ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ THU NAM
TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI
KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TRẦN QUANG TIỆP
NĂM 2007
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thực hiện các nghị quyết của Đảng, nhất là
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị "Về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", Nghị quyết số
48-NQ/TW ngày 24-05-2005 của Bộ Chính trị "Về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020", Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 của Bộ Chính trị "Về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", công cuộc cải cách tư pháp đã
được các cấp ủy, tổ chức Đảng lãnh đạo tổ chức thực hiện với quyết tâm cao
đạt được nhiều kết quả. Nhận thức và sự quan tâm của toàn xã hội đối với
công tác tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực, cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm đã được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển
kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, kết quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm mới tập
trung giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm còn nhiều hạn chế. Tình hình tội phạm tiếp tục diễn biến phức tạp
trên tất cả các lĩnh vực, trong đó tình hình tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có đang là vấn đề bức xúc của người dân. Thực
tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, trong không ít vụ án, một số công dân
do chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá, mặc dù biết tài sản mình chứa chấp, tiêu
thụ là tài sản do người khác phạm tội mà có, đã cố tình chứa chấp, tiêu thụ
những tài sản này, gây thêm khó khăn cho các cơ quan bảo vệ pháp luật trong
điều tra, khám phá vụ án. Việc một số công dân không tham gia đấu tranh
2
chống tội phạm nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, tổ chức, trái lại chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có, đã gây ra những hậu quả tiêu cực cho xã hội, làm phức tạp
thêm tình hình đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thực tiễn đấu tranh phòng,
chống tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, đã
đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học pháp lý phải nghiên cứu, giải
quyết như khái niệm, những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, nguyên nhân, điều
kiện của tội phạm này... Về mặt lý luận, xung quanh tội chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau,
thậm chí trái ngược nhau.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, "Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có trong luật hình sự Việt Nam", mang tính cấp
thiết, không những về mặt lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là tội
phạm có tính nhạy cảm cao, phức tạp, đã được một số nhà luật học đề cập trong
Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Giáo trình luật
hình sự Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 1998; Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học
Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự
Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
1999 (Phần các tội phạm) của TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS.
ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS.
Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001...
3
Các công trình nói trên đã đề cập tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách toàn diện và có hệ thống về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có dưới góc độ pháp lý hình sự.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng tội
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, đề xuất những
giải pháp mang tính hệ thống nhằm hoàn thiện việc áp dụng những quy định
của pháp luật hình sự về tội phạm này.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Phân tích, làm rõ lịch sử hình thành và phát triển những quy định về
tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong luật
hình sự Việt Nam.
- Làm sáng tỏ khái niệm, ý nghĩa của việc quy định tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội trong pháp luật hình sự; phân tích các
quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về tội phạm này.
- Phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật hình sự hiện hành
về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; làm
sáng tỏ thực tiễn áp dụng loại tội phạm này, nêu lên những vướng mắc
trong điều tra, truy tố, xét xử, đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên
cứu giải quyết.
4
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những
quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có, dưới góc độ pháp lý hình sự, trong thời gian 10 năm từ năm
1997 đến năm 2007.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, và về xây dựng pháp luật
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án
về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; số liệu
thống kê, báo cáo tổng kết của các cơ quan bảo vệ pháp luật về tội phạm này.
Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: hệ thống,
lịch sử, lôgíc, thống kê, phân tích, tổng hợp, kết hợp với các phương pháp
khác như so sánh pháp luật, điều tra xã hội...
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt
Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách tương đối toàn
5
diện và tương đối có hệ thống về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có dưới góc độ pháp lý hình sự. Có thể xem những nội
dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về tội chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong luật hình sự Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá những quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có, trong pháp luật hình sự một số nước trên
thế giới nhằm rút ra những giá trị hợp lý về lập pháp hình sự, để vận dụng có
chọn lọc, bổ sung cho những luận cứ và giải pháp được đề xuất trong luận
văn.
- Phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về
tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và thực tiễn
áp dụng, nêu lên những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng những quy định
của pháp luật hình sự về tội phạm này.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất của luận văn có ý nghĩa quan
trọng đối với việc nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp
luật hình sự hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có ở nước ta. Thông qua kết quả nghiên cứu và các đề xuất, tác
giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển khoa học
luật hình sự nói chung, về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có nói riêng.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm
công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật
6
hình sự nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 7 mục.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CHỨA CHẤP
HOẶC TIÊU THỤ TẢI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO
NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI
PHẠM NÀY TRONG LUẬT HÌNH SỰ.
1.1.1. Khái niệm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có
Trong Đại từ điển tiếng Việt, chứa chấp được hiểu là "chứa, cất, giữ
một cách trái phép" [46, tr. 412], còn tiêu thụ được hiểu là "bán được (hàng
hóa)" [46, tr. 1461]. Hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có hiểu theo nghĩa chung nhất là hành vi chứa, cất, giữ một cách
trái pháp luật hoặc bán một cách trái pháp luật tài sản do người khác phạm
tội mà có.
Khái niệm tài sản được quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự năm
2005: "Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản".
Vật là một bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại dưới một hình thức nhất
định, có thể đáp ứng nhu cầu nào đó của con người, nằm trong sự chiếm hữu của
con người, có giá trị và trở thành đối tượng của giao lưu dân sự. Khi là đối tượng
tác động của tội trộm cắp tài sản, cướp tài sản, cướp giật tài sản, lừa đảo,
chiếm đoạt tài sản… vật phải nằm trong sự chiếm hữu của chủ sở hữu tài sản.
Ngoài vật, tiền, giấy tờ có giá cũng được coi là tài sản. Giấy tờ có giá
trong hoạt động kinh tế hoặc giao dịch dân sự rất đa dạng, Điều 4 Quy chế
phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định
số 02/2005/ QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 04-01-2005
quy định: "Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để
8
huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một
thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa tổ
chức tín dụng và người mua".
Giấy tờ có giá có nhiều hình thức khác nhau, tên gọi của giấy tờ có giá
có thể là: cổ phiếu, séc, giấy ủy nhiệm chi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, sổ
tiết kiệm… Những loại giấy tờ này có tính chất chung là có thể định giá được
bằng tiền và khi đưa vào lưu thông dân sự chúng có thể thay thế tiền. Tuy
nhiên, giấy tờ có giá lại được chia làm hai loại: giấy tờ có giá ghi danh và
giấy tờ có giá vô danh. Theo Điều 4 của Quy chế trên đây thì: "Giấy tờ có giá
vô danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ không ghi tên
người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ
giấy tờ có giá".
Như vậy, chỉ có giấy tờ có giá vô danh mới trở thành đối tượng tác
động của tội trộm cắp tài sản, cướp tài sản, cướp giật tài sản, lừa đảo, chiếm
đoạt tài sản…. Khi lấy đi loại giấy tờ này, người phạm tội có thể thực hiện các
quyền sở hữu đối với tài sản được giấy tờ đó xác nhận. Họ có thể đem giấy tờ
này đi chuyển nhượng như: mua, bán, tặng, cho, trao đổi mà không phải thỏa
mãn thêm bất kỳ điều kiện nào liên quan đến giấy tờ này. Giấy tờ có giá hữu
danh tuy có thể đem chuyển nhượng trong giao dịch dân sự nhưng chỉ chủ sở
hữu đứng tên trong giấy tờ đó mới có khả năng thực hiện được sự chuyển
nhượng đó. Vì vậy, giấy tờ có giá hữu danh không thể trở thành đối tượng tác
động của các loại tội phạm trên.
Điều 181 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về quyền tài sản như sau:
"Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong
giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ" [41, tr. 482]. Đây là quyền gắn
liền với tài sản mà khi thực hiện các quyền đó, chủ sở hữu sẽ có được tài sản.
Quyền tài sản cũng không thể là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản,
cướp tài sản, cướp giật tài sản, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản…. bởi lẽ chỉ chủ sở
hữu mới có thể thực hiện quyền này trong giao dịch dân sự.
9
Từ sự phân tích ở trên có thể thấy, thuật ngữ "tài sản" trong cụm từ:
chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được hiểu là vật,
tiền, giấy tờ có giá vô danh
Hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà
có, mặc dù có mối liên hệ về mặt khách quan với tội phạm do người khác
thực hiện, nhưng không phải là nguyên nhân gây ra hậu quả của tội phạm đó.
Đây là đặc điểm giúp phân biệt hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có với những hành vi của người thực hành, người tổ
chức, người xúi giục, người giúp sức trong đồng phạm. Hành vi chứa chấp
hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là hành vi nguy hiểm cho
xã hội, nhưng nó không nằm trong mối liên kết thống nhất với tội phạm được
thực hiện bởi người khác. Người thực hiện tội phạm trước đó không biết trước
được việc tài sản do mình mang về từ hành vi phạm tội sẽ được người khác
chứa chấp hoặc tiêu thụ. Điều đó có nghĩa, hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có không tác động vào mặt ý thức chủ quan
đối với người thực hiện hành vi phạm tội trước đó, không ảnh hưởng đến quá
trình thực hiện tội phạm của người đó.
Mặt khác, cần phân biệt tội che giấu tội phạm và tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Cả hai tội phạm này có những
điểm giống nhau như sau:
Thứ nhất, đều được thực hiện sau khi tội phạm do người khác thực
hiện đã hoàn thành và kết thúc trên thực tế.
Tội phạm hoàn thành là một khái niệm pháp lý chỉ hành vi phạm tội
đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm nhất
định được quy định tại Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, còn tội phạm
kết thúc là một khái niệm để chỉ tội phạm không được thực hiện trong thực tế
nữa mà không kể lý do gì. Tội phạm có thể kết thúc trước khi tội phạm hoàn
thành, cũng có thể kết thúc cùng với thời điểm tội phạm hoàn thành hoặc kết
thúc sau thời điểm tội phạm hoàn thành. Từ thời điểm tội phạm hoàn thành
10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
VĂN BẢN PHÁP LUẬT
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01 của
Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của
Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC
4. Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1985
(1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999
(2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2003 (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp (1957), Tập luật lệ về tư pháp, Hà Nội.
8. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập I,
Hà Nội.
9. Tòa án nhân dân tối cao (1979), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập II
(1975-1978), Hà Nội.
10. Tòa án nhân dân tối cao (1986), Nghị quyết 04/HĐTP ngày 29-11 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng một
số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự năm 1985,
Hà Nội.
11
11. Tòa án nhân dân tối cao (1990), Các văn bản về hình sự, dân sự và tố
tụng, Hà Nội.
12. Tòa án nhân dân tối cao (1998), Nghị quyết số 01/1998/NQ-HĐTP ngày
21-9 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự đã được sửa đổi, bổ
sung lần thứ tư, Hà Nội.
13. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày
12-5 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, Hà Nội.
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC
14. Đào Duy Anh (1932), Hán Việt từ điển, Nxb Lê Văn Tân, Hà Nội.
15. Ban dự thảo Bộ luật hình sự sửa đổi, Bộ Tư pháp, Bộ luật hình sự Nhật Bản,
(Người dịch: Nguyễn Văn Hoàn, người hiệu đính: Uông Chu Lưu),
Hà Nội.
16. Bộ hình luật (1973), Nxb Trần Chung, Sài Gòn.
17. Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, (người dịch:
Phuthonphútthakhănty, người hiệu đính: PGS.TS Kiều Đình Thụ),
Hà Nội.
18. Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1994), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
19. Lê Cảm (1999), Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn
xây dựng nhà nước pháp quyền, một số vấn đề cơ bản của Phần
chung, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
20. Lê Cảm (chủ biên) (2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung),
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
21. Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần
chung, (Sách chuyên khảo sau đại học), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
12
22. Phan Huy Chú (1957), Lịch triều hiến chương loại chí, Nhà in Bảo Vinh,
Sài Gòn.
23. Đại Việt sử ký toàn thư, tập II (1998), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Nguyễn Văn Hào (1962), Bộ hình luật Việt Nam, xuất bản do sự bảo trợ
của Bộ Tư pháp, Sài Gòn.
25. Phan Hiền (1987), Một số vấn đề chủ yếu trong Bộ luật hình sự, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
26. Nguyễn Ngọc Hòa (1991), Tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
27. Hoàng Việt luật lệ, tập I (1994), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
28. Hoàng Việt luật lệ, tập II (1994), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
29. Hoàng Việt luật lệ, tập IV (1994), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
30. Hội đồng Nhà nước về phòng ngừa tội phạm, Bộ Tư pháp, Bộ luật hình sự
của Thụy Điển, Hà Nội.
31. Phan Huy Lê (1983), "Có một bộ luật thời Tây Sơn", Trong sách: Góp phần
tìm hiểu phong trào Tây Sơn Nguyễn Huệ, Sở Văn hóa Thông tin
Nghĩa Bình.
32. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (1984), Nxb Sự Thật, Hà Nội.
33. Trần Kiêm Lý, Đặng Văn Doãn, Tìm hiểu Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ,
Nxb Pháp lý, Hà Nội.
34. Vũ Văn Mẫu (1974), Cổ luật Việt Nam thông khảo và tư pháp sử, quyển 1 tập I, Sài Gòn.
35. Những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
(1986), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
36. Quốc triều hình luật (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, Số chuyên đề về Luật hình sự
một số nước trên thế giới, Hà Nội.
13
38. Kiều Đình Thụ (1996), Tìm hiểu luật hình sự Việt Nam, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh.
39. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Báo cáo tổng kết công tác năm 2006 và
phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2007, Hà Nội.
40. Trường Cao đẳng Kiểm sát (1983), Hình luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Phần chung, Hà Nội.
41. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000). Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
42. Trường Đại học Pháp lý Hà Nội (1993), Giáo trình luật hình sự Việt Nam,
Phần các tội phạm, tập I, Hà Nội.
43. Đinh Trung Tụng (chủ biên) (2005), Bình luận những nội dung mới của
Bộ luật dân sự năm 2005, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
44. Đào Trí Úc (chủ biên) (1993), Mô hình lý luận về Bộ luật hình sự Việt
Nam (Phần chung), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
45. Đào Trí Úc (chủ biên) (1995), Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng
hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp
đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
47. Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
48. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
14