tới cơng việc đó như một trách nhiệm, một món nợ chưa trả được. Một món nợ
chưa trả và khơng thể nào qn”, “Người viết phải đáp ứng cho được, thỏa mãn
cho được mỹ cảm nghệ thuật, bao hàm nhận thức cái đẹp từ trong phẩm chất, đức
hi sinh và tâm hồn nhân văn của con người hôm qua”. Sự gặp gỡ giao thoa giữa
độc giả và tác giả phải chăng cũng là sự tri ân về quá khứ, tri ân về lớp thế hệ
dùng máu thịt của mình bồi đắp nên hình hài đất nước, những người nảy mực vẽ
lên biên giới tổ quốc. Quan niệm ấy được nhiều người đồng tình, nó vừa được
phát biểu trực tiếp vừa được hiện thực hóa bằng thực tiễn sáng tác.
Chính thức nêu vấn đề tri ân quá khứ là hướng đi được nhiều người ủng hộ.
Với quan niệm ấy, nhà văn sẽ chú trọng khắc họa vẻ đẹp của lòng dũng cảm, đức
hy sinh, lối sống vị tha, tình nghĩa…
Tuy nhiên với một nhà văn ông lại tri ân quá khứ không phải xây dựng lên
hình tượng anh hùng ca, một tượng đài đồ sợ to lớn mà ông lại tri ân gợi nhớ về
quá khứ mang đến cho người đọc những cảm thức mới mẻ về chiến tranh. Chiến

tranh nhìn từ sự tri ân không phải là bi tráng, hào hùng, hi sinh ra làm sao mà nó
lại là “ bọc ni lơng gói hài cốt tử sĩ xếp lát trên sàn xe”, “ tiểu đoàn 27 độc lập,
cái tiểu đoàn bất hạnh mà anh là một trong mười người may mắn còn được sống
đã bị bao vây rồi bị tiêu diệt mất hoàn toàn phiên hiệu. Một trận đánh ghê rợn,
độc ác bạo tàn…”, “ đội đã tan tác đang cố co cụm, lại bị đánh tan tác”, “chết
dúi ngã dụi vào biển lửa”, “Máu tung xối, chảy tóe, ồng ộc, nhoe nhoét,..” đó là
chiến tranh cho người đọc cho thế sau nhìn thấy rằng những người chiến sĩ ấy họ
cũng là người thường, họ cũng thua, họ cũng bất lực, tuyệt vọng. Điều mà không
một nhà văn nào viết như một điều cấm kỵ trong văn học. Nhưng Bảo Ninh đã
phơi bày cho cơng chúng nhìn nhận chiến tranh ngẫm về q khứ một khía cạnh
13


mới. Đúng là chúng ta thắng đó nhưng trước giờ chúng ta chỉ nhìn chiến tranh
nghĩ về, tri ân liệt sỹ những trận đánh nhìn vào bề mặt nổi của một người chiến sĩ
cầm súng ra trận nhưng trước khi hy sinh tạo nên trang sử biên niên vàng cho đất
nước họ cũng chịu đau đớn xác thịt điều đó chúng ta lại ít viết đến “vết thương
khơng ngừng nhỏ máu, thứ máu của xác chết, lạnh và nhớt. Rắn rết bò qua người
anh. Thần chết sờ soạng”, “ Vân chết cháy cùng với chiếc T54 đầu đàn. Thân xác
ra tro nên chẳng cần huyệt mộ. Cịn Thanh thì chết ở Cầu Bông, và cũng bị thiêu
trong quan tài thép cùng với tổ lái. Chỉ có Từ là đã cùng Kiên đánh đến cửa số 5
sân bay Tân Sơn Nhất rồi mới hy sinh. Đêm 29 rạng ngày 30, khi hai thằng gặp
nhau lần chót trên nóc nhà phở Tàu bay, Từ móc cỗ bài dưới đáy bồng ra trao
cho Kiên.”.
Sĩ sự tri ân đến từ người sau với người trước, người sống với người chết
khơng có đồng đội khơng có tơi ngày hơm nay, hay những người lính muốn xóa
đi đoạn ký ức hồi chiến đó nhưng xóa làm sao được “bao thành viên bị quên lãng
của đại gia đình những người tử trận. Dưới lịng sâu đất ấm của đại ngàn họ
chung nhau một số phận. Khơng có người vinh kẻ nhục khơng người hùng kẻ nhát,
khơng có người đáng sống và kẻ đáng chết. Chỉ người tên tuổi cịn đó, người thì

thời gian đã xóa mất rồi, và người thì cịn chút xương, người chỉ đọng chút bùn
lỏng. Sau những nhát xẻng, đáy huyệt tối tăm lộ ra và lan hơi thở cuối cùng của
người đã khuất phủ lên”, “Dưới âm ty người ta chẳng nhớ chiến tranh là cái trị
gì nữa đâu. Chém giết là sự nghiệp của những thằng đang sống”. Đôi khi sự tri
ân cũng thật tàn nhẫn đầy ám ảnh.
Hịa bình trong tâm thức của người sống sót qua những cuộc chiến “kiếp,
hịa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao anh em mình, để chừa lại
chút xương. Mà những người được phân công nằm lại gác rừng le là những người
đáng sống nhất.”
2.3. Chiến tranh – một hiện thực đa chiều cần nhận thức lại
Khi nhắc lại chiến tranh, lịch sử luôn ưu ái mà nhắc lại những chiến công
anh dũng, đáng trân trọng, tự hào của những nhà kiệt xuất có đóng góp quan trọng
trong cơng cuộc xây dựng hịa bình. Nhưng chiến tranh khơng phải là điều đáng
ngưỡng mộ. Bao nhiêu đau thương, bao nhiêu tang tóc của những người vợ mất
chồng, con mất cha,… Tất cả những nỗi mất mát, đau thương ấy đều đến từ chiến
14


tranh? Máu và nước mắt mà chiến tranh mang lại là sự thật mà các thế hệ mai sau
cần biết.
Dưới góc nhìn của một người vừa bước ra từ cuộc chiến, Bảo Ninh đã trực
tiếp cảm nhận được những mất mát, đau thương mà bom đạn mang lại cho đất
nước mình, đồng thời lột tả một cách trần trụi sự thật của cuộc chiến. Đầy ám ảnh
và bi kịch.
Khác với tiểu thuyết lịch sử luôn miêu tả chiến tranh bằng những hình tượng
hào hùng, “Nỗi buồn chiến tranh” chủ yếu đi sâu vào đời sống nội tâm của con
người thời chiến - cái nhìn về thân phận người lính. Những người lính sau khi
cầm súng chiến đấu cũng là những con người bình thường, tuổi trẻ họ vẫn có
những hồi bão và tình u nhưng vì hồn cảnh buộc phải ném bom dưới mưa.
Người lính trong vịng xốy của chiến tranh đạn pháo, trong sự đối mặt với hiện

thực tàn khốc của chiến tranh. Đó là người lính khơng có hào khí trận mạc hay
dáng dấp lý tưởng cũng chẳng có chiến cơng vẻ vang, oai hùng trên trận địa như
tác phẩm “ Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu. Mà người lính của
Bảo Ninh là khơng gian ma mị bị hoàn cảnh rùng rợn với những cơn mưa “nặng
nề xối dội” nhấn chìm trong “ướt át lầy lội khốn khổ”, “chẳng cịn ai trơng ra
hồn” nữa “khổ sở vì đói, vì sốt rét triền miên, thối hết cả máu, vì áo quần bục nát
tả tơi và vì những lở loét cùng người như phong hủi”. Nhân vật Kiên mang trong
mình lý tưởng của tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu ấy vậy mà giờ đây anh chỉ còn vẻ
“lãnh đạm và ơ hờ”, “anh như đang âm thầm vĩnh biệt chính mình. Anh đón đợi
cái chết, nhưng ngay cả nó, cái chết cũng tầm thường và vơ vị, Kiên thản nhiên
nhìn nhận nó với đơi chút ưu sầu, và đôi khi với cả niềm mỉa mai”. Chiến tranh
khốc liệt với máu và bom đạn huỷ diệt đã vây kín khắp nơi, làm ngạt thở những
tâm hồn lính chiến.
Cái chết của người lính trong tác phẩm cũng khác nó khơng giống cái chết
với các giai đoạn trước: những cái chết đi vào huyền thoại, cái chết có giá trị ngợi
ca, khích lệ,...nhưng cái chết của Bảo Ninh là những cái chết chưa sẵn sàng đón
nhận. Cái chết đến bên người lính như sự bất ngờ “Tạo thì lại từ từ gập người
xuống, hai bàn tay ôm ngực như muốn đỡ lấy quả tim, mắt dại đi như tràn đầy
ngạc nhiên, ở nửa lưng bên trái nở bùng rất nhanh một bông hoa máu.”. Cái chết
của Thịnh “nhớn” trong cuộc tấn cơng trên đồi Phượng Hồng gợi âm hưởng bi
thương và đau đớn hơn là hào hùng: “Đạn cày bên trái, bên phải, bấm sát gót,
15


lia rát ràn rát mang tai, đỉnh đầu. Ối – Thịnh hộc một tiếng, nhảy dựng lên húc
đầu vào không khí, vật sấp”.
Đó cịn là nỗi ám ảnh về những cái chết: Thịnh “con”, Quảng, Can (người
đồng đội bỏ trốn đáng thương của anh),..; cái chết của những thằng lính Mỹ, có
lần anh vì muốn cứu một lính Mỹ mà bỏ chạy đi tìm dụng cụ cứu thương, đến khi
đến nơi, người lính kia đã bị nước mưa nhấn chìm dưới hố sâu. Rồi lần lượt lần

lượt cái chết của những người xung quanh Kiên kéo đến, bám riết trong tâm trí
của anh. Có cả những tiếng cười thảm thiết, man rợ của những người đồng đội
hóa điên của mình… Những giấc mơ của anh gắn liền với cái chết, có người hy
sinh vì anh, cũng có người đã chết vì những lỗi lầm của anh. Tất cả sống lại trong
cuốn tiểu thuyết của Kiên dưới những hình hài hỗn độn. Chẳng ai có thể hiểu được
chúng, trừ một người đàn bà câm sống trên gác áp mái tòa nhà.
Với Kiên, anh phải đối mặt với sự cô đơn vô bờ bến. Trở về ngôi nhà xưa
với một nỗi cô đơn khủng khiếp: cha đã mất, mẹ khơng cịn! Nơi bấu víu tinh thần
duy nhất của anh là Phương - cô người yêu hồi học sinh, cũng bỏ anh mà đi.
“Nhưng chỉ sợ chúng mình sẽ khơng kịp sống và u”, “có ai chết đâu,
nhưng tình u đó, tình u giữa Phương và Kiên chỉ mãi mãi nằm trong ký ức để
họ nhớ về nhau.Tình u đau đớn nhất có lẽ là yêu mà không đến được với nhau.
Nhưng một khi đến được với nhau rồi liệu tình u có cịn đẹp nữa hay khơng?”
“… Hai đứa mình, Kiên ơi… Có thể đến khi chết đi vẫn cịn trong trắng…
Vậy mà chúng mình yêu nhau biết là ngần nào…”
“Nỗi buồn chiến tranh” còn khắc họa cảnh sống và sinh hoạt của những
chàng trai mười chín đơi mươi chờ giờ ra trận, cờ bạc, ma túy cho quên tháng
ngày. Ma túy chẳng gì khác hơn là sợi hồng ma cho quên đi cái chết cận kề. Đó
là những chàng thanh niên mới lớn, chưa một lần biết đến mùi yêu, hàng đêm lần
lượt kéo nhau xuống “khu trang trại gia tăng của huyện đội 67” với mỗi ba cô gái
đang sống và chờ đợi từng đêm, chờ đợi bước chân người lai vãng.
“Nỗi buồn chiến tranh” miêu tả chân thực cuộc sống bị “sốc” của những
con người từ chiến trường trở về cuộc sống đời thường. Họ, những chàng lính anh
dũng trên chiến trận, cịn lại gì khi đất nước đã hịa bình? Phải chăng, họ cịn lại
là nỗi buồn, mất mát, ám ảnh và đang loay hoay trong cái gọi là hòa nhập, là sống
16


lại với hịa bình? Kiên sau khi trở về Hà Nội, anh đã viết, viết để kể, được hồi ức,
để tránh những nỗi ám ảnh, nỗi cô độc, nỗi buồn trong chính con người mình về

tình u, về chiến tranh. Có ai đó đã nói “Cách tốt nhất để né tránh nỗi đau là đối
diện trực tiếp với nó”. Phương đã rời xa anh, cịn lại một mình anh chỉ biết viết
mà thôi.
2.4. Chiến tranh – số phận con người và vấn đề nhân tính
Dấu ấn của cuộc chiến năm xưa vẫn còn nặng trĩu, ám ảnh trái tim Kiên từ
lúc nào không hay. Độc giả sẽ không bao giờ quên những thước phim tái hiện
cảnh chiến trường ngày xưa: “Trên đầu trực thăng rà rạp các ngọn cây và gần
như thúc họng đại liên vào gáy từng người một mà bắn. Máu tung xối,chảy toé,
ồng ộc, nhoe nhoét… la liệt xác người bị pháo bầy đốn hạ, thân thể dập vỡ, tanh
bành; phùn phụt phì hơi nóng”. Các hồi ức nối tiếp nhau hiển hiện “dằng dặc trôi
qua trong hồi ức của Kiên…cả một đạo quân mà anh từng gặp trong chiến trận
đã trở về với anh qua những cách cửa vòm mờ tối của những giấc mơ dài không
dứt… làm tâm hồn anh từng lúc một hoặc sôi sục, hoặc nhói đau, hoặc ngưng
lặng đi”
Hay như người đội trưởng tên Quảng cầu xin Kiên hãy kết liễu đời anh vì
anh đau đớn quá. Bụng rách trào ruột, xương xẩu dường như gãy hết, tay lủng
liểng. Và cả những người lính dù trang phục vằn vện nằm phơi nắng trong các
lùm bụi lúp xúp ven rừng Ko Leng, thản nhiên trương phình lên, thản nhiên chịu
đựng lũ ruồi, bầy dịi và mùi da thịt khắm lặm của mình. Rồi hình dung về những
trận mưa cẳng chân, bàn tay rơi lịch bịch lẹt bẹt xuống đồng cỏ voi bên bờ sơng
Sa Thầy. Những người lính bị ám ảnh bởi những cái xác mà xe tăng mình đã
nghiến qua, bởi mùi thịt hơi thối khong sao gột rửa được.
Những bóng ma q khứ liệu có bng tha người lính để họ trở về và bước
tiếp cuộc sống bình thường? Với Kiên thì khơng, anh dường như phát điên, phải
mượn rượu để sống bởi khơng thể tự thốt ra khỏi những chấn thương tâm lý mà
chiến tranh gây ra. Rồi những đồng đội khác đều mang thương tật, mặc cảm với
hịa bình... Khơng phải khơng có lý khi nhiều người cho rằng Bảo Ninh bi quan,
bế tắc, khi tác giả đã để cho nhân vật của mình phát ngơn như sau: - “Hừ, hịa
bình, mẹ kiếp, hịa bình chẳng qua là một thứ cây mọc lên từ máu thịt bao nhiêu


17


anh em mình, để chừa lại chút xương... nền hịa bình này, tơi thấy hình như các
mặt nạ người ta đeo trong những năm trước rơi hết... Mặt thật bày ra gớm chết”.
Những trận chiến khốc liệt xuất hiện bất cứ lúc nào, làm nhói lịng người
lính. Những gương mặt bạn bè theo chiến tranh mà mà biến mất. Số phận của
những người lính trong chiến tranh hệt như những tia nắng xế chiều - mỏng
manh và nhanh tắt. Ký ức về những trận đánh, những hy sinh thầm lặng, ước
mơ hịa bình, những gì chiến tranh buộc con người phải làm, ln hiện lên trong
tâm trí những người trở về.
Bên cạnh số phận người lính, hình ảnh Phương - người yêu trinh trắng, đắm
say, đẹp như một bài thơ giờ trở thành tan nát - đau như một vết thương lòng.
Phương trở thành một gái điếm, một ca kỹ. Rồi em gái của một đồng đội đã hy
sinh cũng trở thành một gái điếm, đói rách khốn khổ, bị ruồng rẫy... Nỗi đau tinh
thần của người dân trong chiến tranh có thể là vết thương khơng thể chữa lành
theo thời gian. Nó cũng làm cho trái tim của những người đang sống thổn thức
và nhức nhối không ngừng.
Chiến tranh đồng nghĩa với chết chóc, mất mát, đau thương và nó cướp đi
của con người tất cả những gì q giá nhất: gia đình, tuổi trẻ, những người thân
yêu, tình u… thậm chí cả tình người. Khi trực diện đối mặt với cái chết, con
người mới lộ rõ bản chất, từ sợ hãi, đau đớn đến hẹp hịi, ích kỷ. Qua kinh nghiệm
mười năm tàn sát, con người học được những gì về lịng nhân ái? Về tình người?
Về nhân tính? Những “xa xỉ phẩm" ấy hầu như đều vắng mặt trên thị trường xương
máu “Miễn là không ngỏm trong mùa khơ."
Trong Nỗi buồn chiến tranh khơng có cái đúng, cũng không tồn tại cái sai.
Suy cho cùng, nếu đã cầm súng giết nhau thì đều là “thiếu nhân tính”, cái chết
cho dù là phe ta hay địch thì đều là nỗi buồn của mỗi một phía. Ở đây khơng nói
dựa trên lập trường của một người làm chính trị, khơng dựa trên lý thuyết của
cuộc chiến tranh chính nghĩa hay phi nghĩa. Chống lại cái gì và bảo vệ cái gì? Văn

học cho dù đổi mới hay chưa đổi mới thì nó chỉ đúng nghĩa là văn học khi nó nói
và tái hiện cái nó thấy, khơng dựa trên sự áp đặt của một luồng tư tưởng, hay một
thiết chế chính trị hay một quy chuẩn đạo đức nào. Tất nhiên, những gì văn học
tái diễn phải chắc chắn là sự thật.

18


* Tiểu kết
Với tư cách một người lính, Bảo Ninh thể hiện những trải nghiệm chiến
tranh; với tư cách nhà nghệ sĩ, Bảo Ninh muốn trình bày những chiêm nghiệm,
những suy tư, triết lý về cuộc sống. Những triết lí ấy mang tính đối thoại, cho thấy
một hiện thực đa chiều, đa nghiệm, khơng khép kín. “Nỗi buồn chiến tranh” là
một tiểu thuyết hướng nội và chủ quan hoá triệt để. Những xung đột và những vận
động cơ bản của tiểu thuyết đều diễn ra trong thế giới nội tâm của nhân vật. Bảo
Ninh đã sử dụng ngôn từ tinh tế và lời văn uyển chuyển, để tái hiện và truyền tải
cảm xúc sâu sắc, đặc biệt là những khía cạnh tâm lý và tình cảm để tạo nên một
thế giới sống động, đầy cảm xúc và đặc biệt là sâu sắc. Ông sử dụng kỹ thuật nhân
vật kể chuyện trực tiếp, điều này cho phép độc giả cảm nhận được cảm xúc tận
cùng của nhân vật, từ sự sợ hãi, tuyệt vọng cho đến hy vọng. Sự chân thành đến
từ trái tim của Bảo Ninh được phản ánh qua cách ông miêu tả về chiến tranh, nơi
mà sự đau khổ và tuyệt vọng thường xuyên xuất hiện và sức mạnh của tình u
và lịng trắc ẩn. Qua đó độc giả được nhìn nhận lại chiến tranh trên những khía
cạnh đầy mới lạ, độc đáo. Nhưng chiến tranh của Bảo Ninh cũng làm cho người
đọc đau khổ, bứt dứt, u buồn. Một cuốn tiểu thuyết đên viết về chiến tranh. Đề
cập bản chất hai mặt của chiến tranh:giữa vinh quang với đau thương mất mát,
tổn thất khơng gì đong đếm được. Vươn tầm nhân loại vì khơng miêu tả diễn trình
trận chiến cụ thể nào mà viết về chiến tranh từ góc nhìn nhân bản – chiến tranh
như một hiểm họa, nỗi buồn truyền kiếp.


19


Chương 3: Những đổi mới trong nghệ thuật qua tiểu thuyết
Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh
3.1. Nhan đề - góc nhìn mới về chiến tranh
Nhan đề là chìa khóa đưa người đọc đến tiến trình giải mã tác phẩm văn
chương. Nó truyền tải những tư tưởng, tình cảm của người viết. Mới đầu có tên
“Thân phận tình u” sau đổi thành “Nỗi buồn chiến tranh” đã thiện được tư
tưởng chủ đề, ý tưởng mà Bảo Ninh muốn nói. Qua nhan đề truyện ta thấy được
nỗi buồn dai dẳng khủng khiếp của lồi người. Trong cả cuốn tiểu thuyết những
dịng hồi ức gợi lại về chiến tranh ta chỉ thấy là giết người, tiêu diệt và việc giết
người thành cơm bữa, nó như một chuyện hết sức bình thường, nhân tính đã xói
mịn khơng thể quay lại được: “Khơng chút nương tay, thằng khốn nọ lôi xác cô
gái xuống bậc tam cấp. Tóc tai xõa tung, gáy và sọ xác chết nảy bình bịch như
trái banh” sự xuống cấp nhân tính khơng phân biệt ta hay địch, chiến tranh là bi
kịch truyền kiếp.
Nhan đề “Nỗi buồn chiến tranh” Bảo Ninh truyền tải những cái nhìn mới về chiến
tranh. Nhan đề phản ánh tính chất hai mặt của cuộc chiến tranh, được nhìn ở góc
độ mà từ trước đến nay các nhà văn đều né tránh cho nó là cấm kị. Chiến tranh
khơng chỉ là một cuộc tranh đấu mà nó còn phá hủy những giá trị tốt đẹp nhất của
cuộc sống. Tình u thương, sự chung thủy, mà cịn là một cuộc chiến đấu giữa
con người và con người, con người và sự tàn ác. Nó ẩn chứa trong nó sự tàn nhẫn,
sự đau khổ và những nỗi thống khổ của con người. Và đặc biệt thân phận người
lính, những người đang chiến đấu trong cuộc chiến, trở nên bị ám ảnh bởi những
ký ức khủng khiếp và sự cô đơn. Chiến tranh là một món nợ kinh hồng của nhân
loại. Chiến tranh mang theo “một nỗi buồn mênh mang, nỗi buồn cao cả, cao hơn
hạnh phúc và vượt trên đau khổ” . Qua nhan đề người đọc cũng nhận thấy quan
điểm sáng tác của tác giả trong việc lựa chọn góc nhìn (u buồn và đầy ám ảnh)
khi viết về cuộc chiến vệ quốc. Nỗi buồn chiến tranh đã bao trùm lên thân phận

con người, thân phận tình yêu bằng màu sắc tăm tối ảm đạm.
Nhan đề gửi một thơng điệp về cái nhìn mới về chiến tranh so với các tác
phẩm trước đó. Đồng thời cũng đặt ra vấn đề thách thức cho việc tiếp nhận tác
phẩm để từ đó có cái nhìn đa chiều kích về chiến tranh.
20


3.2. Những kiểu nhân vật mới
“Nỗi buồn chiến tranh” dù viết về một đề tài không mới – đề tài chiến tranh,
nhưng cách nhìn nhận, tiếp cận chiến tranh của tác giả lại vô cùng mới mẻ và đậm
chất hiện thực. Tiểu thuyết của Bảo Ninh cũng viết về những con người chiến
tranh, người lính, đàn ơng, đàn bà… nhưng những con người ấy có tư tưởng, suy
nghĩ, thân phận… rất khác biệt so với những tác phẩm đi trước. Việc đưa những
con người ấy vào văn học đã góp phần tạo ra những kiểu nhân vật mới, tạo ra
nhiều điểm nhìn mới về chiến tranh, tạo nhiều khoảng trống cho độc giả. Một số
kiểu nhân vật mới được phát hiện trong quá trình nghiên cứu “Nỗi buồn chiến
tranh” phải kể đến: kiểu nhân vật dòng ý thức, kiểu nhân vật lạc thời và kiểu nhân
vật chấn thương.
3.2.1. Kiểu nhân vật dòng ý thức
Khái niệm “dòng ý thức” được nêu ra bởi William James – một nhà triết
học theo chủ nghĩa thực dụng đồng thời là nhà tâm lí học người Mỹ. Ông cho
rằng, hoạt động ý thức của con người khơng phải rời rạc mà có liên quan với nhau,
dựa theo phương thức dòng tư duy, dòng ý thức hoặc dòng sinh hoạt chủ quan.
Dòng ý thức chấp nhận những yếu tố không nằm trong mạch logic trực tiếp của
tác phẩm cho nên ta thường bắt gặp những yếu tố rời rạc, riêng lẻ, những yếu tố
thuộc về tiềm thức của nhân vật: nỗi ám ảnh, nỗi sợ hãi vơ thức,… Nguyễn Bích
Thu đã nói: “giấc mơ và hồi ức là đặc điểm của nhân vật dòng ý thức”, tức là trong
vô thức, khi con người không nhận thức được thực tại, mọi hình ảnh, ý tưởng, kí
ức hướng đến tâm lí nhân vật xuất hiện một cách tự do, đột ngột, khơng kiểm sốt
được. Trong bài viết này, người viết sẽ tập trung làm nổi bật Kiên – một nhân vật

được xây dựng theo “dòng ý thức”, một người lính trở về với những vết thương
lở loét, những vết tích chiến tranh in hằn trên xác thịt và dày vị, ám ảnh trong tâm
lí.
Chảy tràn trên trang giấy của “Nỗi buồn chiến tranh” là nội tâm rối bời, là
những mảnh đứt gãy trong kí ức, những gương mặt đồng đội, người yêu, người
thân vụt qua, nhưng không biến mất mà cứ trở đi trở lại trong lòng Kiên. Ở đây,
Bảo Ninh đã vận dụng hình thức đồng hiện, những tư tưởng tình cảm, những câu
chuyện được kể trong tác phẩm được triển khai bởi Kiên, nhưng là Kiên ở hiện
tại nhìn về bản thân trong quá khứ. Việc sử dụng hình thức ấy đã tạo ra một vịng
21


×