Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tiểu luận cuối kì: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ VẬN DỤNG TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.75 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MƠN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ QUY LUẬT
QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT VÀ VẬN DỤNG TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

MÃ MƠN HỌC: LLCT130105_29CLC
THỰC HIỆN: Nhóm 01. Thứ 3 tiết 7, 8, 9
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. Trần Thị Thảo

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2020


DANH SÁCH NHÓM THAM GIA TIỂU LUẬN
HỌC KỲ II NĂM HỌC 2019 – 2020
Nhóm số: 01 (Lớp thứ 3 tiết 7, 8, 9)
Tên đề tài: Lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử về quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và vận dụng trong phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay.
TỶ LỆ %

HỌ VÀ TÊN

MÃ SỐ

SINH VIÊN



SINH VIÊN

1

Huỳnh Phú Vinh

19145084

100%

0795817627

2

Nguyễn Tuyên Hoàng

19145059

100%

0343499005

3

Hoàng Lê Ngun

19145049

100%


0988097577

4

Hồng Đình Thuận

19127050

100%

0337314357

5

Lê Tấn Lực

19145056

100%

0336083172

6

Huỳnh Lạc Thiên

19145312

100%


0357472777

7

Nguyễn Trung Kiên

19145015

100%

0931455751

8

Phan Huỳnh Quốc Mỹ

19145062

100%

0353445152

9

Nguyễn Quốc Trường

19145330

100%


0365352917

STT

HOÀN

SỐ ĐIỆN THOẠI

THÀNH

Ghi chú:
- Tỷ lệ % = 100%
- Trưởng nhóm: Huỳnh Phú Vinh
Nhận xét của Giảng viên:
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
Ngày…..tháng 5 năm 2020
Giáo viên chấm điểm


MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 1
3. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................... 1
PHẦN 2: NỘI DUNG ................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ QUY
LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT ................................................................................. 2

1.1 Một số khái niệm ................................................................................................. 2
1.1.1 Chủ nghĩa duy vật lịch sử là gì? ............................................................... 2
1.1.2 Quan hệ sản xuất là gì? ............................................................................. 2
1.1.3 Lực lượng sản xuất là gì?.......................................................................... 2
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. ........ 2
1.2.1 Lực lượng sản xuất ảnh hưởng như thế nào trong xã hội( nguồn lao
động, đời sống của công nhân,….)? .................................................................. 2
1.2.2. Sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ... 5
1.2.3. Sự vận dụng của Đảng ta vào thực tiễn kinh tế xã hội ở nước ta ........ 6
2.2. Tầm quan trọng của nguồn nhân lực đối với lực lượng sản xuất. ................. 9
2.2.1. Những thuận lợi khi có đủ nguồn nhân lực cho sản xuất: ................... 9
2.2.2. Ảnh hưởng của việc thiếu đi nguồn nhân lực đối với việc phát triển
kinh tế, xã hội. ..................................................................................................... 9
2.3 Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay ............... 10
2.4. Những thành công của Đảng ta trong việc vận dụng lý luận của chủ nghĩa
duy vật lịch sử về quy luật quan hệ sản xuất vào việc phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay...................................................................... 11
2.5. Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
................................................................................................................................... 15
PHẦN 3: KẾT LUẬN ................................................................................................. 18
3.1. Khẳng định lại tầm quan trọng của việc vận dụng lý luận của chủ nghĩa
duy vật lịch sử về quy luật quan hệ sản xuất vào việc phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay...................................................................... 18
3.2. Ý nghĩa của đề tài ............................................................................................. 19
PHỤ LỤC .................................................................................................................... 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................... 23


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và vận dụng trong phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay.
Từ khi con người xuất hiện trên trái đất này đã trải qua năm phương thức sản
xuất đó là: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô nệ, xã hội phong kiến, tư bản chủ
nghĩa, xã hội chủ nghĩa. Qua mỗi thời kì tư duy và nhận thức của con người cũng
không dừng lại ở một chỗ, mà theo thời gian tư duy của con người ngày càng phát
triển hoàn thiện hơn. Chính sự thay đổi về tư duy và nhận thức đã làm thay đổi về
lực lượng sản xuất cũng như cơ sở sản xuất. Từ khi sản xuất chủ yếu là hái lượm,
săn bắt sử dụng những kỹ thuật lạc hậu thì nay với sự phát triển của khoa học kỹ
thuật đã đạt tới đỉnh cao dẫn tới sự phát triển vượt bậc về trình độ sản xuất. Khơng
ít các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đã đổ sức, bỏ công cho vấn đề này. Nhưng
họ đều thống nhất rằng thực chất của triết học đó là sự thống nhất biện chứng giữa
quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất như thống nhất giữa hai mặt đối lập tạo nên
chính thể của nền sản xuất xã hội.
Nghiên cứu về sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất tạo cho chúng ta có một nhận thức về sản xuất xã hội. Đồng thời giúp ta
mở mang được nhiều lĩnh vực về kinh tế, thấy được vị trí và ý nghĩa của nó. Đây
cũng là lý do cho nhóm quyết định chọn đề tài: “ Sự vận dụng quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
làm đề tài cho bài tiểu luận của nhóm.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu làm rõ vai trò của giáo dục - đào tạo với việc phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở việt nam hiện nay.
Luận án khơng nghiên cứu tồn bộ vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao và toàn bộ vấn đề giáo dục - đào tạo, mà nghiên của vai trò của giáo dục đào tạo
với nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta, tập trung nghiên cuuws vấn đề này ở
các trường đại học của Việt Nam hiện nay.
Khảo sát thực tiễn vai trò giáo dục- đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay.

3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của đảng, chiến lược của nhà nước về phát triển giáo
dục – đào tạo, phát triển nguồn lực, nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam. Sử
dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin , tư tưởng Hồ Chí Minh, kết
hợp chặt chẻ lý luận và thực tiễn, logic và lịch sử, điều tra xã hội học, tổng kết thực
tiễn là những phương pháp chủ đạo được áp dụng nghiên cứu trong đề tài luận án.

1


PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ QUY LUẬT
QUAN HỆ SẢN XUẤT
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Chủ nghĩa duy vật lịch sử là gì?
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã
hội của triết học Mác-Lênin, là kết quả của sự vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu đời sống xã
hội và lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong ba bộ phận hợp thành
triết học Marxist. Chủ nghĩa duy vật lịch sử lý giải sự tiến hóa của xã hội lồi người
bằng sự phát triển của trình độ sản xuất.
1.1.2 Quan hệ sản xuất là gì?
Quan hệ sản xuất là khái niệm chỉ mối quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội), là một trong những biểu hiện của quan
hệ xã hội, giữ vai trị xun suốt trong quan hệ xã hội vì quan hệ sản xuất là quan hệ
đầu tiên, quyết định những quan hệ khác.
1.1.3 Lực lượng sản xuất là gì?
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất của xã
hội ở các thời kỳ nhất định. Về mặt cấu trúc, lực lượng sản xuất xã hội bao gồm hệ

thống những tư liệu sản xuất và sức lao động mà người ta dùng cho sản xuất, trong đó
quan trọng nhất là sức lao động.
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
1.2.1 Lực lượng sản xuất ảnh hưởng như thế nào trong xã hội( nguồn lao
động, đời sống của công nhân,….)?
Đi đôi với sự phát triển của khoa học, cơng nghệ và nước ta đang trong thời kì
“cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa” đất nước, cần có một lực lượng sản xuất vơ cùng đồ sộ,
có chun mơn và tay nghề cao. Theo Lênin, sau khi đã lãnh đạo thành công cuộc Cách
mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười ở nước Nga, cho rằng chỉ có lực lượng sản xuất
hiện đại mới tạo ra năng suất lao động cao. “Xét đến cùng, thì năng suất lao động là cái
quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới”. chủ nghĩa xã hội
chỉ có thể thắng lợi khi tạo ra năng suất lao động cao hơn hẳn chủ nghĩa cơ bản. “Đó là
sự nghiệp rất khó khăn và rất lâu dài”.
2


Ở Việt Nam, do điểm xuất phát rất thấp từ một nước nông nghiệp lạc hậu trong
chế độ phong kiến hàng nghìn năm, bị chủ nghĩa thực dân cai trị hàng trăm năm, nên
yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hóa càng bức thiết. Sau Cách mạng
Tháng Tám 1945, đất nước vừa giành được độc lập lại phải tiến hành kháng chiến lâu
dài chống xâm lược nên chưa có điều kiện để chuyển lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải phát
triển kỹ nghệ, tức là phát triển công nghiệp, khoa học, kỹ thuật.
Và để làm được điều này, điều đầu tiên mà nước ta đã thực hiện đó là bắt đầu xây
dựng lực lượng sản xuất, đào tạo nguồn nhân lực có chun mơn và trình độ, khơng
ngừng trao đổi, học hỏi kinh nghiệm với Liên Xô và các nước khác để giúp cho nước
ta có một nguồn lao động hiện đại và dồi dào, góp phần vào q trình đổi mới đất nước.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện nhất qn đường lối cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (7-1994) nêu rõ:

“Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn bản, tồn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp
và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Đó là một q
trình lâu dài, “Mục tiêu lâu dài của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta
thành một nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống
vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh”.
Nhờ vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế đã thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam. Kết cấu hạ tầng kinh tế,
xã hội phát triển nhanh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực. Gần 30 năm đổi mới,
nhiều cơng trình lớn của đất nước được xây dựng và đi vào hoạt động. Đó là nhà máy
thủy điện Yaly, Sơn La, Tun Quang cùng với Hịa Bình, Trị An trước đó, hệ thống
tải điện Bắc Nam, cùng với các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ, nhiệt điện đã là thành
3


tựu lớn của điện khí hóa tồn quốc. Cơng nghiệp dầu khí với khu cơng nghiệp lọc dầu
Dung Quất, khí điện đạm Phú Mỹ, Cà Mau. Hiện đại hóa ngành khai thác than và
khống sản. Tiếp tục phát triển cơng nghiệp gang thép, cơ khí. Phát triển cơng nghệ
thơng tin và viễn thông. Nâng cấp hệ thống đường giao thông. Xây mới các cầu hiện
đại: Mỹ Thuận, Cần Thơ, các cầu ở Đà Nẵng, cầu Thanh Trì, Vĩnh Tuy ở Hà Nội và
nhiều cầu hiện đại khác. Hiện đại hóa các sân bay, cảng biển. Phát triển hàng trăm khu
công nghiệp và chế xuất, hình thành những trung tâm cơng nghiệp, khu vực kinh tế
trọng điểm của đất nước. Đem lại nguồn thu nhập lớn cho đất nước, nâng cao đời sống
của chính người lao động và nhân dân.
Năng suất lao động là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy đã
có lực lượng sản xuất phất triển mạnh trong những năm gần đây nhưng năng suất lao

động của nước ta vẫn ở mức thấp hơn so với các nước trong khu vực. Từ năm 2000 đến
2010, năng suất lao động chỉ tăng hơn 4%. So với các nước Inđônêxia, Malaysia và
Thái Lan, năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn hàng chục lần. Nhận thức được
điều đó, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh việc nắm vững và giải quyết tốt các mối
quan hệ lớn, trong đó có quan hệ “giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn
thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”.
Hiện nay, thực hiện quan điểm của Đại hội XI về cơ cấu lại nền kinh tế, chú trọng
cơ cấu lại và điều chỉnh chiến lược phát triển doanh nghiệp nhà nước, nâng cao chất
lượng, hiệu quả bảo đảm phát triển kinh tế nhanh, bền vững và đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa. Phát triển nông nghiệp theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, giải quyết
đồng bộ vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn với xây dựng nơng thơn mới.
Xây dựng mơ hình mới trong sản xuất nông nghiệp khi kinh tế hộ manh mún, phân tán
đã hồn thành vai trị, để thúc đẩy sản xuất hàng hóa quy mơ lớn, chất lượng, hiệu quả
cao. Đổi mới và tái cơ cấu các ngành dịch vụ, nhất là tài chính, ngân hàng, thương mại,
du lịch và các dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Thực hiện các đột phá chiến lược: hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nhanh nguồn
nhân lực; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số cơng trình hiện đại.

4


Quá trình đổi mới, tái cơ cấu và thực hiện các đột phá đó cũng chính là thúc đẩy hơn
nữa sự phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp.
1.2.2. Sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phuowg thức sản xuất,
chúng không tồn tại, không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau, hình thành
quy luật phổ biến của tồn bộ lịch sử loài người, quy luật về sự phù hợp quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật này vạch rõ tính chất phụ
thuộc khách quan của quan hệ sản xuất và phá triển của lực lượng sản xuất. Đến lượt

mình, quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất là quy luật cơ bản của sự phát triển xã hội loài người. Sự tác động của
nó trong lịch sử làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái
kinh tế xã hội cao hơn.
*Những tác động của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi và phát triển đều do lực lượng sản
xuất quyết định. Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả
cao hơn, con người ln ln tìm cách cải tiến, hồn thiện công cụ lao động mới tinh
xảo hơn. Cùng với sự phát triển của cơng cụ lao odongjt hì kinh nghiệm sản xuất, thói
quen lao động, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ. Lực
lượng sản xuất trở thành yếu tố cách mạng nhất. Còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương
đối ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực
lượng sản xuất là nộ dung của phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thái
xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì hình thức phụ thuộc
nội dung, nội dung quyết định hình thức, nội dung thay đổi trước, sau đó hình thức mới
biến đổi theo.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành
và biến đổi phù hợp với tính chất và trình độ của của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp
đó là động lực sản xuất phát triển mạnh mẽ. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên một
trình độ mới , quan hệ sản xuất cũ khơng cịn phù hợp nũa nên buộc phải thay thế bằng
5


mối quan hệ mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, mở đường
cho lực lượng sản xuất phát triển.
1.2.3. Sự vận dụng của Đảng ta vào thực tiễn kinh tế xã hội ở nước ta
*Thời kỳ trước đổi mới:
Sau cuộc chiến tranh bảo vệ dân tộc kéo dài, kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu nay lại càng
gặp nhiều khó khăn hơn, lực lượng sản xuất của nước ta còn thấp kém và chưa có điều

kiện phát triển.Trình độ người lao động rất thấp, hầu hết khơng có chun mơn tay
nghề, phần lớn lao động chưa qua đào tạo. Lao động Việt nam chủ yếu hoạt động trong
lĩnh vực nông nghiệp, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm mà cha ông để lại. Trường dạy
nghề rất hiếm, chủ yếu chỉ xuất hiện ở Hà Nội, Sài Gịn,….Tại những đơ thị lớn, trình
độ của người lao động cao hơn các vùng khác trong cả nước.Tư liệu sản xuất mà nhất
là công cụ lao động ở nước ta thời kỳ này cịn thơ sơ, lạc hậu. Là một nước nông nghiệp
thế nhưng công cụ lao động chủ yếu là cày, cuốc, theo hình thức “ con trâu đi trước, cái
cày theo sau”, sử dụng sức người là chủ yếu, trong cơng nghiệp máy móc thiết bị cịn ít
và rất lạc hậu. Phát triển cơng cụ lao động giữa các vùng, miền cũng có sự khác
nhau.Nhìn chung trước trước Đổi Mới lực lượng sản xuất ở Việt nam thấp kém, lạc hậu
và phát triển không đồng đều.Trong hồn cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương
xây dựng quan hệ sản xuất xã hôi chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất, bao gồm hai thành phần kinh tế: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn
dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.Nhà
nước không thừa nhận yếu tố kinh tế tư bản như là các thành phần kinh tế cá thể, kinh
tế tư nhân dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, đã phân định tách bạch thuần khiết chế độ
sở hữu và thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, phi xã hội chủ nghĩa, tuyệt đối hóa vau
trị của chế độ cơng hữu, dẫn đến chủ trương cải tạo, sớm xóa bỏ các thành phần kinh
tế phi xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ đầu, sau giải phóng miền Bắc, bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chúng ta đã nhấn mạnh thái q vai trị “tích cực” của quan hệ sản xuất, dẫn đến chủ
trương quan hệ sản xuất phải đi trước, mở đường để tạo động lực cho sự phát triển lực
lượng sản xuất. Có những nơi nông dân bị bắt ép đi vào các hợp tác xã, mở rộng nông
6


trường qc doanh mà khơng tính đến lực lượng sản xuất cịn rất lạc hậu. Người lao
động khơng được chú trọng về cả trình độ và thái độn lao động, đáng ra là chủ thể của
sản xuất nhưng lại trở nên thụ động trong cơ chế quan liêu bao cấp. Nước ta quá nhấn
mạnh sở hữu tư liệu sản xuất theo hướng tập thể hóa, cho đó là nhân tố hàng đầu của

quan hệ sản xuất mới, từ đó người lao động bị biệt lập với đối tượng lao động. Quan hệ
sản xuất lên quá cao, tách rời với lực lượng sản xuất. Hậu quả là sản xuất bị kìm hãm,
đời sống nhân dân đi xuống nhanh chóng. Đến cuối năm 1985( 12/1985, giá bán lẻ hàng
hóa tăng 845.3%), năng suất lao động quá thấp, kinh tế lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
*Thời kỳ sau đổi mới(1986)
Nhận thức được sai lầm trong thời kỳ trước, Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986
đã thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm, chủ trương Đổi mới phương thức quản lý kinh tế
và cho đến nay đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Người lao động nước ta đến năm
2005 là 44,3 triệu người, trong đo slao động đã qua đào tạo là 24,79 %. Hệ thống trường
dạy nghề các cấp được mở rộng. Đội ngũ trí thức cũng tăng lên nhanh chóng, năm 20072008, cả nước có 1 603 484 nghìn sinh viên.Năm 2008, nước ta có 160 trường đại học,
209 trường cao đẳng và 275 trường trung cấp chuyên nghiệp, đáp ứng được phần nào
nhu cầu đào tạo lao động cho đất nước. Tuy nhiên, thị trường lao động vẫn bị phân
mảng, tồn tại tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu lao động, nhất là thiếu thợ”. Nền
kinh tế đang thiếu đi nguồn nhân lực có tay nghề, chất lượng nhân lực của Việt Nam
còn thấp so với các nước lân cận.Máy móc và các trang thiết bị hiện đại ngày càng được
sử dụng rộng rãi trong các ngành kinh tế. Trong nông nghiệp là máy cày, máy bừa,…các
giống cây trồng mới cũng được tìm ra và phổ biến. Trong công nghiệp, kỹ thuật hạt
nhân bắt đầu phát triển, đẩy mạnh sản xuất.
Tuy nhiên nhìn chung so với nhiều quốc gia trên Thế giới thì tư liệu sản xuất nước
ta còn nghèo nàn, chậm cải tiến, hiệu quả chưa thật sự cao và cịn phân hóa giữa các
vùng trong cả nước.Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức
kinh doanh đa dạng, phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiểm năng của các thành phần
kinh tế, các quan hệ sản xuất xã hôi chủ nghĩa, quan hệ sản xuất tư bản, manh mún của
7


quan hệ sản xuất phong kiến được công nhận.Như vậy, trong hồn cảnh lực lượng sản
xuất khơng ngừng phát triển, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đa dạng các mối quan
hệ xã hội đã bước đầu vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát

triển của lực lượng sản xuất và đx đạt hiều thành tựu đáng kể. Năm 2005, tốc độ tăng
trưởng GDP của nước ta là 8,4 %, cao nhất khu vực Đông Nam Á. Trong bối cảnh nhiều
nước rơi vào khủng hoảng thì vốn đầu tư nước ngồi vào Việt Nam vẫn cao,cụ thể là
45 tỷ USD vốn FDI từ 2005-2010, GDP trên người khoảng 1168 USD/người/năm.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là quy luật phổ biến, tác động trong tồn tiến trình lịch sử nhân loại. Sau chặng đường
hai mươi bảy năm thực hiện Đổi mới vừa qua, Đảng ta đã khơng ngừng tìm tịi, phát
triển nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất trên tổng thể
và đối với từng yếu tố cấu thành nên quan hệ sản xuất. Thực tiễn cho thấy con đường
chúng ta đang đi là đúng đắn và đạt nhiều thành tựu quan trọng, vượt qua nhiều giai
đoạn lịch sử nhạy cảm. Về con đường và cách thức đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta có
nhiều vấn đề được làm sáng tỏ nhưng cũng có nhiều vấn đề cần phải phát triển thêm.
Có thể nói việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một vấn đề như thế. Mặt khác cần đi đôi
với việc phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và đi tắt đón đầu, chú trọng
các ngành nhiều thế mạnh trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn, phù hợp với sự phát
triển nền khoa học công nghệ nước nhà. Việc phát triển cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước và phát triển nền kinh tế thị trường phải được thực hiện đồng thời, thúc đẩy
hỗ trợ nhau cùng phát triển. Bởi lẽ nếu cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa tạo nên lực lượng
sản xuất cần thiết cho sự phát triển xã hội thì việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần có sự điều tiết của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa chính là
để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp. Nước ta cần xác lập và hoàn thiện một
quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp với lực lượng sản xuất hiện nay để đất nước phát
triển hơn nữa,mà trước hết là phát triển kinh tế một cách bền vững.

8


2.2. Tầm quan trọng của nguồn nhân lực đối với lực lượng sản xuất.
2.2.1. Những thuận lợi khi có đủ nguồn nhân lực cho sản xuất:

Trong sản xuất nếu có đủ nguồn nhân lực thì chắc chắn rằng sẽ có rất nhiều thuật
lợi như về chất lượng sản phẩm,thời sản xuất sản phẩm,….Do đó nguồn nhân lực ln
đóng vai trị tất yếu trong sản xuất .
VD: Một tổ chức sản xuất muốn thành cơng thì phải có 2 yếu tố quan trọng là sức lao
động và tư liệu sản xuất, trong đó người lao động là yếu tố quan trọng hàng đầu .Ph.
Ăngghen đã từng nhấn mạnh rằng muốn nâng nền sản xuất lên thì một mình tư liệu lao
động, dù là tư liệu cơ giới hay bất kỳ tư liệu nào khác cũng khơng đủ mà cần có những
người có năng lực tương xứng sử dụng những tư liệu đó. Như vậy vai trị của nguồn
nhân lực xuất phát từ vai trò quan trọng của con người trong sự phát triển của lực lượng
sản xuất đối với sự phát triển của kinh tế xã hội.
Ngồi ra có nguồn nhân lực dồi dào cũng là lợi thế lớn trong việc thu hút đầu tư
nước ngoài.
VD: Với thuận lợi về nguồn lao động dồi dào, Việt Nam đang cho thấy mình là một
môi trường đầu tư tiềm năng mà các nhà đầu tư nước ngoài nên chú trọng. Việt Nam là
nước có tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động lớn (69%), việc tận dụng được nguồn lao
động này có thể giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài tiết kiệm một phần rất lớn chi phí
đầu vào. Nguồn: Tổng cục Thống kê, Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009.
Tuy nhiên việc có đủ nguồn nhân lực về mặt số lượng ta còn phải làm tốt về phần
chất lượng cho nguồn nhân lực trong sản xuất góp phần tăng sự cạnh tranh với nhau
giữa các tố chức sản xuất tương đồng về mặt sản phẩm trong thị trường.
2.2.2. Ảnh hưởng của việc thiếu đi nguồn nhân lực đối với việc phát triển
kinh tế, xã hội.
Như các bạn cũng đã biết sự quan trọng của nguồn nhân lực trong sản xuất quan
trọng như thế nào nó tác động mạnh đến chất lượng sản phẩm cho ra thị trường, cho
nên việc thiếu đi nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế, xã hội là điều dễ dàng
nhận thấy, nó làm giảm đi tính cạnh tranh trong thị trường, thời gian sản xuất tăng,chất
lượng giảm, năng suất lao động bị suy giảm, nền kinh tế chậm lại tệ hơn là suy thoái.

9



VD: Nếu một tổ chức sản xuất nào đó có nhập thật nhiều máy móc trang thiết bị tiên
tiến,hiện đại đến đâu thì nó mãi mãi chỉ là tư liệu sản xuất khơng cách nào chiếm ln
cả vai trị sức lao động,công nghệ mới nhưng lại thiếu đi nguồn nhân lực thì chúng cũng
chỉ là những cổ máy vơ tri vô giác.
2.3 Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay
Theo kết quả cuộc Tổng kết tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 được Tổng
cục Thống kê công bố sáng 19/12, Việt Nam có gần 88% dân số trong độ tuổi từ 2559 tham gia lực lượng lao động; trong đó tỷ trọng dân số tham gia lực lượng lao động
cao nhất ở nhóm tuổi 25-29 (14,3%) và giảm nhẹ ở nhóm 30-34 (14,2%). Dân số ở
nhóm tuổi trẻ (từ 15-24 tuổi) và nhóm tuổi già (từ 60 tuổi trở lên) đều chiếm tỷ trọng
tham gia lực lượng lao động thấp (dưới 10%)
Từ số liệu thống kê trên có thể thấy Việt Nam đang trong thời kì có cơ cấu dân
số vàng nhưng hiện nay, sinh viên tốt nghiệp có năng lực chuyên môn chưa phù hợp
với yêu cầu của thực tiễn sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; còn yếu về ngoại ngữ và các
kỹ năng mềm như tác phong công nghiệp, khả năng làm việc theo tổ, nhóm.., kỹ năng
khởi nghiệp. Chất lượng giáo dục đại học cịn thấp và khơng đáp ứng nhu cầu kỹ
năng của thị trường lao động.
Theo báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2018, Việt Nam xếp thứ 84/137
quốc gia về kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp đại học và xếp thứ 79/134 về năng lực
đổi mới sáng tạo; kết quả đầu ra của nghiên cứu còn đứng sau khá xa so với Thái Lan
và Malaysia.
Tình trạng người lao động làm việc khơng phù hợp với ngành nghề được đào
tạo, cũng như với trình độ chuyên môn và tay nghề được đào tạo. Số liệu thống kê
cho thấy 81,1% lao động có trình độ cao đẳng, 60,4% số lao động có trình độ trung
cấp, 23,8% số lao động có trình độ đại học trở lên làm các cơng việc có u cầu trình
độ chun mơn kỹ thuật, kỹ năng thấp hơn so với trình độ chuyên môn kỹ thuật được
đào tạo (theo bằng cấp/chứng chỉ).

10



Khơng những thế tình trạng chảy máu chất xám cũng ảnh hưởng nghiêm trọng
tới nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam. Khi mà những người tài và những
sinh viên giỏi thường có su hướng đi xuất khẩu lao động.
Từ đó có thể rút ra một số điểm về thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam đó
là nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng mức,
chưa được quy hoạch, chưa được khai thác, cịn đào tạo thì nửa vời, nhiều người chưa
được đào tạo. Dẫn đến nguồn nhân lực chất lượng cao bị hạn hẹp. Chất lượng nguồn
nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa lượng và chất.
2.4. Những thành công của Đảng ta trong việc vận dụng lý luận của chủ
nghĩa duy vật lịch sử về quy luật quan hệ sản xuất vào việc phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay.
⁕ Nhìn lại những sai lầm trong việc vận dụng lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử về
quy luật quan hệ sản xuất ở Việt Nam.
Kể từ sau ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước - 30 tháng 04 năm
1975, nước ta đã giành độc lập hoàn toàn từ tay đế quốc Mỹ, đây cũng là lúc Đảng và
nhà nước ta phải chuyển mình bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Tuy nhiên, với đặc thù là một nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, cùng
với đó là lực lượng sản xuất thấp kém về năng lực cũng như kinh nghiệm, mơ hình kinh
doanh doanh nhỏ lẻ tự túc là chủ yếu,… đã khiến cho bài toán xây dựng đất nước trở
nên khó khăn. Đứng trước sự cấp bách trong việc dựng lại thời bình của đất nước, vào
năm 1976 nền kinh tế Việt Nam bước sang giai đoạn nền kinh tế hoạch hóa, hay chính
là thời kì bao cấp, theo đó thì nền kinh tế tư nhân được xóa bỏ, nhường lại sự chỉ huy
cho Nhà nước. Song trên thực tế trong quá trình triển khai và thực hiện, cơ chế này đã
bộc lộ nhiều yếu kém do những chính sách này trái với quy luật sản xuất, tức phải phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Cũng chính vì sự gấp gáp mong
muốn vực dậy nền kinh tế, với định hướng “Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nước ta từ sản xuất
nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách
hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ” trong khi lực lượng sản

xuất yếu kém chưa đủ năng lực và hiểu biết trong các lĩnh vực công nghiệp, cùng với

11


đó là thiếu cơ sở vật chất hạ tầng, phụ thuộc vào nguồn cung nước ngoài,… khiến cho
nền kinh tế công nghiệp được đầu tư kém hiệu quả, tốn kém và lãng phí.
Giáo sư kinh tế Trần Văn Thọ là người có nhiều đóng góp về tư duy kinh tế cho
Việt Nam cũng nhận định rằng: “Mười năm sau 1975 là một trong những giai đoạn tối
tăm nhất trong lịch sử Việt Nam. Chỉ nói về mặt kinh tế, là một nước nông nghiệp nhưng
Việt Nam thiếu ăn. Công thương nghiệp cũng đình trệ, sản xuất đình đốn, vật dụng hằng
ngày thiếu thốn, cuộc sống của người dân vô cùng khốn khó. Ngồi những khó khăn
của một đất nước sau chiến tranh và tình hình quốc tế bất lợi, nguyên nhân chính của
tình trạng nói trên là do sai lầm trong chính sách, chiến lược phát triển, trong đó nổi bật
nhất là sự nóng vội trong việc áp dụng mơ hình xã hội chủ nghĩa trong kinh tế ở miền
Nam...”.
Với những lý do trên, Tại Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, đã tìm ra lối thốt
cho cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, thể hiện quan điểm đổi mới tồn diện đất nước,
đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Những chủ trương, chính sách mới đã gợi mở, khuyến khích các thành phần kinh tế
phát triển, giải phóng năng lực sản xuất của xã hội để mở đường cho phát triển sản xuất.
⁕ Nền kinh tế nhiều thành phần gặt hái được nhiều thành công nhờ vận dụng quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Bước vào công cuộc đổi mới đất nước, quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa
có kế hoạch gồm nhiều thành phần, nhiều chế độ sở hữu của Đảng bước đầu cho thấy
tầm nhìn quan trọng trong tư duy lý luận và phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
mặc dù chưa đề cập đến cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế thị trường. Điều này
thể hiện sự nhận thức đúng đắn và kịp thời trong việc vận dụng quy luật về sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; đồng thời đã đặt
cơ sở, nền tảng quan trọng để các nhân tố mới ra đời, tạo tiền đề để từng bước phát triển

nền kinh tế nước ta.
Nhìn lại một chặng đường dài hơn 30 năm đổi mới, xây dựng và phát triển đất
nước, nhờ vận dụng tốt và hiểu đúng về quy luật sản xuất, nước ta đã và đang dẫn bước
đạt nhiều thành công trong không chỉ về lĩnh vực kinh tế, mà điều này cịn góp phần
nâng cao chất lượng cuộc xã hội, vận dụng tối đa sức mạnh và ý chí dân tộc.

Khơng

dừng lại ở đó, với bối cảnh tồn cầu hóa, đa thương, hội nhập, việc áp dụng quy luật
12


này tạo điều kiện để nước ta học hỏi, nâng cao tay nghề, phát triển nguồn nhân lực phù
hợp, khắc phục hậu quả tụt hậu xa về kinh tế, mang lại giá trị to lớn về mọi mặt.
Hiển nhiên rằng, trong bất kì thời kì phát triển nào, Đảng và nhà nước ta phải luôn
trong tâm thế vững vàng, luôn đặt ra những bài tốn phù hợp với tình hình của đất nước,
phải tiếp tục thống nhất các quy luật về kinh tế thị trường, đảm bảo định hướng xã hội
chủ nghĩa với từng giai đoạn, phù hợp với những quy tắc chung trên trường quốc tế.
Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và phát triển thể chế kinh tế, đảm bảo mơi
trường bình đẳng, lành mạnh và minh bạch, đặc biệt phải phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân, luôn đặt nhân dân lên hàng đầu, dân làm chủ thì mới có thể giúp Đảng, giúp
nước ta đạt được những yêu cầu cấp thiết đã đặt ra
Với những sáng tạo và bước đi đúng đắn của Đảng ta, Việt Nam đã đạt được nhiều
mặt tích cực thành cơng, dù đi đơi với đó vẫn cịn nhiều hạn chế yếu kém cần khắc phục.
Cụ thể, tính đến năm 2016, GDP của Việt Nam tăng chậm lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm,
là mức cao của khu vực và thế giới, lực lượng sản xuất có nhiều tiến bộ về số lượng và
chất lượng, tỷ lệ nghèo đói giảm sâu đáng kể, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo xu hướng
hiện đại hóa, giảm khu vực nơng nghiệp, tăng khu vực dịch vụ và cơng nghiệp, cũng vì
thế mà Việt Nam đã thu hút được nhiều nhà đầu tư, làm gia tăng đáng kể nguồn vốn
cho nhà nước, tạo điều kiện có cơng ăn việc làm cho nhân dân. Tuy vậy, do kinh nghiệm

cịn chưa nhiều, tỷ lệ phân hóa giàu nghèo, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội gia tăng
nhanh, trong khi đó, vấn đề lạm dụng tài nguyên, sử dụng nguồn lực chưa hiệu quả,
trình độ và mức độ tự động hóa chưa cao khiến nền kinh tế chưa đạt được yêu cầu như
mong muốn.
Có thể khẳng định rằng cơng cuộc đổi mới là q trình chúng ta ngày càng nhận
thức và vận dụng đúng đắn hơn quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất trong điều kiện thực tiễn Việt Nam. Đây cũng chính
là thử thách trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, điều này không chỉ
nhằm đảm bảo tạo ra một lực lượng có kiến thức chuyên sâu và am hiểu về vấn đề
chun mơn, mà cịn nhân bản, tìm tòi và phát huy tinh thần sáng tạo hội nhập của dân
tộc.
⁕ Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao tại Việt Nam hiện nay.
13


Đi đơi với q trình vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nhằm phát triển kinh tế, tạo “cốt vật chất” cho
quan hệ sản xuất mới, với chính sách mở cửa, hịa nhập quốc tế và định hướng giảm tỉ
trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng dịch vụ và công nghiệp, chúng ta đều biết công nghiệp
hoá hiện đại hoá là khuynh hướng tất yếu của tất cả các nước. Đối với nước ta, từ một
nền kinh tế tiểu nơng, muốn thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình
độ của một nước phát triển thì tất yếu cũng phải đẩy mạnh cơng nghiệp hoá hiện đại
hoá như là: “Một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội”.
Cơng nghiệp hố phải đi đơi với hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự về
công nghiệp với việc tranh thủ các cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn
phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học cơng nghệ thế giới. Mặt khác chúng ta
phải chú trọng xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo thị
trường, có sự điều tiết của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là hai

nhiệm vụ được thực hiện đồng thời, chúng luôn tác động thúc đẩy hỗ trợ lẫn nhau cùng
phát triển. Bởi lẽ “Nếu cơng nghiệp hố hiện đại hố tạo lên lực lượng sản xuất cần thiết
cho chế độ xã hội mới thì việc phát triển nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần chính
là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp”.
Tuy nhiên để duy trì được quá trình này, nước ta phải có tiềm lực kinh tế con
người, trong đó lực lượng lao động là yếu tố quan trọng và phải gắn với phát triển kinh
tế tri thức, tiếp thu những thành tựu về khoa học và cơng nghệ. Đồng thời nhà nước
phải ln xây dựng, hồn thiện luật pháp và chính sách kinh tế để kiến tạo sự phát triển
bền vững. Đào tạo nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, nhất là trong bộ máy quản lý
nhà nước. Đổi mới thể chế nhằm tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật và chính sách;
phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương.
Có thể nói, Cơng nghiệp hoá đã được Đảng vận dụng tuyệt vời lý luận của chủ
nghĩa duy vật lịch sử về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, góp phần khơng
nhỏ trong q trình phát triển kinh tế, nâng cao đời sống xã hội, khẳng định vị thế Việt
Nam trên trường quốc tế.

14


2.5. Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta hiện
nay.
Nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực , đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
thị trường lao động và hội nhập kinh tế quốc tế, thời gian tới cần tập trung vào một số
giải pháp sau:
Thứ nhất: đổi mới yêu cầu về giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
thông qua đẩy mạnh đào tạo kỹ năng, năng lực thực hành; tiếp tục đẩy mạnh xã hội hoá,
đa dạng nguồn lực cho phát triển giáo dục nghề nghiệp. Rà soát tổng thể đội ngũ giáo
viên giáo dục nghề nghiệp (cả giáo viên trong các trường trung cấp chuyên nghiệp và
cao đẳng), để thực thiện chuẩn hóa và xây dựng lộ trình chuẩn hóa, đáp ứng mục tiêu

đào tạo nghề.
Thứ hai: đẩy nhanh việc xây dựng các chuẩn đầu ra dựa trên tiêu chuẩn nghề
phù hợp với Khung trình độ quốc gia, trước mắt tập trung vào các nghề trọng điểm, các
nghề có trong danh mục của hội thi tay nghề ASEAN; Rà sốt và điều chỉnh việc xây
dựng các chương trình đào tạo trình độ sơ cấp, theo hướng linh hoạt, tăng tính thực
hành. Bên cạnh đó, tiếp tục xây dựng danh mục thiết bị dạy nghề, ưu tiên tập trung các
nghề trọng điểm cấp độ quốc gia; rà soát, chỉnh sửa các danh mục thiết bị đã ban hành
theo hướng tiếp cận với các nước trong khu vực; áp dụng tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết
bị đào tạo theo chuẩn khu vực, quốc tế. Đồng thời, rà soát, thống nhất các tiêu chí, tiêu
chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp; xây dựng các cơ chế, quy định về
đảm bảo chất lượng; các cơ chế, quy định và phát triển hệ thống quản lý và đảm bảo
chất lượng trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Thứ ba: tham gia xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo; tổ chức giảng dạy,
hướng dẫn thực tập và đánh giá kết quả học tập của người học tại cơ sở giáo dục nghề
nghiệp; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề và đào tạo lại nghề cho người
lao động của doanh nghiệp ; Các khoản chi cho hoạt động đào tạo nghề nghiệp của
doanh nghiệp được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật về
thuế; Cung cấp thông tin về nhu cầu đào tạo, sử dụng lao động của doanh nghiệp theo
ngành, nghề và nhu cầu tuyển dụng lao động hằng năm cho cơ quan quản lý nhà nước
về giáo dục nghề nghiệp.
15


Thứ tư: tăng cường và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tư vấn để tạo sự chuyển
biến sâu sắc trong nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục nghề nghiệp đối với toàn
xã hội; Xây dựng các sản phẩm tuyên truyền, tư vấn, hướng nghiệp, phân luồng học
sinh trong nhà trường phổ thông; giới thiệu việc làm trong trường nghề. Tiếp tục hợp
tác với các Chính phủ: Hàn Quốc, Đức, Italia và Nhật Bản trong triển khai các dự án
ODA dạy nghề đã ký kết; Thực hiện đám phán với các nhóm nước trong ASEAN để
tiến tới cơng nhận văn bằng, chứng chỉ và kỹ năng nghề giữa các nước; Hồn thiện các

chính sách, khuyến khích các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong nước mở rộng hợp tác,
liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài; hợp tác nghiên cứu khoa học; Thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào phát triển cơ sở giáo dục nghề nghiệp, hợp
tác đào tạo, mở văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Thứ năm: phát triển thị trường lao động trong giai đoạn đến năm 2020 trong
điều kiện kết hợp giữa chiến lược phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, hướng
về xuất khẩu, phát huy được các lợi thế so sánh và tiềm năng của lực lượng lao động
với chiến lược tập trung vào nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển các ngành công
nghiệp, dịch vụ yêu cầu công nghệ và kỹ năng cao đáp ứng nhu cầu hội nhập. Thúc đẩy
thực hiện cơ chế thương lượng, thỏa thuận về tiền lương nhằm đảm bảo tiền lương thực
tế được trả đúng theo cơ chế thị trường, đồng thời phù hợp với sự đóng góp của người
lao động vào q trình tăng trưởng.
Thứ sáu: thúc đẩy quá trình tự do lựa chọn việc làm và dịch chuyển lao động
(dịch chuyển dọc theo các cấp trình độ, dịch chuyển ngang giữa các thành phần sở hữu,
khu vực, vùng và quốc tế) đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng
nghiệp hố và hội nhập kinh tế quốc tế. Xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng của thị trường
lao động (hướng nghiệp, dịch vụ việc làm, thông tin và dự báo thị trường lao động) và
tổ chức cung cấp các dịch vụ cơng về việc làm có hiệu quả.
Thứ bảy: hỗ trợ các nhóm yếu thế trong thị trường lao động, tăng cường an
sinh xã hội và sự tham gia của người lao động vào chế độ bảo hiểm xã hội; tăng cường
khả năng phòng ngừa và khắc phục rủi ro về việc làm và thu nhập của người lao động.
Đồng thời, xây dựng quan hệ lao động lành mạnh và nâng cao năng lực của các chủ thể

16


trên thị trường lao động, đặc biệt là năng lực quản lý, tổ chức, điều tiết và hỗ trợ thị
trường lao động phát triển của Nhà nước.

17




×