Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần bảo hộ lao động safi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.59 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và triết học Mác-Lênin
nói riêng là mơn khoa học cơ bản trang bị cho chúng em những kiến thức cơ bản trong
nhận thức và hành động.
Triết học là hạt nhân lý luận của Thế Giới, đóng vai trị định hướng sự hình thành và
phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử một cách năng
động, tự giác, sáng tạo.
Sự xuất hiện của triết học Mác – Lênin là một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử
triết học. Đó là kết quả tất yếu của sự phát triển lịch sử tư tưởng triết học và khoa học
của nhân loại, là kết kết quả của sự thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan. Triết học Mác – Lênin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học trên lập
trường duy vật biện chứng, đã chỉ ra các quy luật vận động, phát triển chung nhất của thế
giới, đồng thời giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa biện chứng khách quan và biện
chứng chủ quan.
Mối quan hệ biện chứng đó tác động rất lớn đến q trình sản xuất kinh doanh của
cơng ty cổ phần bảo hộ lao động Safi. Vì vây, em chọn để tài “Mối quan hệ giữa điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty cổ phần bảo hộ lao động Safi”.

1


Tiểu luận Triết học – Cao học 24N – Vũ Văn Hướng

CHƯƠNG 1
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA
ĐIỀU KIỆN KHÁCH QUAN VÀ NHÂN TỐ CHỦ QUAN
1.1. Điều kiện khách quan
Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở để luận giả cho con người mối
quan hệ giữa họ (con người có ý thức) với thế giới có con người (thế giới vật chất).
Trong tính lịch sử của nó, con người khơng chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới


bởi thực tiễn. Thực tiễn của con người, một mặt do có sự tham gia hướng dẫn của ý thực,
mặt khác do yêu cầu về tính hiệu quả quy định. Để đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn
của con người và cũng nhờ sự tiến bộ của nhận thức, con người đã tiến hành nghiên cứu
các bộ phận khác nhau của thế giới. Trong q trình nghiên cứu người ta tạm thời khơng
chú ý đến mối liên hệ giữa khách thể đang nghiên cứu vớí các khách thể khác cũng như
với thế giới nói chung, tạm thời cố định sự vật ở trạng thái hiện có mà khơng xem xét nó
trong q trình vận động và phát triển.
Phạm trù “khách quan” dùng để chỉ tất cả những gì tồn tại khơng phụ thuộc vào
một chủ thể xác định, hợp thành một hoàn cảnh hiện thực, thường xuyên tác động đến
việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ và phương thức hoạt động của chủ thể đó.
Nói đến khách quan là nói đến tất cả những gì tồn tại độc lập, bên ngồi và khơng lệ
thuộc vào chủ thể hoạt động. Khách quan bao gồm: Những điều kiện, khả năng và quy
luật khách quan. Trong đó, quy luật khách quan ln giữ vai trị quan trọng nhất. Triết
học Mác – Lê Nin luôn xác định khách quan và chủ quan căn cứ theo những chủ thể nhất
định trong mối quan hệ xác định với khách thể. Không phải mọi điều kiện, khả năng và
quy luật khách quan bất kì, mà chỉ có những điều kiện, khả năng và quy luật khách quan
nào hợp thành một hoàn cảnh thực hiện thường xuyên tác động đến các hoạt động cảu
một chủ thể xác định mới được coi là phạm trù khách quan đối với hoạt động của chủ
thể ấy. Chính vì thế, với những chủ thể khác nhau, quan hệ khác nhau, lĩnh vực hoạt
động khác nhau thì phạm vi, tính chất cái khách quan khơng hồn tồn như nhau. Phạm
trù khách quan luôn được đặt trong mối quan hệ với phạm trù chủ quan
2


Tiểu luận Triết học – Cao học 24N – Vũ Văn Hướng

1.2. Nhân tố chủ quan
Phạm trù “chủ quan” dùng để chỉ tất cả những gì cấu thành phẩm chất và năng lực
của một chủ thể nhất định, phản ánh vai trị của chủ thể ấy đối với những hồn cảnh
hiện thực khách quan trong hoạt động nhận thức và cải tạo khách thể.

Chủ quan, trước hết bao gồm tất cả những gì cấu thành và phản ánh trình độ phát
triển về phẩm chất và năng lực của một chủ thể nhất định. Theo đó, phải kể đến phẩm
chất tư duy, trình độ hiểu biết, đến tình cảm, ý chí, nguyện vọng và thể chất của chủ thể.
Nói đến chủ quan là nói đến sức mạnh, hiện thực bên trong của chủ thể. Đến lượt nó,
sức mạnh ấy lại ln được biểu hiện ra ở năng lực tổ chức hoạt động (nhận thức và thực
tiễn) của chủ thể mà tiêu thức cơ bản, quyết định để đánh giá năng lực ấy là sự phù hợp
giữa hoạt động của chủ thể với điều kiên, khả năng và quy luật khách quan.
Như vậy, phạm trù khách quan và chủ quan dùng để khái quát bản chất mối quan hệ
giữa thế giới bên ngoài hiện thực với sức mạnh bên trong của mọt chủ thể xác định ( một
người, một tập thể, một tập đoàn, một giai cấp …) trong toàn bộ hoạt động nhận thức và
cải tạo thế giới đó. Do đó, khách quan và chủ quan chỉ là nói trong những quan hệ xác
định, ngoài quan hệ đố ra, sự phân biệt khách quan, chủ quan chỉ có ý nghĩa tương đối.
Có hiện tượng trong quan hệ này thì thuộc về khách quan, nhưng trong quan hệ khách lại
thuộc phạm trù chủ quan và ngược lại.Tuy nhiên, nguyên tắc phương pháp luận cơ bản
của triết học Mác – Lê Nin trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vẫn
là cơ sở khoa học để vận dụng vào việc giải quyết mối quan hệ khách quan và chủ quan.
1.3. Quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan
Thế giới được tạo thành từ những sự vật, những hiện tượng, những quá trình khác
nhau. Vậy giữa chúng có mối quan hệ qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau Nếu chúng
tồn tại trong sự quan hệ qua lại, thì những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan quy
định sự quan hệ đó.
Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật và hiện tượng tồn tại một
cách tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia; giữa chúng không có sự phụ thuộc, khơng
có sự ràng buộc lẫn nhau; có chăng chỉ là những quan hệ hời hợt bên ngồi mang tính
ngẫu nhiên.

3


Tiểu luận Triết học – Cao học 24N – Vũ Văn Hướng


Ngược lại, những người theo quan điểm biện chứng coi thế giới như là một chỉnh thể
thống nhất. Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan vừa tách biệt nhau, vừa có sự
quan hệ qua lại.
Những người theo chủ nghĩa duy tâm tìm cơ sở của sự quan hệ, sự tác động qua lại
giữa nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan của con người. Những người theo quan
điểm duy vật biện chứng thì khẳng định rằng cơ sở của sự quan hệ qua lại giữa các nhân
tố khách quan và nhân tố chủ quan là tính thống nhất của thế giới. Theo quan điểm này,
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trên thế giới cũng chỉ là những dạng tồn tại
khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Ngay cả tư tưởng, ý thức của
con người vốn là những cái phi vật chất, cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có
tổ chức cao là bộ óc người, nội dung của chúng cũng chỉ là kết quả phản ánh của các quá
trình vật chất khách quan.
Quan điểm duy vật biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, cịn
nêu rõ tính đa dạng của sự quan hệ qua lại đó. Có mối quan hệ bên ngồi, có mối quan
hệ bên trong; có mối quan hệ chủ yếu, có mối quan hệ thứ yếu; có mối quan hệ chung
bao qt tồn bộ thế giới, có mối quan hệ bao quát một số lĩnh vực hoặc một lĩnh vực
riêng biệt của thế giới đó. Có mối quan hệ trực tiếp, có mối quan hệ gián tiếp mà trong
đó sự tác động qua lại được thực hiện thơng qua một hay một số khâu trung gian. Có mối
quan hệ bản chất và mối quan hệ không bản chất, quan hệ tất yếu và quan hệ ngẫu nhiên.
Khách quan và chủ quan là hai mặt, hai yếu tố không thể tách rời trong mọi hoạt
động của mỗi chủ thể. Nhưng tính chất của hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới lại
ln địi hỏi chủ thể phải giải quyết mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan sao cho
phù hợp với vai trị, vị trí thực sự của con người trong thế giới – nghĩa là phải phù hợp
với lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học.
Trong mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan thì suy đến cùng khách quan bao
giờ cũng là cơ sở, tiền đề và giữ vai trò quyết định chủ quan. Bởi vì, các điều kiện, khả
năng và quy luật khách quan, không những luôn tồn tại độc lập không lệ thuộc vào chủ
thể, luôn luôn buộc chủ thể phải tính đến trước tiên trong mọi hoạt động, mà cịn là cội

nguồn làm nảy sinh mọi tri thức, tình cảm, ý chí và nguyện vọng của chủ thể. Cả lý luận
và thực tiễn đều cho thấy, nếu chỉ bằng lỗ lực chủ quan của mình, con người chưa và
khơng bao giờ xóa bổ được bất cứ một điều kiện, khả năng hay quy luật khách quan nào.
Trái lại, chính những điều kiện khách quan hợp thành hồn cảnh, mơi trường sống và
hoạt động thực tiễn của con người và chính con người nhận thức được sự vận động, biến
4


Tiểu luận Triết học – Cao học 24N – Vũ Văn Hướng

đổi của những khả năng và quy luật khách quan là điểm xuất phát, là tiền đề làm nảy
sinh ở họ những dự kiến, những kế hoạch, hình thành nên trong họ ý chí, quyết tâm hành
động cải biến hiện thực vì nhu cầu lợi ích của mình.
Mặc dù mọi hoạt động của con người đều phải dựa vào những điều kiện khách quan
nhất định, nhưng con người không được thụ động chờ đợi sự chín muồi của điều kiện
khách quan, mà trái lại, có thể dựa vào năng lực chủ quan của mình để phát huy các điều
kiện khách quan và dựa vào các điều kiện đó để tổ chức, xúc tiến tạo ra những điều kiện
khách quan khách cần thiết cho những nhiệm vụ cụ thể của mình. Bằng cách đó, con
người có thể thúc đẩy nhanh hơn tiến trình biến khả năng thành hiện thực. Tương tự,
trong một phạm vi, một sự vật hiện tượng cụ thể, tiến trình khách quan có thể có nhiều
con đường, nhiều khả năng phát triển. Ở đây, vai trò của con người không phải là ở chỗ
dồn mọi nỗ lực cho bất kì con đường hay khả năng nào sẵn có mà trái lại, có thể dựa vào
năng lực vốn có của mình để lựa chọn, tác động sao cho chỉ một con đường, một khả
năng khách quan nào đó phù hợp nhất với tiến trình cụ thể và nhu cầu của mình phát
triển thành hiện thực mà thơi. Bằng cách nào đó, như thực tế lịch sử cho thấy, con người
có thể điều chỉnh hình thức tác động của quy luật khách quan và kết hợp một cách khéo
léo sự tác động tổng hợp của nhiều quy luật theo hướng phục vụ tốt nhất cho mục đích
của mình. Sở dĩ như vật là vì tính tất yếu về sự tác động của quy luật khách quan không
mâu thuẫn với tính phong phú về hình thức và trật tự tác động của nó trong những điều
kiện cụ thể khác nhau, mà việc làm biến đổi những điều kiện này lại nằm trong khả năng

thực tế của con người.
Như vậy, mối quan hệ biện chứng của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đã
quyết đinh sự tồn tại, qui định tính chất và xu hướng vận động phát triển của con người.
Mối quan hệ biện chứng của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan không chỉ
diễn ra về mặt khơng gian mà cịn diễn ra cả về mặt thời gian, có quan hệ giữa hiện tại
với quá khứ và giữa hiện tại với tương lai.
Mối quan hệ biện chứng của nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan cịn mang tính
nhiều vẻ có quan hệ bên trong và quan hệ bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, cơ bản và
không cơ bản…
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối quan hệ biện chứng của các nhân tố khách
quan và nhân tố chủ quan chúng ta cần rút ra trong nhận thức, xem xét các nhân tố khách
quan và nhân tố chủ quan cũng như trong hoạt động thực tiễn của con người.

5


Tiểu luận Triết học – Cao học 24N – Vũ Văn Hướng

CHƯƠNG 2
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA ĐIỀU KIỆN KHÁCH
QUAN VÀ NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG QUÁ TRÌNH HOẠT
ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO
HỘ LAO ĐỘNG SAFI
2.1.

Giới

thiệu

về


công

ty

cổ

phần

bảo

hộ

lao

động

Safi

Công ty cổ phần bảo hộ lao động Safi tiền thân là xưởng gia công quần áo được
thành lập ngày 15 tháng 08 năm 2000 và được chuyển đổi thành công ty cổ phần ngày
29 tháng 04 năm 2011. Trụ sở chính đặt tại số 100 Nguyễn Ngọc Nại – Phường Khương
Mai – Quận Thanh Xuân – Thành phố Hà Nội với ngành nghề kinh doanh chủ yếu là sản
xuất kinh doanh các trang thiết bị bảo hộ lao động như: quần áo, giày, mũ, găng tay, ..;
các thiết bị phịng cháy chữa cháy như: Bình cứu hỏa, vịi cứu hỏa … và các thiết bị an
tồn giao thơng như biển báo, đèn tín hiệu,…
Trong q trình xây dựng và phát triển, Cơng ty đã kiện tồn về tổ chức, khơng
ngừng nâng cao năng lực và trình độ tay nghề của người lao động để đáp ứng được mọi
nhu cầu về sản phẩm. Công ty được các đối tác đánh giá rất cao về kiểu dáng, chất
lượng, tiến độ và giá cả.

Trong những năm gần đây, Công ty đã cung cấp các sản phẩm bảo hộ lao động cho
rất nhiều công ty, dự án trong nước kể cả các dự án có vốn đầu từ nước ngồi. Tạo ra
cơng ăn việc làm cho gần 100 người, trong đó có trên 80 người làm việc tại xưởng sản
xuất. Những sản phẩm công ty đã cung cấp đều được đảm bảo đúng chất lượng, tiến độ,
mỹ thuật đẹp với giá cả phải chăng.
Trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, lãnh đạo công ty luôn nắm
vững mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, vận dụng vào việc
xác định đường lối, mục tiêu, phương hướng hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho đạt
được hiệu quả cao.
2.2. Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là mối quan hệ so sánh giữa kết
quả đạt được trong qúa trình sản xuất kinh doanh với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả
6


Tiểu luận Triết học – Cao học 24N – Vũ Văn Hướng

đó. Nó phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực đầu vào để đạt được các mục tiêu của
doanh nghiệp. Các đại lượng kết quả đạt được và chi phí bỏ ra cũng như trình độ lợi
dụng các nguồn lực nó chịu tác động trực tiếp của rất nhiều các nhân tố khác nhau với
các mức độ khác nhau, do đó nó ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Đối với công ty cổ phần bảo hộ lao động nói riêng và đối với các
doanh nghiệp nói chung ta có thể chia nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp như sau :
2.2.1. Các nhân tố khách quan
Mơi trường chính trị, luật pháp
Mơi trường chính trị ổn định luôn luôn là tiền đề cho việc phát triển và mở rộng các
hoạt động đầu tư của công ty. Các hoạt động đầu tư đó lại tác động trở lại rất lớn tới các
hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.

Môi trường pháp lý bao gồm luật, các văn bản dưới luật, các quy trình quy phạm kỹ
thuật sản xuất tạo ra một hành lang cho công ty hoạt động, các hoạt động của công ty
như sản xuất kinh doanh cái gì, sản xuất bằng cách nào, bán cho ai ở đâu, nguồn đầu vào
lấy ở đâu đều phải dựa vào các quy định của pháp luật. Công ty phải chấp hành các quy
định của pháp luật, phải thực hiện các nghĩa vụ của mình với nhà nước, với xã hội và với
người lao động như thế nào là do luật pháp quy định (nghĩa vụ nộp thuế, trách nhiệm
đảm bảo vệ sinh môi trường, đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên trong công
ty... ). Có thể nói luật pháp là nhân tố kìm hãm hoặc khuyến khích sự tồn tại và phát triển
của cơng ty, do đó ảnh hưởng trực tiếp tới các kết quả cũng như hiệu quả của các hoạt
động sản xuất kinh doanh của cơng ty.
Mơi trường văn hố xã hội
Tình trạng thất nghiệp, trình độ giáo dục, phong cách, lối sống, phong tục, tập quán,
tâm lý xã hội... đều tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh
doanh của cơng ty, có thể theo hai chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. Nếu khơng có
tình trạng thất nghiệp, người lao động có nhiều cơ hội lựa chọn việc làm thì chắc chắn
chi phí sử dụng lao động của cơng ty sẽ cao do đó làm giảm hiệu quả sản xuất kinh
doanh của công ty và ngược lại nếu tình trạng thất nghiệp là cao thì chi phí sử dụng lao
động của cơng ty sẽ giảm làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Môi trường kinh tế
7


Tiểu luận Triết học – Cao học 24N – Vũ Văn Hướng

Các chính sách kinh tế của nhà nước, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế quốc dân, tốc
độ lạm phát, thu nhập bình quân trên đầu người... là các yếu tố tác động trực tiếp tới
cung cầu của từng doanh nghiệp. Nếu tốc độ tăng trưởng nền kinh tế quốc dân cao, các
chính sách của Chính phủ khuyến khích công ty đầu tư mở rộng sản xuất, sự biến động
tiền tệ là không đáng kể, lạm phát được giữ mức hợp lý, thu nhập bình quân đầu người
tăng... sẽ tạo điều kiện cho công ty phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh

doanh và ngược lại.
Điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái và cơ sở hạ tầng
Các điều kiện tự nhiên như : các loại tài ngun khống sản, vị trí địa lý, thơi tiết khí
hậu,... ảnh hưởng tới chi phí sử dụng nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, ảnh hưởng
tới mặt hàng kinh doanh, năng suất chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng tới cung cầu sản
phẩm do tính chất mùa vụ... do đó ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của cơng
ty.
Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế nó quyết định sự phát triển của nền kinh tế cũng như
sự phát triển của công ty. Hệ thống đường xá, giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, hệ
thống ngân hàng tín dụng, mạng lưới điện quốc gia... ảnh hưởng tới chi phí kinh doanh,
khả năng nắm bắt thơng tin, khả năng huy động và sử dụng vốn, khả năng giao dịch
thanh tốn... của cơng ty do đó ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Môi trường khoa học kỹ thuật cơng nghệ
Tình hình phát triển khoa học kỹ thuật cơng nghệ, tình hình ứng dụng của khoa học
kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất trên thế giới cững như trong nước ảnh hưởng tới
trình độ kỹ thuật công nghệ và khả năng đổi mới kỹ thuật cơng nghệ của cơng ty do đó
ảnh hưởng tới năng suất chất lượng sản phẩm tức là ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất
kinh doanh của công ty.
Nhân tố môi trường ngành
Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện có trong ngành
Mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành với nhau ảnh
hưởng trực tiếp tới lượng cung cầu sản phẩm của mỗi doanh nghiệp, ảnh hưởng tới giá
bán, tốc độ tiêu thụ sản phẩm... do vậy ảnh hưởng tới hiệu quả của mỗi doanh nghiệp.
Khả năng gia nhập mới của các doanh nghiệp

8


Tiểu luận Triết học – Cao học 24N – Vũ Văn Hướng


Trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay trong hầu hết các lĩnh vực, các ngành
nghề sản xuất kinh doanh có mức doanh lợi cao thì đều bị rất nhiều các doanh nghiệp
khác nhóm ngó và sẵn sàng đầu tư vào lĩnh vực đó nếu như khơng có sự cản trở từ phía
chính phủ. Vì vậy buộc các doanh nghiệp trong các ngành có mức doanh lợi cao đều
phải tạo ra cac hàng rào cản trở sự ra nhập mới bằng cách khai thác triệt để các lợi thế
riêng có của doanh nghiệp, bằng cách định giá phù hợp (mức ngăn chặn sự gia nhập,
mức giá này có thể làm giảm mức doanh lợi) và tăng cường mở rộng chiếm lĩnh thị
trường. Do vậy ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
Sản phẩm thay thế
Hầu hết các sản phẩm của doanh nghiệp đều có sản phẩm thay thế, số lượng chất
lượng, giá cả, mẫu mã bao bì của sản phẩm thay thế, các chính sách tiêu thụ của các sản
phẩm thay thế ảnh hưởng rất lớn tới lượng cung cầu, chất lượng, giá cả và tốc độ tiêu thụ
sản phẩm của công ty. Do đó ảnh hưởng tới kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của
công ty.
Người cung ứng
Các nguồn lực đầu vào của một doanh nghiệp được cung cấp chủ yếu bởi các doanh
nghiệp khác, các đơn vị kinh doanh và các cá nhân. Việc đảm bảo chất lượng, số lượng
cũng như giá cả các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp phụ thuộc vào tính chất của các
yếu tố đó, phụ thuộc vào tính chất của người cung ứng và các hành vi của họ. Nếu các
yếu tố đầu vào của doanh nghiệp là khơng có sự thay thế và do các nhà độc quyền cung
cấp thì việc đảm bảo yếu tố đầu vào của doanh nghiệp phụ thuộc vào các nhà cung ứng
rất lớn, chi phí về các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp phụ thuộc vào các nhà cung ứng
rất lớn, chi phí về các yếu tố đầu vào sẽ cao hơn bình thường nên sẽ làm giảm hiệu quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn nếu các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp là
sẵn có và có thể chuyển đổi thì việc đảm bảo về số lượng, chất lượng cũng như hạ chi
phí về các yếu tố đầu vào là dễ dàng và khơng bị phụ thuộc vào người cung ứng thì sẽ
nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Người mua
Khách hàng là một vấn đề vô cùng quan trọng và được công ty đặc biệt quan tâm
chú ý. Nếu như sản phẩm của cơng ty sản xuất ra mà khơng có người hoặc là không

được người tiêu dùng chấp nhận rộng rãi thì cơng ty khơng thể tiến hành sản xuất được.
Mật độ dân cư, mức độ thu nhập, tâm lý và sở thích tiêu dùng… của khách hàng ảnh
9


Tiểu luận Triết học – Cao học 24N – Vũ Văn Hướng

hưởng lớn tới sản lượng và giá cả sản phẩm sản xuất của doanh nghiệp, ảnh hưởng tới sự
cạnh tranh của doanh nghiệp vì vậy ảnh hưởng tới hiệu quả của doanh nghiệp.
2.2.2. Các nhân tố chủ quan
Bộ máy quản trị công ty
Các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường, bộ máy quản trị cơng ty có vai
trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của công ty, bộ máy quản trị công
ty phải đồng thời thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau :
- Nhiệm vụ đầu tiên của bộ máy quản trị là xây dựng cho công ty một chiến lược
kinh doanh và phát triển. Nếu xây dựng được một chiến lược kinh doanh và phát triển
hợp lý (phù hợp với môi trường kinh doanh, phù hợp với khả năng của công ty) sẽ là cơ
sở, là định hướng tốt để công ty tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu
quả.
- Xây dựng các kế hoạch kinh doanh, các phương án kinh doanh và kế hoạch hoá
các hoạt động của công ty trên cơ sở chiến lược kinh doanh và phát triển đã xây dựng.
- Tổ chức thực hiện các kế hoạch, các phương án và các hoạt động sản xuất kinh
doanh đã đề ra.
- Tổ chức kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh các quá trình trên.
Với chức năng và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của bộ máy quản trị, ta có thể khẳng
định rằng chất lượng của bộ máy quản trị quyết định rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh
doanh của công ty. Nếu bộ máy quản trị được tổ chức với cơ cấu phù hợp với nhiệm vụ
sản xuất kinh doanh của công ty, gọn nhẹ linh hoạt, có sự phân chia nhiệm vụ chức năng
rõ ràng, có cơ chế phối hợp hành động hợp lý, với một đội ngũ quản trị viên có năng lực
và tinh thần trách nhiệm cao sẽ đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu

quả cao. Nếu bộ máy quản trị được tổ chức hoạt động không hợp lý (quá cồng kềnh hoặc
quá đơn giản), chức năng nhiệm vụ chồng chéo và không rõ ràng hoặc là phải kiểm
nhiệm quá nhiều, sự phối hợp trong hoạt động không chặt chẽ, các quản trị viên thì thiếu
năng lực và tinh thần trách nhiệm sẽ dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty
không cao.
Lao động tiền lương
Lao động là một trong các yếu tố đầu vào quan trọng, nó tham gia vào mọi hoạt
động, mọi giai đoạn, mọi quá trình sản xuất kinh doanh của cơng ty. Trình độ, năng lực
10


Tiểu luận Triết học – Cao học 24N – Vũ Văn Hướng

và tinh thần trách nhiệm của người lao động tác động trực tiếp đến tất cả các giai đoạn
các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, tác động trực tiếp đến năng suất, chất lượng
sản phảm, tác động tới tốc độ tiêu thụ sản phẩm do đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh của công ty. Lao động phải được sử dụng một cách hợp lý giữa
các bộ phận sản xuất, giữa các cá nhân, sử dụng người đúng việc sao cho phát huy tốt
nhất năng lực sở trường của người lao động là một yêu cầu không thể thiếu trong công
tác tổ chức lao động nhằm đưa các hoạt động kinh doanh của cơng ty có hiệu quả cao.
Bên cạnh lao động thì tiền lương và thu nhập của người lao động cũng ảnh hưởng
trực tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của cơng ty vì tiền lương là một bộ phận cấu
thành lên chi phí sản xuất kinh doanh của cơng ty đồng thời nó cịn tác động tói tâm lý
người lao động trong công ty. Nếu tiền lương cao thì chi phí sản xuất kinh doanh sẽ tăng
do đó làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhưng lại tác động tới tính thần và trách
nhiệm người lao động cao hơn do đó làm tăng năng suất và chất lượng sản phẩm nên
làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cịn nếu mà mức lương thấp thì ngược lại. Cho
nên trong cơng ty cần chú ý tới các chính sách tiền lương, chính sách phân phối thu
nhập, các biện pháp khuyến khích sao cho hợp lý, hài hồ giữa lợi ích của người lao
động và lợi ích của cơng ty.

Tình hình tài chính
Cơng ty có khả năng tài chính mạnh thì khơng những đảm bảo cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục và ổn định mà cịn giúp cho cơng ty có khả năng đầu
tư đổi mới công nghệ và áp dụng kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nhằm làm giảm chi phí,
nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Ngược lại, nếu như khả năng về tài chính
của cơng ty yếu kém thì khơng những khơng đảm bảo được các hoạt động sản xuất kinh
doanh diễn ra bình thường mà cịn khơng có khả năng đầu tư đổi mới cơng nghệ, áp
dụng kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất do đó khơng nâng cao được năng suất và chất lượng
sản phẩm. Khả năng tài chính của cơng ty ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín, tới khả năng
chủ động trong sản xuất kinh doanh, tới tốc độ tiêu thụ và khả năng cạnh tranh của công
ty, ảnh hưởng tới mục tiêu tối thiểu hố chi phí băng cách chủ động khai thác và sử dụng
tối ưu các nguồn lực đầu vào. Vì vậy tình hình tài chính của cơng ty tác động rất mạnh
tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của chính cơng ty đó.
Đặc tính của sản phẩm và cơng tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm
* Đặc tính của sản phẩm
11


Tiểu luận Triết học – Cao học 24N – Vũ Văn Hướng

Ngày nay chất lượng của sản phẩm trở thành một công cụ cạnh tranh quan trọng của
các doanh nghiệp trên thị trường, vì chất lượng của sản phẩm nó thoả mãn nhu cầu của
khách hàng về sản phẩm, chất lượng sản phẩm càng cao sẽ đáp ứng được nhu cầu ngày
càng tăng của người tiêu dùng tốt hơn. Chất lượng sản phẩm ln ln là yếu tố sống
cịn của mỗi doanh nghiệp, khi chất lượng sản phẩm không đáp ứng được những yêu cầu
của khách hàng, lập tức khách hàng sẽ chuyển sang tiêu dùng các sản phẩm khác cùng
loại. Chất lượng của sản phẩm góp phần tạo nên uy tín danh tiếng của doanh nghiệp trên
thị trường.
Những đặc tính mang hình thức bên ngồi của sản phẩm như : Mẫu mã, bao bì, nhãn
hiệu…trước đây khơng được coi trọng nhưng ngày nay nó đã trở thành những yếu tố

cạnh tranh quan trọng không thể thiếu được. Thực tế cho thấy, khách hàng thường lựa
chọn các sản phẩm theo trực giác, vì vậy những loại hàng hố có mẫu mã bao bì nhãn
hiệu đẹp và gợi cảm…ln giành được ưu thế hơn so với các hàng hoá khác cùng loại.
Các đặc tính của sản phẩm là nhân tố quan trọng quyết định khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp góp phần rất lớn tới việc tạo uy tín, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm
làm cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nên có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm
Tiêu thụ sản phẩm là một khâu cuối cùng trong q trình sản xuất kinh doanh của
cơng ty, nó quyết định tới các khâu khác của quá trình sản xuất kinh doanh. Cơng ty sản
xuất ra sản phẩm có tiêu thụ được hay không mới là điều quan trọng nhất. Tốc độ tiêu
thụ nó quyết định tốc độ sản xuất và nhịp độ cung ứng nguyên vật liệu. Cho nên nếu
công ty tổ chức được mạng lưới tiêu thụ sản phẩm phù hợp với thị trường và các chính
sách tiêu thụ hợp lý khuyến khích người tiêu dùng sẽ giúp cho công ty mở rộng và chiếm
lĩnh được thị trường, tăng sức cạnh tranh, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng
doanh thu, tăng lợi nhuận, tăng vòng quay của vốn, góp phần giữ vững và đẩy nhanh
nhịp độ sản xuất cũng như cung ứng các yếu tố đầu vào nên góp phần vào việc nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
Nguyên vật liệu và công tác tổ chức đảm bảo nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng và không thể thiếu
được đối với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Số lượng, chủng loại, cơ cấu, chất
lượng, giá cả của nguyên vật liệu và tính đồng bộ của việc cung ứng nguyên vật liệu ảnh
12


Tiểu luận Triết học – Cao học 24N – Vũ Văn Hướng

hưởng tới hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu, ảnh hưởng tới năng suất và chất lượng của
sản phẩm do đó ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chi phí
sử dụng nguyên vật liệu của các doanh nghiệp công nghiệp thường chiếm tỷ trọng lớn

trong chi phí kinh doanh và giá thành đơn vị sản phẩm cho nên việc sử dụng tiết kiệm
nguyên vật liệu có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Việc sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu đồng nghĩa với việc tạo ra kết
quả lớn hơn với cùng một lượng ngun vật liệu.
Bên cạnh đó, chất lượng của cơng tác đảm bảo nguyên vật liệu cũng ảnh hưởng rất
lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu công tác tổ chức đảm bảo
nguyên vật liệu được tốt, tức là luôn luôn cung cấp đầy đủ, kịp thời và đồng bộ đúng số
lượng, chất lượng, chủng loại các loại nguyên vật liệu cần thiết theo yêu cầu của sản
xuất kinh doanh, khơng để xảy ra tình trạng thiếu hay là ứ đọng nguyên vật liệu, đồng
thời thực hiện việc tối thiểu hố chi phí kinh doanh sử dụng của ngun vật liệu thì
khơng đảm bảo cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra bình thường mà cịn
góp phần rất lớn vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ sản xuất
Cơ sở vật chất kỹ thuật trong công ty là yếu tố vật chất hữu hình quan trọng phục vụ
cho quá trình sản xuất kinh doanh của công ty, làm nền tảng quan trọng để công ty tiến
hành các hoạt động kinh doanh. Cơ sở vật chất dù chiếm tỷ trọng lớn hay nhỏ trong tổng
tài sản của cơng ty thì nó vẫn có vai trò quan trọng thúc đẩy các hoạt động kinh doanh,
nó thể hiện bộ mặt kinh doanh của cơng ty qua hệ thống nhà xưởng, kho bãi, cửa hàng,
…Cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty càng được bố trí hợp lý bao nhiêu thì càng góp
phần đem lại hiệu quả cao bấy nhiêu.
Trình độ kỹ thuật và trình độ công nghệ sản xuất của công ty ảnh hưởng tới năng
suất, chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng tới mức độ tiết kiệm hay tăng phí ngun vật liệu
do đó ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
Môi trường làm việc trong công ty
Môi trường văn hố
Mơi trường văn hố do cơng ty xác lập và tạo thành sắc thái riêng. Đó là bầu khơng
khí, là tình cảm, sự giao lưu, mối quan hệ, ý thức trách nhiệm và tinh thần hiệp tác phối
hợp trong thực hiện cơng việc. Mơi trường văn hố có ý nghĩa đặc biệt và có tác động
13



Tiểu luận Triết học – Cao học 24N – Vũ Văn Hướng

quyết định đến việc sử dụng đội ngũ lao động và các yếu tố khác của công ty. Trong
kinh doanh hiện đại, rất nhiều công ty đặc biệt là các công ty liên doanh rất quan tâm
chú ý và đề cao mơi trường văn hố của cơng ty, vì ở đó có sự kết hợp giữa văn hố các
dân tộc và các nước khác nhau. Văn hố cơng ty ảnh hưởng trực tiếp to lớn đến việc
hình thành các mục tiêu chiến lược và các chính sách trong kinh doanh của công ty,
đồng thời tạo thuận lợi cho việc thực hiện thành công chiến lược kinh doanh đã lựa chọn
của cơng ty
Các yếu tố mang tính chất vật lý và hố học trong doanh nghiệp
Các yếu tố khơng khí, khơng gian, ánh sáng, độ ẩm, độ ổn, các hố chất gây độc hại
là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới thời gian lao động, tới tinh thần và sức khoẻ của
lao động do đó nó ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng lao động của công ty, đồng thời nó
cịn ảnh hưởng tới độ bền của máy móc thiết bị, tới chất lượng sản phẩm.
Môi trường thông tin :
Hệ thống trao đổi các thông tin bên trong công ty ngày càng lớn hơn bao gồm tất cả
các thông tin có liên quan đến từng bộ phận, từng phịng ban, từng người lao động. Để
thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh thì giữa các bộ phận, các phịng ban cũng
như những người lao động trong cơng ty ln có mối quan hệ ràng buộc địi hỏi phải
giao tiếp, phải liên lạc và trao đổi với nhau các thơng tin cần thiết. Do đó mà hiệu quả
các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phụ thuộc rất lớn vào hệ thống trao đổi
thông tin của công ty. Việc hình thành qúa trình chuyển thơng tin từ người này sang
người khác, từ bộ phận này sang bộ phận khác tạo sự phối hợp trong công việc, sự hiểu
biết lẫn nhau, bổ sung những kinh nghiệm, những kiến thức và sự am hiểu về mọi mặt
cho nhau một cách thuận lợi nhanh chóng và chính xác là điều kiện cần thiết để cơng ty
thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Phương pháp tính tốn của cơng ty
Hiệu quả kinh tế được xác định bởi kết quả đầu ra và chi phí sử dụng các yếu tố đầu
vào, hai đại lượng này trên thực tế đều rất khó xác định được một cách chính xác, nó phụ

thuộc vào hệ thống tính tốn và phương pháp tính tốn trong cơng ty. Mỗi cơng ty đều
có một phương pháp, một cách tính tốn khác nhau do đó mà tính hiệu quả kinh tế của
các hoạt động sản xuất của công ty cũng phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp tính tốn
trong cơng ty đó.
14


Tiểu luận Triết học – Cao học 24N – Vũ Văn Hướng

2.2.3. Vận dụng mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần bảo hộ lao động Safi
Từ việc phân tích các nhân tó ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của công
ty ở trên, ta thấy được giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan có mối mật thiết
với nhau, không thể tách rời.
Việc nghiên cứu mối quan hệ khách quan và chủ quan theo phương pháp duy vật
biện chứng có ý nghĩa chỉ đạo sau sắc đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
Trong mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan thì khách quan giữ vai trò quyết định
chủ quan nên trong nhận thức và thực tiễn phải nắm vững ý nghĩa phương pháp luận
khoa học là nguyên tắc khách quan. Phải luôn tôn trọng khách quan, xuất phát từ thực tế
khách quan, đồng thời phát huy tính năng động, sáng tạo chủ quan trong nhận thức và
thực tiễn.
Phải lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động, phải tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan. Phải tôn trọng sự thật, tránh thái độ chủ quan, nóng vội,
định kiến, thiếu trung thực. Nhận thức đúng đắn khách quan là tiền đề xác định mục tiêu,
phương hướng, nội dung, biện pháp phù hợp làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn của chủ
thể từng bước cải biến khách quan theo mục đích đề ra.
Do vai trị chủ động của nhân tố chủ quan nên trong nhận thức và thực tiễn phải biết
trên cơ sở tôn trọng khách quan để phát huy cao độ tính năng động chủ quan. Trên cơ sở
cái khách quan đã được nhận thức để huy động, phát huy cao nhất mọi phẩm chất và
năng lực của chủ thể vào việc nghiên cứu, phát hiện, lựa chọn ra con đường, những biện

pháp, hình thức, bước đi, những cơng cụ và phương tiện phù hợp nhất, đạt hiệu quả cao
nhất trong hoạt động.
Trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, lãnh đạo công ty cổ phần bảo
hộ lao động Safi luôn nắm vững quan điểm triết học Mác – Lênin về mối quan hệ giữa
điều kiện khách quan và chủ quan, vận dụng vào việc xác định đường lối, mục tiêu,
phương hướng và phương pháp kinh doanh.
Trong suốt quá tình hoạt động sản xuất kinh doanh, mọi đường lối, chủ trương của
công ty phải xuất phải từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Trước hết, đó là việc
tn thủ pháp luật. Cơng ty phải hoạt động trong lĩnh vực pháp luật cho phép, sản xuất,
kinh doanh các mặt hàng pháp luật không cấm.
15


Tiểu luận Triết học – Cao học 24N – Vũ Văn Hướng

Công ty cần phải trung thực trong kê khai thuế, khơng nên có hành vi khai khống chi
phí, mua bán hóa đơn để chiếm đoạt nguồn thuế của Nhà nước.
Khi đưa ra các kế hoạch, chỉ tiêu sản xuất kinh doanh phải xem xét kế hoạch, chỉ
tiêu đó có phù hợp với năng lực của công ty hay không? Có khả năng thực hiện được
hay khơng? Khi đưa ra được một kế hoạch, chỉ tiêu sản xuất kinh doanh phù hợp, đúng
đắn sẽ đem lại hiệu quả cao. Không nên đưa ra kế hoạch, chỉ tiêu quá thấp sẽ khơng kích
thích được sự cố gắng, khơng cải thiện được năng lực của nhân viên, người lao động.
Cũng không nên đưa ra kế hoạch, chỉ tiêu q cao, khơng có khả năng thực hiện được sẽ
gây ra tâm lý chán nản, áp lực dẫn đến việc. Không nên áp dụng rập khn, chạy đua với
các doanh nghiệp khách có quy mơ lớn hơn, điều đó khơng đem lại kết quả như mong
muốn.
Để có thể tồn tại, phát triển các sẩn phẩm của công ty phải được đáp ứng các yêu
cầu cơ bản như: giá cả, chất lượng, mẫu mã…
Trên cơ sở tơn trọng khách quan để phát huy tính năng động chủ quan. Phát huy tính
năng động chủ quan tức là phát huy vai trị tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và

phát huy vai trị tích cực của nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực năng
động sáng tạo ấy. Bản thân ý thức tự nó khơng trực tiếp thay đổi được gì trong hiện
thực.Ý thức muốn tác động trở lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa
là phải được con người thực hiện trong thực tiễn. Điều ấy có nghĩa là sự tác động của ý
thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người được bắt đầu từ khâu nhận
thức cho được quy luật khách quan, biết vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, phải có
ý chí, có phương pháp để tổ chức hành động. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty cổ phần bảo hộ lao động Safi phát huy được tính năng động chủ quan cần thể
hiện qua những mặt sau:
Bộ máy tổ chức phải được tinh giản bớt cồng kềnh với cơ cấu phù hợp với nhiệm vụ
sản xuất kinh doanh của công ty, gọn nhẹ linh hoạt, có sự phân chia nhiệm vụ chức năng
rõ ràng, tránh tình trạng chồng chéo nhiệm vụ làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Con người trong công ty phải làm chủ được máy móc thiết bị, cần phải đổi mới máy
móc thiết bị để nâng cao năng suất lao động nếu các máy móc thiết bị trong xưởng
khơng cịn đáp ứng được yêu cầu, ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh.
16


Tiểu luận Triết học – Cao học 24N – Vũ Văn Hướng

Cơng ty phải chủ động trong tình hình tài chính, khơng nên lệ thuộc q nhiều vào
đối tác hay các nguồn vốn vay ngắn hạn điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn cho
việc sản xuất kinh doanh.
Công ty phải chủ động trong việc tìm kiếm nguồn vật liệu đầu vào, các nguồn cung
cấp khác nhau tạo ra sự đa dạng về sản phẩm, kiểu dáng đẹp, chất lượng tốt, giá cả thấp
nhât. Bên cạnh đó, phải chủ động tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm tránh gây ra tính trạng
tồn đọng làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm cũng như vịng xoay của vốn.
Trong q trình sản xuất kinh doanh, cơng ty cần phát huy tích cực hơn về tính năng
động chủ quan, chủ động trong mọi hoạt động, thể hiện được khả năng linh động của

cơng ty để hịa mình với xu thế hội nhập và phát triển của đất nước.
Để “phát huy tính năng động chủ quan” không chỉ với hoạt động sản xuất kinh
doanh, khơng chỉ với cịn người trong cơng ty cổ phần bảo hộ lao động Safi mà phải phát
huy tính “năng động chủ quan” ở tất cả mọi mặt của đời sống xã hội, ở tất cả mọi người.
Vì vây, mọi người cần chống các thái độ thụ động, trông chờ, ỷ lại vào hoàn cảnh khác
quan mà hạ thấp vai trị của “tính năng động chủ quan” của con người trong hoạt động
thực tiễn. Nếu rơi vào chủ nghĩa siêu hình, chủ nghĩa duy vật tầm thường, tuyệt đối hóa
vật chất, coi thường tư tưởng, tri thức rơi vào thực dụng hưởng thụ v.v. Ở đó, có thể
nhận thức sai trái và thất bại khi phản ánh sai vai trò của thề giới khách quan.
Khi con người với ý thức của mình xác định được các biện pháp để thực hiện tổ
chức các hoạt động thực tiễn. Kết quả bằng sự nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của mình, con
người có thể thực hiện được mục tiêu đề ra. Ở đây ý thức, tư tưởng có thể quyết định
làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế
giới khách quan, vì đó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và
biện pháp chính trong sự nghiệp hồn thiện bản thân và góp phần phát triễn đất nước. Vì
vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con
người để tác động cải tạo thế giới khách quan; đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ trì
trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại, ngồi chờ trong quá trình đổi mới hiện nay.

17


Tiểu luận Triết học – Cao học 24N – Vũ Văn Hướng

KẾT LUẬN
Đối với công ty cổ phần bảo hộ lao động Safi nói riêng và với tất cả các doanh
nghiệp nói chung khi sản xuất kinh doanh đều mong muốn công ty ngày càng phát triển
bền vững. Để quá trình sản xuất kinh doanh đạt kết quả tốt thì tất yếu mỗi doanh nghiệp
cần có kế hoạch, mục tiêu, phương pháp phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện sản xuất của
mình.

Triết học là mơn khoa học cơ bản trang bị cho tất cả mọi cá nhân, tổ chức những
kiến thức, tư duy, lý luận để có được những phương pháp phù hợp cho bản thân. Mà cụ
thể ở đây là “Nguyên tắc tôn trọng khách quan và phát huy tính năng động chủ quan”
trong q trình hoạt động sản xuất của cơng ty.
Phá vỡ những ngun tắc mang tính chất nền tảng ấy, công ty sẽ lạc khỏi những định
hướng trong quá trình đi tìm phương pháp khoa học cho chính mình. Q trình sản xuất
kinh doanh của cơng ty vì thế mà sẽ khơng đạt kết quả cao. Vì vậy, cần vận dụng kiến
thức Triết học khơng chỉ trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà cịn cả trong
mọi hoạt động thưc tiễn của cơng ty.

18


Tiểu luận Triết học – Cao học 24N – Vũ Văn Hướng

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin” - NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội trang 55 -:- 60.
2. Giáo trình “Triết học Mác – Lênin” - NXB Đại học sư phạm trang 95 -:- 102
3. Website: www.tapchitaichinh.vn
4. Website của thư viện học liệu mở Việt Nam (VOER) : www.voer.edu.vn

19


Tiểu luận Triết học – Cao học 24N – Vũ Văn Hướng

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1............................................................................................................................ 2

MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA.................................................................................2
ĐIỀU KIỆN KHÁCH QUAN VÀ NHÂN TỐ CHỦ QUAN.................................................2
1.1. Điều kiện khách quan.................................................................................................2
1.2. Nhân tố chủ quan....................................................................................................... 3
1.3. Quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan..................3
CHƯƠNG 2............................................................................................................................ 6
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA ĐIỀU KIỆN KHÁCH QUAN VÀ NHÂN TỐ
CHỦ QUAN TRONG Q TRÌNH HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA
CƠNG TY CỔ PHẦN BẢO HỘ LAO ĐỘNG SAFI.........................................................6
2.1. Giới thiệu về công ty cổ phần bảo hộ lao động Safi.................................................6
2.2. Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của công ty......................................................................................6
2.2.1. Các nhân tố khách quan.......................................................................................7
2.2.2. Các nhân tố chủ quan.........................................................................................10
2.2.3. Vận dụng mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần bảo hộ lao động Safi...............15
KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................19

20



×