Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Thẩm quyền của trọng tài theo luật trọng tài thương mại 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (972.54 KB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

TRẦN THỊ LAN LINH

THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI THEO LUẬT TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI 2010
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
--------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI THEO LUẬT TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI 2010

SINH VIÊN THỰC HIỆN: TRẦN THỊ LAN LINH
Khóa: 40
MSSV: 1553801012118
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. TỪ THANH THẢO

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,


được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của ThS. Từ Thanh Thảo, đảm bảo tính
trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi
xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả

Trần Thị Lan Linh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật Dân sự năm 2015

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

Công ước New York

Công ước New York năm 1958 về công nhận
và cho thi hành Phán quyết trọng tài nước
ngoài

Luật Mẫu

Luật Mẫu năm 1985 của Ủy ban Pháp luật
Thương mại Quốc tế của Liên hợp quốc về
trọng tài thương mại quốc tế


Luật TM

Luật Thương mại năm 2005

Luật TTTM

Luật Trọng tài thương mại năm 2010

Pháp lệnh TTTM

Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003

UNCITRAL

Ủy ban Pháp luật Thương mại Quốc tế của
Liên hợp quốc

VIAC

Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam

WTO

Tổ chức Thương mại Thế giới


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................................1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI .........6
1.1. Khái quát về thẩm quyền của Trọng tài .......................................................6

1.1.2. Khái niệm thẩm quyền của Trọng tài .......................................................6
1.1.3. Phân biệt thẩm quyền của Trọng tài và thẩm quyền của Tòa án ...........9
1.2. Vai trò của việc xác định thẩm quyền của Trọng tài .................................11
1.2.1. Việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp là tiền đề để Trọng tài
thực hiện việc thụ lý, giải quyết các vụ tranh chấp ..........................................11
1.2.2. Tránh nhầm lẫn về thẩm quyền của Trọng tài và Tòa án .....................12
1.2.3. Đảm bảo hiệu lực pháp lý của Phán quyết trọng tài..............................13
1.2.4. Đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp trong quá trình hội nhập kinh
tế ...........................................................................................................................14
1.3. Lịch sử phát triển của pháp luật trọng tài Việt Nam về thẩm quyền của
Trọng tài .................................................................................................................15
1.3.1. Giai đoạn trước khi Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 được ban
hành .....................................................................................................................15
1.3.2. Giai đoạn trước khi Luật Trọng tài thương mại năm 2010 được ban
hành .....................................................................................................................16
1.3.3. Giai đoạn sau khi Luật Trọng tài thương mại năm 2010 được ban
hành .....................................................................................................................17
1.4. Phạm vi thẩm quyền của Trọng tài theo pháp luật một số nƣớc trên thế
giới...........................................................................................................................18
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .........................................................................................23
CHƢƠNG 2. THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI THEO PHÁP LUẬT HIỆN
HÀNH, THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ..................24
2.1. Phạm vi thẩm quyền của Trọng tài theo Luật Trọng tài thƣơng mại năm
2010 .........................................................................................................................24
2.1.1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại..............24
2.1.2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có hoạt
động thương mại.................................................................................................27
2.1.3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết
bằng Trọng tài.....................................................................................................34



2.2. Khảo sát thực tiễn về thẩm quyền của Trọng tài ở Việt Nam ..................39
2.2.1. Khảo sát thực tiễn về phạm vi thẩm quyền của Trọng tài .....................39
2.2.2. Thực tiễn thẩm quyền của Trọng tài đối với một số tranh chấp đặc thù
..............................................................................................................................42
2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thẩm quyền của
Trọng tài .................................................................................................................47
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .........................................................................................50
KẾT LUẬN CHUNG ...............................................................................................51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp lâu đời và hiện đang được sử
dụng thông dụng trên thế giới, nhất là tại các nước có nền kinh tế thị trường phát
triển. Hiện nay, Việt Nam đã và đang hội nhập kinh tế quốc tế, thương nhân nước ta
vừa có nhiều sự hợp tác vừa phải đối mặt các vấn đề kinh tế phức tạp, rủi ro, tất yếu
sẽ nảy sinh nhiều và đa dạng tranh chấp. Vì vậy, khi phương thức giải quyết tranh
chấp truyền thống thơng qua Tịa án bị quá tải, việc tìm kiếm phương thức giải
quyết tranh chấp thay thế để đáp ứng nhu cầu thực tiễn là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng.
Nhận thức được điều này, Việt Nam đã ngày càng quan tâm hơn đến giải
quyết tranh chấp bằng Trọng tài với việc ban hành Pháp lệnh Trọng tài Thương mại
năm 2003 (Pháp lệnh TTTM), tiếp đến là Luật Trọng tài thương mại năm 2010
(Luật TTTM). Trong đó, đáng chú ý là phạm vi thẩm quyền của Trọng tài đã ngày
càng mở rộng, phù hợp với chính sách khuyến khích giải quyết tranh chấp bằng
Trọng tài của nước ta. Mục tiêu quan trọng nhất của Luật TTTM là tạo một cơ chế
giải quyết tranh chấp ngoài Toà án thuận lợi cho các bên, đặc biệt là các bên tham
gia các hoạt động thương mại. Tuy nhiên, theo thống kê, số lượng vụ tranh chấp

chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của Trọng tài. Vậy, tại sao có tình trạng
này? Phải chăng các quy định của pháp luật Việt Nam cịn có những bất cập? So với
pháp luật của các nước trên thế giới, pháp luật Việt Nam có những điểm gì chưa
phù hợp? Để có câu trả lời cần có sự nghiên cứu đầy đủ và cụ thể về vấn đề liên
quan.
Nhận thấy, phạm vi thẩm quyền là vấn đề có vị trí đặc biệt quan trọng và có
mối quan hệ mật thiết với các vấn đề khác trong Luật TTTM. Trong thực tiễn, quy
định này đã bộc lộ những bất cập, trở thành nguyên nhân dẫn đến việc xác định loại
tranh chấp nào Trọng tài có thẩm quyền giải quyết trở nên khó khăn và sự gia tăng
của yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài. Điều này đã cản trở sự hoạt động hiệu quả
của Trọng tài. Tuy nhiên, đến nay, qua chín năm thực thi Luật TTTM nhưng vẫn
chưa có văn bản hướng dẫn nào về việc xác định thẩm quyền của Trọng tài. Dẫn
đến, việc xác định thẩm quyền của Trọng tài thiếu nhất quán trên thực tiễn. Trong
khoa học pháp lý thì có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan nhưng chưa tập
trung, chuyên sâu vào vấn đề này.
Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Thẩm quyền của Trọng tài theo Luật
Trọng tài thương mại 2010” để nghiên cứu sâu hơn, góp phần tạo cơ sở khoa học
cho các nhà làm luật dưới góc độ khóa luận tốt nghiệp.
1


2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Trong quá trình trước và sau khi ban hành Luật TTTM, có nhiều cơng trình
nghiên cứu, tài liệu khoa học đã ra đời nhằm góp ý xây dựng hoặc cung cấp thơng
tin, bình luận các vấn đề về Trọng tài. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy các cơng trình
hầu hết chỉ đề cập, chứ chưa nghiên cứu chuyên sâu vấn đề thẩm quyền của Trọng
tài. Có thể kể đến các cơng trình có liên quan sau:
(i) Trước khi Luật Trọng tài thương mại năm 2010 có hiệu lực
- Nguyễn Thị Hoài Phương (2010), Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh

doanh thương mại bằng tài phán ở Việt Nam, NXB. Chính trị quốc gia. Cơng trình
này có phần phân tích và bình luận, chỉ ra bất cập trong quy định thẩm quyền của
Trọng tài theo Pháp lệnh TTTM.
- Trương Hưng (2004), Trọng tài thương mại Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp,
Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh. Khóa luận này có phần phân tích về thẩm quyền
của Trọng tài gồm các vấn đề: loại tranh chấp Trọng tài có khả năng giải quyết; mâu
thuẫn giữa pháp lệnh và các quy định pháp luật liên quan; so sánh khái niệm tranh
chấp thương mại trong Pháp lệnh TTTM với các hiệp định thương mại. Tuy nhiên,
đề xuất chưa tập trung vào quy định của Pháp lệnh TTTM.
- Lý Đăng Thư (2004), Pháp luật trọng tài thương mại trong giai đoạn mới,
Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh. Cơng trình này có phần đề
cập phạm vi thẩm quyền của Trọng tài, liệt kê quy định pháp luật một số nước về
tranh chấp không được giải quyết bằng Trọng tài.
- Đỗ Văn Đại (2008), “Làm thế nào để Trọng tài Việt Nam là chỗ dựa của
doanh nghiệp”, Nghiên cứu Lập pháp, số 02 (117)/2008. Bài viết này không có
nghiên cứu liên quan đến thẩm quyền của Trọng tài. Nhưng phần dẫn nhập đã cung
cấp thông tin về lịch sử của Trọng tài và thực trạng của Pháp lệnh TTTM, tác giả có
thể vận dụng làm cơ sở lý luận.
- Nguyễn Tiến Vinh (2009), “Xác định thẩm quyền của Trọng tài và vai trò
của Tòa án trong việc xác định thẩm quyền của Trọng tài”, Nhà nước Pháp luật, số
6 (254)/2009. Bài viết này có phần nghiên cứu thẩm quyền của Trọng tài ở Việt
Nam trên cơ sở so sánh với Luật Mẫu của Ủy ban Pháp luật Thương mại Quốc tế
của Liên hợp quốc năm 1985 về trọng tài thương mại quốc tế (Luật Mẫu), Luật
trọng tài một số nước.
(ii) Sau khi Luật Trọng tài thương mại năm 2010 có hiệu lực
- Đỗ Văn Đại, Trần Hồng Hải (2011), Pháp luật Việt Nam về trọng tài
thương mại, NXB. Chính trị Quốc gia. Liên quan đến tranh chấp thuộc thẩm quyền
2



của Trọng tài, cơng trình giải thích pháp luật theo từng loại tranh chấp quy định tại
Điều 2 Luật TTTM kèm theo nhận xét mang tính định hướng.
- Tưởng Duy Lượng (2016), Bình luận Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Trọng tài
thương mại và Thực tiễn xét xử, NXB. Tư pháp. Tại phần “Những nội dung cơ bản
trong việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại Việt
Nam” của cơng trình chứa đựng những phân tích, gợi ý quý báu để tác giả nghiên
cứu chuyên sâu đề tài này.
- Đỗ Văn Đại (2017), Pháp luật Trọng tài thương mại Việt Nam - Bản án và
bình luận bản án, NXB. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam. Cơng trình có chun
đề làm rõ một số loại tranh chấp cịn gây tranh cãi có thể giải quyết bằng Trọng tài
từ nhiều góc độ quy định pháp luật, thực tiễn áp dụng, pháp luật nước ngoài.
- Phan Thông Anh (2017), Hủy phán quyết trọng tài, NXB. Hồng Đức Hội
Luật gia Việt Nam. Trong phần căn cứ hủy phán quyết, cơng trình có đề cập đến
quy định tại Điều 2 Luật TTTM và thực tiễn liên quan.
- Cao Anh Nguyên (2017), “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài
trong thực tiễn hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 04 (332)/2017. Bài viết
này đã chỉ ra các bất cập về phạm vi thẩm quyền của Trọng tài trong Luật TTTM.
Tuy nhiên, các lập luận, phân tích chưa được minh họa bằng những tranh chấp thực
tế.
- Cao Anh Nguyên (2017), “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài
trong lĩnh vực bất động sản”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề tháng 2.
Bài viết này chỉ tập trung nghiên cứu về phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp
của Trọng tài trong lĩnh vực bất động sản. Đáng chú ý là những phân tích gợi mở về
việc xem xét mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài đối với tranh chấp đất đai.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi
Trên thế giới, trong phạm vi khảo cứu của tác giả thì chưa có cơng trình
nghiên cứu tập trung về thẩm quyền của Trọng tài. Tuy nhiên, có nhiều cơng trình
nghiên cứu đồ sộ cung cấp những thơng tin đáng tin cậy. Có thể kể đến một số cơng
trình sau:
- Nigel Blackaby, Constantine Partasides QC & Alan Redfern, Martin Hunter

(2015), International Arbitraion (Sixth Edition), NXB. Đại học Oxford. Cơng trình
này nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn của các vấn đề trong tiến trình của một thủ tục
tố tụng trọng tài quốc tế, tập hợp những quy định, quy tắc và hướng dẫn mới của
Luật Mẫu, Luật trọng tài và Quy tắc trọng tài của nhiều nước trên thế giới.
- Gary B. Born (2009), International commercial arbitration, NXB. Wolters
Kluwer. Cơng trình này được biết đến rộng rãi với những bình luận và phân tích
3


tồn diện về tất cả các khía cạnh của Trọng tài thương mại quốc tế. Trong đó có
trích dẫn đến các quyết định của Tòa án, Phán quyết trọng tài trên thế giới. Vì vậy,
cơng trình này đã cung cấp thơng tin hữu ích về thực tiễn của Trọng tài nước ngoài
liên quan đến tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài.
- William Grantham (1996), The Arbitrability of International Intellectual
Property Disputes, NXB. Berkeley Law Scholarship Repository. Cơng trình đã tóm
tắt chi tiết về tình trạng luật trọng tài liên quan đến phạm vi giải quyết tranh chấp
của các quốc gia trên thế giới.
Nhìn chung, các cơng trình, bài viết nghiên cứu nói trên bước đầu đã đặt vấn
đề hoặc có những nhận định liên quan về thẩm quyền của Trọng tài, để lại các kinh
nghiệm quý báu cho các nghiên cứu chuyên sâu hơn. Tuy vậy, tác giả nhận thấy
chưa có cơng trình nào nghiên cứu chun sâu và trình bày tồn diện về mặt lý luận,
thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng về thẩm quyền của Trọng tài ở Việt Nam,
cũng như giải pháp cụ thể để khắc phục các bất cập tồn tại.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu để xây dựng
luận cứ khoa học về vấn đề thẩm quyền của Trọng tài. Kết quả nghiên cứu nhằm
phục vụ cho mục đích đưa ra giải pháp hồn thiện pháp luật về trọng tài về vấn đề
này. Trong đó, tác giả xác định cụ thể gồm hai mục tiêu sau:
Thứ nhất, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thẩm quyền của Trọng tài. Trong đó,
hiểu được nội hàm các khái niệm quan trọng, cung cấp cái nhìn tổng quan về lịch sử

phát triển của các quy định về thẩm quyền của Trọng tài. Đồng thời, tập hợp quy
định liên quan của một số nước trên thế giới để làm cơ sở tham khảo.
Thứ hai, phân tích, đánh giá quy định của Luật TTTM, chỉ ra sự không thống
nhất trong thực tiễn áp dụng về thẩm quyền của Trọng tài. Từ đó, tác giả đưa ra kiến
nghị hồn thiện.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Về đối tượng nghiên cứu, tác giả lấy phạm vi thẩm quyền giải quyết của Trọng
tài theo Điều 2 Luật TTTM làm trung tâm. Ngồi ra, tác giả cịn nghiên cứu sâu hơn
về một số tranh chấp đặc thù gây tranh cãi về khả năng giải quyết bằng Trọng tài.
Về phạm vi nghiên cứu, nội dung đề tài tập trung vào quy định của pháp luật
và thực tiễn áp dụng để xác định thẩm quyền của Trọng tài theo Điều 2 Luật TTTM.
Theo góc độ thời gian, tác giả sẽ nghiên cứu quy định pháp luật hiện hành, có so
sánh, liên kết với quy định đã hết hiệu lực. Theo góc độ khơng gian, tác giả sẽ tham
khảo quy định và thực tiễn của một số nước trên thế giới. Trong đó, tác giả chú ý tới
Luật Trọng tài của các nước có điều kiện hồn cảnh tương đồng với Việt Nam, ví
4


dụ trường hợp điển hình là Luật Trọng tài Trung Quốc, Hàn Quốc. Hơn nữa, tác giả
cũng tham khảo các nước có nền kinh tế và pháp luật về trọng tài phát triển như
Pháp, Đức, Bỉ, Hoa Kỳ,... để tiếp thu sự tiên tiến của các nước này.
5. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Đề tài được trình bày trên cơ sở sử dụng phần lớn phương pháp phân tích để
luận giải từng vấn đề. Gắn liền với phương pháp phân tích là phương pháp tổng
hợp, dùng để tổng hợp các vấn đề được phân tích, đưa ra các kết luận cho từng
chương. Bên cạnh đó sử dụng linh hoạt các phương pháp thống kê số liệu, so sánh,
đối chiếu để làm rõ các mục tiêu nghiên cứu. Bên cạnh đó, tác giả còn. Cụ thể như
sau:
Tại Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích để làm rõ khái niệm
thẩm quyền của Trọng tài, để chứng minh vai trò của việc xác định thẩm quyền của

Trọng tài, làm rõ phạm vi thẩm quyền của Trọng tài được quy định trong pháp luật
một số nước trên thế giới. Bên cạnh đó, phương pháp so sánh cũng được sử dụng để
phân biệt thẩm quyền của Trọng tài với thẩm quyền của Tòa án.
Tại Chương 2, tác giả sử dụng phương pháp phân tích để xác định thẩm quyền
của Trọng tài được quy định theo Điều 2 Luật TTTM, đối chiếu các quy định liên
quan. Thống kê số liệu để minh họa cho thực tiễn áp dụng. Và cuối cùng, kết hợp
phương pháp phân tích, tổng hợp để đưa ra kiến nghị.
6. Bố cục tổng qt của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
đề tài được kết cấu gồm hai chương như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận về thẩm quyền của Trọng tài.
Chương II: Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài trong pháp luật
hiện hành, thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện.

5


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI
1.1. Khái quát về thẩm quyền của Trọng tài
1.1.2. Khái niệm thẩm quyền của Trọng tài
Theo Điều 1 Luật TTTM quy định về phạm vi điều chỉnh, thuật ngữ “thẩm
quyền của Trọng tài ” được nhắc đến “Luật này quy định về thẩm quyền của Trọng
tài thương mại…” nhưng khơng giải thích khái niệm này. Tiếp theo, Điều 2 Luật
TTTM có tên điều luật là “thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài” và
nội dung điều luật quy định về các lĩnh vực tranh chấp thuộc thẩm quyền của Trọng
tài. Tại khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐPT hướng dẫn thi hành Luật
TTTM: ““Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của
Trọng tài” quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật Trọng tài thương mại là trường hợp
thỏa thuận trọng tài được xác lập để giải quyết tranh chấp không thuộc lĩnh vực
quy định tại Điều 2 Luật Trọng tài thương mại”. Như vậy, cách quy định chồng

chéo của pháp luật làm việc định nghĩa một cách chính xác “thẩm quyền của Trọng
tài” là không dễ dàng. Nhận thấy, khái niệm “thẩm quyền của Trọng tài” chứa hai
thành tố là “thẩm quyền” và “Trọng tài”. Vậy trước tiên cần làm rõ nội hàm của hai
thành tố này.
Thứ nhất, về khái niệm Trọng tài
Trọng tài với những lợi thế nổi bật đã được rất nhiều nước trên thế giới tạo
mọi điều kiện để phát triển. Và cũng vì vậy, lĩnh vực trọng tài được nghiên cứu
dưới nhiều bình diện khác nhau. Liên quan đến thẩm quyền của Trọng tài, việc hiểu
rõ khái niệm “Trọng tài” có ý nghĩa quan trọng. Theo khảo sát, hiện nay có nhiều
quan điểm khác nhau về Trọng tài.
Dưới góc độ ngơn ngữ, theo Từ điển chun ngành luật Black’s Law: “Trọng
tài là một phương thức giải quyết tranh chấp trong đó các bên đồng ý rằng một bên
thứ ba trung lập (Trọng tài viên hay Hội đồng Trọng tài) sẽ ban hành một quyết
định có căn cứ pháp lý sau khi các bên đã có cơ hội trình bày vụ tranh chấp của
mình”1.
Dưới góc độ pháp luật nước ngoài, một số quốc gia quy định trực tiếp khái
niệm Trọng tài trong văn bản quy phạm pháp luật. Ví dụ như Hàn Quốc, giải thích
thuật ngữ “Trọng tài” tại khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài Hàn Quốc như sau: “Thuật
ngữ “trọng tài” có nghĩa là một thủ tục giải quyết tranh chấp về quyền tài sản hoặc
tranh chấp khơng về quyền tài sản, có thể được giải quyết bằng sự thỏa hiệp giữa
1

Tòa án nhân dân tối cao (2017), Sổ tay pháp luật về Trọng tài và Hòa giải, NXB. Thanh Niên, tr. 20.

6


các bên, bằng một phán quyết của trọng tài theo thỏa thuận giữa các bên, chứ
không phải theo phán quyết của Tịa án”. Ngược lại, một số quốc gia khơng đưa ra
khái niệm chính thức mà có thể nêu trong hướng dẫn của một tổ chức trọng tài hàng

đầu như theo Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ (AAA): “Trọng tài là cách thức giải quyết
tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan xem xét
giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh
chấp phải thi hành”2. Hoặc theo sự giải thích của UNCITRAL: “Trọng tài là những
tranh chấp hay bất đồng được đưa ra cho một hoặc nhiều người được xem là công
tâm, không thiên lệch quyết định và quyết định này có tính ràng buộc đối với hai
bên”3. Ngoài ra, trong khoa học pháp lý trên thế giới, có cơng trình nghiên cứu nổi
tiếng về Trọng tài cho rằng:
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp rất đơn giản. Các bên trong
tranh chấp thỏa thuận đưa tranh chấp của họ tới một chủ thể để giải quyết mà
các bên tin tưởng sự phán xét của chủ thể đó. Mỗi bên trình bày vụ việc của
mình cho người ra quyết định, một chủ thể tư – còn được gọi là “trọng tài
viên”4.
Tại Việt Nam, khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh TTTM quy định: “Trọng tài là
phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các
bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục do Pháp lệnh này quy định”.
Đến Luật TTTM, Trọng tài được ghi nhận là Trọng tài thương mại. Theo đó,
“Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận
và được tiến hành theo quy định của Luật này” (khoản 1 Điều 3). Như vậy, về bản
chất, hai thuật ngữ này khơng có sự khác biệt. Trong phạm vi đề tài này, tác giả sử
dụng thuật ngữ “Trọng tài” để phù hợp thông lệ chung trên thế giới và phù hợp với
tên điều luật của Điều 2 Luật TTTM.
Nhận thấy, có khá nhiều định nghĩa về Trọng tài, song nhìn chung, Trọng tài
có bản chất pháp lý là một phương thức giải quyết tranh chấp. Và có thể hiểu dưới
hai khía cạnh sau: Một là, Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp thay thế
có tính chất tài phán tư do các đương sự thỏa thuận lựa chọn trên cơ sở tự nguyện

2

Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật Trung ương (2013), “Trọng tài thương mại và Pháp luật về

Trọng tài thương mại”, Đặc san Tuyên truyền pháp luật, số 07/2013, tr. 3.
3
Đặng Minh Phương (2014), Thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 6.
4
Nigel Blackaby, Constantine Partasides QC & Alan Redfern, Martin Hunter (2018), Trọng tài Quốc tế (Ấn
bản lần thứ sáu) (Tổ chức Tài chính Quốc tế phối hợp với Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam dịch),
NXB. Thanh Niên, tr. 4.

7


để giải quyết các tranh chấp thương mại hoặc tranh chấp khác nếu luật định5. Hai
là, Trọng tài với tư cách là bên thứ ba độc lập được các bên tranh chấp chọn ra để
giúp các bên đạt được thỏa thuận giải quyết tranh chấp một cách khách quan, nhanh
chóng và bí mật trên cơ sở đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên.
Thứ hai, về khái niệm thẩm quyền
Thẩm quyền là một thuật ngữ quan trọng, được sử dụng rất phổ biến. Trong
Đại Từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên quan niệm: “thẩm quyền là
quyền xem xét, quyết định”6. Tương tự, theo tra cứu Thuật ngữ pháp lý, thẩm quyền
là “quyền chính thức được xem xét để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn
đề”7. Tóm lại, trong tiếng Việt, thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và định
đoạt một vấn đề. Trong khoa học pháp lý, thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các
quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống
bộ máy nhà nước do pháp luật quy định8.
Ở một số nước trên thế giới, thuật ngữ này cũng được sử dụng với nghĩa tương
tự. Ví dụ, trong từ điển luật học của Pháp, thuật ngữ thẩm quyền được hiểu là khả
năng mà pháp luật trao cho cơ quan công quyền hoặc cơ quan tài phán thực hiện
công việc nhất định hoặc thẩm cứu và xét xử một vụ kiện. Còn trong từ điển luật
học của Hoa Kỳ, thẩm quyền được hiểu là một khả năng cơ bản và tối thiểu để cơ

quan công quyền xem xét và giải quyết một việc gì theo pháp luật.
Như vậy, kết hợp hai khái niệm trên thì trong khoa học pháp lý Việt Nam đưa
ra nhiều quan niệm về thẩm quyền của Trọng tài. Theo đó: “Thẩm quyền của trọng
tài được hiểu là giới hạn của những vụ việc mà Trọng tài được quyền giải quyết thể
hiện ở hai nội dung cơ bản: Phạm vi các loại việc Trọng tài được giải quyết và
thẩm quyền của các Trung tâm Trọng tài về giải quyết tranh chấp”9 hoặc “Thẩm
quyền của Trọng tài thương mại là thẩm quyền nói chung giống như thẩm quyền
của Hệ thống tịa án nói chung”10. Một nghiên cứu đã khẳng định “tất cả các hệ

5

Theo nghĩa rộng, “phương thức giải quyết tranh chấp thay thế” được hiểu là một “sự thay thế” cho thủ tục
thơng thường của Tịa án. Xem tại cập ngày 11/5/2019.
6
Phạm Hồng Thái (2009),“Chức vụ và thẩm quyền chức vụ trong cơ quan hành chính nhà nước”, Tạp chí
Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học, số 25 (2009), tr. 69.
7
truy cập ngày 11/5/2019.
8
Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB. Cơng an nhân dân, tr.
58.
9
Đào
Trí
Úc,
“Những
vấn
đề

bản

của
Luật
Trọng
tài”,
truy cập ngày 11/5/2019.
10
Đỗ Văn Đại (2017), Pháp luật Trọng tài thương mại Việt Nam - Bản án và Bình luận án, Tập 1, NXB.
Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 242.

8


thống đặt ra những giới hạn cho những gì có thể được giải quyết bằng Trọng tài”11.
Về cách thức đưa ra giới hạn, pháp luật các nước thường xác định phạm vi thẩm
quyền theo hai cách: một là liệt kê các tranh chấp có thể được giải quyết bằng
Trọng tài, hai là liệt kê các tranh chấp không thuộc thẩm quyền giải quyết của
Trọng tài.
Nhìn từ góc độ khác, tham khảo khái niệm thẩm quyền của cơ quan tài phán
khác là Tòa án, thẩm quyền dân sự của Tòa án được định nghĩa như sau: “Thẩm
quyền dân sự của tòa án là quyền xem xét giải quyết các vụ việc và quyền hạn ra
các quyết định khi xem xét giải quyết các vụ việc đó theo thủ tục tố tụng dân sự của
tòa án”12. Hay “Thẩm quyền của Tòa án có thể được hiểu là khả năng của Tịa án
thơng qua chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong việc tiếp nhận, xem xét
giải quyết một vụ việc dân sự theo yêu cầu của đương sự”13.
Từ các phân tích trên, có thể rút ra khái niệm thẩm quyền của Trọng tài là
quyền xem xét, giải quyết của Trọng tài trong phạm vi những tranh chấp mà pháp
luật quy định.
1.1.3. Phân biệt thẩm quyền của Trọng tài và thẩm quyền của Tịa án
Hiện nay chúng ta có hai cơ chế tài phán chính khi các bên có tranh chấp là cơ
chế tài phán nhà nước (cơ chế tài phán công) được điều chỉnh bởi các quy định

trong Bộ luật Tố tụng dân sự và cơ chế tài phán tư bằng Trọng tài được quy định
trong Luật TTTM14. Với mục đích thành lập, chức năng khác nhau nên thẩm quyền
của Tòa án và Trọng tài cũng khác nhau.
Theo cách chia truyền thống và quy định của pháp luật thực định thì thẩm
quyền của Tòa án chia thành ba loại: thẩm quyền theo vụ việc, thẩm quyền theo cấp
Tòa án, thẩm quyền theo lãnh thổ15.
Thứ nhất, về thẩm quyền theo vụ việc
Về các loại vụ việc, nhận thấy Tịa án có thẩm quyền rộng hơn so với Trọng
tài. Hiện nay, những tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hơn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ việc khác do pháp luật quy
định sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định tại các Điều từ 26 đến Điều 33
BLTTDS. Và Tòa án cũng có thể giải quyết những việc dân sự khơng phải là tranh
11

Xem Gary B. Born, International commercial arbitration, Volume II, NXB. Wolters Kluwer 2009, tr. 768.
(trích dẫn từ Đỗ Văn Đại, tlđd (10), tr. 30).
12
Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (8), tr. 59.
13
Trường Đại học Kinh tế - Luật (2016), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, NXB. Đại học Quốc gia Tp. Hồ
Chí Minh, tr. 65.
14
Đỗ Văn Đại, tlđd (10), tr. 15-16.
15
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB.
Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 111.

9



chấp, đó là những yêu cầu của một bên cũng được quy định tại BLTTDS. Trong khi
đó, Trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương mại hoặc tranh
chấp khác luật có quy định theo quy định tại Điều 2 Luật TTTM. Thẩm quyền của
Tòa án là thẩm quyền theo luật định không thể tranh cãi, trong khi đó Trọng tài hay
cụ thể hơn là Hội đồng trọng tài thường phải đối mặt với việc phản đối về thẩm
quyền. Liên quan đến thẩm quyền giải quyết tranh chấp mà cả Tịa án và Trọng tài
đều có thẩm quyền giải quyết, thơng thường, nếu các bên khơng có điều khoản thỏa
thuận về giải quyết tranh chấp, thì Tịa án có thẩm quyền đương nhiên, đặc biệt là
đối với các tranh chấp thương mại trong nước. Còn thẩm quyền của Trọng tài phụ
thuộc vào yêu cầu và thỏa thuận của các bên có tranh chấp16. Ngồi ra, có trường
hợp tranh chấp thuộc thẩm quyền của Trọng tài tại Điều 2 Luật TTTM, nhưng Tịa
án có thẩm quyền giải quyết vào thời điểm Tịa án thụ lý loại việc đó. Do đó, tại
Điều 2 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định Luật
TTTM đã hướng dẫn việc xác định thẩm quyền giữa Tòa án và Trọng tài. Theo tinh
thần điều luật này thì khi đã có thỏa thuận trọng tài và thuộc trường hợp quy định
tại Điều 2 của Luật TTTM thì ln ln dành quyền ưu tiên cho Trọng tài có thẩm
quyền giải quyết17.
Thứ hai, về thẩm quyền theo lãnh thổ
Đối với Tịa án, khơng phải loại vụ việc nào thuộc thẩm quyền của Tòa án
cũng được Tòa án thụ lý giải quyết. Đơn khởi kiện chỉ được Tòa án thụ lý giải quyết
khi được chuyển đến đúng Tịa án có thẩm quyền giải quyết được quy định tại Điều
35 và Điều 40 BLTTDS. Thẩm quyền theo lãnh thổ là:“sự phân định thẩm quyền sơ
thẩm vụ việc dân sự giữa các tòa án cùng cấp với nhau”18. Cơ sở của việc phân
định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ là nhằm đảm bảo giải quyết vụ việc dân
sự được tiến hành nhanh chóng; bảo đảm việc bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự; tạo thuận lợi cho các đương sự tham gia tố tụng, tránh
sự chồng chéo19.
Ngược lại, đối với Trọng tài thì khơng đặt ra vấn đề thẩm quyền theo lãnh thổ
mà địa điểm trọng tài sẽ phụ thuộc vào sự lựa chọn của các bên. Bằng chứng là quy
định tại khoản 1 Điều 11 Luật TTTM: “Các bên có quyền thoả thuận địa điểm giải


16

Dương Văn Hậu, “Bàn về sự phân biệt giữa Tòa án và Trọng tài”, truy cập ngày 14/5/2019.
17
Tưởng Duy Lượng (2016), Bình luận BLTTDS, Luật Trọng tài thương mại và thực tiễn xét xử, NXB. Tư
pháp, tr. 188.
18
Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (8), tr. 77.
19
Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (8) tr. 77.

10


quyết tranh chấp; trường hợp khơng có thoả thuận thì Hội đồng trọng tài quyết
định”.
Như vậy, các bên tranh chấp có quyền thoả thuận lựa chọn bất cứ Trung tâm
Trọng tài nào theo sự tín nhiệm của mình mà khơng phụ thuộc vào quốc tịch, nơi cư
trú hoặc nơi đặt trụ sở của các bên. Do đó, về thẩm quyền lãnh thổ thì Trọng tài linh
động hơn Tịa án.
Thứ ba, thẩm quyền theo cấp xét xử
Sở dĩ phân định thẩm quyền của Tịa án theo cấp xét xử vì ở Việt Nam hệ
thống Tòa án được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ và để đảm bảo cho việc
giải quyết tranh chấp được chính xác, đúng pháp luật theo đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước về hoạt động tư pháp20. Cịn đối với Trọng tài, khơng phân định
thẩm quyền theo cấp xét xử vì trong tố tụng trọng tài có một nguyên tắc đặc trưng là
xét xử một lần, Phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm21.
1.2. Vai trò của việc xác định thẩm quyền của Trọng tài
1.2.1. Việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp là tiền đề để Trọng tài thực

hiện việc thụ lý, giải quyết các vụ tranh chấp
Khi quyết định xem liệu một tranh chấp có thể được giải quyết bằng Trọng tài
hay khơng thì cần xác định tranh chấp đó có thuộc phạm vi thẩm quyền giải quyết
của Trọng tài hay khơng. Nói cách khác, “mặc dù hoạt động của Trọng tài là theo
sự thoả thuận của các bên nhưng nếu tranh chấp đó khơng được pháp luật quy định
thuộc thẩm quyền thì Trọng tài khơng được giải quyết”22. Trên thực tế, có những
doanh nghiệp khơng đủ khả năng phân tích về khái niệm hoạt động thương mại nên
khơng biết rằng tranh chấp khơng mang tính thương mại tức không thuộc thẩm
quyền của Trọng tài nên khởi kiện ra Trọng tài, dẫn đến bị bác đơn kiện còn phải
mất thời gian và chi phí23.
Tại khoản 1 Điều 43 Luật TTTM quy định như sau: “Trước khi xem xét nội
dung vụ tranh chấp, Hội đồng trọng tài phải xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng
tài; thỏa thuận trọng tài có thể thực hiện được hay khơng và xem xét thẩm quyền
của mình. Trong trường hợp vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì Hội
đồng trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật này. Trường
hợp khơng thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc
xác định rõ thỏa thuận trọng tài khơng thể thực hiện được thì Hội đồng trọng tài
20

Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (8), tr. 73.
Khoản 5 Điều 61 Luật TTTM: “Phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành”.
22
Đào Trí Úc, tlđd (9), truy cập ngày 11/5/2019.
23
Phan Thông Anh (2017), Hủy phán quyết trọng tài, NXB. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 76.
21

11



quyết định đình chỉ việc giải quyết và thơng báo ngay cho các bên biết”. Có nghĩa
là, việc xem xét tranh chấp có thuộc thẩm quyền của Trọng tài hay không phải xem
xét trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp. Bởi vì, để một Trung tâm trọng tài đủ
điều kiện thụ lý vụ tranh chấp thì: điều kiện cần là tranh chấp phải thuộc thẩm
quyền của Trọng tài theo quy định tại Điều 2 Luật TTTM, và điều kiện đủ là tồn tại
thỏa thuận trọng tài theo Điều 5 Luật TTTM 24.
Ngoài ra, xét về diễn biến quy trình tố tụng trọng tài trước khi Hội đồng trọng
tài được thành lập, bị đơn nếu phản đối thẩm quyền của Trọng tài vì vụ tranh chấp
khơng thuộc phạm vi thẩm quyền của Trọng tài thì phải đưa ra ý kiến trong thời hạn
quy định ở giai đoạn đầu của q trình tố tụng. Theo đó, tại khoản 4 Điều 35 Luật
TTTM quy định: “Trường hợp bị đơn cho rằng vụ tranh chấp không thuộc thẩm
quyền của Trọng tài, không có thoả thuận trọng tài, thoả thuận trọng tài vơ hiệu
hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì phải nêu rõ điều đó trong
bản tự bảo vệ”.
Một cách khác, dựa vào phạm vi thẩm quyền của Trọng tài, các bên có thể cân
nhắc ký kết thỏa thuận Trọng tài trong quá trình soạn thảo, giao kết hợp đồng và
nộp đơn khởi kiện ra Trọng tài, tránh việc khiếu kiện không đúng nơi mong muốn,
gây tốn kém và mất thời gian, lại không bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích của mình,
bởi thời hiệu khởi kiện ra Trọng tài là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm phạm25. Hơn nữa, thỏa thuận trọng tài làm cơ sở cho quá
trình tố tụng trọng tài mà nếu lĩnh vực tranh chấp khơng thuộc thẩm quyền của
Trọng tài thì thỏa thuận trọng tài vơ hiệu26.
Từ các phân tích nêu trên, có thể nói xác định thẩm quyền của Trọng tài có vai
trị là tiền đề trong việc thụ lý, giải quyết vụ tranh chấp của Trọng tài.
1.2.2. Tránh nhầm lẫn về thẩm quyền của Trọng tài và Tòa án
Trong thời gian qua, thực trạng nhầm lẫn về thẩm quyền của Tòa án và Trọng
tài đã ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động giải quyết tranh chấp. Chẳng hạn, đối
24

Điều 5 Luật TTTM quy định về điều kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài:

“1. Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có
thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.
2. Trường hợp một bên tham gia thoả thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi, thoả thuận
trọng tài vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó, trừ trường
hợp các bên có thoả thuận khác.
3. Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị phá sản, giải
thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ chức, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực
đối với tổ chức tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.”
25
Xem Điều 33 Luật TTTM.
26
Khoản 1 Điều 18 Luật TTTM: “Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của
Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này”.

12


với tranh chấp “Thỏa thuận bảo mật thông tin và chống cạnh tranh” được xét xử tại
Trọng tài đã mang lại những ý kiến trái chiều về tranh chấp này có thực sự thuộc
thẩm quyền của Trọng tài hay khơng? Và nhiều quan điểm cho rằng đây là tranh
chấp lao động phải thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Vì vậy, có quan điểm
đề xuất rằng:
Việc nghiên cứu và xác định những trường hợp tranh chấp nào sẽ thuộc thẩm
quyền giải quyết của Trọng tài, khơng chỉ có ý nghĩa đối với các Trọng tài
viên mà cịn có ý nghĩa đối với cả thẩm phán. Bởi lẽ khi thẩm phán, Trọng
tài viên đã có nhận thức đúng về thẩm quyền sẽ có phần hạn chế về sự nhầm
lẫn về thẩm quyền của Tòa án và Trọng tài trong quá trình thụ lý, giải quyết,
sẽ giúp cho hoạt động Trọng tài ngày càng tốt hơn, giải quyết được nhanh
chóng chính xác hơn vừa đem lại niềm tin cho thương nhân vừa giảm tải cho
tịa án27.

Ngồi ra, việc xác định thẩm quyền của Trọng tài một cách chính xác tránh
được sự nhầm lẫn giữa thẩm quyền của Toà án và Trọng tài giữa các bên trong vụ
tranh chấp và Luật sư của các bên.
1.2.3. Đảm bảo hiệu lực pháp lý của Phán quyết trọng tài
Để đánh giá chất lượng giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, thông thường sẽ
căn cứ vào số lượng Phán quyết trọng tài bị hủy. Do khái niệm hoạt động thương
mại chưa được pháp luật quy định thống nhất nên điều này chẳng những làm cho
các Trung tâm trọng tài không “đủ tự tin” để thụ lý các tranh chấp ở phạm vi rộng
hơn (như tranh chấp về chứng khốn; tranh chấp giữa các cổ đơng, thành viên cơng
ty, liên doanh…) mà cịn dẫn đến rủi ro các Phán quyết trọng tài có thể bị Tịa án
hủy bất cứ lúc nào28.
“Thực trạng hiện nay về tỷ lệ thi hành phán quyết trọng tài tại Việt Nam là rất
đáng lo ngại: sau khi Luật Trọng tài thương mại năm 2010 được ban hành tỷ lệ
phán quyết trọng tài bị hủy khi có đơn lên đến 22%”29. Do đó, để bảo đảm hiệu lực
pháp lý của Phán quyết trọng tài cần hạn chế việc hủy các phán quyết do nhầm lẫn
trong xác định phạm vi thẩm quyền. Bởi vì một trong những căn cứ hủy phán quyết
trọng tài là “Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài” theo
điểm c khoản 2 Điều 68 Luật TTTM. Mà không thuộc thẩm quyền của Hội đồng
27

Tưởng Duy Lượng, tlđd (17), tr. 157.
Nguyễn
Tấn
(2008),
“Trọng
tài
thương
mại:
Sẽ
mạnh

hơn”,
truy cập ngày 18/5/2019.
29
Nguyễn Mạnh Dũng và Nguyễn Thị Thu Trang (2015), Thực trạng sử dụng trọng tài thương mại tại Việt
Nam, Một số giải pháp nâng cao sức hấp dẫn của trọng tài, Dự thảo Tham luận Tổng kết thi hành Luật
Trọng tài thương mại, tr.5.
28

13


trọng tài có thể là lĩnh vực tranh chấp khơng thuộc thẩm quyền của Trọng tài. Một
lập luận chỉ ra rằng “Tranh chấp thuộc thẩm quyền của trọng tài, trong thực tế, do
HĐTT giải quyết. Vì vậy, những tranh chấp thỏa mãn quy định tại Điều 2 Luật
Trọng tài thương mại 2010 cũng là tranh chấp thuộc thẩm quyền của HĐTT”30.
1.2.4. Đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp trong q trình hội nhập kinh tế
“Điều này hồn tồn phù hợp với một trong các nội dung chủ yếu của “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” nêu tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02
tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị là “hồn thiện chính sách, pháp luật trong lĩnh
vực tố tụng tư pháp theo chủ trương khuyến khích giải quyết một số tranh chấp
thơng qua thương lượng, hòa giải và trọng tài”31. Thực tế, Việt Nam nằm trong khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương với rất nhiều nền tài phán xây dựng luật trọng tài
của mình trên Luật Mẫu, đồng thời cũng là khu vực có nhu cầu sử dụng dịch vụ
Trọng tài ngày càng tăng như là một hệ quả của việc tăng cường đầu tư và các hoạt
động thương mại32. Do đó, nếu có cơ sở pháp lý trong việc xác định thẩm quyền của
Trọng tài rộng mở sẽ thu hút tranh chấp có yếu tố nước ngồi hơn. Bởi vì, các
chun gia cho rằng sự bó hẹp phạm vi thẩm quyền giải quyết là một trong những
điểm bất cập của pháp luật hiện hành khiến cho Trọng tài bị “trói tay trói chân” và
kém thu hút với các bên tranh chấp33.
Trong bối cảnh kinh tế trong nước thay đổi nhanh chóng và mơi trường kinh

doanh rất phức tạp về mặt pháp lý, Trọng tài với những ưu thế nhất định, nếu ổn
định về việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài sẽ tạo niềm
tin cho doanh nghiệp lựa chọn hơn. Bởi thực tế, “Theo khảo sát của Bộ Tư pháp,
phương thức giải quyết tranh chấp mà họ ưu tiên là thương lượng (57,8%), Toà án
(46,8%), hoà giải (22,8%) và cuối cùng là trọng tài (16,9%). Thậm chí, 84% số
doanh nghiệp được hỏi chưa bao giờ giải quyết tranh chấp bằng trọng tài”34. Từ
đó, làm tăng số lượng tranh chấp được giải quyết ở Trung tâm trọng tài, nhờ đó
giảm tải được hoạt động giải quyết tranh chấp ở hệ thống Tồ án; qua đó làm nâng
cao chất lượng hoạt động giải quyết tranh chấp. Việc tăng số lượng giải quyết tranh
chấp thơng qua Trung tâm trọng tài có thể mang lại những tác động tích cực cho
doanh nghiệp, trong đó giúp “giảm thiệt hại chi phí cơ hội kinh doanh cho doanh

30

Phan Thông Anh, tlđd (23), tr. 72.
Nguyễn Mạnh Dũng và Nguyễn Thị Thu Trang, tlđd (29), tr.4
32
Nguyễn Mạnh Dũng và Nguyễn Thị Thu Trang, tlđd (29), tr. 6.
33
Nguyễn Tấn, tlđd (28), truy cập ngày 18/5/2019.
34
“Trọng
tài
thương
mại:
quá
trình
hội
nhập


phát
triển”,
truy cập ngày 18/5/2019.
31

14



×