Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Sự phát triển của lục lượng sản xuất dưới tác dụng của tiến bộ khkt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.19 KB, 17 trang )

Lý thuyết

I.
1.
-

Nguyên nhân hình thành của chủ nghĩa Tư bản độc quyền:
( 4 nguyên nhân )
Một là: Sự phát triển của lục lượng sản xuất dưới tác dụng của tiến bộ KHKT, làm
xuất hiện những ngành sản xuất mới. Ngay từ đầu nó đã là những ngành có trình độ
tích tụ cao, đó là những xí nghiệp lớn địi hỏi những hình thức kinh tế tổ chức mới.

- Hai là: Cạnh tranh tự do. Một mặt buộc các nhà TB phải cải tiến kỹ thuật, tăng qui
mơ tích lũy. Mặt khác, đã dẫn đến nhiều doanh nghiệp nhỏ, trình độ kỹ thuật kém,
hoặc bị các đối thủ mạnh thơn tính, hoặc phải liên kết với nhau để đứng vững trong
cạnh tranh. Vì vậy xuất hiện một số xí nghiệp tư bản lớn nắm địa vị thống trị một
ngành hay trong một số ngành công nghiệp.
- Ba là: Khủng hoảng kinh tế làm cho nhiều xí nghiệp nhỏ và vừa bị phả sản. Một số
sống sót phải đổi mới kỹ thuật để thốt khỏi khủng hoảng, do đó thúc đẩy q trình tập
trung sản xuất. Tín dụng TBCN mở rộng trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập
trung sản xuất.
- Bốn là:Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh
mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề
cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.
2. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền
Xét về bản chất CNTB độc quyền là một nấc thang phát triển mới của CNTB.
CNTB độc quyền là CNTB trong đó ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế
tồn tại các tổ chức tư bản độc quyền và chúng chi phối sự phát triển của toàn bộ nền
kinh tế.
Sự ra đời của CNTB độc quyền vẫn không làm thay đổi được bản chất của CNTB. Bản
thân quy luật lợi nhuận độc quyền cũng chỉ là một hình thái biến tướng của quy luật


giá trị thặng dư.
3. Đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền
3.1. Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền
- Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc
trưng kinh tế cơ bản của CN đế quốc:
+ Khi bắt đầu chuyển sang CNTB- ĐQ thì hình thức thống trị là cơng ty cổ phần.
1


Những liên minh độc quyền này đầu tiên hình thành theo sự liên kết ngang ( cùng
ngành) dưới hình thức: Cácten, Xanhđica, Trớt.
+ Sau đó là sự liên kết dọc. Sự liên kết này khơng chỉ các xí nghiệp lớn mà cả các
Xanhđica, Trớt thuộc các ngành khác nhau nhưng có liên quan với nhau về kinh tế - kỹ
thuật dẫn đến hình thành các cơng ty độc quyền lớn như: Côngxoocxiom.
Nhưng từ giữa thế kỷ 20 đã phát triển lên một hình thức mới: liên kết đa ngành hình
thành các cơng ty lớn như: Cơnglơmêrát, Consơn thâu tóm nhiều cơng ty xí nghiệp
thuộc những ngành cơng nghiệp khác nhau.
Khái niệm: Tổ chức độc quyền là liên minh những nhà TB lớn để tập trung vào trong
tay một phần lớn (thậm chí tồn bộ) sản phẩm của một ngành, cho phép liên minh này
phát huy ảnh hưởng quyết định đến q trình sản xuất và lưu thơng của ngành đó.
- Vị trí, vai trị: Nhờ nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông,
các tổ chức độc quyền có khả năng định ra giá cả độc quyền.
+ Giá cả độc quyền là giá cả hàng hóa có sự chệnh lệch rất lớn so với giá cả sản xuất:
* Họ định ra giá cả độc quyền cao hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hóa bán ra.
* Họ định ra giá cả độc quyền thấp hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hóa mua
vào, qua đó thu được lợi nhuận độc quyền.
Vậy giá cả độc quyền là: Giá cả độc quyền = chi phí sản xuất + P độc quyền.
Nhưng giá cả độc quyền không thủ tiêu được tác động của quy luật giá trị và quy luật
giá trị thặng dư, vì xét trên phạm vi tồn xã hội thì: Tổng giá cả vẫn bằng tổng giá trị;
tổng số lợi nhuận vẫn bằng tổng số giá trị thặng dư.

Do đó những gì mà độc quyền thu được cũng là cái mà tầng lớp tư sản vừa và nhỏ,
nhân dân lao động ở các nước TB, thuộc địa mất đi.
-> Như vậy ta thấy: Độc quyền ra đời từ cạnh tranh và giữ vai trị thống trị, nhưng nó
khơng thủ tiêu được cạnh tranh; độc quyền và cạnh tranh tồn tại song song và thống
nhất với nhau một cách biện chứng. Tuy nhiên trong thời đại Đế quốc chủ nghĩa thì
tính chất cạnh tranh khác hẳn thời kỳ tự do cạnh tranh về mức độ và hình thức.
3.2. TB tài chính và bọn đầu sỏ tài chính:
- Song song với qúa trình tích tụ và tập trung sản xuất, thì trong ngành ngân hàng cũng
diễn ra một quá trình tương tự. Hình thành các tổ chức độc quyền ngân hàng.
- Sự ra đời của các tổ chức độc quyền ngân hàng đã làm thay đổi vai trò của ngân
hàng:
+ Từ chỗ là trung gian trong việc thanh tốn và tín dụng, nay do nắm được phần lớn tư
bản tiền tệ trong xã hội, ngân hàng đã có quyền lực vạn năng chi phối các hoạt động
kinh tế xã hội:
2


* Các tổ chức độc quyền ngân hàng cho các tổ chức độc quyền công nghiệp vay và
nhận gửi số tiền lớn của các tổ chức độc quyền công nghiệp tring một thời gian dài,
nên lợi ích của chúng quyện chặt vào nhau. Hai bên đều quan tâm đến hoạt động của
nhau, tìm cách thâm nhập vào nhau, hình thành nên TB tài chính.
- Khái niệm: TB tài chính là sự thâm nhập và dung hợp vàp nhau giữa TB độc quyên
trong ngân hàng và TB độc quyền trong công nghiệp.
- Sự phát triển của TB tài chính đã dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền chi
phối tồn bộ hệ thống kinh tế, chính trị xã hội của xã hội TB. Đó chính là bọn đầu sỏ
tài chính.
* Bọn đầu sỏ tài chính thực hiện sự thống trị của mình bằng "chế độ tham dự" với số
phiếu khống chế mà chi phối được công ty gốc (công ty mẹ) -> chi phối công ty con >chi phối công ty cháu… Như vậy chỉ bằng một số TB nhất định một đầu sỏ tài chính
có thể chi phối được những lĩnh vực sản xuất
3.3. Xuất khẩu tư bản

- Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá trị và giá trị
thặng dư.
- Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài)
nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư ở các nước nhập khẩu tư bản đó.
- Xuất khẩu tư bản là tất yếu:
+ Vì trong các nước tư bản có hiện tượng "thừa tư bản".
+ Giá trị nguyên liệu và nhân công ở các nước chậm phát triển rẻ, nhưng lại thiếu vốn
và kỹ thuật
+ Thị trường tiêu thụ hàng hóa rộng lớn.
- Hình thức xuất khẩu TB:
+ Xuất khẩu tư bản trực tiếp: Xây dựng các xí nghiệp, trực tiếp kinh doanh thu lợi
nhuận,....
+ Xuất khẩu tư bản gián tiếp: Cho vay tư bản để thu lợi tức….
- Xuất khẩu TB vừa có tác dụng tích cực vừa có tác dụng tiêu cực, đặc biệt là đối với
các nước nhận đầu tư, có thể dẫn tới tình trạng lệ thuộc về kinh tế, dẫn tới lệ thuộc về
chính trị.
3.4. Sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các liên minh độc quyền quốc tế
Việc xuất khẩu TB tăng lên về quy mô và mở rộng phạm vi tất yếu dẫn đến việc phân
chia thế giới về mặt kinh tế, nghĩa là phân chia lĩnh vực đầu tư TB, phân chia thị
trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền quốc tế với nhau... Từ đó hình thành các
liên minh độc quyền quốc tế: Cacten, Xanhđica, Trớt quốc tế. Nhưng giữa cac tổ chức
3


này luôn luôn diễn ra sự cạnh tranh lẫn nhau… tất yếu dẫn đến xu hướng thoả hiệp từ
đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế.
3.5. Sự phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc
Lợi ích của việc xuất khẩu TB đã thúc đẩy các cường quốc TB đi xâm chiếm thuộc
địa, vì trên thị trường thuộc địa dễ dàng loại trừ được các đối thủ cạnh tranh, dễ dàng
nắm được độc quyền nguyên liệu và thị trường tiêu thụ. Do tcác động đó, đặc biệt là

do tác động của quy luật phát triển khơng đều của CNTB đó là những ngun nhân
dẫn đến các cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai, cũng như các cuộc
xung đột nóng ở nhiều khu vực trên thế giới hiện nay...
-> Như vậy: chủ nghĩa đế quốc là sự kết hợp giữa yêu cầu vươn ra và thống trị ở nước
ngoài của tư bản độc quyền với đường lối xâm lăng của nhà nước.
Chủ nghĩa đế quốc là một đặc trưng của chủ nghĩa tư bản độc quyền biểu hiện trong
đường lối xâm lược nước ngoài, biến những nước này thành hệ thống thuộc địa của
các cường quốc nhằm đáp ứng yêu cầu thu siêu lợi nhuận độc quyền của tư bản độc
quyền.
II.

Liên minh thương mại châu Âu ( EU)

1. Quá trình hình thành và phát triển của liên minh Châu Âu
1.1
Sự ra đời của Liên minh châu Âu và các nước tiến tới nhất thể hố tồn diện.
Hiện nay, chúng ta chỉ biết đến một EU hùng mạnh với trên 50 tuổi, nhưng
trong số chúng ta không mấy ai biết rằng ngay từ thời Saclơ Đại đế thuộc đế chế La
Mã (thế kỉ thứ VII sau Công nguyên), ý tưởng về một châu Âu thống nhất đã được
hình thành. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, ý đồ thống nhất châu Âu chỉ thuộc về
một vài nhà chính trị, quân sự có nhiều tham vọng và một bộ phận các nhà trí thức có
tư tưởng cấp tiến; cịn đại bộ phận châu Âu vẫn thờ ơ, thậm chí khơng hề có ý tưởng gì
về điều đó, mặc dù châu Âu đã mang sẵn trong mình các yếu tố thống nhất.
Đến năm 1923, Bá tước người Áo – Condanhve Kalagi đã sáng lập ra “Phong
trào Liên Âu” nhằm thiết lập “Hợp chủng quốc châu Âu” để làm đối trọng với “Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ; và vào năm 1929, ngoại trưởng Pháp lúc bấy giờ là Aristide
Briand cũng đưa ra đề án thành lập “Liên minh châu Âu”, nhưng đều không thành.
Phải đến sau Thế chiến lần thứ II, những ý tưởng thống nhất châu Âu này mới trở
thành hiện thực.
Đại chiến thế giới thứ II kết thúc đã làm đảo lộn trât tự thế giới nói chung và

trật tự ở châu Âu nói riêng. Trật tự thế Yalta với hai cực là hai siêu cường Hoa Kỳ và
Liên Xô trở thành lực lượng mới khống chế toàn cầu. Cùng với sự thay đổi đó, châu
4


Âu cũng bị chia cắt thành hai khu vực: Đông Âu đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
còn Tây Âu đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Và trong khi Liên Xơ với vai trị là
“thành trì” của phong trào cộng sản quốc tế, dẫn dắt “nửa kia” của châu Âu, có vị thế
ngày càng lớn rộng, thì Hoa Kỳ nhờ chiến tranh mà phát triển vượt bậc cả về kinh tế
lẫn quân sự, còn Tây Âu đang phải đối mặt với sự suy yếu toàn diện và nguy cơ tụt
hậu. Cho dù thắng trận hay bại trận thì nền kinh tế các nước Tây Âu đều rơi vào tình
trạng kiệt quệ. Cịn về qn sự thì cả hai phía đồng minh và phát xít đều khơng tránh
khỏi những tổn thất nặng nề. Nguy cơ mất vai trò “trung tâm thế giới” của Tây Âu đã
trở thành hiện thực. Hơn nữa, người châu Âu nhận thấy rằng để loại trừ tận gốc mầm
mống của hai cuộc đại chiến thế giới đã gây không biết bao nhiêu tổn thất cho châu
Âu, cần phải tước bỏ quyền độc lập sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hai ngành kinh tế
quan trọng nhất của châu Âu lúc bấy giờ là than và thép, chủ yếu nằm trong tay Pháp
và Đức, hai quốc gia ln có những căng thẳng chính trị - mối hiểm hoạ tiềm tàng của
nền hồ bình châu Âu. Chính trong bối cảnh đó, nhu cầu hợp tác và liên kết chặt chẽ,
toàn diện giữa các quốc gia Tây Âu trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Chỉ bằng con
đường hợp tác hồ bình, các nước Tây Âu mới giải quyết được những khó khăn chồng
chất sau chiến tranh, phát triển nội lực và tăng thế cạnh tranh với bên ngoài. Chưa bao
giờ các quốc gia Tây Âu lại ý thức rõ ràng và cấp bách về vấn đề một cộng đồng
chung đến như vậy. Và một yêu cầu tất yếu, hết sức cần thiết được đặt ra là phải thành
lập được một tổ chức quyền lực siêu quốc gia có sứ mệnh điều hành phối hợp các hoạt
động hợp tác giữa các quốc gia sao cho hiệu quả. Địi hỏi khách quan đó đã trở thành
nguồn gốc của sự liên kết giữa các quốc gia Tây Âu - mở ra một trang mới trong lịch
sử phát triển Tây Âu nói riêng cũng như của cả châu Âu nói chung.
Mốc lịch sử đánh dấu sự hình thành của EU là bản “Tuyên bố Schuman” của
Bộ trưởng ngoại giao Pháp Robert Schuman vào ngày 09 tháng 05 năm 1950 với đề

nghị đặt toàn bộ nền sản xuất gang thép của Cộng hoà liên bang Đức và Pháp dưới một
cơ quan quyền lực chung, trong một tổ chức mở cửa để các nước châu Âu khác cùng
tham gia. Sau đó, Hiệp ước thành lập Cộng đồng than thép châu Âu (ECSC), một tổ
chức tiền thân của EU ngày nay được ký kết. Từ đó đến nay, sự liên kết giữa các quốc
gia châu Âu đã không ngừng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu với đỉnh cao là
một Liên minh châu Âu như chúng ta thấy ngày nay và trong tương lai có thể sẽ đạt tới
cấp độ liên kết cao hơn. Nhìn lại hơn 50 năm hình thành và phát triển của Liên minh
châu Âu, có thể thấy quá trình này gắn liến với các hiệp ước chủ yếu sau đây (từ năm
1951 đến nay):
- Hiệp ước Paris thành lập cộng đồng Than – Thép châu Âu (ECSC) được ký ngày
18/04/1951 với sự tham gia của 6 nước: Pháp, Đức, Italy, Bỉ, Hà Lan và Luxembourg,
5


nhằm thống nhất việc sản xuất và phân phối hai sản phẩm chính là thép và than trên
tồn lãnh thổ châu Âu. Hiệp ước này đã chứa đựng ý đồ của các nhà sáng lập ECSC là
gây dựng nền tảng cho việc nhất thể hoá kinh tế châu Âu.
- Hiệp ước Rome thành lập Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu
(EURATOM) và Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) được ký ngày 25/31957 với sự
nhất trí của 6 nước thành viên ECSC. Mục đích thành lập EURATOM là để thống nhất
việc quản lý ngành năng lượng nguyên tử của 6 nước thành viên; trong khi đó EEC ra
đời nhằm đáp ứng nhu cầu tăng cường liên kết kinh tế giữa 6 nước này, tạo ra một tập
hợp sức mạnh kinh tế tổng hợp dưới hình thưc một “thị trường chung” mà lao động
hàng hoá được tự do di chuyển như một thị trường nội địa. Hiệp ước Rome là kết quả
của những thành tựu đáng khích lệ về kinh tế và chính trị mà ECSC đã đạt được. Và có
thể nói, hiệp ước này đã mở ra một hướng liên kết giữa các quốc gia châu Âu đánh giá
sự ra đời của một liên minh kinh tế thật sự Cộng đồng kinh tế châu Âu (EE).
- Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu Âu (EC) được ký ngày 08/04/1965 giữa các
nước của 3 nước Cộng đồng này dưới tên gọi: Cộng đồng châu Âu. Đây là văn bản xác
nhận một cấp độ nhất thể hóa kinh tế cao hơn giữa các quốc gia này thể hiện việc

thành lập một thị trường thống nhất; trong đó, ngồi việc hàng hố, lao động và vốn
đầu tư được tự do di chuyển, hàng rào thuế quan và phi thuế quan cũng được rỡ bỏ, hệ
thống thuế quan và chính sách thương mại chung được thành lập, một số chính sách
đối với các lĩnh vực kinh tế khác cũng được thống nhất nhằm tăng sức cạnh tranh với
các khối kinh tế bên ngoài, tiến tới một liên minh chặt chẽ về chính trị.
- Hiệp ước Maastricht thành lập Liên minh châu Âu được ký ngày 07/2/1992 tại
Maastricht – Hà Lan, với sự nhất trí hồn tồn của ngun thu quốc gia các nước thành
viên (lúc này, số thành viên của EC là 12 nước bao gồm: Pháp, Đức, Bỉ, Italy, Hà Lan,
Luxembourg, Anh, Đan mạch, Ailen, Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha) nhằm
thành lập một “không gian châu Âu” thống nhất về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc
phịng và các chính sách về xã hội. Như vậy, EU đã được bổ sung thêm các nội dung
liên kết mới (an ninh, chính trị , đối ngoại) mà các tổ chức tiền thân của nó chưa có, để
đạt được các mục tiêu tồn diện hơn như: duy trì bảo vệ hồ bình và thịnh vượng, thiết
lập nền tảng phát triển, tiến tới hợp nhất về kinh tế vì lợi ích chung của các dân tộc
châu Âu thông qua việc tạo ra một khu vực kinh tế rộng lớn, một khu vực thị trường tự
do, thống nhất, tạo điều kiện cho việc thống nhất về chính trị và hài hồ về xã hội
trong liên minh. Với mục tiêu như vậy, EU đã thực sự bước vào một thời kỳ mới, tồn
tại như một thực thể thống nhất, hay những nói đúng hơn là đóng vai trị như một “Đại
quốc gia” ở châu Âu, một “Ngôi nhà chung châu Âu”.

6


- Hiệp ước Amsterdam được ký vào ngày 2/10/1997 bởi các nguyên thủ của 15
nước thành viên (năm 1995 EU đã kết nạp thêm 3 nước thành viên nữa là: Thuỵ Điển,
Phần Lan, Áo). hiệp ước này được hình thành trên cơ sở sửa đổi hiệp ước Maastricht
nhằm đưa những cố gắng của EU trong việc xây dựng một liên minh kinh tế - tiền tệ
(EMU) trở thành hiện thực. Hiệp ước này đã tao cơ sở pháp lý để đồng EU đồng tiền
chung của các nước châu Âu chính thức ra đời với tư cách đầy đủ của một đồng tiền
thực thụ và đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1999 trong phạm vi 11 nước (EU-11): Đức,

Pháp, Ailen, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Italy, Luxembourg, Phần Lan. Theo kế hoạch
đã được định trước, đúng ngày 1/1/2002, các đồng Euro bằng giấy và bằng kim loại đã
chính thức đi vào lưu thông tiền tệ song hành với các đồng bản tệ và bắt đầu giai đoạn
đổi tiền. Và kể từ ngày 1/7/2002, các đồng bản tệ của tất cả 11 nước thuộc EU -11 đã
kết thúc lịch sử tồn tại của mình, vĩnh viễn rút khỏi lưu thơng, chính thức nhường chỗ
hoàn toàn cho đồng Eurro đang là đồng tiền chung, duy nhất lưu hành trong tất cả các
quan hệ kinh tế - xã hội các những nước thành viên. Một “Ngơi nhà chung châu Âu”
đã hình thành.
- Hiệp ước Nice (7-11/12/2000) được tập trung vào các vấn đề cải cách thể chế để
đón nhận các thành viên mới và gồm các vấn đề:
+ Cải cách thể chế: đổi mới thành phần Uỷ ban châu Âu (Uỷ ban châu Âu sẽ có
khơng q 27 uỷ viên, trong đó mỗi nước sẽ có một uỷ viên, được chỉ định theo
nguyên tắc luân phiên, sẽ thực hiện từ năm 2005. Chủ tịch uỷ ban sẽ được trao thêm
một số thẩm quyền mới, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại thương và việc lựa chọn chủ tịch
EC sẽ được quyết định theo nguyên tắc đa số đủ thẩm quyền; phân định số phiếu bầu
trong Hội đồng Bộ trưởng, cụ thể: Pháp, Đức, Anh, Italy có cùng số phiếu bầu là 29,
Tây Ban Nha có phiếu bầu là 27 phiếu, Hà Lan có phiếu bầu là 13 phiếu, Bỉ có phiếu
bầu là 12 phiếu, và các nước cịn lại sẽ có từ 3 đến 7 phiếu. Tổng số phiếu bầu sẽ là
345 khi số thành viên EU là 25 nước(1) nguyên tắc bỏ phiếu theo đa số đủ thẩm
quyền: hiện đang áp dụng cho 80% quyết định, 20% vấn đề còn lại các nước vẫn giữ
quyền phủ quyết của minh, đặc biệt đối với những vấn đề nhạy cảm, động chạm đến
lợi ích quốc gia).
+ Tăng cường vai trò của Nghị viện châu Âu. Số ghế nhiều nhất là 99 (tăng 12 so
với số cũ). Pháp, Anh và Italy chỉ còn 74 (giảm 13 so với số cũ). tổng số nghị sĩ tương
lai sẽ là 738.
+ Về chính sách an ninh và quốc phịng: EU thành lập Lực lượng phản ứng nhanh
(RRF) từ năm 2003, bao gồm 60.000 quân với 100 tầu chiến và 400 máy bay trong
thời gian 60 ngày. RRF sẽ có cơ cấu điều hành thường trực gồm uỷ ban quân sự bà Bộ
tham mưu đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của EU. Như vậy, từ ECSC đến EU hiện nay là
7



1.2

cả một quá trình phát triển phức tạp với các hình thức liên kết kinh tế quốc tế được
phát triển chặt chẽ, toàn diện và hoàn toàn mới về vật chất. Và cho đến nay, sau nhiều
nỗ lực thiết thực của EU, tiến trình nhất thể hố châu Âu đã đạt được các kết quả rất
khả quan trên nhiều lĩnh vực.
+ Về an ninh: EU lấy NATO và liên minh phịng thủ Tây Âu (WCU) làm hai trụ
cột chính. Tuy nhiên, EU đang cố gắng tạo cho mình “một cánh tay quân sự” bên cạnh
“cánh tay kinh tế” với bản sắc riêng của mình, hạn chế sự lệ thuộc vào Hoa Kỳ.
+ Về chính trị: đang diễn ra q trình chính trị hố các nhân tố kinh tế, anh ninh,
nghĩa là kết hợp các phương tiện kinh tế và quân sự nhằm đạt được các mục tiêu kinh
tế. Trong nội khối đã và đang diễn ra quá trình hợp nhất và thống nhất các đường biên
giới quốc gia nhằm tăng cường quyền lực và quản lý chung. Còn đối với bên ngoài,
EU đang đẩy mạnh hợp tác quốc tế và khu vực bằng các hiệp định song phương và đa
phương.
+ Về xã hội: về cở bản, các nước thành viên đang áp dụng một chính sách chung về
lao động, bảo hiểm, môi trường, năng lượng, giáo dục, y tế, (tuy nhiên, vẫn còn một số
lĩnh vực chưa thống nhất).
+ Về kinh tế: GDP của EU năm 1988 đạt 8.482 tỷ USD, được xem là lớn nhất thế
giới (NAFTA: 8.150 tỷ USD, ASEAN: 845 tỷ USD), năm 2000 đạt 9004 tỷ USD, năm
2001 đạt 9.315 tỷ USD, với mức tăng trưởng bình quân hàng năm 1995-2000 gần 2,2.
Đây là khu vực kinh tế đạt trình độ cao về kỹ thuật, cơng nghệ, thiết bị, máy móc; đặc
biệt là về cơ khí, năng lượng, ngun tử, dầu khí, hố chất, dệt may, điện tử, cơng
nghiệp vũ trụ và vũ khí
+ Về thương mại: EU là trung tâm thương mại lớn thứ hai sau Hoa Kỳ, với doanh
số 1.527,5 tỷ USD năm 1997, trong đó 50% là bn bán giữa các nước thành viên.
Năm 2002, giá trị xuất khẩu hàng hoá của EU đạt 2.441,2 tỷ USD, trong đó xuất khẩu
hàng hố nội khối đạt 1.502,2 tỷ USD, xuất khẩu hàng hoá ngoại khối đạt 939 tỷ USD.

Về nhập khẩu hàng hoá: năm 2002, EU đạt 2.437 tỷ USD, trong đó nhập khẩu nội khối
đạt 1.506 tỷ và ngoại khối đạt 931 tỷ USD. Như vậy, thương mại của EU phần lớn
phát triển mạnh trong nội bộ khối nhờ khối tác động của chính sách nhất thể hố kinh
tế khu vực. Ngày 1/5/2004, EU có 25 nước thành viên sau khi kết nạp thêm 10 quốc
gia mới. Với việc mở rộng lần thứ 5 này. EU trở thành một khối kinh tế và thị trường
lớn nhất thế giới, với kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vị chiếm khoảng 21,9%
kim ngạch nhập khẩu của tập đoàn thế giới.
Cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của Liên minh châu Âu
Nhằm thực hiện những mục tiêu chung đã được đề ra trong các hiệp ước, EU đã xây
dựng cho mình một hệ thống thể chế “ siêu quốc gia” để điều hành, giám sát quá trình
8


1.3

liên kết của các quốc gia thành viên. Hệ thống thể chế này bao gồm 5 cơ quan chính
sau:
- Hội đồng châu Âu: bao gồm những người đứng đầu nhà những nước, chính phủ các
nước thành viên và chủ tịch Uỷ ban châu Âu. Hội đồng châu Âu có nhiệm vụ xác định
những định hướng lớn của EU và đóng vai trị như mọi diễn đàn chính trị.
- Hội đồng bộ trưởng: bao gồm Bộ trưởng các nước thành viên. Đây là cơ quan lập
pháp tối cao của EU, chịu trách nhiệm quyết định các chính sách lớn của Liên minh,
đưa ra các quy chế, chỉ thị mang tính bắt buộc đối với các thành viên, đồng thời cũng
chịu trách nhiệm về hợp tác liên minh chính phủ.
- Uỷ ban châu Âu: là cơ quan hành pháp của EU, gồm 20 uỷ viên được uỷ nhiệm trên
cơ sở sự thoả thuận của các nước thành viên và phải được Quốc hội châu Âu tán thành.
Uỷ ban châu Âu đề xuất lên Hội đồng Bộ trưởng các biện pháp phát triển chính sách
chung và theo dõi việc tơn trọng các hiệp ước.
- Nghị viện châu Âu: là cơ quan lập pháp của EU, bao gồm 626 nghị sĩ của các nước
thành viên và được chia ra thành 18 uỷ ban. Nghị viện châu Âu có chức năng thơng

qua ngân sách, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách của EU, cùng hội đồng
châu Âu quyết định trong một số lĩnh vực. Nghị viện cũng có quyền bãi miễn uỷ viên
Uỷ viên ban châu Âu.
- Toà án châu Âu: đặt trụ sơ tại Luxembourg, gồm 15 thẩm phán và 9 trạng sự do các
chính phủ thoả thuận bổ nhiệm. Tồ án có vai trị độc lập, có quyền bác bỏ những quy
định của các tổ chức của uỷ ban châu âu, văn phịng chính phủ các nước nếu bị coi là
khơng phù hợp với luật của EU. - Tồ kiểm tốn châu Âu: có chức năng kiểm tra các
khoản tài chính của EU để đảm bảo tính hợp pháp của các khoản thu chi, đồng thời
phối hợp với các cơ quan thể chế khác của EU để thực hiện các hoạt động có liên quan
đến tài chính của mình.
- Uỷ ban kinh tế và xã hội: là cơ quan đại diện cho lợi ích của các nhóm người trong
xã hội, có nhiệm vụ tư vấn, hỗ trợ cho Hội động Bộ trưởng và Uỷ ban châu Âu.
- Uỷ ban về khu vực: có chức năng tư vấn cho các cơ quan thể chế của EU về các vấn
đề liên quan tới lợi ích của các đơn vị địa phương và khu vực.
- Ngân hàng Đầu tư châu Âu: đảm bảo trách những hiệm cấp phát tín dụng cho các tổ
chức nhà nước, các doanh nghiệp của các nước thành viên trên cơ sở nguồn vốn của
các nước thành viên đóng góp hoặc vốn vay quốc tế
Tình hình phát triển kinh tế của Liên minh châu Âu.
Trải qua k hơng ít những thăng trầm trong gần một nửa cuối thế kỷ XX, giờ đây châu
Âu đang dần lấy lại vị trí “ trung tâm thế giới” của mình. Đặc biệt, trong thập kỷ 90
của thế kỷ trước EU đã thực sự khẳng định được vị thế là một trung tâm kinh tế hùng
9


mạnh của thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế đáng kể và tương đối ổn định. Tăng
trưởng GDP của EU trong năm 1996 là 1,6%, năm 1997 là 2,5%, năm 1988 là 2,7%,
năm 1999 là 2,0%, và cho đến năm 2000 thì cả châu Âu “thở phào nhẹ nhõm”với tốc
độ tăng GDP là 3%, cao nhất từ cuối thập ký 80 cho tới năm cuối cùng của thế kỷ XX.
Năm 1988 khi cơn bão tả chính làm nghiêng ngả nền kinh tế thế giới thì EU – khu vực
ít bị ảnh hưởng nhất của khủng hoảng – vẫn tiếp tục quá trình phát triển kinh tế của

mình. Theo các nhà kinh tế, sự ổn định kinh tế của EU được xem là một trong những
nhân tố chính giúp cho nền kinh tế thế giới tránh được nguy cơ suy thối tồn cầu.
Năm 1999 tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế của EU có chiều hướng giảm do sự sụt giá
của đồng Euro và sản xuất công nghiệp giảm sút. Nhưng chỉ với riêng sự suy giảm này
cũng chưa thể đưa ra một kết luận tiêu cực về nền kinh tế EU, bởi ngày cả khi tốc độ
tăng trưởng kinh tế bị chậm lại, lạm phát của EU trong năm 1999 vẫn ở mức 1,1%mức thấp chưa từng có trong lịch sử, tỉ lệ thất nghiệp giảm lần đầu tiên trong thập kỷ
90 từ hơn 10% xuống còn 9,4% trong năm 1999 và thâm hụt ngân sách của các nước
thành viên cũng ở mức thấp: 0,5% - 0,7% GDP. Tình hình kinh tế EU trong năm 1999
đã được cải thiện và phát triển tích cực. Năm 2000, GDP của EU cao hơn năm 1999
gần 1,1%, tăng trưởng tốc độ 3% các năm 2001-2002 do tình hình quốc tế có nhiều
diễn biến phức tạp (cuộc chiến chống khủng bố của Hoa Kỳ - Anh phát động ở
Afganixtan, chiến tranh chống Iraq) đã tạo nguy cơ chưa từng có chia rẽ nội bộ EU và
ảnh hưởng không nhỏ tới kinh tế châu Âu. Khoảng cách giữa các quốc gia trong khối
ngày càng thu hẹp. Trong số các quốc gia thuộc EU thì các nước nhỏ Bắc Âu tỏ ra tiến
mạnh nhất, nước Đức khổng lồ thường bị tụt hậu trong mấy năm gần đây cũng đã bắt
kịp với tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của cả khối. Chỉ có Italy, mặc dù hơi yếu về
khả năng cạnh tranh cũng đã vươn lên với tốc độ tăng trưởng 2,6 % trong năm 2000,
tuy nhiên vẫn bị coi là mức thấp nhất trong khối. Theo uỷ ban châu Âu, kinh tế EU
vẫn đang phát triển khả quan. Các chuyên gia kinh tế của IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế) và
OECD (Tổ chức phát triển và hợp tác kinh tế) cũng rất lạc quan vào sự tiếp tục phát
triển kinh tế của EU bởi Ngân hàng trung ương châu Âu tiếp tục kiểm sốt chặt chẽ
mức cấp tiền và duy trì mức lãi xuất khá ổn định ở mức 4,5%. Theo dự báo của
OECD, trong năm 2003, tốc độ tăng trưởng kinh tế EU vẫn sẽ ổn định ở mức trên dưới
2,6%, tỉ lệ thất nghiệp sẽ giảm đáng kể từ 8,8% năm 2003. Các nhà kinh tế cho rằng
“EU tăng trưởng chậm nhưng chắc” và vẫn tin tưởng khẳng định xu hướng đi lên của
kinh tế EU trong những năm tới 2010 và tầm nhìn tới 2020.
2. Đặc điểm chung của thị trường lien minh Châu Âu
Từ năm 1990 đến nay, EU tích cực “Đẩy mạnh nhất thể hố” trên tất cả các lĩnh vực từ
kinh tế, tiền tệ, ngoại giao an ninh đến nội chính và tư pháp. Các quốc gia thành viên
10



từng bước tập trung quyền lực quá độ tiến đến thành lập Liên bang châu Âu. Với việc
kết nạp lần thứ tư thêm Áo, Thuỵ Điển, và Phần Lan vào năm 1995, số thành viên của
EU lên đến 15 và hiện nay, sau lần kết nạp lần thứ năm, số thành viên đã lên đến 15 và
hiện nay, sau lần kết nạp lần thành viên đã lên đến 25 nước. Nhiệm vụ chính của giai
đoạn này là thực hiện nhất thể chế hoá xuyên quốc gia thay thế cho hợp tác thông
thường. Cho đến nay, sau nhiều nỗ lực của EU, việc tiến trình nhất thể chế hố châu
Âu đã đạt được các kết quả rất khả quan cả về anh ninh, chính trị, xã hội, kinh tế và
thương mại:
- An ninh, EU lấy NATO và Liên minh phòng thủ Tây Âu (WCU) làm trụ cột chính và
đang giảm dần sự lệ thuộc vào Hoa Kỳ.
- Chính trị: đang diễn ra q trình chính trị hố các nhân tố kinh tế, an ninh nghĩa là
kết hợp các phương thức kinh tế, quân sự nhằm dẫn tới các mục tiêu chính trị. Đặc
trưng chủ yếu nhất của châu Âu ngày nay là q trình “Âu hố”, hợp nhất và thống
nhất các đường biên giới quốc gia nhằm tăng cường quyền lực và quản lý chung. Đồng
thời, EU đang đẩy mạnh hợp tác quốc tế và khu vực bằng việc ký kết các hiệp định
song và đa bên.
- Xã hội: các nước thành viên thực hiện một chính sách chung về lao động, bảo hiểm,
môi trường, năng lượng, giáo dục, y tế, hiện nay chỉ còn vài bất đồng về bảo vệ người
tiêu dùng, bảo vệ dân sự và những nạn thất nghiệp
- Kinh tế: GDP của EU năm 2000 đạt 24.000 tỷ USD, được xem là lớn nhất thế giới.
Đây là khu vực kinh tế đạt trình độ cao về kỹ thuật, cơng nghiệ thiết bị , máy móc.
- EU hiện là trung tâm thương mại lớn với doanh số 2935 tỷ USD năm 2000, trong đó
35% doanh số là bn bán giữa các nước thành viên. Thị trường xuất nhập khẩu chính
của EU là Hoa Kỳ, các nước OECD khác, Thuỵ sĩ, ASEAN, Nhật Bản, Mỹ Latinh,
Trung Quốc (bao gồm cả HôngKông) và Nga.
- Hiện nay, EU đang thực hiện nhất thể chế hoá về kinh tế, cho ra đời đồng tiền chung
EURO, xây dựng và hoàn thiện Liên minh kinh tế - tiền tệ EMU, tiến tới sẽ nhất thể
hố về chính trị, an ninh và quốc phịng.

EU ngày nay được xem như là một đại quốc gia ở châu Âu, chính sách thương
mại chung của EU cũng giống như chính sách thương mại của một quốc gia, bao gồm
chính sách nội thương và chính sách ngoại thương. Tất cả các nước thành viên EU
cùng áp dụng một chính sách ngoại thương chung đối với các nước ngoài khối. Uỷ ban
châu Âu là người đại diện duy nhất cho liên minh trong đàm phán, kỹ kết các hiệp
định thương mại và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh vực này, chính sách này dựa trên các
ngun tắc khơng phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng.

11


Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách này là thuế quan, hạn ngạch,
hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu.
EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hố đẩy mạnh tự do hoá thương
mại (giảm dần thuế quan đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu và tiến tới xoá bỏ hạn
ngạch. Hiện nay, 25 nước thành viên EU áp dụng một biểu thuế quan chung đối với
hàng hoá xuất nhập khẩu. Đối với hàng nhập khẩu theo hạn ngạch vào các nước thành
viên EU mức thuế trung bình đánh vào hàng dệt may là 9%, nơng sản là 18%, cịn
hàng cơng nghiệp là 2%.
Chính sách ngoại thương của EU từ 1951 đến nay phân thành những nhóm chủ yếu
sau: chóm chính sách khuyến khích xuất khẩu, nhóm chính sách thay thế nhập khẩu,
nhóm chính sách tự do hố thương mại, nhóm chính sách hạn chế xuất khẩu tự
nguyện. Việc ban hành tình hình phát triển kinh tế, tiến trình nhất thể chế hóa châu Âu
và khả năng cạnh tranh trong từng thời kỳ của các sản phẩm của Liên minh trên thị
trường thế giới.
Để đảm bảo cạnh tranh công bằng trong thương mại, EU đã thực hiện các biện
pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp xuất khẩu và chống hàng giả. EU đã ban hành
chính sách chóng bán phá giá và áp dụng thuế “chống xuất khẩu dưới hình thức bán
phá giá” để đấu tranh với những trở ngại trong bn bán với các nước ngồi khối. Ví
dụ, đánh thuế 30% đối với những sản phẩm điện tử của Hàn Quốc và Singapore, nhôm

của Nga và xe hơi của Nhật Bản, giày dép của Trung Quốc, đánh thuế 50% -100% đối
với các xí nghiệp sản xuất camera truyền hình của Nhật Bản.. Trong khi đó, các biện
pháp chống hàng giả của EU cho phép ngăn chặn không cho nhập khẩu những hàng
hoá được sản xuất do vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Khơng chỉ dừng lại ở việc áp dụng các biện pháp chống cạnh tranh không lành
mạnh trong thương mại, EU còn sử dụng một biện pháp để đẩy mạnh thương mại với
các nước đang phát triển và chậm phát triển. Đó là GSP, một cơng cụ quan trọng của
EU để hỗ trợ các nước nói trên. Bằng cách này, EU có thể làm cho nhóm các nước
đang phát triển (trong đó có Việt Nam)và nhóm các nước chậm phát triển được hưởng
ưu đãi cao hơn các nước đang phát triển khác. Hệ thống GSP của EU bao gồm 2 nhóm
sản phẩm của các nước đang phát triển được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập của EU,
đó là sản phẩm nhạy cẩm và sản phẩm không nhạy cảm.
Hàng của các nước đang và chậm phát triển khi nhập khẩu vào thị trường EU,
muốn được hưởng GSP phải tuân thủ các quy định của EU về xuất xứ hàng hố và
phải xuất trình giấy chứng nhận xuất xứ mẫu A cho cơ quan có thẩm quyền của các
nước được hưởng GSP cấp.

12


Thực hiện chính sách tự do thương mại, khơng phân biệt đối xử, minh bạch, cạnh
tranh công bằng, áp dụng các biện pháp thuế quan, hàng rào kỹ thuật chống bán hàng
phá giá. Tự do thương mại được thực hiện bằng giảm thuế, xố bỏ hạn ngạch, chóng
hàng giả áp dụng GSP.
EU là một thị trường rộng lớn với 376 triệu người tiêu dùng (và khoảng 500 triệu
người khi EU gồm 25 nước từ năm 2004), mỗi nước thành viên lại có đặc điểm tiêu
dùng riêng. Do vậy, có thể thấy rằng, thị trường EU có nhu cầu rất đa dạng và phong
phú về chủng loại hàng hố. Có những loại hàng rất được ưa chuộng ở thị trường
Pháp, Italy, hay Bỉ nhưng lại không được người tiêu dùng Anh, Ailen, Đan Mạch hoặc
Đức thích dùng. Tuy có những khác biệt về tập quán và thị hiếu tiêu dùng giữa các thị

trường của từng quốc gia trong khối EU, nhưng 15 nước thành viên đều là những quốc
gia những nằm ở khu vực Tây Bắc Âu nên có những điểm tương đồng về kinh tế và
văn hố, trình độ phát triển kinh tế, xã hội của các nước thành viên tương đối đồng
đều, chi nên người dân thuộc khối EU có những điểm chung về sở thích và thói quen
tiêu dùng một số loại hàng hố mà Việt Nam có khả năng sản xuất và xuất khẩu.
Chẳng hạn như với hàng may mặc và giày dép, người tiêu dùng trên thị trường Áo,
Đức và Hà Lan chỉ mua hàng may mặc và giày dép khơng chứa chất nhuộm có nguồn
gốc hữu cơ. EU đặc biệt quan tâm tới chất lượng và thời trang của loại sản phẩm này.
Hàng thuỷ sản phải đặc biệt chú ý đến chất lượng, không bị nhiễm độc do tác động của
môi trường hoặc do chất phụ gia...
Người tiêu dùng châu Âu có sở thích và thói quen dùng sản phẩm có nhãn hiệu nổi
tiếng trên thế giới dù vẫn biết sản phẩm đó đắt hơn rất nhiều so với những nhãn hiệu
bình thường. EU là một trong những thị trường lớn trên thế giới, là cộng đồng dân tộc
thượng lưu và là trung tâm văn minh lâu đời của nhân loại. Do đó, sở thích của người
châu Âu rất cao sang, họ có thu nhập, mức sống cao và khá đồng đều, yêu cầu khắt
khe về chất lượng và an toàn vệ sinh của thực phẩm.
Do mức sống cao nên người dân các nước EU có xu hướng dùng những loại sản
phẩm sản xuất từ nguồn nguyên liệu tự nhiên (đồ gỗ, tre, sợi gai, bông…).
Một đặc điểm nổi bật trên thị trường EU là quyền lợi của người tiêu dùng rất
được bảo vệ, khác hẳn với thị trường các nước đang phát triển. Do đó, EU quy định
tiến hành kiểm tra các sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có các hệ thống báo động
nhanh giữa các nước thành viên, đồng thời bãi bỏ việc kiểm tra các sản phẩm tại biên
giới.
Về tình hình nhập khẩu của EU trong những năm gần đây: EU có nền thương mại
lớn thứ hai trên thế giới, sau Hoa Kỳ, là thị trường xuất khẩu lớn nhất và thị trường
nhập khẩu lớn thứ hai. Hàng năm, EU nhập khẩu một khối lượng lớn hàng hoá từ khắp
13


các nước trên thế giới. Kim ngạch nhập khẩu không ngừng được gia tăng từ 622,48 tỷ

USD năm 1994 lên tới 2298 tỷ USD năm 2000. cơ cấu nhập khẩu của EU: sản phẩm
thô chiếm 29,74% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng năm, snả phảm chế tạo chiếm trên
97,19% các sản phẩm khác chiếm gần 3,07%. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu phải
kể đến là nông sản chiếm 11,79%, khống sản chiếm khoảng 17,33%, máy móc chiếm
khoảng 24,27%, thiết bị vận tải chiếm trên 8%... Các thị trường nhập khẩu chính của
EU là Hoa Kỳ, Nhật, Trung Quốc, khối NAFTA (Hiệp định tự do mậu dịch Bắc Mỹ),
ASEAN, OPEC (Tổ chức các quốc gia xuất khẩu dầu lửa). EU cũng nhập nhiều các
mặt hàng nơng sản, khống sản, thuỷ sản, giày dép và dệt may, đồ gốm, đồ gỗ gia
dụng, cà fê, chè và gia vị. Đây cũng là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam và là những
mặt hàng đang được thị trường EU ưa chuộng.
3. Vai trò của EU đối với thế giới
EU có mục tiêu cơ bản và lâu dài là thống nhất châu lục cả về kinh tế, chính trị,
xã hội và an ninh dựa trên các nguyên tắc và quy định chung cho cả khối. Hơn 50 năm
qua, EU đã không ngừng phát triển, đóng một vai trị quan trọng trong hầu hết mọi
lĩnh vực kinh tế, chính trị và an ninh đối với thế giới nói chung và cho từng nước thành
viên nói riêng. Tiến trình mở rộng và nhất thể hóa châu Âu sẽ tạo ra một trung tâm
kinh tế lớn nhất thế giới, một khu vực thị trường đầy tiềm năng cho quá trình giao lưu
kinh tế thương mại giữa khu vực với các châu lục khác.
Trong những năm qua, sự lớn mạnh về kinh tế qua quá trình nhất thể hóa và
những bước tiến tới một liên minh chính trị đã và đang đem lại cho EU một sức mạnh
kinh tế và chính trị rất lớn trên thế giới. EU ngày càng đóng vai trị quan trọng hơn
trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế tồn cầu. Vai trị kinh tế của EU trên trường
quốc tế được thể hiện trên lĩnh vực thương mại và đầu tư. EU là một trung tâm kinh tế
hùng mạnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ổn định. Năm 1998, trong khi cơn bão tài
chính tiền tệ làm nghiêng ngả nền kinh tế thế giới thì EU – khu vực ít bị ảnh hưởng
của khủng hoảng - vẫn tiếp tục phát triển.
Sự ổn định của kinh tế EU được xem là một trong các nhân tố chính giúp cho
nền kinh tế thế giới tránh được nguy cơ suy thối tồn cầu. Hiện nay, EU và Hoa Kỳ là
hai thực thể kinh tế lớn nhất thế giới có ảnh hưởng rất lớn đến trật tự kinh tế quốc tế và
chi phối xu hướng phát triển thương mại tồn cầu. Tính gộp lại, hiện EU và Hoa Kỳ

đang chiếm hơn một nửa kim ngạch thương mại và GDP toàn cầu. Hai thực thể kinh tế
lớn nhất thế giới này đã thiết lập phần lớn các luật lệ thương mại và tài chính quốc tế
thơng qua một loạt các thể chế quốc tế như G8, WTO, IMF, và WB, nơi mà cả Liên
minh châu Âu và Hoa Kỳ góp phần lớn vốn.

14


EU đang muốn thể hiện một vai trò như người lãnh đạo đối với các thành viên trong
WTO do tầm quan trọng của EU trong thương mại và nền kinh tế thế giới. EU là người
khởi xướng nhiều sáng kiến trong việc xây dựng các khối liên kết kinh tế khu vực và
thế giới, đã phát động trong chương trình phát triển Doha tại Hội nghị Bộ trưởng lần
thứ tư vào tháng 11/2001. EU đã có dấu hiệu khởi động làm việc với các đối tác
thương mại của mình nhằm xây dựng lại lòng tin và sự hợp tác với các thành viên
WTO sau thất bại tại vòng đàm phán thiên niên kỷ tại Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 3 tổ
chức tại Seatle (Hoa Kỳ) EU cũng đang tích cực cải thiện tầm hiểu biết chung trong
WTO bằng những biện pháp làm tăng tính minh bạch trong chính sách đối ngoại. EU
đang tìm kiếm cơ hội thúc đẩy sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa WTO và các tổ chức liên
chính phủ khác nhằm làm nổi bật vai trị của mình trong nền kinh tế thế giới.
4. Ý nghĩa thực tiễn đối với Việt Nam
a. EU không ngừng phát triển, bởi vậy xuất khẩu sang thị trường này các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ có những thuận lợi sau:
- Liên minh châu Âu là một khối liên kết chặt chẽ nhất thế giới hiện nay. Đây cũng là
một khu cực phát triển kinh tế ổn định và đồng tiền riêng khá vững chắc và có nhiều
triển vọng tiếp tục mở rộng,. Trong tương lai đây sẽ là một thị trường xuấu khẩu rất
rộng lớn và ổn định. Các doanh nghiệp Việt Nam nếu giữ được quan hệ thương mại tốt
với EU sẽ có được sự tăng trưởng ổn định về kim ngạch và khơng sợ xảy ra tình trạng
khủng hoảng thị trường xuất khẩu.
- Hiện nay, EU đã và đang có xu hướng chiến lược tăng cường và mở rộng quan hệ
sang châu Âu. Châu lục này có vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của EU.

Theo chiều hướng này, Việt Nam ngày càng có vị thế quan trọng trong chiến lược mơi
của EU. EU từng bước đẩy mạnh quan hệ hợp tác phát triển thương mại với Việt Nam
trên tất cả các lĩnh vực, đây là cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất
khẩu sang tị trường này.
- Trị trường EU có nhu cầu lớn, rất đa dạng và phong phú về chủng loại hàng hoá. Do
vậy, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải nâng cao trình độ và tay nghề của người lao
động hơn nữa để sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế. - EU
đang điều chỉnh chính sách thương mại đối với châu Á để phù hợp hơn với tình hình
hiện nay, điều này sẽ tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt
Nam khi xuất khẩu vào thị trường EU. Tháng 5/2000, EU đã công nhận Việt Nam áp
dụng cơ chế kinh tế thị trường, cho phép đưa hàng Việt Nam lên ngang hàng các nước
kinh tế thị trường trong việc điều tra và thi hành các biện pháp chống bán hàng giả.
- EU là thị trường có nhu cầu nhập khẩu lớn và khá ổn định những mặt hàng xuất khẩu
chủ lực của Việt Nam như giày dép, dệt may, thuỷ hải sản, nông sản, thủ công mỹ
15


nghệ. EU có chính sách thương mại chung cho 25 nước thành viên và đồng tiền thanh
toán cho 12 nước thuộc EU. Khi xuất khẩu hàng hoá sang bất cứ nước thành viên nào
trong khối, chỉ cần tuân theo chính sách thương mại chung và thanh toán bằng đồng
EURO- đây là một lợi thế lớn.
b. Những khó khăn khi Việt Nam xuất khẩu sang thị trường các nước EU, như:
- EU thương lượng với các nước ngoài khối như một thực thể đồng nhất trong các vấn
đề thương mại toàn cầu và trở thành tiếng nói chung của châu Âu trong các cuộc thảo
luận quốc tế, các doanh nghiệp làm ăn ở châu âu tất nhiên phải tuân các quy tắc,
hướng dẫn và chịu sự giám sát của Uỷ ban châu Âu.
- Những điểm khác biệt về văn hoá giữa các nước thành viên mà chúng ta có thể nhận
thấy là thị trường EU chỉ thống nhất về mặt kỹ thuật cịn trong thực tế là nhóm thị
trường quốc gia và khu vực, mỗi nước có một bản sắc dân tộc và văn hoá riêng mà các
nhà xuất khẩu tại các nước đang phát triển chưa hiểu hết được. Mỗi thành viên tạo ra

cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam các cơ hội khác nhau và yêu cầu cụ thể của
họ cũng khác nhau.
- EU là một thành viên của WTO, có chế độ quản lý nhập khẩu chủ yếu dựa vào các
nguyên tắc của tổ chức này, EU vẫn còn các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch tuy
không nhiều. EU là một thị trường bảo hộ rất chặt chẽ vì hàng rào phi quan thuế rất
nghiêm ngặt. Rào cản kỹ thuật khá tinh vi chính là quy chế nhập khẩu chung và các
biện pháp bảo vệ người tiêu dùng như chất lượng, vệ sinh thực phẩm, an tồn của
người sử dụng, bảo vệ mơi trường, tiêu chuẩn lao động.
- Các nước châu Á cũng đang đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU nhất là Thái
Lan. Trung Quốc, Sri Lanca…, các mặt hàng của họ cũng giống của Việt Nam nhưng
chất lượng tốt hơn ta, giá cả cạnh tranh hơn và lại có nhiều lợi thế như: hạn ngạch lớn,
chậm phát triển, là các nước thành viên WTO. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải
tạo ra lợi thế cạnh tranh hơn so với các đối thủ khác. Muốn như vậy, chất lượng sản
phẩm phải liên tục được cải thiện, mẫu mã và kiểu dáng thường xuyên đổi mới, giá rẻ
và phương thức dịch vụ tốt hơn.
- Chính sách thương mại và đầu tư EU bấy lâu nay nhằm vào các thị trường truyền
thống có tính chiến lược là châu Âu và châu Mỹ. Đối với châu Á, chính sách thương
mại của EU mới hình thành gần đây và đang trong quá trình xem xét, thử nghiệm và
khai thác. Hơn nữa, chính sách của EU đối với Việt Nam thời gian trước đây chủ yếu
dựa trên nguyên tắc xắp xếp Việt Nam vào danh sách những nước thực hiện chế độ
“độc quyền ngoại thương:, gần như không được hưởng các ưu đãi của EU dành cho
các nước đang phát triển.

16


- Q trình đổi mới cơng nghệ, thiết bị của Việt Nam rất chậm, chưa làm tốt khâu
Marketing. Trong quá trình thực hiện chiến lược hợp tác giữa Việt Nam và EU trong
tương lai, Việt Nam mong muốn phía EU quan tâm nhiều đến việc hỗ trợ thể chế, hỗ
trợ vận động xúc tiến đầu tư và thương mại của EU vào Việt Nam cần hỗ trợ phát triển

các hình thức thông tin đa dạng, tạo cầu nối giữa các doanh nghiệp Việt Nam và EU để
hai bên hiểu biết đầy đủ hơn tiềm năng và cơ hội hợp tác. Bên cạnh việc tiếp tục mở
rộng hợp tác với các cơng ty tập đồn lớn của châu Âu vào làm ăn với Việt Nam về
đầu tư, thương mại, thu hút kỹ thuật công nghệ cao, chúng ta cần tranh thủ thu hút các
doanh nghiệp vừa và nhỏ của EU, hướng họ vào đầu tư những lĩnh vực sản xuất hàng
xuất khẩu, chế biến nông sản, thực phẩm…để mở rộng hơn nữa quan hệ thương mại,
kinh tế giữa việt nam và EU
- Chặng đường hợp tác giai đoạn tới 2010 rất hứa hẹn nhưng cũng cịn nhiều khó khăn,
thách thức, chúng tôi cho rằng với quyết tâm cao của từng doanh nghiệp đã đang và sẽ
xuất khẩu hàng hoá sang thị trường EU, với sự hỗ trợ của Nhà nước nhằm đẩy mạnh
hàng xuất khẩu của Việt Nam vào EU và phương hướng hợp tác kinh tế thương mại
Việt Nam EU trong tương lai sẽ đưa ra được nhiều ý tưởng, phương án hay, thiết thực,
khả thi, tạo ra các điều kiện thuận lợi cho các nhà doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ
hội hơn nữa để đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam vào EU

17



×