Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.42 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ HỒNG HẠNH

TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN
DO NGƢỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN
DO NGƢỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CĨ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng ứng dụng
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: Pgs.Ts. Nguyễn Thị Phƣơng Hoa
Học viên: Lê Thị Hồng Hạnh
Lớp: Cao học luật Phú n - Khóa 1

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021




LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan: Luận văn “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có theo luật hình sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Pgs.Ts. Nguyễn Thị Phương Hoa,
đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu
tham khảo. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Tơi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên

Lê Thị Hồng Hạnh


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

:Bộ luật Dân sự

BLHS

:Bộ luật Hình sự

BLTTHS

:Bộ luật Tố tụng hình sự

Bộ CA


:Bộ Cơng an

Bộ TP

:Bộ Tư pháp

CA

:Cơng an

KSND

:Kiểm sát nhân dân



:Nghị định

NĐ-CP

:Nghị định Chính phủ

NXB

:Nhà xuất bản

TAND

:Tòa án nhân dân


TANDTC

:Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

:Trách nhiệm hình sự

TTHS

:Tố tụng hình sự

TTLT

:Thơng tư liên tịch

VKSND

:Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

:Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ...........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. ĐỐI TƢỢNG TÁC ĐỘNG CỦA TỘI CHỨA CHẤP HOẶC
TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƢỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ .........................7
1.1. Lý luận và quy định của pháp luật về đối tƣợng tác động của Tội chứa

chấp hoặc tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có ................................. 7
1.2. Thực tiễn xác định đối tƣợng tác động của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ
tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có và kiến nghị ......................................... 10
1.2.1. Thực tiễn xác định đối tượng tác động của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ
tài sản do người khác phạm tội mà có ............................................................... 10
1.2.2. Kiến nghị hoàn thiện dấu hiệu đối tượng tác động của Tội chứa chấp
hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ......................................... 18
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................23
CHƢƠNG 2. DẤU HIỆU LỖI CỦA TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ
TÀI SẢN DO NGƢỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ ...........................................24
2.1. Lý luận và quy định của pháp luật về dấu hiệu lỗi của Tội chứa chấp
hoặc tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có ........................................ 24
2.2. Thực tiễn xác định dấu hiệu lỗi của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do ngƣời khác phạm tội mà có và kiến nghị ...................................................... 26
2.2.1. Thực tiễn xác định dấu hiệu lỗi của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có ........................................................................... 26
2.2.2. Kiến nghị hoàn thiện dấu hiệu lỗi của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có ........................................................................... 33
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................40
KẾT LUẬN ..............................................................................................................41
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn nền kinh tế của đất nước đang phát triển theo cơ chế thị
trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, tình trạng người dân chạy theo lợi nhuận
thực hiện các hoạt động kinh doanh, mua bán các loại tài sản dù biết là do người

khác phạm tội mà có là tình trạng đáng cảnh báo. Việc cá nhân dù biết tài sản mình
đang chứa chấp hoặc tiêu thụ do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn cố tình thực
hiện nhằm kiếm lời làm cho việc xử lý các loại tội phạm xâm hại sở hữu như trộm
cắp tài sản, cướp tài sản, cướp giật tài sản... càng thêm khó khăn. Hơn thế nữa, hành
vi này còn gián tiếp khuyến khích các hành vi phạm tội, phạm tội nhiều lần của
người khác, gây ra ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội, làm tình hình tội phạm thêm
phức tạp và khó khăn cho cơng tác phịng ngừa, xử lý tội phạm.
Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm, trước đây đã có một số
văn bản hướng dẫn về Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà
có nhằm áp dụng thống nhất pháp luật1 trong BLHS 1999. Tuy nhiên, đến nay chưa có
văn bản hướng dẫn cụ thể về tội phạm này trong BLHS 2015. Thông tư liên tịch số
09/20211/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30/11/2011
của Bộ Cơng an – Bộ Quốc phịng – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao đã hết hiệu lực thi hành theo khoản 4 Điều
154 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm
2020), tuy nhiên trong thực tế Thông tư này vẫn có giá trị tham khảo.
Khi nghiên cứu về Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có xảy ra trong những năm gần đây, nhiều vấn đề về mặt lý luận cũng như
vướng mắc thực tiễn áp dụng cần tìm hiểu kỹ thêm. Đối với các dấu hiệu định tội
trong cấu thành tội phạm vẫn cịn tồn tại một số trường hợp có vướng mắc trong
thực tiễn áp dụng, chẳng hạn như: Dấu hiệu thuộc mặt chủ quan đòi hỏi người phạm
tội “biết rõ” tài sản do người khác phạm tội mà có; theo đó, nội dung quy định của
Điều 323 BLHS, người phạm tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội
mà có phải biết rõ tài sản mà họ tiêu thụ là tài sản do người khác phạm tội mà có.
Tuy nhiên, điều luật lại khơng nêu rõ họ phải biết rõ đến mức độ nào; Mặc dù trước
đây đã có văn bản hướng dẫn, nhưng để làm rõ thuật ngữ “biết rõ” cũng không dễ
Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC, Công văn số
64/TANDTC-PC ngày 03 tháng 4 năm 2019 của TANDTC
1



2
dàng. Trong thực tế đã xảy ra trường hợp, người phạm tội khơng bao giờ thừa nhận
tội của mình ngay khi bị phát hiện chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có, nên họ thường khai khơng biết đó là tài sản do người khác phạm tội mà
có. Để xác định họ có biết rõ hay khơng phải dựa vào các tình tiết khách quan mà
đặc biệt là nhân thân và mối quan hệ giữa họ với người có tài sản do phạm tội mà
có; việc giao dịch giữa người chứa chấp, tiêu thụ với người có tài sản. Hay về xác
định đối tượng tác động của tội phạm: “Tài sản do người khác phạm tội mà có” là
tài sản do người phạm tội có được trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội (ví
dụ: tài sản chiếm đoạt được, tham ơ, nhận hối lộ...) hoặc do người phạm tội có được
từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ việc họ thực hiện hành vi
phạm tội (ví dụ: xe máy có được từ việc dùng tiền tham ơ để mua)2. Vấn đề này
hiện nay cũng còn nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau. Một vấn đề nữa là định
lượng giá trị tài sản chứa chấp, tiêu thụ và mối quan hệ giữa Tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và tội phạm nguồn: Hành vi phạm tội
tội phạm nguồn mặc dù chưa đủ định lượng nhưng vẫn cấu thành tội phạm do người
phạm tội có dấu hiệu xấu về nhân thân (đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án
nhưng chưa được xóa án tích) thì người chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản đó có phạm
tội hay khơng vẫn cịn nhiều quan điểm khác nhau.
Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có theo luật hình sự Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về đề tài, tác giả nhận thấy Tội chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là tội phạm có rất tinh vi
và diễn biến tội phạm phức tạp. Loại tội phạm này đã được một số nhà luật học
nghiên cứu, đề cập trong một số giáo trình, sách, báo, bài viết gần đây gồm có:
- Giáo trình, sách chun khảo: Trường Đại học Luật Tp.HCM (2021), Giáo
trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần Các Tội phạm – Quyển 2) (Tái bản lần thứ nhất,
có sửa đổi, bổ sung), Nxb Hồng Đức; Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập II của

Trường Đại học Luật Hà Nội Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Giáo trình luật hình
sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội
phạm)- tập 9 của ThS Đinh Văn Quế, Nxb Tp Hồ Chí Minh; Bình luận khoa học Bộ
2

Thơng tư liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC


3
luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm) của TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn
Luyện, LS. ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sĩ Đại,
ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001... Các cơng trình nói
trên các tác giả đã đề cập nội dung về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có, nhưng mới chỉ dừng lại ở việc bình luận và đưa ra các khái
niệm, dấu hiệu một cách đơn giản, khái quát làm khn mẫu nghiên cứu mà chưa có
cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn diện và có hệ thống về Tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có dưới góc độ pháp lý hình sự.
- Các bài viết khoa học: “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có trong Luật Hình sự Việt Nam”- Tạp chí Luật học số 05.2004 của
Thạc sỹ Phạm Văn Báu; “Một số vấn đề về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có” - Tạp chí Tịa án nhân dân số 7 tháng 9 năm 2007 của
tác giả Trần Quang Tiệp; “Yếu tố định lượng đối với Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có”- Trang thơng tin Tịa án nhân dân tối cao 2013
của tác giả Hồ Vĩnh Phú, “Bàn về Điều 250 Bộ luật Hình sự”- Tạp chí Tịa án nhân
dân số 11 tháng 6/2004 của tác giả Lê Văn Luật... cũng đã đề cập về tội phạm này
dưới góc độ Luật Hình sự và tội phạm học. Các bài viết mới chỉ đưa ra một cách
khái quát về Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, một
số vấn đề cần lưu ý nhưng chưa đi vào phân tích chuyên sâu các vấn đề về tội phạm
cũng như thực tiễn xét xử của tội phạm.

- Luận văn, luận án: Đề tài: “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có trong Luật Hình sự Việt Nam”- Luận văn Thạc sỹ năm 2007
của tác giả Trần Thị Thu Nam; Đề tài: “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có theo Luật Hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa
bàn thành phố Hà Nội)”- Luận văn Thạc sỹ năm 2016 của tác giả Nguyễn Minh
Thu… Các đề tài trên đều đã đề cập đến Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có dưới góc độ luật Hình sự và Tội phạm học. Tuy nhiên,
các đề tài nghiên cứu đã cách đây khá xa, vì vậy, tình hình tội phạm và các dấu
hiệu, điều kiện phạm tội hiện nay đã có nhiều biến đổi. Ngồi ra, đề tài cũng chưa đi
sâu làm rõ vấn đề các hình thức trách nhiệm hình sự của tội phạm. Vấn đề về tội
phạm nguồn chưa được đưa ra. Hơn nữa, các đề tài mới chỉ phân tích chung hoặc
trên một địa bàn huyện của tỉnh. Mà thực tế, địa bàn thành phố Hà Nội lại là một
điểm nóng của tội phạm lại chưa được đi sâu nghiên cứu.


4
Đánh giá về tình hình nghiên cứu
Trước đây đã có những cơng trình nghiên cứu, đánh giá nội dung về Tội chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có về mặt lý luận, thực tiễn
cũng như đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của BLHS năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009). Tuy nhiên, ở cấp độ luận văn thạc sĩ (định hướng ứng
dụng) các đề tài đã thực hiện chưa đánh giá đầy đủ, toàn diện, nhiều vấn đề chưa
được giải quyết, cần tiếp tục nghiên cứu như dấu hiệu định tội của tội phạm này
theo quy định của BLHS năm 2015 và cần đánh giá những vướng mắc từ thực tiễn
áp dụng tội phạm này để đưa ra những kiến nghị hồn thiện.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm rõ những hạn chế, vướng mắc trong các quy
định của pháp luật về Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội
mà có dưới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng các quy định này trong thực tiễn

xét xử, tác giả đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định và nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định về Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có trong luật hình sự Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích các quy định của luật hình sự Việt Nam về Tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, tập trung vào dấu hiệu đối tượng tác
động và dấu hiệu lỗi của tội phạm này;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn xác định đối tượng tác động và lỗi trong Tội
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ở Việt Nam;
- Kiến nghị hồn thiện pháp luật, ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất
quy định của luật hình sự dấu hiệu về đối tượng tác động và dấu hiệu lỗi trong Tội
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu dấu hiệu đối tượng tác động và dấu hiệu lỗi trong
Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của
BLHS 2015 và thực tiễn áp dụng các quy định này.


5
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định của Bộ
luật Hình sự năm 2015 về dấu hiệu đối tượng tác động và dấu hiệu lỗi trong Tội
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định của
Bộ luật Hình sự năm 2015 trong phạm vi cả nước.
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu các vụ án có liên quan thực tiễn áp dụng quy
định về dấu hiệu đối tượng tác động và dấu hiệu lỗi trong Tội chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có từ ngày 01/01/2018 đến nay (áp dụng các
quy định của BLHS năm 2015). Tuy nhiên, BLHS năm 2015 mới có hiệu lực áp

dụng, thực tiễn áp dụng chưa nhiều nên luận văn nghiên cứu thêm các vụ án từ năm
2012 đến năm 2017.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin và các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình
sự cụ thể như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp nghiên
cứu án điển hình, phương pháp so sánh.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được sử dụng để tiến hành nghiên cứu
các quy định của BLHS về dấu hiệu đối tượng tác động và dấu hiệu lỗi trong Tội
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Phân tích, tổng hợp
những bất cập trong quy định của BLHS cũng như những vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng các quy định của BLHS về dấu hiệu đối tượng tác động và dấu hiệu lỗi
trong Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
- Phương pháp nghiên cứu án điển hình: Được sử dụng để nghiên cứu các vụ
án cụ thể trong thực tiễn nhằm tìm ra vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật
để từ đó kiến nghị hồn thiện hoặc hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.
- Phương pháp so sánh: Được sử dụng để tìm hiểu điểm tương đồng và khác
biệt giữa các quy định của BLHS trong các giai đoạn lịch sử khác nhau.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn: Trên cơ sở thực tiễn, tổng kết đánh giá
những kết quả, tài liệu thu được từ thực tiễn, đặc biệt là qua hệ thống các báo cáo
tình hình cơng tác năm của các cơ quan tiến hành tố tụng để tìm ra những khó khăn,
vướng mắc.


6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Phân tích, đánh giá những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xác định dấu
hiệu đối tượng tác động và dấu hiệu lỗi trong Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có theo luật hình sự Việt Nam.
Tìm ra những nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc để đưa ra những kiến

nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và thống nhất áp dụng pháp luật hình sự
về dấu hiệu đối tượng tác động và dấu hiệu lỗi trong Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 2 chương:
Chƣơng 1: Đối tượng tác động của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có.
Chƣơng 2: Dấu hiệu lỗi của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có.


7
CHƢƠNG 1
ĐỐI TƢỢNG TÁC ĐỘNG CỦA TỘI CHỨA CHẤP
HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƢỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
1.1. Lý luận và quy định của pháp luật về đối tƣợng tác động của Tội
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có
Về cấu trúc, tội phạm được hợp thành bởi những yếu tố nhất định quan hệ
mật thiết và tồn tại không tách rời nhau tạo ra một thể thống nhất. Mỗi yếu tố của
tội phạm đều có mặt quan trọng của nó và có ý nghĩa nhất định trong việc xác định
tội phạm. Vì vậy, thiếu một trong những yếu tố đó, một hành vi không thể bị coi là
tội phạm. Tuy vậy, các yếu tố của tội phạm không tồn tại một cách độc lập mà luôn
liên hệ mật thiết với nhau tạo cho tội phạm thành một thể thống nhất giữa các yếu tố
khách quan và chủ quan, giữa những biểu hiện bên ngoài và bên trong của tội phạm.
Mỗi yếu tố của tội phạm với những dấu hiệu của nó phản ánh ở mức độ nhất định
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Mặc dù vậy, các yếu tố này
có thể nghiên cứu độc lập dưới góc độ tư duy. Dù các tội phạm có những biểu hiện
hết sức đa dạng và phong phú với những nét rất riêng biệt thì chúng đều có chung
một cấu trúc bao gồm bốn yếu tố hợp thành: khách thể của tội phạm, chủ thể của tội

phạm, mặt khách quan của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm.
Trong lĩnh vực luật hình sự, đối tượng mà hoạt động của Nhà nước và người
phạm tội hướng tới tác động vào một cách có ý thức để đạt được mục đích của mình là
các quan hệ xã hội quan trọng, có khả năng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của
xã hội. Tội phạm là hành vi của con người nhưng hành vi ấy phải là hành vi nguy hiểm
cho xã hội. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại cho những quan hệ được luật hình sự bảo vệ. Các quan hệ xã hội trên được Nhà
nước bảo vệ bằng Luật Hình sự và bị tội phạm hướng tới xâm hại sẽ trở thành khách
thể của tội phạm. Hành vi phạm tội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách
thể của tội phạm thông qua việc tác động vào đối tượng tác động của tội phạm, làm
biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động.
Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể của tội phạm, bị
hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan
hệ xã hội là khách thể bảo vệ của Luật Hình sự3.
Trường Đại học Luật Tp.HCM (2019), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Phần chung (Tái bản lần thứ
nhất, có sửa đổi, bổ sung), Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.116.
3


8
Hành vi phạm tội, để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ
xã hội được Luật Hình sự bảo vệ, phải tác động lên các bộ phận hợp thành của quan
hệ xã hội đó (phải tác động lên đối tượng tác động của tội phạm). Sự tác động này
làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm và qua đó
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm (ví dụ: hành vi
giết người có đối tượng tác động là con người; hành vi trộm cắp tài sản có đối tượng
tác động là tài sản bị trộm cắp; hành vi đưa hối lộ có đối tượng tác động là hoạt
động của người nhận hối lộ…).
Mọi hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác
động đều gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm. Nhưng

không phải mọi hành vi phạm tội đều gây thiệt hại cho đối tượng tác động của tội
phạm. Trong nhiều trường hợp, hành vi phạm tội gây thiệt hại cho khách thể nhưng
khơng làm xấu đi tình trạng của đối tượng tác động so với trước khi bị tác động. Ví
dụ: A lấy trộm xe máy của B. Hành vi này gây thiệt hại cho quyền sở hữu của B;
làm biến đổi trình trạng bình thường của chiếc xe (đang trong sự chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt hợp pháp của B thì nay nằm trong sự quản lý của A); nhưng A
mang xe về, cất đi và không làm cho xe bị hư hỏng, không gây thiệt hại cho đối
tượng tác động.
Đối với Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có,
đối tượng tác động của tội phạm này là tài sản do (người khác) phạm tội mà có. Đó
có thể là bất kỳ tội phạm nào được quy định trong Bộ luật Hình sự mà kết quả trực
tiếp của nó là chủ thể có được tài sản một cách bất hợp pháp.
Theo quy định tại Điều 323 của Bộ luật Hình sự về Tội chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì: “1. Người nào không hứa hẹn trước
mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt
tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03
năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Quy định này về cơ bản kế thừa quy
định của BLHS 1999; qua tham khảo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 09/2011
hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về Tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì: “1. “Tài sản do người khác phạm
tội mà có” là tài sản do người phạm tội có được trực tiếp từ việc thực hiện hành vi
phạm tội (ví dụ: tài sản chiếm đoạt được, tham ô, nhận hối lộ...) hoặc do người
phạm tội có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ việc


9
họ thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: xe máy có được từ việc dùng tiền tham ơ để
mua); 2. “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có” là có cần cứ chứng minh
biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có
được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện

hành vi phạm tội”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ
có giá và quyền tài sản”. Tại Khoản 3 Điều 1 Thông tư liên tịch số 09/2011 hướng
dẫn về “tài sản” bao gồm: “vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản; bất động
sản, động sản, hoa lợi, lợi tức, vật chính, vật phụ, vật chia được, vật không chia
được, vật tiêu hao, vật không tiêu hao, vật cùng loại, vật đặc định, vật đồng bộ và
quyền tài sản”. Như vậy, những “tài sản” được pháp luật ghi nhận, thuật ngữ “tài
sản’ trong Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có sự
tương ứng với quy định về “tài sản” trong Bộ luật Dân sự 2015.
Đối với vật là đối tượng tác động của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có phải là vật có thực, vật đang tồn tại, có giá trị và nằm
trong sự chiếm hữu của con người, “đối tượng của tội tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có chỉ có thể là tài sản (các đối tượng vật chất, hàng hóa, tiền)
do phạm tội mà có trừ các đối tượng vật chất là hàng cấm do phạm tội mà có” 4.
Như vậy, vật là đối tượng tác động của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có là vật khơng có tính năng, cơng dụng đặc biệt. Trường
hợp tài sản do phạm tội mà có là ma túy, tiền chất ma túy, pháo nổ, thuốc pháo, vũ
khí, cơng cụ hỗ trợ, phương tiện kỹ thuật quân sự, vật liệu nổ, chất phóng xạ, chất
cháy, chất độc, hàng cấm, hàng giả,… nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm tương
ứng thì người thực hiện hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản đó sẽ bị xử lý về tội
phạm tương ứng mà không xử lý về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có.5
Tiền và giấy tờ có giá cũng là những đối tượng tài sản của tội phạm chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Tuy nhiên, đối với giấy tờ
có giá cần lưu ý bởi nó tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Giấy tờ có giá được
chia làm hai loại gồm: Giấy tờ có giá ghi danh và Giấy tờ có giá vơ danh. Với đối
Phạm Văn Báu (2004), “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, Tạp chí luật
học, (5), tháng 5, tr.6.
5
Trường Đại học Luật Tp.HCM (2021), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần Các Tội phạm – Quyển 2)

(Tái bản lần thứ nhất, có sửa đổi, bổ sung), Nxb Hồng Đức, tr.190.
4


10
tượng là tài sản trong Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội
mà có thì giấy tờ có giá ghi danh sẽ khơng thỏa mãn được là đối tượng tác động của
tội phạm bởi loại giấy tờ này chỉ chủ sở hữu đứng tên mới có khả năng thực hiện
các giao dịch dân sự liên quan đến nó. Giấy tờ có giá vơ danh "là giấy tờ có giá phát
hành theo hình thức chứng chỉ khơng ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh
thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá"6. Với giấy tờ có giá vơ danh,
người phạm tội có thể tự thực hiện các giao dịch dân sự. Do đó, giấy tờ có giá vơ
danh sẽ là đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có7.
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với
đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác8.
Quyền tài sản là loại tài sản quyền gắn liền với chủ sở hữu, do đó, tuỳ thuộc vào
quyền tài sản nhất định mới là đối tượng tác động của tội phạm chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có vì có những quyền tài sản chỉ chủ sở hữu
mới có thể thực hiện quyền này trong giao dịch dân sự.
1.2. Thực tiễn xác định đối tƣợng tác động của Tội chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có và kiến nghị
1.2.1. Thực tiễn xác định đối tượng tác động của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ
tài sản do người khác phạm tội mà có
Trong thực tế đã xảy ra một số trường hợp chưa xử lý hình sự hành vi tiêu
thụ tài sản có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ việc
thực hiện hành vi phạm tội. Tham khảo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 1 TTLT số
09/2011 hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về Tội chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì tài sản này cũng được
xem là tài sản do người khác phạm tội mà có. Tuy nhiên, thơng thường hiện nay,

các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ xử lý người tiêu thụ, chứa chấp tài sản có được
trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội. Thực tiễn trên sẽ được tác giả minh
chứng thông qua vụ án sau đây.

Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số
02/2005/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 04/01/2005.
7
Trần Thị Thu Nam (2007), Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong Luật
Hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.7.
8
Điều 115 BLDS 2015.
6


11
Vụ án thứ nhất và nhận xét, đánh giá
Nội dung vụ án9
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Văn Q, Nguyễn Văn H (tên gọi khác: C), Nguyễn Thi Bích T; Danh
M, Danh C có mối quan hệ là bạn bè, anh em quen biết nhau và cùng tạm trú tại: Cư
xá Hưng L2 thuộc khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh B.
Ngày 16-12-2017, Q đến nhà nghỉ Bình Dương 2 thuộc ấp 1, xã Hội Nghĩa,
thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương th ở tại phịng L3. Khoảng 09 giờ cùng ngày,
Cảnh biết Q đang ở phòng L3 nhà nghỉ Bình Dương 2 nên đi bộ từ phịng trọ của
Cảnh đến phòng L3 chơi với Q và cùng thời gian này, T biết Q đang thuê phòng L3
nên điều khiển xe môtô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển số 67L1-677.54, số máy
5C64288773, số khung RLCS5C640AY288769 đến để lấy 600.000 đồng tiền Q đã
mượn của T. Khi T gặp Q hỏi tiền nợ, thì Q bảo T cho Q mượn xe về nhà xin mẹ
tiền trả nợ cho T nhưng T không đồng ý cho Q mượn xe, T bảo Q chở T đi cùng,

nên Q điều khiển xe 67L1-677.54 chở T đi từ nhà nghỉ Bình Dương 2 về hướng
đường 747B (đường lô 49) về khu dân cư Phúc Đạt thuộc khu phố ng Đơng,
phường T, thị xã T mục đích xin tiền me của Q để trả cho T, còn Cảnh vẫn ở tại
phòng L3. Khi Q điều khiển xe 67L1-677.54 đến khu vực cây xăng số 10 thuộc ấp
1, xã Hội Nghĩa, thị xã T, tỉnh B, Q nhìn thấy bà Nguyễn Thi Kiều N điều khiển xe
mô tô biển số 64K7- 3872 chở bà Trang Thi Bích H ngồi phía sau và trên tay phải
của bà H đang cầm điện thoại di động hiệu OPPO F1S, lúc này Q nảy sinh ý định
chiếm đoạt bán lấy tiền tiêu xài cá nhân, Q rủ T tham gia giật điện thoại của bà H
nhưng T không đồng ý, nhưng Q vẫn điều khiển xe 67L1-677.54 từ phía sau vượt
lên áp sát vào phía trong lề bên phải song song với xe 64K7- 3872 do bà N điều
khiển và dùng tay trái giật lấy điện thoại hiệu OPPO F1S của bà H trên tay phải, rồi
tăng ga bỏ chạy. Sau khi Q giật được điện thoại của bà H thì Q tăng tốc độ chạy xe
nên T chưa kịp phản ứng gì, khi đến đoạn đường 01/1 hướng từ khu dân cư Phúc
Đạt về đường DT 747 cách vị trí Q chiếm đoạt điện thoại khoảng 40-50m thì Q gặp
M và H đang điều khiển xe môtô (không rõ biển số) chạy ngược chiều nên Q vẫy
tay ra hiệu kêu M và H điều khiển xe chạy theo Q về nhà nghỉ Bình Dương 2. Khi
9

Bản án số 21/2020/HSST ngày 17/02/2020 của TAND TX Tân Uyên, tỉnh Bình Dương


12
về đến nhà nghỉ tại phòng L3, Q mang điện thoại OPPO F1S vừa cướp giật được
của bà Huyền đưa cho C, M và H xem, cùng lúc này T nói cho C, M và H biết điện
thoại OPPO F1S do Q vừa cướp giật được của bà H, nghe vậy nhưng C, M và H
khơng có phản ứng gì. Sau đó Q đưa điện thoại OPPO F1S cho C và bảo C mang đi
cầm, C cầm lấy điện thoại OPPO F1S và điều khiển xe mô tô (không rõ biển số)
chạy đi, khoảng 05 phút sau thì C chạy xe quay về đưa điện thoại trả lại cho Q,
không tiếp tục mang đi cầm dùm cho Q. Lúc này, Q đưa điện thoại OPPO F1S cho
Hòa và bảo H mang đi cầm, H đồng ý và điều khiển xe mô tô (không rõ biển số)

mang điện thoại OPPO F1S đến cửa hàng sửa chữa, mua bán điện thoại di động
Thanh V thuộc khu phố , phường T do ông Phạm Văn D đứng tên giấy chứng
nhận hộ kinh doanh, gặp ông Nguyễn Thanh Q là nhân viên của cửa hàng (đang
quản lý Cửa hàng Thanh V) và ông Q đồng ý cầm điện thoại OPPO F1S với giá
2.000.000 đồng. Sau khi cầm điện thoại OPPO F1S với số tiền 2.000.000 đồng, Hòa
mang tiền về đưa cho Q. Sau khi nhận tiền do H đưa, Q trả nợ cho T số tiền 600.000
đồng và Q đưa cho Cảnh 100.000 đồng, đưa cho Hòa 200.000 đồng, đưa cho M
50.000 đồng nhằm mục đích nạp card điện thoại chơi game, số tiền còn lại Q tiêu
xài cá nhân. Khi Q điều khiển xe 67L1-677.54 chở T ngồi phía sau, thực hiện hành
vi cướp giật điện thoại OPPO F1S của bà H, thì N nhìn thấy T (do N trước đây có
quen biết với T). Ngày 19-12-2017, N tìm đến phịng trọ của T tại Cư xá Hưng L2
tìm gặp T để lấy lại điện thoại OPPO F1S cho bà Huyền, thì giữa T và N có xảy ra
cãi vã và xơ sát với nhau. Cùng ngày bà Huyền đến Công an xã H để trình báo vụ
việc. Sau khi tiếp nhận tin báo, Công an xã H tiến hành mời các đối tượng có liên
quan về trụ sở làm việc và Q đã khai nhận hành vi cướp giật điện thoại của bà H,
Công an xã H tạm giữ vật chứng gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1S,
vỏ màu hồng (do bà Phạm Thị P giao nộp), 01 xe mô tô biển số 67L1-677.54 (do Lê
Kha M giao nộp). Công an xã H tiến hành xác lập hồ sơ ban đầu và chuyển giao cho
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T tiếp tục điều tra theo th m quyền.
Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 155/KLTS – TTHS
ngày 09-7-2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã T kết
luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1S, màu hồng, đã qua sử dụng tại thời
điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 3.600.000 đồng.
Cáo trạng số 225/CT-VKS.TU ngày 08-11-2019 của Viện kiểm sát nhân dân
thị xã T, tỉnh B đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội Tiêu thụ tài sản do người khác


13
phạm tội mà có theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự. Bản án số 21/2020/HSST
ngày 17/02/2020 của TAND TX Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tuyên bố bị cáo Nguyễn

Văn H phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều
323 BLHS 2015.
Nhận xét, đánh giá:
Mặc dù cho đến nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể Điều 323 BLHS
2015, nhưng các Tòa án địa phương vẫn còn vận dụng tinh thần nội dung TLLT
09/2011 với mức độ tham khảo để thực hiện giải quyết, xét xử đúng đối với loại tội
phạm này, tránh việc oan, sai, bỏ lọt tội phạm.
Trong vụ án trên có hai vấn đề mà tác giả cho rằng đã có sự thiếu sót trong
q trình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, cụ thể:
Thứ nhất, Bản án số 21/2020/HSST không đề cập, khơng phân tích, cũng
như khơng đánh giá về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có của
T, C và M.
Trước đây, để hướng dẫn cho tội phạm này theo quy định của BLHS 1999,
tham khảo quy định tại khoản 1 Điều 1 TTLT số 09/2011 có xác định: “Tài sản do
người khác phạm tội mà có” là tài sản do người phạm tội có được trực tiếp từ việc
thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: tài sản chiếm đoạt được, tham ô, nhận hối lộ…)
hoặc do người phạm tội có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực
tiếp từ việc họ thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: xe máy có được từ việc dùng tiền
tham ơ để mua). Như vậy, tài sản do người khác phạm tội mà có sẽ có hai nhóm: Một
là, tài sản do người phạm tội có được trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội (ví
dụ: tài sản chiếm đoạt được, tham ô, nhận hối lộ…); Hai là, tài sản do người phạm tội
có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ việc thực hiện
hành vi phạm tội (ví dụ: xe máy có được từ việc dùng tiền tham ơ để mua).
Do đó, đối chiếu vào trong vụ án trên: Sau khi cầm điện thoại OPPO F1S với
số tiền 2.000.000 đồng, Hòa mang tiền về đưa cho Q. Sau khi nhận tiền do H đưa, Q
trả nợ cho T số tiền 600.000 đồng và Q đưa cho Cảnh 100.000 đồng, đưa cho Hòa
200.000 đồng, đưa cho M 50.000 đồng nhằm mục đích nạp card điện thoại chơi
game, số tiền còn lại Q tiêu xài cá nhân. Như vậy, số tiền 2.000.000 đồng mà Hịa
mang tiền về đưa cho Q là tài sản “có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có
được trực tiếp từ việc họ thực hiện hành vi phạm tội”. Do đó, theo khoản 1 Điều 1



14
TTLT số 09/2011 số tiền 2.000.000 đồng mà Hòa mang tiền về đưa cho Q là: “Tài
sản do người khác phạm tội mà có”. T, C, H, M là những người tiếp tục tiêu thụ tài
sản này nên cũng bị xem là tiêu thụ tài sản do người khác (Q) phạm tội mà có10.
Nhưng tại Bản án số 21/2020/HSST ngày 17/02/2020 của TAND TX Tân Uyên, tỉnh
Bình Dương tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 BLHS 2015 mà khơng truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có của T, C và M.
Trong nội dung của Bản án số 21/2020/HSST không đề cập, khơng phân tích, cũng
như khơng đánh giá về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có của T,
C và M, mà chỉ phân tích, đánh giá hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội
mà có của Nguyễn Văn H.
Thứ hai, vấn đề định lượng giá trị tài sản chứa chấp, tiêu thụ. Trong vụ án
trên, số tiền mà T, C và M tiêu thụ có giá trị khơng lớn. Do đó, vấn đề đặt ra là với
giá trị tải sản không lớn như vậy thì có cấu thành tội phạm Tội tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có hay không?
Theo quy định tại Điều 323 của Bộ luật Hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì: “1. Người nào không hứa hẹn trước
mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt
tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03
năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Như vậy, đối tượng tác động của tội
phạm phải là “tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều
323 BLHS không quy định về định lượng giá trị tài sản chứa chấp, tiêu thụ. Do đó,
thực tiễn vẫn còn nhiều quan điểm trong áp dụng pháp luật là có hay khơng có yếu
tố định lượng trong việc định tội danh này.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật có quan điểm cho rằng, khơng cần phải xác
định giá trị tài sản11, bởi lẽ: Vì theo cấu thành tội phạm của tội “Chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” thì người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài

Khoản 2 Điều 2 TTLT 09/2011: Tiêu thụ tài sản là một trong các hành vi sau đây: mua, bán, thuê, cho thuê,
trao đổi, cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký gửi, cho, tặng, nhận tài sản hoặc giúp cho việc thực hiện các hành vi đó.
Khoản 1 Điều 2 TTLT 09/2011: “Tài sản do người khác phạm tội mà có” là tài sản do người phạm tội có
được trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: tài sản chiếm đoạt được, tham ô, nhận hối lộ…)
hoặc do người phạm tội có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ việc họ thực hiện
hành vi phạm tội (ví dụ: xe máy có được từ việc dùng tiền tham ô để mua).
11
Vũ Tuấn Hải, Về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo Điều 323 BLHS năm
2015, -toima-co-theo-dieu-323-blhs-nam-2015, truy cập ngày 19/5/2021.
10


15
sản buộc phải biết rõ tài sản đó do người khác phạm tội mà có, mà khơng buộc người
tiêu thụ, chứa chấp phải biết rõ tài sản đó có giá trị thực tế như thế nào và họ đã bị xử
lý hình sự hay chưa; mà chỉ cần người đó có ý thức chủ quan biết rõ tài sản mà mình
chứa chấp hoặc tiêu thụ là tài sản do người khác phạm tội mà có là đủ căn cứ để truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội quy định tại Điều 323 BLHS. Trong tội này, đối tượng
tác động của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản có nguồn gốc từ hành vi phạm tội
của người khác. Thêm nữa, trong một số tội liên quan đến tài sản thì việc khơng phát
hiện, tìm được tài sản sẽ gây nhiều khó khăn cho q trình điều tra, truy tố, xét xử.
Cho nên, những ai có hành vi tiêu thụ, chứa chấp tài sản mà biết rõ tài sản do người
khác phạm tội mà có mới phải chịu trách nhiệm hình sự là hợp lý. Vấn đề định lượng
tài sản trong cấu thành cơ bản của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có, với ý nghĩa là đối tượng có được do phạm tội mà có thì tài sản trong
tội này có được từ bất cứ tội nào chứ không chỉ riêng đối với các tội xâm phạm sở
hữu. Trong khi đó, định lượng tài sản trong mỗi tội theo BLHS là khác nhau, có tội
khơng quy định về định lượng. Thêm nữa, giá trị pháp lý của tài sản trong Tội chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có khơng phải ở việc nó có giá
trị bao nhiêu mà là ở giá trị chứng minh và ý nghĩa của nó đối với tội phạm mà người

khác thực hiện. Do đó, theo quan điểm này, điều luật khơng nêu định lượng đối với
tài sản trong cấu thành cơ bản của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có là phù hợp12.
Tuy nhiên, cũng có quan điểm13 cho rằng đối với nội dung “tài sản do người
khác phạm tội mà có” và khơng địi hỏi yếu tố định lượng của tài sản sẽ dẫn đến sự
khơng cơng bằng. Điều luật khơng địi hỏi yếu tố định lượng của tài sản nên dẫn đến
cách hiểu rằng, nếu cứ có hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này mặc dù giá trị tài sản rất nhỏ.
Theo các tác giả thuộc quan điểm này, hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có phải đến một giá trị nhất định mới thể hiện đầy đủ
tính nguy hiểm cho xã hội của loại tội này14. Điều 323 BLHS quy định tài sản “do
Thái Chí Bình, Bàn thêm về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có,
(truy cập ngày 25/5/2021)
13
Xem chú dẫn ở trên và xem thêm Phạm văn Báu, Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có trong Luật hình sự Việt Nam, Tạp chí luật học số 5/2004, />2009/11/12/toi-chua-chap-hoac-tieu-thu-tai-san-do-nguoi-khac-pham-toi-ma-co-trong-luat-hinh-su-viet-nam/
14
Trần Thị Ngọc Hiếu, Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo luật Hình sự
Việt Nam, />12



×